2022
Diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ người di dân ở Malta
Diễn văn của ĐTC trong cuộc gặp gỡ người di dân ở Malta
Trong diễn văn nói với người di dân ở Malta, Đức Thánh Cha hy vọng chính họ, sau khi được đón tiếp với lòng tốt, cũng trở thành những người đón tiếp tha nhân. Đức Thánh Cha nhớ đến những người di cư ở mọi châu lục.
Diễn văn của Đức Thánh Cha Phanxicô
Gặp gỡ Người Di dân
Trung tâm Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII, Hal Far
Chúa Nhật, 03/04/2022
Anh chị em thân mến,
Tôi chào tất cả anh chị em với tình cảm nồng hậu, và tôi rất vui khi kết thúc chuyến thăm Malta bằng cách dành thời gian ở đây với anh chị em. Tôi cảm ơn Cha Dionisio vì sự chào đón của cha. Tôi cũng rất biết ơn Daniel và Siriman vì những chứng từ của họ: các bạn đã mở rộng trái tim mình và chia sẻ cuộc sống của mình, đồng thời góp tiếng nói cho rất nhiều anh chị em của chúng ta, những người bị bó buộc phải rời bỏ quê hương để tìm kiếm một nơi ẩn náu an toàn.
Cho phép tôi lặp lại những gì tôi đã nói vài tháng trước ở Lesvos: “Tôi ở đây… để đảm bảo với anh chị em sự gần gũi của tôi… Tôi ở đây để nhìn gương mặt và nhìn vào mắt anh chị em” (Diễn văn tại Mytilene, 5/12/2021). Từ ngày đến thăm Lampedusa, tôi không quên anh chị em. Anh chị em luôn ở trong tim tôi và trong lời cầu nguyện của tôi.
Cuộc gặp gỡ này với các anh chị em, những người di cư quý mến, khiến chúng ta nghĩ về ý nghĩa của logo được chọn cho chuyến thăm Malta của tôi. Logo đó được lấy từ sách Công vụ Tông đồ, thuật lại cách người dân Malta chào đón tông đồ Phaolô và những người bạn đồng hành của ngài bị đắm tàu gần đó. Chúng ta được biết rằng họ đã được đối xử với “lòng nhân hậu hiếm có” (Cv 28,2). Không chỉ đơn thuần bằng lòng tốt, mà bằng lòng nhân đạo hiếm có, một sự quan tâm chăm sóc đặc biệt mà Thánh Luca đã mong muốn lưu lại mãi mãi trong sách Công Vụ Tông đồ. Tôi hy vọng rằng đó là cách Malta sẽ luôn đối xử với những người cập bến ở bờ biển của nó, mang đến cho họ một “bến cảng an toàn” thực sự.
Đắm tàu là điều mà hàng ngàn người nam nữ và trẻ em đã trải qua ở Địa Trung Hải trong những năm gần đây. Đáng buồn thay, đối với nhiều người trong số họ, nó đã kết thúc trong bi kịch. Mới hôm qua đã có tin tức về một cuộc giải cứu diễn ra ngoài khơi bờ biển Libya, chỉ có 4 người di cư của chiếc thuyền chứa khoảng 90 người được cứu. Chúng ta hãy cầu nguyện cho những người anh em này của chúng ta, những người đã chết trên Biển Địa Trung Hải của chúng ta. Và chúng ta cũng cầu nguyện để được cứu khỏi một vụ đắm tàu khác diễn ra trong khi những sự kiện này đang xảy ra: đó là vụ đắm tàucủa nền văn minh, không chỉ đe dọa những người tị nạn, mà còn tất cả chúng ta.
Làm thế nào chúng ta có thể tự cứu mình khỏi vụ đắm tàu có nguy cơ đánh chìm con tàu của nền văn minh của chúng ta? Bằng cách hành xử với lòng nhân đạo. Bằng cách xem con người không chỉ đơn thuần là những con số thống kê, nhưng là như chính họ thực sự là, như Siriman đã nói với chúng ta, nghĩa là những khuôn mặt, những câu chuyện, đơn giản là những người đàn ông những phụ nữ, các anh chị em. Bằng cách tưởng tượng rằng những người mà chúng ta nhìn thấy trên những chiếc thuyền đông đúc hoặc trôi dạt trên biển, trên ti vi hoặc trên báo chí, có thể là bất kỳ ai trong chúng ta, hoặc con trai hoặc con gái của chúng ta … Có lẽ chính lúc này, khi chúng ta đang ở đây, có những chiếc thuyền đang vượt biển, từ phương nam hướng về phía bắc … Chúng ta hãy cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người liều mạng sống giữa biển khơi để tìm kiếm hy vọng. Anh chị em cũng đã trải qua thử thách này và đã đến đây.
Những trải nghiệm của anh chị em khiến chúng tôi cũng liên tưởng đến trải nghiệm của hàng ngàn hàng vạn người mà trong những ngày này đã buộc phải rời khỏi Ucraina vì chiến tranh. Nhưng cũng là kinh nghiệm của rất nhiều người khác ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, những người đã phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình để tìm kiếm sự an toàn. Vào lúc này, tôi nghĩ đến và cầu nguyện cho tất cả họ.
Cách đây ít lâu, tôi nhận được từ Trung tâm của anh chị em một chứng từ khác: câu chuyện của một người trẻ kể cho tôi nghe về khoảnh khắc đau buồn khi anh phải rời xa mẹ và gia đình gốc gác của mình. Câu chuyện của anh ấy khiến tôi cảm động và khiến tôi phải suy nghĩ. Nhưng cả bạn, Daniel và bạn, Siriman, mỗi người trong các bạn đều có cùng trải nghiệm ra đi và tách rời nguồn cội của chính mình, bị nhổ rễ. Và trải nghiệm bị nhổ rễ đó để lại dấu ấn của nó. Không chỉ là nỗi đau và cảm xúc của khoảnh khắc đó, mà là một vết thương sâu đậm ảnh hưởng đến hành trình trưởng thành của anh chị em như là một người trẻ tuổi. Chúng ta cần có thời gian để chữa lành vết thương đó; cần có thời gian và hơn hết cần kinh nghiệm về lòng tốt của con người: gặp gỡ những người chấp nhận anh chị em và có thể lắng nghe, thấu hiểu và đồng hành cùng anh chị em. Nhưng cả kinh nghiệm sống bên cạnh những người bạn đồng hành khác, chia sẻ mọi thứ với họ và cùng nhau mang gánh nặng… Điều này giúp chữa lành vết thương.
Tôi nghĩ về những trung tâm tiếp nhận này, và thật quan trọng khi chúng là những nơi được đánh dấu bằng lòng tốt của con người! Chúng tôi biết điều đó có thể khó khăn như thế nào, vì luôn có những thứ tạo ra căng thẳng và khó khăn. Tuy nhiên, trên mọi lục địa, có những cá nhân và cộng đồng chấp nhận thách đố, nhận ra rằng di cư là một dấu hiệu của thời đại, nơi có liên hệ với nền văn minh. Đối với các Kitô hữu chúng ta nó cũng có liên hệ với lòng trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói: “Tôi là khách lạ và anh em đã đón tiếp tôi” (Mt 25,35). Điều này không được thực hiện trong một ngày! Cần có thời gian, sự kiên nhẫn vô cùng và trên hết là cần tình yêu thương được tạo nên từ sự gần gũi, dịu dàng và lòng trắc ẩn, giống như tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Tôi nghĩ chúng ta nên nói lời cảm ơn sâu sắc đến tất cả những người đã đón nhận thử thách này ở đây và đã dành cuộc đời cho Trung tâm này. Chúng ta hãy hoan hô họ!
Thưa anh chị em, xin cho phép tôi bày tỏ ước mơ của chính tôi: đó là anh chị em, những người di dân, sau khi nhận được sự chào đón giàu lòng nhân ái và tình huynh đệ, đến lượt anh chị em trở thành những chứng nhân và tác nhân của sự chào đón và tình huynh đệ. Ở đây, và bất cứ nơi nào Thiên Chúa muốn, bất cứ nơi nào sự quan phòng của Người sẽ dẫn dắt anh chị em. Đó là ước mơ mà tôi muốn chia sẻ với anh chị em và là ước mơ mà tôi đặt trong tay Chúa. Vì điều không thể đối với chúng ta thì không phải là không thể đối với Người. Tôi tin rằng việc những người di cư trở thành chứng nhân của những giá trị nhân văn cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá và huynh đệ là điều rất quan trọng trong thế giới ngày nay. Đó là những giá trị mà anh chị em gìn giữ trong tim, những giá trị là một phần cội nguồn của anh chị em. Một khi nỗi đau bị nhổ rễ đã nguôi ngoai, anh chị em có thể phát huy sự phong phú nội tâm, gia sản quý giá này của nhân loại, và chia sẻ nó với các cộng đồng sẽ chào đón anh chị em và những môi trường mà anh chị em sẽ là thành phần. Đây là con đường! Con đường của tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội. Đây là tương lai của gia đình nhân loại trong một thế giới toàn cầu hóa. Tôi rất vui khi có thể chia sẻ giấc mơ này với anh chị em hôm nay, cũng như anh chị em đã chia sẻ giấc mơ của anh chị em với tôi trong chứng từ của mình!
Tôi nghĩ đây cũng là câu trả lời cho câu hỏi trọng tâm trong chứng từ của chính bạn, Siriman. Bạn đã nhắc nhở chúng tôi rằng những người bị buộc phải rời bỏ đất nước của họ ra đi với một giấc mơ trong tim: giấc mơ tự do và dân chủ. Giấc mơ này va chạm với một thực tế khắc nghiệt, thường nguy hiểm, đôi khi khủng khiếp và vô nhân đạo. Bạn đã lên tiếng cho lời cầu xin bị bóp nghẹt của hàng triệu người di cư bị vi phạm các quyền cơ bản, đáng buồn là đôi khi có sự đồng lõa của các cơ quan có thẩm quyền. Và bạn đã kêu gọi chúng tôi chú ý đến điều quan trọng nhất: phẩm giá của con người. Tôi xin khẳng định lại điều này bằng lời của chính bạn: anh chị em không phải là những con số thống kê nhưng là những con người bằng xương bằng thịt với những khuôn mặt và những ước mơ đôi khi bị vụt tắt.
