2022
Tiệm bánh PizzAut do người tự kỷ điều hành ở Ý
Tiệm bánh PizzAut do người tự kỷ điều hành ở Ý
Tiệm bánh Pizza ở Ý, có tên gọi PizzAut do các thiếu niên tự kỷ điều hành. Đây là một mô hình thực nghiệm về hoà nhập xã hội và đồng thời là một mô hình cung cấp việc làm, đào tạo và khẳng định phẩm giá cho người tự kỷ.
PizzAut phục vụ người nghèo tại Quảng trường Thánh Phêrô
Khi đến tiệm bánh này, đầu tiên các thiếu niên được đào tạo, được học với các chuyên gia tâm lý và giáo dục tuỳ theo độ tuổi và thể trạng của mỗi em. Đồng thời các em được hướng dẫn tham gia vào hoạt động điều hành tiệm bánh. Qua hoạt động này các em sẽ cảm nhận được sự cân bằng với thế giới xung quanh.
Ông Nico Acampora, năm nay 50 tuổi là người sáng lập dự án PizzAut. Trước khi tạo lập tiệm bánh Pizza, Nico chưa bao giờ làm bánh, nhưng như ông nói, chính vì là cha của một trẻ tự kỷ mà ông đã quyết định tạo dựng tiệm bánh này. Nico chia sẻ: “Tôi là cha của Leo, một trẻ tự kỷ và bánh Pizza là một sự cứu rỗi cho chúng tôi. Lo ngại về những phản ứng không thể đoán trước được của Leo khiến chúng tôi ngại đi ăn tối ở các nhà hàng. Để không đánh mất cơ hội gặp gỡ hoà nhập với xã hội, chúng tôi bắt đầu mời bạn bè đến ăn tối tại nhà chúng tôi. Từ đó tiệm bánh được hình thành”.
Tiệm bánh có ý tưởng từ năm 2018. Nico cho biết để tiệm bánh có được như ngày hôm nay, ông và các cộng tác viên là các cha mẹ của các trẻ tự kỷ đã phải nỗ lực hết mình. Bởi vì thực tế các em tự kỷ không dễ hiện diện nơi công cộng, và không dễ để dạy các em làm bánh.
Khi biết ý tưởng của Nico và các cộng tác viên, nhiều nhà hàng đã sẵn sàng giúp đỡ họ trong mọi sự, từ hỗ trợ vốn đến dạy cho các em. Rồi đại dịch đến, dường như kế hoạch bị dừng lại, nhưng Nico vẫn quyết tâm thực hiện. Tuân thủ các quy tắc phòng chống dịch, Nico đã phát minh ra một xe chở bánh pizza và chế biến ngay tại chỗ. Khi đại dịch tạm ổn, Nico và các thiếu niên tự kỷ đã cắt băng khai trương nhà hàng PizzAut, với hàng trăm chỗ ngồi, và cả một khu vực dành cho những thực phẩm không chứa gluten. Về điều này, ông Nico nói: “Nhiều người tự kỷ không dung nạp được gluten, vì thế trong trường hợp này sự tôn trọng sức khoẻ người tự kỷ cũng là tôn trọng các thực khách”.
Điều tuyệt vời là nhà hàng này được xây dựng dành cho người tự kỷ nhưng cảm giác như được hoà chung nhịp sống với mọi người xung quanh. Một điều quan trọng không kém đó là không gian bình an không ồn ào, điều thường gây kích động sự nhảy cảm của người tự kỷ. Để làm được điều này, Nico đã phải thiết kế các bức tường cách âm, với những cánh cửa có hệ thống không tạo ra tiếng ồn khi đóng mở, các loại máy chế biến thức ăn cũng phải thiết kế giảm tiếng ồn. Ánh sáng vừa đủ không gây khó chịu cho người tự kỷ. Đồ dùng không bằng thuỷ tinh, để không gây kích động, cũng không bằng nhựa một lần để bảo vệ môi trường, nhưng bằng nhựa polypropylen (nhựa PP) không dễ đập vỡ, và tôn trọng môi trường.
Vào thứ Sáu 01/4 vừa qua, trong buổi tiếp kiến của Đức Thánh Cha dành cho Tổ chức Người Tự kỷ của Ý, ông Nico Acampora và các thiếu niên tự kỷ cũng có mặt.