Từ đó, từ con người và phẩm giá của họ, chúng ta có thể và phải bắt đầu lại. Chúng ta đừng để bị lừa dối bởi tất cả những người nói với chúng ta rằng “không thể làm gì được”; “những vấn đề này là quá lớn đối với chúng ta”; “hãy để người khác tự bảo vệ mình trong khi tôi đi lo công việc của chính tôi”. Không. Chúng ta đừng bao giờ rơi vào cái bẫy này. Chúng ta hãy đáp lại thách đố của người di cư và người tị nạn bằng lòng tốt và lòng nhân đạo. Chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình huynh đệ xung quanh để mọi người có thể sưởi ấm, trỗi dậy và khám phá lại hy vọng. Chúng ta hãy củng cố kết cấu của tình bạn xã hội và nền văn hóa gặp gỡ, bắt đầu từ những nơi như thế này. Chúng có thể không hoàn hảo, nhưng chúng thực sự là “những phòng thí nghiệm của hòa bình”.
Vì Trung tâm này mang tên của Thánh Gioan XXIII, tôi muốn nhắc lại niềm hy vọng mà ngài đã bày tỏ ở cuối thông điệp nổi tiếng về hòa bình: “Xin [Chúa] loại khỏi linh hồn của những người nam nữ bất cứ điều gì có thể gây nguy hiểm cho hòa bình. Xin Người biến đổi tất cả chúng ta thành những chứng nhân của sự thật, công lý và tình yêu thương huynh đệ. Xin Người dùng ánh sáng của Người soi sáng tâm trí của những nhà lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến phúc lợi vật chất của các dân tộc của họ, họ cũng có thể bảo đảm cho các dân tộc món quà hòa bình công bằng nhất. Cuối cùng, xin Chúa Kitô khơi dậy ước muốn của tất cả mọi người nam nữ vượt qua những rào cản ngăn cách họ, củng cố mối dây yêu thương lẫn nhau, học cách hiểu nhau và tha thứ cho những ai đã làm sai. Nhờ quyền năng và sự soi dẫn của Người, xin cho tất cả các dân tộc coi nhau như anh chị em, và xin cho nền hòa bình mà họ luôn mong đợi nảy nở và ngự trị giữa họ” (Pacem in Terris, 171).
Anh chị em thân mến, tí nữa tôi sẽ cùng một số anh chị em thắp nến trước ảnh Đức Mẹ. Đó là một cử chỉ rất đơn giản nhưng đầy ý nghĩa. Trong truyền thống Kitô giáo, ngọn lửa nhỏ đó là biểu tượng cho đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Nó cũng là biểu tượng của niềm hy vọng, niềm hy vọng mà Đức Maria, Mẹ của chúng ta, luôn giữ cho sống động ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Đó là niềm hy vọng mà tôi đã nhìn thấy trong mắt anh chị em ngày hôm nay: niềm hy vọng đã làm cho cuộc hành trình của anh chị em trở nên ý nghĩa và niềm hy vọng khiến anh chị em luôn nỗ lực tiến tới. Xin Đức Mẹ giúp anh chị em đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng này! Tôi phó thác cho Mẹ mỗi người trong anh chị em và gia đình của anh chị em. Tôi sẽ mang theo anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!
Hồng Thủy
2022
ĐTC chào biệt Malta
ĐTC chào biệt Malta
Sau cuộc gặp gỡ người di dân, Đức Thánh Cha di chuyển đến xây bay quốc tế của Malta cách đó 4 cây số để bay trở về Roma. Ngài đã hội đàm cùng Tổng Thống Malta ít phút trước khi lên máy bay. Máy bay chở Đức Thánh Cha cất cánh lúc 19:15 phút, trễ gần một giờ so với chương trình.
Tại sân bay đã diễn ra nghi thức chào biệt chính thức. Tổng thống của Malta đón Đức Thánh Cha tại sảnh Tổng Thống và có cuộc hội đàm ngắn với ngài. Sau đó đội quân nhạc đã cử quốc ca của Vatican và Malta.
Sau khi hai phái đoàn của Vatican và Malta chào giã biệt, Đức Thánh Cha đã lên máy bay bằng thang máy đặc biệt. Lên đến máy bay, Đức Thánh Cha đứng ở cửa máy bay để vẫy chào phái đoàn chính quyền cũng như các giám mục của Malta.
Chiếc máy bay A320neo của hãng hàng không Malta đã cất cánh lúc 19:15, đưa Đức Thánh Cha và đoàn tuỳ tùng rời Malta và trở về Roma, kết thúc chuyến tông du thứ 36 của ngài tại nước ngoài.
Gửi điện văn cho Tổng thống Malta
Ngay sau khi khởi hành bằng máy bay, Đức Thánh Cha đã gửi điện văn cho Tổng thống Malta, trong đó ngài nhắc lại “lòng biết ơn” của ngài đối với nguyên thủ quốc gia, các cơ quan dân sự và tất cả người dân “vì lòng tốt và sự hiếu khách đã thể hiện với tôi” trong chuyến thăm. Đức Thánh Cha đảm bảo cầu nguyện cho họ để “nhờ sự chuyển cầu của Thánh Phaolô Tông đồ, quốc gia của các bạn có thể được Thiên Chúa toàn năng ban phúc dồi dào”.
Hồng Thủy
2022
Trả lời phỏng vấn, ĐTC cho biết ngài sẵn sàng thăm Ucraina
Trả lời phỏng vấn, ĐTC cho biết ngài sẵn sàng thăm Ucraina
Chiều tối Chúa Nhật 3/4/2022, trên chuyến bay từ Malta trở về Roma, Đức Thánh Cha đã trả lời một số câu hỏi của các nhà báo. Ngài nói về tình hình sức khỏe của ngài, về tình hình chiến tranh ở Ucraina và cho biết ngài luôn sẵn sàng viếng thăm Ucraina.
Đau đầu gối
Trả lời câu hỏi đầu tiên có liên quan đến sức khỏe, Đức Thánh Cha cho biết sức khỏe của ngài hơi thay đổi. Ngài có vấn đề về đầu gối, gây khó khăn cho việc đi lại. Nó hơi phiền phức nhưng bây giờ có khá hơn. Ngài nói: “Hai tuần trước, tôi không thể làm gì cả. Đây là điều tiến triển chậm chạp và để xem nó có tái diễn nữa không. Tuy nhiên, ở độ tuổi này, khó biết được trò chơi sẽ kết thúc thế nào. Hy vọng nó sẽ tiến triển tốt đẹp.”
Vấn đề di dân
Về chuyến thăm Malta, Đức Thánh Cha hài lòng: ngài thấy các thực tế của Malta, sự nhiệt tình ấn tượng của dân chúng. Một vấn đề ngài quan tâm đặc biệt, đó là về người di dân. Ngài nhắc lại: “Những người di cư phải luôn được chào đón! Vấn đề là mỗi chính phủ phải cho biết họ có thể đều đặn nhận được bao nhiêu người để sống ở đó. Điều này đòi hỏi một thỏa thuận giữa các quốc gia châu Âu và không phải tất cả các quốc gia này đều sẵn sàng tiếp nhận người di cư. Chúng ta quên rằng Châu Âu được tạo ra bởi những người di cư, phải không? Nhưng mọi chuyện là vậy, nhưng ít nhất chúng ta đừng để lại gánh nặng cho những quốc gia láng giềng quá quảng đại này, và Malta là một trong số đó.”
Sẵn sàng thăm Ucraina nhưng…
Một ký giả nói rằng với tình hình chiến tranh tại Ucraina, sự hiện diện của Đức Thánh Cha ở đây ngày càng cần thiết, và hỏi ngài rằng một chuyến đi như vậy có khả thi không và ngài phải có những điều kiện gì để có thể đến đó. Trả lời câu hỏi, Đức Thánh Cha lặp lại rằng “chiến tranh luôn là một hành động man rợ, một điều vô nhân, chống lại tinh thần nhân đạo… Tôi sẵn sàng làm bất cứ điều gì cần được thực hiện, và Tòa Thánh… đang làm mọi việc có thể.
Về việc thăm Ucraina, Đức Thánh Cha nói: “Tôi thành thật trả lời rằng tôi đang có ý định đi, rằng khả năng sẵn sàng của tôi vẫn không đổi… Tôi sẵn sàng.” Đức Thánh Cha nói rằng một chuyến đi đến Ucraina là một trong những đề xuất mà ngài đã nhận được, nhưng ngài không biết liệu nó có thể thực hiện được không, nó có phù hợp không và liệu điều đó có tốt nhất không hoặc nếu nó phù hợp để thực hiện, liệu ngài có nên đi không… Tất cả điều này còn mơ hồ.
Khả năng về cuộc gặp gỡ Đức Thượng phụ Kirill
Đức Thánh Cha cho biết thêm: “Trong một thời gian, đã có những cân nhắc về việc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Kirill; đó là những gì đang được nghiên cứu, với khả năng Trung Đông là địa điểm tổ chức một cuộc gặp như vậy. Đây là cách mọi thứ đang được xem xét vào lúc này.”
Thông điệp cho Tổng thống Putin nếu có…
Câu hỏi cuối cùng được đặt ra cho Đức Thánh Cha là nếu có cơ hội nói chuyện với Tổng thống Putin thì ngài sẽ trao cho ông những thông điệp gì. Đức Thánh Cha trả lời: “Những thông điệp tôi đã đưa ra cho tất cả các chính quyền là những thông điệp tôi đã thực hiện một cách công khai. Tôi không nói hai lời. Tôi luôn nói như vậy.”
“Tôi nghĩ trong câu hỏi của bạn cũng có sự nghi ngờ về các cuộc chiến tranh chính nghĩa và phi nghĩa. Mọi cuộc chiến đều bắt nguồn từ sự bất công, luôn luôn, bởi vì đó là kiểu mẫu của chiến tranh. Đây không phải là một kiểu mẫu cho hòa bình. Ví dụ, đầu tư để mua vũ khí. Một số người nói: ‘Nhưng chúng ta cần họ tự vệ.’ Đây là kiểu mẫu của chiến tranh. Khi Chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, mọi người đều thở phào khi nói ‘không bao giờ chiến tranh nữa’ và ‘hòa bình’. Bắt đầu có một làn sóng hoạt động vì hòa bình với thiện chí không sử dụng vũ khí, vũ khí nguyên tử, vào thời điểm đó, nhân danh hòa bình, sau Hiroshima và Nagasaki. Có rất nhiều thiện chí.”
“70 năm sau chúng ta đã quên tất cả những điều đó. Đó là cách mà kiểu mẫu chiến tranh áp đặt chính nó. Khi đó, có rất nhiều hy vọng vào công việc của Liên Hiệp Quốc. Nhưng kiểu mẫu của chiến tranh đã tự áp đặt trở lại. Chúng ta không thể hình dung một kiểu mẫu khác. Chúng ta không quen nghĩ về kiểu mẫu hòa bình nữa. Đã có những người vĩ đại như Ghandi và những người khác mà tôi đề cập ở cuối thông điệp Fratelli tutti, những người đã đặt cược vào kiểu mẫu hòa bình.”
“Nhưng là loài người, chúng ta cứng đầu. Chúng ta yêu thích những cuộc chiến tranh, với tinh thần của Cain. Không phải ngẫu nhiên mà ngay từ đầu Kinh Thánh vấn đề này đã được trình bày: tinh thần giết chóc của ‘người theo tinh thần của Cain’ thay vì tinh thần hòa bình.”
Đức Thánh Cha đã chia sẻ một kinh nghiệm cá nhân: Vào năm 2014, ngài đã khó khi thăm Redipuglia và nhìn thấy tên của những người đã chết. “Tôi thực sự đã khóc vì cay đắng.” Sau đó, khi đến cử hành Thánh lễ ở Anzio và nhìn thấy tên những người đã nằm xuống ở đó, đều là những người trẻ, ngài cũng đã khóc. Ngài nói: “Chúng ta phải khóc trên những nấm mồ.”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Có những điều tôi tôn trọng bởi vì có vấn đề chính trị. Khi có lễ tưởng niệm cuộc đổ bộ Normandy, một số người đứng đầu chính phủ đã cùng nhau đến để tưởng nhớ nó. Tuy nhiên, tôi không nhớ có ai nói về 30.000 thiếu niên bị bỏ lại trên bãi biển. Tuổi trẻ không quan trọng. Điều đó khiến tôi băn khoăn. Tôi đau buồn. Chúng ta không bao giờ học (bài học của chiến tranh). Xin Chúa thương xót chúng ta, tất cả chúng ta. Mỗi người trong chúng ta đều có tội!” (CSR_1449_2022)
Hồng Thủy
2022
Lịch sử Thượng Hội đồng Giám mục
Lịch sử Thượng Hội đồng Giám mục
LỊCH SỬ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
Lm. Phêrô Nguyễn Thanh Tùng
Giáo hội của Chúa Kitô đã trải qua dòng lịch sử 2000 năm với cuộc hành trình trong ân sủng, sức mạnh, quyền năng và tình thương của Thiên Chúa, cho dù vẫn có đó những bất toàn, khiếm khuyết. Chính trong quyền năng và dưới tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo hội đã và đang không ngừng canh tân đổi mới đời sống, để trở nên là “Bí tích”, nghĩa là khí cụ và là phương tiện của sự hiệp nhất, đưa dẫn toàn thể vạn vật và nhân loại đến với ân sủng, tình yêu và sự sống viên mãn của Thiên Chúa theo “Nhiệm cục cứu độ” phát xuất từ tình yêu và sự tốt lành, thánh thiện của Thiên Chúa. Quả thế, lịch sử đã minh chứng, Giáo hội không ngừng được quyền năng, ân sủng của Đức Kitô và Thánh Thần hướng dẫn, canh tân và đổi mới đời sống. Một trong những phương thế và như khí cụ cần thiết, đó là hình thức Công đồng và gần đây, với Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, đã đem lại rất nhiều hiệu quả hữu ích cho đời sống và sứ mạng của Giáo hội.
I. CÁC CÔNG ĐỒNG ĐẠI KẾT[1]
Trải qua 2000 năm lịch sử, cho đến Vaticanô II, dòng lịch sử Giáo hội ghi nhận danh sách 21 Công đồng chung. Tuy nhiên, trong thực tế, còn có những Công đồng khác không kém phần quan trọng cả về tầm mức lẫn thế giá, nhưng không được liệt kê trong danh sách 21 Công đồng này, chẳng hạn như Công đồng Giêrusalem, bởi vì với mục đích “hiệp nhất” Kitô giáo, chỉ những Công đồng hội đủ yếu tố đại kết (Concilium recumenicum) sẽ thuộc con số 21 này. Các Công đồng đại kết quy tụ những thành phần trong Giáo hội Kitô, nghĩa là những người có chung niềm tin Kitô giáo, qua đó, những vấn đề cần bàn bạc, giải quyết trong một cuộc quy tụ với những hình thức được giáo luật quy định. Bộ giáo luật 1983, phân biệt:
– Công đồng đại kết (Concilium (oecumenicum) (Can 337 – 341)
– Thượng Hội đồng Giám mục (Synodus Episcoporum) (Can 342 – 348)
– Các công đồng địa phương: (Can 439 – 446)
+ Công đồng toàn quốc (Concilium plenarium)
+ Công đồng giáo tỉnh (Concilium provinciale)
+ Công đồng địa phận (Synodus diocesana)
Qua thực tế đời sống, những hình thức hội nghị này đã đem lại nhiều hiệu quả lớn lao và rất cần thiết cho đời sống Giáo hội, đặc biệt cho sự hiệp nhất Giáo hội về cả phương diện đức tin lẫn thực hành Kitô giáo.
Lịch sử cho thấy, rất nhiều khi, sự hiệp nhất trong Giáo hội phải trải qua những sóng gió, thử thách do bởi các lạc thuyết như Arius, Nestorius, Eutykes liên quan đến nền tảng niềm tin “thần khởi tông truyền” của Kitô giáo về mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Đức Kitô Thiên Chúa nhập thể làm người; Giáo hội cũng chịu nhiều ảnh hưởng của đời sống chính trị, xã hội, nhất là ở thời Trung đại, do sự liên kết Thế quyền-Thần quyền, đã đưa đến nhiều hệ lụy, làm cho đời sống nội tại của Giáo hội ngày càng suy thoái trầm trọng; bên cạnh đó, còn có vết thương của những cuộc ly khai Công giáo- Chính Thống (1054), Công giáo-Tin Lành (1517), Công giáo-Anh giáo (1534). Ngay trong chính Giáo hội công giáo Rôma (Catholic Roman), vào cuối thế kỷ XIV – thế kỷ XV, cuộc Đại ly giáo Tây phương, do tình trạng tranh chấp quyền bính giữa hai Giáo hoàng ở Roma – Avignon, sau đó thêm vị thứ ba tại Bologna. Trong bối cảnh ấy, để chấm dứt cuộc tranh chấp và chia rẽ, giải pháp “công đồng” đã được chọn. Lúc này, Công đồng Constancia 1414-1418 đã góp phần tái lập sự hiệp nhất trong Giáo hội công giáo Tây phương, nhưng để khẳng định thẩm quyền của Công đồng, nhằm giải quyết và chấm dứt việc tranh chấp ngôi vị giáo hoàng, hậu quả là Chủ thuyết Đại công đồng khởi đi từ nhà thần học Jean Gerson, viện trưởng Đại học Công giáo Paris. Chủ thuyết này nhằm khẳng định quyền tối cao của Công đồng trên toàn Giáo hội, ngay cả Giáo hoàng, tất cả phải tuân phục phán quyết của Công đồng. Đây là vấn nạn lớn liên quan đến sự hiệp nhất Giáo hội với cơ cấu phẩm trật, được Chúa Giêsu thiết lập và ủy thác quyền thủ lãnh cho Phêrô và những Đấng kế vị. Sự hiệp nhất và quyền thủ lãnh như thế thuộc lãnh vực mạc khải, là thiên định. Vì thế, chủ thuyết Đại công đồng là bất hợp luật, gây nguy hại cho sự hiệp nhất Giáo hội.
Cho đến thế kỷ XIX, Công đồng Vaticanô I (1869-1870) đạt thành quả lớn lao khi công bố Hiến chế Pastor Aeternus (Mục tử đời đời), qua đó, Công đồng công bố thành Tín điều về quyền tối thượng và ơn Bất ngộ của Đức giáo hoàng. Tuy nhiên, với định tín này, cơ cấu phẩm trật Giáo hội như được xây dựng với mô hình “Kim tự tháp”, ở đỉnh điểm của mô hình này là quyền tối thượng của Giáo hoàng và như thế, Giáo hội như một thể chế xã hội tập quyền.