Tinh thần vì người khác, đặc biệt vì những người có hoàn cảnh đặc biệt của ông Nico và các cộng tác viên là điều đã được Đức Thánh Cha nhắc đến trong bài nói chuyện. Ngài nói: “Tình trạng khuyết tật, dưới mọi hình thức, là một thách đố nhưng cũng là một cơ hội để xây dựng một xã hội bao gồm mọi người và văn minh hơn, trong đó các gia đình, giáo chức và các hiệp hội, như hội của anh chị em, không bị bỏ mặc một mình, nhưng được nâng đỡ. Vì thế, cần tiếp tục gây ý thức về những khía cạnh khác nhau của tình trạng khuyết tật, phá đổ các thành kiến và thăng tiến một nền văn hóa bao gồm và thuộc về cộng đoàn, dựa trên phẩm giá con người… Phẩm giá của những người mong manh và dễ bị tổn thương, quá nhiều khi bị gạt ra ngoài lề, vì bị gán cho nhãn hiệu khác biệt hoặc vô ích, nhưng trong thực tế họ là một sự phong phú lớn cho xã hội”
Đức Thánh Cha nói thêm: “Anh chị em biết rõ điều đó, và hôm nay, anh chị em muốn nói lên điều ấy bằng một cử chỉ: lát nữa đây, tại Quảng trường thánh Phêrô, một số người tự kỷ sẽ làm bếp và cống hiến bữa ăn trưa cho những anh chị em nghèo. Đó là một sáng kiến chứng tỏ lối sống và hành động của người Samari nhân lành, đó là lối sống của Chúa: gần gũi, cảm thương, dịu dàng”.
Sau buổi tiếp kiến, tại Quảng trường thánh Phêrô, PizzAut đã có buổi phục vụ bữa ăn cho người nghèo sống xung quanh khu vực.
Hiện diện trong ngày này, sơ Veronica Donatello, Phụ trách về Ban Quốc gia dành cho người khuyết tật của Hội đồng Giám mục Ý hy vọng rằng, chứng kiến khả năng chia sẻ với người khác của các em tự kỷ phải làm cho chúng ta có cái nhìn mới, không chỉ dừng lại ở giới hạn những bộ quần áo, những khác biệt. Các em đã dạy chúng ta khoảnh khắc này không phải là cho các em nhưng là với các em. Chúng ta phải tiến một bước mới hướng về người tự kỷ và cho phép họ làm điều đó với chúng ta.
Ngọc Yến
2022
Bài giảng Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Bài giảng Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Sáng ngày 3/4, ngày thứ hai của chuyến tông du, ĐTC đã chủ sự Thánh Lễ tại quảng trường Vựa Lúa với khoảng 20 ngàn tín hữu tham dự, cùng với các đại diện các Giáo hội Kitô và các tôn giáo khác.
Bài giảng Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa
Malta, ngày 3 tháng 4 năm 2022
Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu “trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người” (Ga 8,2). Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình bắt đầu như thế. Bối cảnh thật thanh bình: một buổi sáng ở nơi thánh, tại trung tâm của Giêrusalem. Nhân vật chính là dân Thiên Chúa, những người đang ở trong sân của đền thờ để tìm kiếm Chúa Giêsu, vị Thầy dạy: họ muốn lắng nghe Người, bởi vì những gì Người nói đều soi sáng và sưởi ấm. Lời dạy của Người không trừu tượng, nó chạm đến và giải phóng cuộc sống, biến đổi và canh tân nó. Đây là “khứu giác” của dân Thiên Chúa, những người không hài lòng với ngôi đền làm bằng đá, nhưng tập họp xung quanh con người của Chúa Giêsu. Ở trang này, chúng ta nhìn thấy đoàn tín hữu của mọi thời đại, dân thánh của Thiên Chúa, mà ở Malta này rất đông đảo và sống động, trung thành trong việc tìm kiếm Chúa, gắn bó với một đức tin cụ thể, sống động. Tôi cảm ơn anh chị em vì điều này.
Trước đoàn dân đến với mình, Chúa Giêsu không vội vàng: “Người ngồi xuống – theo lời Tin Mừng – và bắt đầu giảng dạy họ” (câu 2). Nhưng có những chỗ trống trong trường học của Chúa Giêsu. Có một số người vắng mặt: họ là chị phụ nữ và những người tố cáo chị. Họ không đến với Thầy như những người khác, và lý do vắng mặt của họ cũng khác: các kinh sư và người Pha-ri-sêu nghĩ rằng họ đã biết mọi sự, rằng họ không cần sự dạy dỗ của Chúa Giêsu; đàng khác, người phụ nữ là một người lạc lối, lạc lối tìm kiếm hạnh phúc bằng những con đường sai lầm. Do đó, các lý do của sự vắng mặt thì khác nhau, và kết quả của câu chuyện của họ cũng khác nhau. Chúng ta hãy tập trung vào những người vắng mặt này.
Trước hết về những người tố cáo chị phụ nữ. Ở họ, chúng ta thấy hình ảnh của những người tự hào mình là người công chính, tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa, những người tử tế và trật tự. Họ không để ý đến lỗi của mình, nhưng rất cẩn thận để tìm ra lỗi của người khác. Vì vậy, họ đến gặp Chúa Giêsu: không phải với tấm lòng rộng mở để lắng nghe Người, nhưng “để thử Người và để có bằng cớ tố cáo Người” (câu 6). Đó là một ý định dò xét của những người sùng kính và mộ đạo, những người biết Kinh Thánh, thường xuyên đến đền thờ, nhưng để chiều theo những lợi ích riêng và không đấu tranh chống lại những ý nghĩ xấu đang khuấy động lòng họ. Trong mắt mọi người, họ có vẻ là chuyên gia về Chúa, nhưng họ thực sự không nhận ra Chúa Giêsu, trái lại họ xem Người như một kẻ thù cần phải loại bỏ. Để làm điều này, họ đặt trước mặt Người một con người, như thể đó là một đồ vật, khinh bỉ gọi cô là “người đàn bà này” và công khai tố cáo việc ngoại tình của cô. Họ gây sức ép để người phụ nữ bị ném đá, trút lên cô sự ác cảm của họ đối với lòng thương cảm của Chúa Giêsu. Họ làm tất cả những điều này dưới danh nghĩa sự nổi tiếng là những con người đạo đức.
Anh chị em thân mến, những nhân vật này nói với chúng ta rằng ngay cả trong thực hành tôn giáo của chúng ta, con sâu của thói đạo đức giả và muốn chỉ tay vẫn có thể len lỏi vào. Tại bất kỳ thời điểm nào, trong bất kỳ cộng đoàn nào, luôn luôn có nguy cơ hiểu sai Chúa Giêsu, về việc gọi danh Người trên môi miệng nhưng thực tế lại phủ nhận Người. Và nó cũng có thể được thực hiện bằng cách giương cao các biểu ngữ có hình Thánh giá. Vậy làm thế nào để xác thực chúng ta có phải là môn đệ của trường học của vị Thầy hay không? Từ cái nhìn của chúng ta, từ cách chúng ta nhìn người khác và từ cách chúng ta nhìn vào chính mình. Đây là điểm xác định sự thuộc về của chúng ta.
Từ cách chúng ta nhìn người lân cận của mình: liệu chúng ta có làm như hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, nghĩa là, với một cái nhìn thương xót, hay một cách phán xét, đôi khi thậm chí khinh thường, giống như những người tố cáo trong Tin Mừng, những người đứng lên bênh vực Thiên Chúa nhưng không nhận ra việc chà đạp lên anh em mình. Thực ra, những người tin rằng họ đang bảo vệ đức tin bằng cách chỉ tay vào người khác cũng sẽ có cái nhìn tôn giáo, nhưng họ không theo tinh thần Tin Mừng, bởi vì họ quên lòng thương xót, là trái tim của Thiên Chúa.
Để xác thực xem chúng ta có phải là môn đệ chân chính của vị Thầy hay không, thì cũng cần phải xác minh cách chúng ta nhìn chính mình. Những người tố cáo người phụ nữ tự tin rằng họ không có gì để học. Quả thực dáng vẻ bên ngoài của họ rất hoàn hảo, nhưng lại thiếu đi sự chân thật của trái tim. Họ là chân dung của những người tin Chúa, trong mọi thời đại, làm cho đức tin trở thành một yếu tố trang trọng, ở đó điều nổi bật là vẻ trang nghiêm bên ngoài, nhưng sự nghèo khó bên trong, vốn là kho tàng quý giá nhất của con người, lại thiếu vắng. Thực ra, đối với Chúa Giê-su, điều quan trọng là sự mở lòng của những ai thấy mình chưa hoàn hảo, cần đến ơn cứu độ. Do đó, thật tốt khi chúng ta cầu nguyện và tham dự các buổi cử hành tôn giáo trang trọng, cũng tự hỏi xem mình có tương hợp với Chúa không. Chúng ta có thể hỏi Ngài trực tiếp: “Lạy Chúa Giêsu, con ở đây với Ngài, nhưng Ngài muốn gì ở con? Ngài muốn con sửa chữa điều gì trong trái tim con, trong cuộc sống của con? Ngài muốn con nhìn người khác như thế nào?”. Thật tốt nếu chúng ta cầu nguyện như thế, bởi vì Thầy không hài lòng với vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm sự thật của trái tim. Và khi chúng ta mở lòng đón nhận sự thật, Người có thể làm nên những điều kỳ diệu nơi chúng ta.