Với Vaticanô II, là Đại công đồng của lịch sử Giáo hội 2000 năm, một Công đồng đúng thật với mục đích đại kết, đối thoại, hiệp nhất v.v…[2] Giáo hội đạt được nhiều thành quả lớn lao trong công cuộc cải cách qua Công đồng này. So với Vaticanô I, Công đồng Vaticanô II đặc biệt đề cao chiều kích hiệp thông của Giáo hội. Đặc biệt, Vaticanô II đã tái khám phá tính cách tập đoàn (collegialitas) của hàng giám mục. Vào buổi sơ khai, Giáo hội được điều khiển bởi Tông đồ đoàn với thánh Phêrô là thủ lãnh. Đến các giai đoạn kế tiếp, Giáo hội cũng được điều khiển bởi tập đoàn các giám mục (kế nhiệm các thánh tông đồ) với giám mục Rôma là thủ lãnh (kế vị thánh Phêrô). Nhưng làm cách nào để giám mục đoàn có thể tham gia việc điều khiển Giáo hội? Việc tổ chức một Công đồng mang tính hoàn vũ quy tụ mấy ngàn giám mục là chuyện không đơn giản. Trong bối cảnh đó, những kiến nghị thiết lập một cơ quan đại diện Giám mục đoàn nhằm góp ý cho Đức giáo hoàng về việc điều hành Giáo hội là điều sáng suốt và rất cần thiết.
Sự hiệp thông giữa mọi thành phần trong Giáo hội và nét nổi bật so với Vaticanô I là tính “hiệp đoàn giám mục” (collège des évêques), với tương quan hiệp nhất và đồng trách nhiệm giữa các giám mục với nhau và với Đức giáo hoàng – vị thủ lãnh, để cùng quản trị và điều hành Giáo hội hoàn vũ. Do đó, mô hình kim tự tháp của Vaticanô I được thay đổi bằng những vòng tròn đồng tâm, diễn tả sự hiệp thông Giáo hội trong thời đại mới.
[4] Chính trong bối cảnh ấy, nhằm đáp ứng nguyện vọng của các nghị phụ Công đồng Vaticanô II, nhằm duy trì tinh thần hiệp đoàn mà Công đồng đã đạt được, ngày 15/09/1965, Đức Tổng giám mục Pericle Felici, Tổng thư ký của Công đồng, đã công bố Tự sắc Apostolica Sollicitudo của ĐGH Phaolô VI thiết lập Thượng Hội đồng Giám mục (Synodus Episcoporum).
II. LỊCH SỬ THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC[6]
Ngày 25/09/1995, nhân dịp kỷ niệm 30 năm thành lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới, trong bài phỏng vấn dành cho Đài Vatican, ĐHY Jan Schotte, Tổng thư ký Thượng Hội đồng Giám mục lúc bấy giờ, đã gọi hình thức Đại hội này là “một việc Quan phòng của Thiên Chúa”. Quả thực, ngày Đức Thánh Giáo hoàng Phaolô VI, với Tự sắc “Apostolica Sollicitudo”, thành lập Thượng Hội đồng Giám mục là một trong các mốc thời gian quan trọng nhất của lịch sử Giáo hội trong thế kỷ XX.
1. Tự sắc thiết lập Thượng Hội đồng
Để có thể tham chiếu cách chi tiết về Thượng Hội đồng Giám mục, chúng tôi đăng dịch toàn bộ bản Tự sắc Apostolica Sollicitudo
[7] (Mối âu lo về việc tông đồ) của Đức Phaolô VI sau đây:
GIÁO HOÀNG PHAOLÔ VI
TÔNG THƯ ĐƯỢC BAN HÀNH DƯỚI HÌNH THỨC TỰ SẮC
APOSTOLICA SOLLICITUDO
THIẾT LẬP THƯỢNG HỘI ĐỒNG GIÁM MỤC
CHO GIÁO HỘI HOÀN VŨ
Mối âu lo về việc tông đồ, theo đó khi xem xét kỹ lưỡng các dấu chỉ thời đại, Ta cố gắng thích nghi những con đường và phương pháp của việc tông đồ thiêng liêng cho phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng của thời đại chúng ta và với các điều kiện đã thay đổi của xã hội, giúp Ta củng cố, bằng những mối dây ràng buộc mạnh mẽ hơn, sự hợp nhất của Ta với các Giám mục mà Chúa Thánh Thần đã đặt lên… để chăn dắt Hội Thánh của Thiên Chúa (Cv 20,28). Ta được thúc đẩy hướng về điều này, không những bởi sự tôn trọng, quý mến và lòng biết ơn mà Ta cảm thấy phải hướng về Các Anh Em Đáng Kính trong chức Giám mục một cách đúng mực, mà còn bởi trách nhiệm rất nặng nề của Vị Mục Tử Tối Cao đã trao cho Ta phải dẫn dắt dân của Thiên Chúa đến đồng cỏ muôn đời. Thật vậy, trong thời đại này của chúng ta, thật sự có rất nhiều đảo lộn và đầy rẫy những nguy hiểm, nhưng lại rất rộng mở trước các luồng gió cứu độ của ân sủng thần linh; qua kinh nghiệm hằng ngày Ta nghiệm thấy sự hợp nhất như vậy với các Mục Tử thiêng liêng rất hữu ích đối với nhiệm vụ tông đồ của Ta, bởi đó Ta muốn thúc đẩy và khuyến khích bằng mọi cách sự hợp nhất như vậy, để – như Ta đã khẳng định ở nơi khác – Ta không thiếu sự an ủi do sự hiện diện, sự trợ giúp nhờ sự thận trọng và kinh nghiệm, sự chắc chắn do lời khuyên, sự ủng hộ bởi uy tín thế giá của các vị mang lại (Allocutio ad Patres Conciliares habita, III exacta Oecum. Synodi Sessione, AAS [1964] 1011).
Do đó, đặc biệt là trong suốt thời gian diễn ra Công Đồng Chung Vatican II, lẽ tự nhiên rằng trong tâm trí của Chúng Tôi luôn tồn tại xác tín vững chắc này của Chúng Tôi liên quan đến thời đại và sự cần thiết ngày càng phải nhờ cậy sự trợ giúp của các Giám mục vì lợi ích của Giáo hội hoàn vũ. Thật vậy, Thánh Công Đồng Chung cũng là nguyên nhân khiến Ta hình thành ý tưởng thiết lập một hội đồng đặc biệt và lâu dài gồm các Mục Tử thiêng liêng, và để ngay cả sau khi Công Đồng đã kết thúc, sự phong phú những lợi ích đó vốn đã đạt được nhờ sự hợp nhất sống động của Ta và các Giám mục trong suốt thời gian diễn ra Công Đồng, vẫn tiếp tục tồn tại giữa dân Kitô Giáo.
Và bây giờ, khi Công Đồng Chung Vatican II sắp kết thúc, Ta tin rằng thời điểm thích hợp cuối cùng đã đến để làm cho dự định đã được hình thành từ lâu trở thành hiện thực; và Ta rất vui mừng thực hiện điều này vì Ta biết rằng các Giám mục của thế giới Công giáo công khai ủng hộ dự định này của Ta, như ý kiến của nhiều Mục Tử thiêng liêng đã bày tỏ về vấn đề này trong Công Đồng Chung này.
Vì vậy, sau khi đã cân nhắc đầy đủ mọi việc, để tỏ lòng quý mến và tôn trọng tất cả các Giám mục Công giáo, và để tạo cho các ngài khả năng tham gia một cách rõ ràng hơn và hiệu quả hơn vào chức vụ chăn dắt của Ta đối với Giáo hội hoàn vũ, theo tự sắc của Ta và với thẩm quyền tông đồ của mình, Ta nâng lên và thiết lập tại Thành Thánh này một Đại hội Giám mục lâu dài cho Giáo hội hoàn vũ, phụ thuộc trực tiếp dưới quyền bính của Ta và Ta gọi là Thượng Hội đồng Giám mục.
Thượng Hội đồng này, giống như mọi định chế nhân loại, có thể được hoàn thiện hơn theo thời gian và được điều phối bởi các quy tắc tổng quát sau đây.
I
Thượng Hội đồng Giám mục, theo đó các Giám mục được chọn từ nhiều nơi trên thế giới để giúp đỡ hiệu quả hơn cho vị chủ chăn tối cao của Giáo hội, được thành lập như:
- a) Một định chế Giáo hội trung ương;
- b) Đại diện cho toàn thể hàng Giám mục Công giáo;
- c) Vĩnh viễn do bản chất của nó;
- d) Về cấu trúc của Thượng Hội đồng, nó thực hiện các nhiệm vụ của mình theo cách thức tạm thời và không thường xuyên.
II
Do bản chất của mình, Thượng Hội đồng Giám mục có nhiệm vụ cung cấp cứ liệu và đưa ra lời khuyên. Thượng Hội đồng cũng có thể có quyền biểu quyết, khi quyền này được Giáo hoàng Rôma ban cho; trong trường hợp này, việc phê chuẩn các quyết định của Thượng Hội đồng thuộc về Giáo hoàng.
- Mục đích chung của Thượng Hội đồng Giám mục là:
- a) Thúc đẩy sự hợp nhất và cộng tác chặt chẽ giữa Giáo hoàng và các Giám mục trên toàn thế giới;
- b) Thu thập cứ liệu trực tiếp và chính xác về các vấn đề và hoàn cảnh liên quan đến đời sống nội bộ của Giáo hội và hành động mà Giáo hội phải thực hiện trong thế giới ngày nay;
- c) Làm cho sự đồng thuận các ý kiến được dễ dàng hơn ít nhất về những điểm cốt yếu của đạo lý và về cách thức hành động trong đời sống của Giáo hội.
- Các mục đích đặc biệt và tức thời là:
- a) Trao đổi thông tin thích hợp;
- b) Bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề mà vì đó Thượng Hội đồng được triệu tập vào từng thời điểm.
III
Thượng Hội đồng Giám mục phụ thuộc trực tiếp dưới quyền bính của Giáo hoàng Rôma, ngài cũng sẽ chịu trách nhiệm về:
- Triệu tập Thượng Hội đồng, bất cứ khi nào ngài thấy thích hợp, và ấn định địa điểm tổ chức các cuộc họp;
- Phê chuẩn việc chọn lựa các thành viên, như được đề cập trong mục V và VIII;
- Ấn định chủ đề của các vấn đề cần bàn thảo ít nhất sáu tháng trước cuộc họp Thượng Hội đồng, nếu điều này là có thể;
- Gửi tài liệu các chủ đề cần bàn thảo cho những người phải tham gia vào việc thảo luận các câu hỏi đó;
- Thiết lập chương trình nghị sự;
- Trực tiếp chủ tọa Thượng Hội đồng hoặc thông qua những vị khác.