Chúng ta nhìn thấy điều đó nơi người phụ nữ ngoại tình. Tình trạng của chị dường như nguy kịch, nhưng với cái nhìn của Người, một chân trời mới không thể nghĩ đến, được mở ra trước hết. Bị bao trùm bởi những lời sỉ nhục, chị sẵn sàng nhận những lời nói cay nghiệt và những hình phạt nghiêm khắc, nhưng rồi chị kinh ngạc khi thấy mình được Chúa tha bổng, mở ra cho chị một tương lai bất ngờ: “Không ai lên án chị sao? – Chúa nói với chị – Tôi cũng không lên án chị; thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (các câu 10.11). Một sự khác biệt giữa vị Thầy và những người tố cáo, những người đã trích dẫn Kinh Thánh để lên án; chính Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, đã hoàn toàn phục hồi người phụ nữ, khôi phục lại hy vọng của chị. Từ câu chuyện này, chúng ta học được rằng mọi đánh giá, nếu không được đánh động bởi lòng bác ái và không chứa đựng lòng bác ái, thì nhấn chìm thêm những ai tiếp nhận nó. Trái lại, Thiên Chúa luôn mở ra một cơ hội và luôn biết tìm cách giải thoát và cứu rỗi.
Cuộc sống của người phụ nữ đó thay đổi nhờ sự tha thứ. Nỗi khốn cùng và lòng thương xót gặp nhau. Người phụ nữ thay đổi. Thậm chí chị có thể đi đến chỗ, được Chúa Giêsu tha thứ, đến lượt mình cũng học cách tha thứ. Có lẽ chị sẽ thấy nơi những người tố cáo không còn là những người cứng nhắc và xấu xa, mà là những người đã cho phép chị gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúa muốn rằng cả chúng ta là các môn đệ, chúng ta là Giáo hội, được Người tha thứ, cũng trở thành chứng tá không mệt mỏi của sự tha thứ, của một Thiên Chúa mà đối với Người, không tồn tại từ “không thể phục hồi”; của một Thiên Chúa luôn tha thứ. Thiên Chúa luôn tha thứ. Còn chúng ta thì nản lòng xin sự tha thứ. Thiên Chúa tiếp tục tin tưởng vào chúng ta và luôn trao cơ hội để bắt đầu lại. Không có tội lỗi hay thất bại nào, được mang đến với Người, mà không trở thành cơ hội để bắt đầu một cuộc sống mới, khác biệt, theo dấu hiệu của lòng thương xót. Không có tội nào không thể đi trên con đường này. Thiên Chúa tha thứ tất cả.
Vị Thiên Chúa này là Chúa Giêsu. Người thực sự biết rõ Chúa Giêsu chính là người cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, là người, giống như người phụ nữ trong Tin Mừng, khám phá ra rằng Thiên Chúa đến thăm chúng ta ngang qua những vết thương nội tâm chúng ta. Chính tại nơi đó, Chúa ưa thích hiện diện, vì Người đến không phải cho những ai khỏe mạnh nhưng cho những người đau ốm (x. Mt 9,12). Và hôm nay, chính người phụ nữ này, người đã kinh nghiệm được lòng thương xót trong nỗi khốn cùng của chị và là người đi vào thế giới được chữa lành nhờ sự tha thứ của Chúa Giêsu, gợi ý cho chúng ta, với tư cách là Giáo hội, trở lại trường học của Tin Mừng, nơi trường học của Chúa của hy vọng, Đấng luôn tạo nên sự ngạc nhiên. Nếu chúng ta noi gương Người, chúng ta sẽ không đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội lỗi, nhưng lên đường với tình yêu để tìm kiếm tội nhân. Chúng ta sẽ không đếm những người có mặt, nhưng chúng ta sẽ tìm kiếm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không lại chỉ tay vào người khác, nhưng sẽ bắt đầu lắng nghe. Chúng ta sẽ không loại bỏ những người bị khinh thường, nhưng sẽ nhìn trước hết đến những người bị coi là cuối cùng. Anh chị em thân mến, đây là điều hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta qua ví dụ này. Chúng ta hãy để mình được Người làm cho ngạc nhiên. Chúng ta chào đón sự mới mẻ của Người với niềm vui.
(Vatican News 03.04.2022)
2022
Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Thánh lễ tại quảng trường Vựa Lúa – Malta
Sau khi cầu nguyện tại Hầm Thánh Phaolô, Đức Thánh Cha di chuyển đến Quảng trường Vựa lúa ở Floriana. Tại quảng trường, đông đảo tín hữu đã hiện diện từ sớm. Đức Thánh Cha di chuyển bằng xe mui trần để chào các tín hữu trước khi cử hành Thánh Lễ. Thánh Lễ diễn ra tại quảng trường Vựa Lúa với khoảng 20 ngàn tín hữu tham dự, cùng với các đại diện các Giáo hội Kitô và các tôn giáo khác.
ĐTC chủ sự Thánh Lễ theo phụng vụ Chúa Nhật V Mùa Chay, với bài đọc Tin Mừng theo thánh Gioan 8,1-11, nói về người phụ nữ ngoại tình bị các kinh sư và người Pharisêu dẫn đến trước Chúa Giêsu.
Trong bài giảng Thánh Lễ, ĐTC nói: Vừa tảng sáng, Chúa Giêsu “trở lại Đền Thờ. Toàn dân đến với Người” (Ga 8,2). Câu chuyện về người phụ nữ ngoại tình bắt đầu như thế. Bối cảnh thật thanh bình: một buổi sáng ở nơi thánh, tại trung tâm của Giêrusalem. Nhân vật chính là dân Thiên Chúa, những người đang ở trong sân của đền thờ để tìm kiếm Chúa Giêsu, vị Thầy dạy: họ muốn lắng nghe Người, bởi vì những gì Người nói đều soi sáng và sưởi ấm. Lời dạy của Người không trừu tượng, nó chạm đến và giải phóng cuộc sống, biến đổi và canh tân nó. Đây là “khứu giác” của dân Thiên Chúa, những người không hài lòng với ngôi đền làm bằng đá, nhưng tập họp xung quanh con người của Chúa Giêsu. Ở trang này, chúng ta nhìn thấy đoàn tín hữu của mọi thời đại, dân thánh của Thiên Chúa, mà ở Malta này rất đông đảo và sống động, trung thành trong việc tìm kiếm Chúa, gắn bó với một đức tin cụ thể, sống động.
Trước đoàn dân đến với mình, Chúa Giêsu không vội vàng: “Người ngồi xuống – theo lời Tin Mừng – và bắt đầu giảng dạy họ” (câu 2). Nhưng có những chỗ trống trong trường học của Chúa Giêsu. Có một số người vắng mặt: họ là chị phụ nữ và những người tố cáo chị. Họ không đến với Thầy như những người khác, và lý do vắng mặt của họ cũng khác: các kinh sư và người Pha-ri-sêu nghĩ rằng họ đã biết mọi sự, rằng họ không cần sự dạy dỗ của Chúa Giêsu; đàng khác, người phụ nữ là một người lạc lối, lạc lối tìm kiếm hạnh phúc bằng những con đường sai lầm. Do đó, các lý do của sự vắng mặt thì khác nhau, và kết quả của câu chuyện của họ cũng khác nhau. Chúng ta hãy tập trung vào những người vắng mặt này.