IV
Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị khoáng đại, hội nghị ngoại thường và hội nghị đặc biệt.
V
Thượng Hội đồng Giám mục có thể được triệu tập dưới hình thức hội nghị khoáng đại trước hết và do tự thân bao gồm:
1.
- a) Các Thượng phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài các lãnh địa của các Tòa Thượng Phụ thuộc các Giáo hội theo nghi lễ Đông Phương;
- b) Các Giám mục do các Hội đồng Giám mục Quốc gia liên hệ bầu chọn, theo mục VIII;
- c) Các Giám mục do những Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia bầu chọn, được thiết lập như vậy cho các quốc gia không có Hội đồng Giám mục riêng, theo mục VIII;
- d) Thêm vào số các vị này, mười tu sĩ đại diện cho các Dòng Giáo Sĩ, được Hiệp Hội Các Bề trên Tổng quyền Rôma tuyển chọn.
- Các Hồng Y đứng đầu các Thánh Bộ của “Giáo triều Rôma” cũng được tham dự hội nghị khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục.
VI
Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị ngoại thường gồm có:
1.
- a) Các Thượng Phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài lãnh địa của các Tòa Thượng Phụ các Giáo hội Công giáo theo nghi lễ Đông Phương;
- b) Các Chủ Tịch của những Hội đồng Giám mục quốc gia;
- c) Các Chủ Tịch của những Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia, được thiết lập cho những quốc gia không có Hội Đồng riêng;
- d) Ba tu sĩ đại diện cho các Dòng Giáo Sĩ, được Hiệp hội Các Bề trên Tổng quyền Rôma tuyển chọn.
- Các Hồng Y đứng đầu các Thánh Bộ của “Giáo triều Rôma” cũng được tham dự hội nghị khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục.
VII
Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị đặc biệt gồm có: các Thượng Phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài lãnh địa của các Giáo hội Công giáo theo nghi lễ Đông Phương, như những vị đại diện, vừa cho các Hội đồng Giám mục của một quốc gia hay nhiều quốc gia, vừa cho các Dòng Tu, như được đề cập trong mục V và VIII, miễn là tất những vị kể trên phải thuộc về những miền mà vì đó Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập.
VIII
Các Giám mục đại diện cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia được chọn theo các quy tắc sau:
- a) Một vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá hai mươi lăm thành viên;
- b) Hai vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá năm mươi thành viên;
- c) Ba vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá một trăm thành viên;
- d) Bốn vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia hơn một trăm thành viên;
Những Hội đồng Giám mục chung cho nhiều quốc gia chọn những đại diện của mình cũng theo những quy tắc nêu trên.
IX
Để chọn những vị đại diện của Hội đồng Giám mục của một hay nhiều quốc gia và các Dòng Tu tham dự Thượng Hội đồng Giám mục, cần phải đặc biệt lưu tâm không những đến sự khôn ngoan và sự cẩn trọng của các ứng viên, mà còn sự hiểu biết về lý thuyết và thực hành liên quan đến vấn đề sẽ được bàn thảo trong Thượng Hội đồng.
X
Nếu muốn, Đức giáo hoàng có thể tăng thêm số các thành viên của Thượng Hội đồng Giám mục, bằng cách chỉ định thêm hoặc các Giám mục hoặc các tu sĩ đại diện các Dòng Tu, hoặc các chuyên viên của Giáo hội, với tỷ lệ không quá 15% tổng số các thành viên, như được đề cập trong mục V và VIII.
XI
Khi kết thúc khóa họp mà vì đó Thượng Hội đồng Giám mục đã được triệu tập, thì do chính sự việc (tức khắc), các vị đã tham dự Thượng Hội đồng, các cơ quan và các chức vụ đã được trao phó cho các thành viên cũng chấm dứt.
XII
Thượng Hội đồng Giám mục có một thư ký thường trực hoặc tổng thư ký, được hỗ trợ bởi số các cộng sự viên hợp lý. Ngoài ra, mỗi khóa họp của Thượng Hội đồng Giám mục có một thư ký riêng và vị này sẽ thi hành nhiệm vụ cho đến khi khóa họp này kết thúc.
Chính Đức giáo hoàng bổ nhiệm không những tổng thư ký mà ngay cả những thư ký riêng.
Ta quyết định và thiết lập những điều này, tất cả những gì trái ngược đều vô giá trị.
Ban hành tại Rôma, cạnh Đền thờ Thánh Phêrô
Ngày 15 tháng 9 năm 1965, năm thứ ba Triều đại Giáo hoàng của Ta Giáo hoàng Phaolô đệ lục
2. Thuật ngữ Thượng Hội đồng Giám mục (Synodus Episcoporum)[8]
Trong La ngữ: Synodus hay Hy ngữ: Synodos và hạn từ Concilium thường được sử dụng gần như đồng nghĩa, để chỉ về sự kiện các Giám mục trên thế giới hay tại một quốc gia, một địa phương, họp nhau lại để bàn thảo và đưa ra những quyết định quan trọng và cần thiết cho đời sống Giáo hội. Từ Vaticano II đến nay, hai thuật ngữ này được phân biệt rõ ràng hơn với 2 hình thức khác nhau, theo đó hạn từ “Concilium” được dịch là “Công đồng” gồm: Con và calō + ium, (có nghĩa: cùng hội, cùng bàn). Riêng trong bài viết này, thuật ngữ “Synodus” được dịch là “Thượng Hội đồng”, tuy nhiên, ở tầm mức giáo phận, được gọi là “Công nghị”[9]. Theo Hy ngữ, Synodos có nghĩa là: cùng sánh bước, cùng đồng hành hay đi chung một con đường. Synodos được ghép bởi hai từ: Syn: cùng nhau và odos: con đường.
Trong buổi đọc kinh Truyền Tin trưa Chúa nhật ngày 22 tháng 9 năm 1974, Đức thánh giáo hoàng Phaolô VI đã định nghĩa Thượng Hội đồng Giám mục như sau: “Đây là một cơ chế Giáo hội mà chúng tôi thiết lập lên sau Công đồng Vatican II, ngõ hầu củng cố sự hiệp nhất và cộng tác giữa các giám mục trên khắp thế giới với Tòa Thánh. Cơ chế Thượng Hội đồng Giám mục thực hiện mục tiêu trên, nhờ qua bởi cuộc nghiên cứu chung liên quan đến những hoàn cảnh của Giáo hội và qua bởi giải đáp chung cho những vấn đề có liên quan đến sứ mạng của Giáo hội. Thượng Hội đồng Giám mục không phải là một Công đồng, cũng không phải là một Quốc hội, nhưng như là một kiểu mẫu đặc biệt của Công nghị”.
3. Mục đích và đặc tính
Với việc ban hành Tự sắc Apostolica Sollicitudo, Đức Phaolô VI đã chỉ rõ mục đích của THĐ như sau:
“1. Mục đích chung của Thượng Hội đồng Giám mục là:
- a) Thúc đẩy sự hợp nhất và cộng tác chặt chẽ giữa Giáo hoàng và các Giám mục trên toàn thế giới;
- b) Thu thập cứ liệu trực tiếp và chính xác về các vấn đề và hoàn cảnh liên quan đến đời sống nội bộ của Giáo hội và hành động mà Giáo hội phải thực hiện trong thế giới ngày nay;
- c) Làm cho sự đồng thuận các ý kiến được dễ dàng hơn, ít nhất về những điểm cốt yếu của đạo lý và về cách thức hành động trong đời sống của Giáo hội.
- Các mục đích đặc biệt và tức thời là:
- a) Trao đổi thông tin thích hợp;
- b) Bày tỏ ý kiến của mình về những vấn đề mà vì đó Thượng Hội đồng được triệu tập vào từng thời điểm”.[10]
Khi nhìn lại lịch sử 21 Công đồng chung, chúng ta nhận thấy khoảng thời gian từ Công đồng này đến Công đồng kế tiếp là khá xa, chẳng hạn: Công đồng Trentô (năm 1563) – Vaticanô I (1870) là 307 năm; Vaticanô I (1870) – Vaticanô II (1962-1965) là 92 năm. Như vậy, quá lâu để các Giám mục họp nhau nhằm bàn thảo và định hướng cho đời sống của Giáo hội, nhất là để bắt kịp với sự phát triển và những thay đổi rất nhanh chóng của thời đại cả về chính trị, văn hóa, xã hội và nhất là trong đời sống Giáo hội. Đây chính là “mối lo âu” của Đức Phaolô VI: “Mối âu lo về việc tông đồ, theo đó khi xem xét kỹ lưỡng các dấu chỉ thời đại, Ta cố gắng thích nghi những con đường và phương pháp của việc tông đồ thiêng liêng cho phù hợp với nhu cầu ngày càng tăng của thời đại chúng ta và với các điều kiện đã thay đổi của xã hội […] Thật vậy, trong thời đại này của chúng ta, thật sự có rất nhiều đảo lộn và đầy rẫy những nguy hiểm, nhưng lại rất rộng mở trước các luồng gió cứu độ của ân sủng thần linh”.[11] Đây có thể được xem như lý do đầu tiên cho việc thiết lập THĐGM, để kịp thời cập nhật và vạch ra hướng đi cho Giáo hội trước những thay đổi không ngừng của cuộc sống.
Cũng trong cuộc trả lời phỏng vấn dành cho Đài Vatican ngày 25/09/1995, ĐHY Jan Schotte quả quyết: “Quyết định thành lập Thượng Hội đồng Giám mục thế giới là một quyết định do Chúa Quan phòng, bởi vì đã cho phép các Giám mục thể hiện và thi hành nhiệm vụ “đoàn thể tính” của giám mục đoàn. Thượng Hội đồng mang tính chất hoàn vũ, để các giám mục thực hiện đoàn thể tính của mình (Hàng giám mục thế giới hiệp nhất với Vị Giám mục Rôma). Đức Hồng Y nhấn mạnh: “Nhìn về các Khóa họp của Thượng Hội đồng từ trước đến nay, tôi có thể nói một cách chắc chắn rằng, Thượng Hội đồng đã trở nên toàn phần của đời sống Giáo hội”.
Quả thật, để tiếp nối tinh thần hiệp nhất, cộng tác, đối thoại, v.v… của Vaticanô II, tự sắc Apostolica Sollicitudo cho chúng ta thấy mục đích lớn lao của Vaticanô II mà THĐGM muốn duy trì, là “Tính hiệp đoàn” giữa các giám mục với nhau và với Đức giáo hoàng, vị thủ lãnh của Giáo hội hoàn vũ: “Ta được thúc đẩy hướng về điều này, không những bởi sự tôn trọng, quý mến và lòng biết ơn mà Ta cảm thấy phải hướng về Các Anh Em Đáng Kính trong chức Giám mục một cách đúng mực, mà còn bởi trách nhiệm rất nặng nề của Vị Mục Tử Tối Cao đã trao cho Ta phải dẫn dắt dân của Thiên Chúa đến đồng cỏ muôn đời. […] Ta nghiệm thấy sự hợp nhất như vậy với các Mục Tử thiêng liêng rất hữu ích đối với nhiệm vụ tông đồ của Ta, bởi đó Ta muốn thúc đẩy và khuyến khích bằng mọi cách, sự hợp nhất như vậy, ngay cả sau khi Công đồng đã kết thúc, sự phong phú những lợi ích đó vốn đã đạt được nhờ sự hợp nhất sống động của Ta và các Giám mục trong suốt thời gian diễn ra Công đồng, vẫn tiếp tục tồn tại giữa dân Kitô giáo. Vì vậy, sau khi đã cân nhắc đầy đủ mọi việc, để tỏ lòng quý mến và tôn trọng tất cả các Giám mục Công giáo, và để tạo cho các ngài khả năng tham gia một cách rõ ràng hơn, và hiệu quả hơn vào chức vụ chăn dắt của Ta đối với Giáo hội hoàn vũ, theo tự sắc của Ta và với thẩm quyền tông đồ của mình, Ta nâng lên và thiết lập tại Thành Thánh này một Đại hội Giám mục lâu dài cho Giáo hội hoàn vũ, phụ thuộc trực tiếp dưới quyền bính của Ta và Ta gọi là Thượng Hội đồng Giám mục”.[12]
Như vậy, THĐGM nhằm duy trì sự hiệp nhất và cộng tác của Giám mục đoàn với Đức giáo hoàng để lãnh đạo, điều hành Giáo hội hoàn vũ. Thượng Hội đồng cũng là hình thức nhằm phục vụ sự hiệp thông và thể hiện tính hiệp đoàn giữa các giám mục và với Đức giáo hoàng. Thuật ngữ và hình thức “Synodus Episcoporum” đúng nghĩa là một cuộc “đồng hành”, cùng đi chung một con đường giữa các giám mục với nhau và với Đức giáo hoàng.
Tuy nhiên, Giáo hội vẫn không công nhận chủ thuyết đại công đồng của thời Công đồng Constancia, với tính bất hợp pháp của nó và do đó, THĐGM được thiết lập dưới quyền tối cao của Đức giáo hoàng và là một định chế thường tồn trong Giáo hội: “Theo tự sắc của Ta và với thẩm quyền tông đồ của mình, Ta nâng lên và thiết lập tại Thành Thánh này một Đại hội Giám mục lâu dài cho Giáo hội hoàn vũ, phụ thuộc trực tiếp quyền bính của Ta.” Cũng vậy, mục III của Tự sắc Apostolica Sollicitudo xác định: “Thượng Hội đồng Giám mục phụ thuộc trực tiếp dưới quyền bính của Giáo hoàng Rôma, ngài cũng sẽ chịu trách nhiệm về: 1. Triệu tập Thượng Hội đồng, bất cứ khi nào ngài thấy thích hợp, và ấn định địa điểm tổ chức các cuộc họp; 2. Phê chuẩn việc chọn lựa các thành viên, như được đề cập trong mục V và VIII; 3. Ấn định chủ đề của các vấn đề cần bàn thảo ít nhất sáu tháng trước cuộc họp Thượng Hội đồng, nếu điều này là có thể; 4. Gửi tài liệu các chủ đề cần bàn thảo cho những người phải tham gia vào việc thảo luận các câu hỏi đó; 5. Thiết lập chương trình nghị sự; 6. Trực tiếp chủ tọa Thượng Hội đồng hoặc thông qua những vị khác”.[13]
4. Các hình thức Thượng Hội đồng và thành phần tham dự[14]
Cũng với Tự sắc Apostolica Sollicitudo, có ba hình thức THĐGM: “Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị khoáng đại (chung, thường lệ 3 năm), hội nghị ngoại thường và hội nghị đặc biệt”.[15] Các thành phần tham dự cũng được quy định trong Tự sắc này:
4.1. THĐGM thường lệ
THĐGM thường lệ, theo chu kỳ ba năm, Đức giáo hoàng triệu tập, với mục đích bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích chung của toàn Giáo hội. Thành phần tham dự được quy định trong Tự sắc Apostolica Sollicitudo, tại mục V: “Thượng Hội đồng Giám mục có thể được triệu tập dưới hình thức hội nghị khoáng đại trước hết và do tự thân bao gồm:
- a) Các Thượng phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài các lãnh địa của các Tòa Thượng phụ thuộc các Giáo hội theo nghi lễ Đông Phương; b) Các Giám mục do các Hội đồng Giám mục Quốc gia liên hệ bầu chọn, theo mục VIII; c) Các Giám mục do những Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia bầu chọn, được thiết lập như vậy cho các quốc gia không có Hội đồng Giám mục riêng, theo mục VIII; d) Thêm vào số các vị này, mười tu sĩ đại diện cho các Dòng Giáo Sĩ, được Hiệp hội Các Bề trên Tổng quyền Rôma tuyển chọn.
- Các Hồng Y đứng đầu các Thánh Bộ của “Giáo triều Rôma” cũng được tham dự hội nghị khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục.
4.2. THĐGM ngoại thường
THĐGM ngoại thường nhằm bàn về những vấn đề liên quan đến lợi ích của toàn Giáo hội, có tính cấp bách, cần có giải pháp ngay, cần đến quyết định nhanh chóng. THĐGM này được Đức giáo hoàng triệu tập tùy theo hoàn cảnh đặt ra. Thành phần tham dự được quy định ở mục VI của Tự sắc:
“Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị ngoại thường gồm có:
- a) Các Thượng phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài lãnh địa của các Tòa Thượng phụ các Giáo hội Công giáo theo nghi lễ Đông Phương; b) Các Chủ tịch của những Hội đồng Giám mục quốc gia; c) Các Chủ tịch của những Hội đồng Giám mục của nhiều quốc gia, được thiết lập cho những quốc gia không có Hội đồng riêng; d) Ba tu sĩ đại diện cho các Dòng Giáo Sĩ, được Hiệp hội Các Bề trên Tổng quyền Rôma tuyển chọn.
- Các Hồng Y đứng đầu các Thánh Bộ của “Giáo triều Rôma” cũng được tham dự hội nghị khoáng đại của Thượng Hội đồng Giám mục”.
4.3. THĐGM đặc biệt
THĐGM đặc biệt nhằm thảo luận những vấn đề liên quan trực tiếp đến một châu lục, một quốc gia hay nhiều vùng miền. Thành phần tham dự được quy định ở mục VII của Tự sắc:
“Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập dưới hình thức hội nghị đặc biệt gồm có: các Thượng phụ, các Tổng Giám mục và các Trưởng Giáo chủ bên ngoài lãnh địa của các Giáo hội Công giáo theo nghi lễ Đông Phương, như những vị đại diện, vừa cho các Hội đồng Giám mục của một quốc gia hay nhiều quốc gia, vừa cho các Dòng Tu, như được đề cập trong mục V và VIII, miễn là tất những vị kể trên phải thuộc về những miền mà vì đó Thượng Hội đồng Giám mục được triệu tập”.
Đại biểu giám mục của các Giáo hội địa phương được quy định trong mục VIII của Tự sắc như sau:
“Các Giám mục đại diện cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia được chọn theo các quy tắc sau: a) Một vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá hai mươi lăm thành viên; b) Hai vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá năm mươi thành viên; c) Ba vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia không quá một trăm thành viên; d) Bốn vị cho mỗi Hội đồng Giám mục quốc gia hơn một trăm thành viên;
Những Hội đồng Giám mục chung cho nhiều quốc gia chọn những đại diện của mình cũng theo những quy tắc nêu trên”.
Với THĐGM, thành phần tham dự chính thức với danh xưng là “nghị phụ” (Sodalibus). Ngoài ra còn có các dự thính viên (Auditores) và nhóm đại diện của các Giáo hội và Cộng đoàn Giáo hội anh em (Delegati fraterni). Cũng có các chuyên viên (Adiutores Secretarii Specialis) giúp việc cho Văn phòng Tổng thư ký. THĐGM còn có sự tham gia của đại diện Tu sĩ, các chuyên viên, quan sát viên và những đại diện do Giáo hoàng chỉ định.
5. Quy định Giáo luật về Thượng Hội đồng Giám mục[17]
Sẽ là thiếu sót khi trình bày THĐGM nếu không quy chiếu về các điều khoản trong bộ Giáo luật 1983 với các điều khoản 342-348 như sau:
Điều 342: Thượng Hội đồng Giám mục là một đại hội gồm các Giám mục được tuyển chọn từ nhiều miền khác nhau trên thế giới, tụ họp lại vào những thời kỳ được ấn định, để cổ võ sự hiệp nhất chặt chẽ giữa Đức Thánh Cha với các Giám mục, và để giúp ý kiến cho Đức Thánh Cha trong việc bảo vệ và tăng tiến Đức Tin và phong hóa, và trong việc duy trì và củng cố kỷ luật Giáo hội; ngoài ra, còn để nghiên cứu các vấn đề liên quan tới hoạt động của Giáo hội trong thế giới.
Điều 343: Thượng Hội đồng Giám mục có thẩm quyền bàn thảo tất cả các vấn đề đã đề ra và bày tỏ ý kiến của mình, nhưng không có thẩm quyền để biểu quyết hay ban hành nghị quyết về các vấn đề đó; trừ những trường hợp nhất định, khi Đức Thánh Cha cho Thượng Hội đồng được quyền biểu quyết; lúc ấy, Đức Thánh Cha có quyền phê chuẩn các quyết định của Thượng Hội đồng.
Điều 344: Thượng Hội đồng Giám mục phục tùng trực tiếp quyền bính của Đức Thánh Cha. Thẩm quyền của Ngài là: 1/ Triệu tập Thượng Hội đồng mỗi khi thấy thuận lợi, và chỉ định nơi hội họp; 2/ Phê chuẩn việc bầu cử những thành viên nào mà theo quy luật riêng cần được bầu, và chỉ định cùng bổ nhiệm các thành viên khác; 3/ Ấn định đề tài của những vấn đề sẽ thảo luận, vào thời gian xứng hợp, trước khi Thượng Hội đồng khai họp, theo quy luật riêng; 4/ Hoạch định chương trình nghị sự; 5/ Đích thân hay nhờ những người khác chủ tọa Thượng Hội đồng; 6/ Bế mạc, di chuyển, đình chỉ và giải tán Thượng Hội đồng.
Điều 345: Thượng Hội đồng Giám mục có thể nhóm họp hoặc là trong Đại Hội chung, thông thường hay bất thường, trong đó bàn thảo về những công việc liên hệ trực tiếp tới lợi ích của toàn thể Giáo hội; hoặc là trong đại hội đặc biệt, trong đó bàn thảo những công việc liên hệ trực tiếp tới một hoặc nhiều miền nhất định.
Điều 346: §1 Khi nhóm họp Đại Hội Chung thông thường, Thượng Hội đồng Giám mục gồm đại đa số phần tử là các Giám mục đã được các Hội đồng Giám mục chọn cho từng Đại hội, chiếu theo thể thức được ấn định do luật riêng của Thượng Hội đồng; một số khác được chính luật chỉ định; một số nữa được Đức Thánh Cha trực tiếp bổ nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử khác thuộc Dòng Tu Giáo Sĩ được lựa chọn theo quy tắc của luật riêng. §2 Khi nhóm họp Đại hội Chung ngoại thường để bàn về những vấn đề đòi hỏi một giải pháp mau lẹ, Thượng Hội đồng Giám mục gồm đa số các phần tử là các Giám mục được chỉ định do luật riêng của Thượng Hội đồng chiếu theo chức vụ đương đảm nhiệm; một số khác do Đức Thánh Cha trực tiếp bổ nhiệm; thêm vào đó là vài phần tử thuộc Dòng Tu Giáo Sĩ được lựa chọn theo đúng như quy tắc của luật riêng. §3 Khi nhóm họp Đại hội đặc biệt, Thượng Hội đồng gồm các phần tử được lựa chọn từ những miền mà vì đó mà Thượng Hội đồng được triệu tập, chiếu theo quy tắc của luật riêng điều hành Thượng Hội đồng.
Điều 347: §1 Khi Đại Hội của Thượng Hội đồng Giám mục đã được Đức Thánh Cha bế mạc, thì chức vụ đã giao phó cho các Giám mục và cho các phần tử khác trong Thượng Hội đồng cũng chấm dứt §2 Nếu Tòa Thánh trống tòa sau khi đã triệu tập Thượng Hội đồng hoặc đang khi họp, thì chiếu luật, Đại Hội của Thượng Hội đồng bị đình hoãn; cũng vậy, các chức vụ đã giao phó cho các phần tử trong Thượng Hội đồng cũng bị đình chỉ, cho đến khi Tân Giáo hoàng quyết định hoặc giải tán hoặc tiếp tục Đại Hội.
Điều 348: §1 Thượng Hội đồng Giám mục có một văn phòng thường trực dưới sự điều khiển của một Tổng Thư Ký được Đức Thánh Cha bổ nhiệm; để giúp đỡ Tổng Thư Ký, có một Hội đồng Văn phòng gồm bởi các Giám mục, trong số đó, một vài vị được chính Thượng Hội đồng lựa chọn theo quy luật riêng, một số khác được Đức Thánh Cha bổ nhiệm; chức vụ của tất cả những người này chấm dứt khi bắt đầu nhóm Đại Hội mới.§2 Ngoài ra, vào mỗi Đại hội của Thượng Hội đồng Giám mục sẽ bổ nhiệm một hoặc nhiều thư ký đặc biệt, do Đức Thánh Cha chỉ định; những người này chỉ ở lại chức vụ đã giao phó cho tới khi Đại hội của Thượng Hội đồng kết thúc.
6. Diễn tiến[18]
Trên nền tảng căn bản của đặc tính hiệp đoàn, THĐGM diễn ra qua nhiều giai đoạn với phương pháp làm việc phân tích và tổng hợp, vừa tham khảo ý kiến và quyết định theo từng cấp và cũng có phản hồi.
Trước hết, công việc chuẩn bị xa cho một THĐGM tiếp theo, là việc xin ý kiến về Đề tài được gợi ý từ các Giáo hội Công giáo Đông phương, các Hội đồng Giám mục, các Thánh bộ trong Giáo triều và Hiệp hội Bề trên Thượng cấp các dòng tu. Để theo đó, trong một cuộc họp khoáng đại chung của THĐGM đang diễn ra ở giai đoạn cuối, các nghị phụ tham khảo trước. Các đề tài được đề nghị luôn đặt nền trên nền tảng giáo lý Kitô giáo chắc chắn, hoặc nhắm đến nhu cầu và đời sống chung của toàn thể Giáo hội, với tầm mức hoàn vũ; hoặc những đề tài mang tính thời sự, có tính khẩn cấp trong đời sống Giáo hội, hay theo những thay đổi của xã hội. Các đề tài gợi ý phải mang tính tích cực, nhằm khơi dậy những năng lực và hướng đi phù hợp, giúp Giáo hội không ngừng thăng tiến. Đàng khác, đề tài được chọn phải hướng đến tính thực tế, khả thi để có thể áp dụng vào thực hành mục vụ của Giáo hội. Những đề tài này sẽ được một Ủy ban của Văn phòng Tổng thư ký THĐ phân tích, nghiên cứu, sắp xếp theo thứ tự ưu tiên, để sau đó, trình lên Đức giáo hoàng xem xét và chính ngài sẽ quyết định đề tài cho lần THĐGM tương lai.
Sau khi đề tài đã được Đức giáo hoàng xác định chính thức, Ủy ban chuẩn bị THĐ gồm các nhà thần học, các chuyên viên… sẽ nghiên cứu, đào sâu đề tài và soạn một văn bản được gọi là Đề cương (Lineamenta). Đề cương này sẽ được trình lên cho Đức giáo hoàng và phải được ngài phê chuẩn, sau đó được gởi đến các giám mục bằng những ngôn ngữ thông dụng, để phổ biến cho mọi thành phần Dân Chúa học hỏi, cầu nguyện và đóng góp ý kiến. Từ đó các giám mục cấp giáo phận và Hội đồng Giám mục sẽ đúc kết thành văn bản tổng hợp ý kiến đóng góp và trả lời cho những câu hỏi được đặt ra trong tập Đề cương. Văn bản này sẽ được gởi về Văn phòng Tổng thư ký THĐGM ở Rôma.
Với các văn bản đúc kết và trả lời của các Giáo hội địa phương, Văn phòng Tổng thư ký THĐ sẽ cùng với các nhà thần học, các chuyên viên nghiên cứu để soạn tập Tài liệu làm việc (Instrumentum Laboris). Tài liệu này sẽ được các nghị phụ tham dự Thượng Hội đồng sử dụng như tài liệu cầm tay để có cơ sở làm việc và thảo luận. Tuy nhiên, Instrumentum Laboris chỉ mang tính tạm thời và như phương tiện để làm việc trong THĐ, chứ không nhằm mục đích phác thảo bản văn chung cuộc. Sau khi được Đức giáo hoàng phê chuẩn, Bản văn Instrumentum Laboris sẽ được phổ biến bằng các ngôn ngữ chính yếu và được gửi đến các giám mục và những thành viên sẽ tham dự THĐGM này. Để khi đến tham dự THĐGM, các nghị phụ sẽ trình bày những kết quả làm việc, thảo luận và được đúc kết của các Hội đồng giám mục với những quan điểm và nét đặc sắc của mỗi Giáo hội địa phương.
Tại THĐ, sau khi khai mạc, Tổng tường trình viên (Rapporteur Général) do Đức giáo hoàng bổ nhiệm, sẽ trình bày bản Tường trình sơ khởi (Rapport Initial). Sau đó, các phiên họp của Đại hội sẽ diễn ra với các giai đoạn:
a/ Giai đoạn đầu tiên: các thành viên của THĐ lần lượt trình bày về tình trạng của Giáo hội địa phương liên quan đến đề tài chung của THĐGM. Công việc này đem lại lợi ích lớn lao, giúp các Giáo hội địa phương trao đổi kinh nghiệm sống đức tin, chứng tá đời sống và văn hóa vùng miền, để làm phong phú đời sống Giáo hội.
b/ Giai đoạn tiếp theo: dựa vào các trình bày trên, Tổng tường trình viên sẽ đưa ra một số những câu hỏi cho các nhóm nhỏ theo ngôn ngữ (Circuli Minores) để thảo luận và đưa ra những đề nghị, các đề nghị này phải rõ ràng, ngắn gọn và được các thành viên của nhóm bỏ phiếu biểu quyết để đưa vào biên bản. Biên bản đúc kết của các nhóm sẽ được công bố trong phiên họp chung toàn thể các Nghị phụ. Sau khi được nghe báo cáo đúc kết, các nghị phụ có thể yêu cầu giải thích những vấn đề chưa sáng tỏ.
c/ Với những đề nghị của các nhóm hội thảo gởi cho Ủy ban thư ký của THĐGM, một bản văn tổng hợp những đề nghị của các nhóm hội thảo thành một văn bản chung và vị Tổng tường trình viên sẽ trình bày trong một phiên họp chung với tất cả các nghị phụ. Sau đó các Nhóm trở về thảo luận về bản tường trình các đề nghị trên để đóng góp ý kiến bổ túc hay sửa chữa.
d/ Các nhóm gởi biên bản làm việc cho Ủy ban thư ký THĐ để Tổng tường trình viên và Ủy ban Thư ký xét xem những ý kiến nào có thể đưa vào “Bản liệt kê các Đề nghị” (Propositions); Với những ý kiến không được đưa vào “Bản liệt kê các đề nghị”. Ủy ban thư ký sẽ soạn thảo một tài liệu giải thích với tên gọi “Nghiên cứu các ý kiến sửa chữa”. Những ý được đưa vào “Bản liệt kê các Đề nghị” sẽ được vị Tổng tường trình viên trình bày trong phiên họp khoáng đại và được các nghị phụ biểu quyết chấp thuận hay không.
Sau đó, Tổng tường trình viên và Ủy ban thư ký sẽ tổng hợp, sắp xếp các dữ liệu và đúc kết thành Văn bản báo cáo cuối cùng được gọi là “Báo cáo chung kết” (Rapport final) để trình cho Đức giáo hoàng. Các “Đề nghị” được trình lên Đức giáo hoàng cho dù chỉ mang tính tư vấn, nhưng tự nó nói lên “Tính hiệp đoàn” của Giáo hội và các Giám mục, hiệp trong cùng một đức tin, và ở đây, sự đồng tâm nhất trí của Giáo hội (Consensus Ecclesiae) không do kết quả của số phiếu đồng thuận, nhưng do tác động của Chúa Thánh Thần là tác nhân chính thức, Ngài hoạt động nơi Giáo hội.
So với hình thức Công đồng, về tính pháp lý, văn kiện cuối cùng của Công đồng được các Nghị phụ biểu quyết mang tính chung kết và Đức giáo hoàng quyết định trong tư cách hiệp đoàn với các Giám mục nghị phụ[19]; còn Văn kiện cuối cùng của Thượng Hội đồng, cũng được các Giám mục biểu quyết, nhưng kết quả biểu quyết chỉ có tính tham vấn cho Đức giáo hoàng và chính ngài mới là người đưa ra quyết định cuối cùng, cũng như ký ban hành văn kiện với tư cách là thủ lãnh của Giáo hội.
Tuy nhiên, với ý thức canh tân, không ngừng đổi mới, Đức Thánh giáo hoàng Phaolô VI, qua Tự sắc của ngài, đã thấy trước sự cần thiết của việc thích nghi THĐ, để bắt kịp với những nhu cầu của Giáo hội, nhất là cho sự tiếp nối và phát huy tính hiệp đoàn, ngài viết: “Thượng Hội đồng này, giống như mọi định chế nhân loại, có
thể được hoàn thiện hơn theo thời gian và được điều phối bởi các quy tắc tổng quát sau đây”.[20]
Theo sự chỉ dẫn của Tự sắc Apostolica Sollicitudo, việc tổ chức THĐGM có thể thay đổi về thành phần tham dự, về cách thức tiến hành và văn kiện kết thúc THĐGM có thể thay đổi cách thế thực hiện, hoặc Đức giáo hoàng căn cứ trên “Bản đề nghị” của các nghị phụ THĐ để nghiên cứu và soạn thảo Tông huấn hậu Thượng Hội đồng; việc này được thực hiện từ THĐGM thường lệ lần thứ 3 năm 1974. Trong trường hợp này, “Bản đề nghị” của các nghị phụ THĐ chỉ mang tính cách tham vấn, đề nghị và một cách nào đó, chưa thể hiện hết “Tính Hiệp Đoàn”. Chính vì thế, ngày 18 tháng 9 năm 2018, Đức giáo hoàng Phanxicô ban hành Tông hiến “Episcopalis Communio” liên quan đến cơ cấu của THĐGM, tại các mục số 17 và 18,[21] Tông hiến có quy định mới về văn kiện chung kết của THĐ. Theo Tông hiến mới này, văn kiện chung kết sẽ được THĐ soạn thảo và các Giám mục được quyền bỏ phiếu biểu quyết để thông qua với sự đồng thuận cao theo cách thức mà công đồng Vaticanô II đã thực hiện và được tiếp nối và phát huy qua THĐGM. Sau đó, Đức giáo hoàng sẽ chính thức phê chuẩn Văn kiện, và trở thành giáo huấn chung mang tính hiệp đoàn của các Giám mục cùng với Đấng kế vị Thánh Phêrô.
Cũng theo tinh thần của Đức Phaolô VI: “Thượng Hội đồng này, giống như mọi định chế nhân loại, có thể được hoàn thiện hơn theo thời gian”[22], cho nên, từ THĐGM năm 1987, liên quan đến THĐ, nhiều Ủy ban đã được thành lập như: Ủy ban Thường trực của Văn phòng Tổng thư ký, Ủy ban hậu THĐGM, Ủy ban tiền THĐGM. Các tổ chức này nhằm thể hiện tính hiệp đoàn khi kiện toàn cơ cấu nhằm đem lại nhiều ích lợi cho toàn thể Dân Thiên Chúa.
Như vậy, hình thức THĐGM được thiết lập, trải qua dòng lịch sử, đã và đang được kiện toàn nhằm làm nổi bật “Tính hiệp đoàn” của Giám mục đoàn với nhau và với Vị thủ lãnh Giáo hội, đồng thời mở ra cho sự hiệp nhất của toàn thể Giáo hội. Chính vì nhằm đem lại lợi ích tốt nhất cho Giáo hội, qua THĐGM thường lệ lần thứ XVI đang diễn ra hiện nay (10/2021-10/2023), Đức thánh cha Phanxicô mong muốn mọi thành phần Dân Chúa, kể cả các tín hữu tại Giáo hội địa phương, cùng với các giám mục, hiệp thông với Đức giáo hoàng, tích cực tham dự bằng việc học hỏi, cầu nguyện, trao đổi và đóng góp ý kiến cần thiết hướng đến lợi ích chung của Giáo hội, nghĩa là mọi người cùng Hiệp Hành, cùng bước đi chung con đường, hiệp thông, tham gia và sống sứ vụ của Giáo hội.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 127 (Tháng 01 & 02 năm 2022)
[1] X. Les conciles oecumeniques, sous la Direction de G. Alberigo. Tome 1. L’histoire; Tome 2* et Tome 2**: Les Décrets. Les Édition du Cerf, Paris 1994.
[2] X. Le concile Vatican II (1962-1965), préface de G. Alberigo, Les Éditions du Cerf, Paris 2010
[3] Ngày 05/11/1959, Đức cha Silvio Oddi sứ thần Tòa thánh tại Ai Cập ao ước thiết lập tại Giáo đô một định chế tư vấn thường tồn, như một “Công đồng thu nhỏ”, nhằm quy tụ đại diện các giám mục trong Giáo hội hoàn vũ, nhóm họp theo định kỳ, ít là mỗi năm một lần, để thảo luận những vấn đề trong đời sống Giáo hội và cùng nhau đi tìm những nẻo đường mới để chu toàn sứ mạng của Giáo hội.
[4]chọn làm Giáo hoàng, nhiều lần trong thời gian họp Công đồng, ngài đã nhấn mạnh sự hợp tác trong Giám mục đoàn (collège des évêques), gồm tất cả các giám mục, hiệp nhất với Đấng kế vị thánh Phêrô, Thủ lãnh của giám mục đoàn.
[5] THĐGM.
[6] Xem: https://www.vatican.va/roman_curia/synod/documents/rc_synod_doc_20190314_profilo_fr.html
[7] Xem: https://www.vatican.va/content/paul-vi/la/motu_proprio/documents/hf_p-vi_motu-proprio_19650915_apostolica-sollicitudo.html
[8] THĐGM
[9] Giáo luật các điều 460 – 468 nói về Synodus Dioecesana – Công nghị giáo phận.
[10] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, mục II, §1-2.
[11] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, phần dẫn nhập.
[12] Ibidem.
[13] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, mục II, §1-2-3-4-5-6.
[14] x.https://www.vatican.va/news_services/press/documentazione/documents/sinodo/sinodo_documentazione-generale_fr.html
[15] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, mục IV.
[16] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, mục IX và X.
[17] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Bộ giáo luật 1983, NXB: Tôn Giáo, 2016
[18] X.https://www.vatican.va/news_services/press/documentazione/documents/sinodo/sinodo_documentazione-generale_fr.html
[19] Hội đồng Giám mục Việt Nam, Bộ giáo luật 1983, Can 341, NXB: Tôn Giáo, 2016.
[20] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, phần dẫn nhập.
[21] https://www.vatican.va/content/francesco/fr/apost_constitutions/documents/papa-francesco_costituzione-ap_20180915_episcopalis-communio.html
[22] Tự sắc Apostolica Sollicitudo, phần dẫn nhập.