Những người tự hào cho mình là người công chính
Trước hết về những người tố cáo chị phụ nữ. Ở họ, chúng ta thấy hình ảnh của những người tự hào mình là người công chính, tuân giữ luật pháp của Thiên Chúa, những người tử tế và trật tự. Họ không để ý đến lỗi của mình, nhưng rất cẩn thận để tìm ra lỗi của người khác. Vì vậy, họ đến gặp Chúa Giêsu: không phải với tấm lòng rộng mở để lắng nghe Người, nhưng “để thử Người và để có bằng cớ tố cáo Người” (câu 6). Đó là một ý định dò xét của những người sùng kính và mộ đạo, những người biết Kinh Thánh, thường xuyên đến đền thờ, nhưng để chiều theo những lợi ích riêng và không đấu tranh chống lại những ý nghĩ xấu đang khuấy động lòng họ. Trong mắt mọi người, họ có vẻ là chuyên gia về Chúa, nhưng họ thực sự không nhận ra Chúa Giêsu, trái lại họ xem Người như một kẻ thù cần phải loại bỏ. Để làm điều này, họ đặt trước mặt Người một con người, như thể đó là một đồ vật, khinh bỉ gọi cô là “người đàn bà này” và công khai tố cáo việc ngoại tình của cô. Họ gây sức ép để người phụ nữ bị ném đá, trút lên cô sự ác cảm của họ đối với lòng thương cảm của Chúa Giêsu. Họ làm tất cả những điều này dưới danh nghĩa sự nổi tiếng là những con người đạo đức.
Anh chị em thân mến, những nhân vật này nói với chúng ta rằng ngay cả trong thực hành tôn giáo của chúng ta, con sâu của thói đạo đức giả và muốn chỉ tay vẫn có thể len lỏi vào. Tại bất kỳ thời điểm nào, trong bất kỳ cộng đoàn nào, luôn luôn có nguy cơ hiểu sai Chúa Giêsu, về việc gọi danh Người trên môi miệng nhưng thực tế lại phủ nhận Người. Và nó cũng có thể được thực hiện bằng cách giương cao các biểu ngữ có hình Thánh giá. Vậy làm thế nào để xác thực chúng ta có phải là môn đệ của trường học của vị Thầy hay không? Từ cái nhìn của chúng ta, từ cách chúng ta nhìn người khác và từ cách chúng ta nhìn vào chính mình.
Từ cách chúng ta nhìn người lân cận của mình: liệu chúng ta có làm như hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta thấy, nghĩa là, với một cái nhìn thương xót, hay một cách phán xét, đôi khi thậm chí khinh thường, giống như những người tố cáo trong Tin Mừng, những người đứng lên bênh vực Thiên Chúa nhưng không nhận ra việc chà đạp lên anh em mình. Thực ra, những người tin rằng họ đang bảo vệ đức tin bằng cách chỉ tay vào người khác cũng sẽ có cái nhìn tôn giáo, nhưng họ không theo tinh thần Tin Mừng, bởi vì họ quên lòng thương xót, là trái tim của Thiên Chúa.
Môn đệ thực sự của Chúa
Để xác thực xem chúng ta có phải là môn đệ chân chính của vị Thầy hay không, thì cũng cần phải xác minh cách chúng ta nhìn chính mình. Những người tố cáo người phụ nữ tự tin rằng họ không có gì để học. Quả thực dáng vẻ bên ngoài của họ rất hoàn hảo, nhưng lại thiếu đi sự chân thật của trái tim. Họ là chân dung của những người tin Chúa, trong mọi thời đại, làm cho đức tin trở thành một yếu tố trang trọng, ở đó điều nổi bật là vẻ trang nghiêm bên ngoài, nhưng sự nghèo khó bên trong, vốn là kho tàng quý giá nhất của con người, lại thiếu vắng. Thực ra, đối với Chúa Giê-su, điều quan trọng là sự mở lòng của những ai thấy mình chưa hoàn hảo, cần đến ơn cứu độ. Do đó, thật tốt khi chúng ta cầu nguyện và tham dự các buổi cử hành tôn giáo trang trọng, cũng tự hỏi xem mình có tương hợp với Chúa không. Chúng ta có thể hỏi Ngài trực tiếp: “Lạy Chúa Giêsu, con ở đây với Ngài, nhưng Ngài muốn gì ở con? Ngài muốn con sửa chữa điều gì trong trái tim con, trong cuộc sống của con? Ngài muốn con nhìn người khác như thế nào?”. Thật tốt nếu chúng ta cầu nguyện như thế, bởi vì Thầy không hài lòng với vẻ bề ngoài, nhưng tìm kiếm sự thật của trái tim. Và khi chúng ta mở lòng đón nhận sự thật, Người có thể làm nên những điều kỳ diệu nơi chúng ta.
Người phụ nữ được Chúa cứu
Chúng ta nhìn thấy điều đó nơi người phụ nữ ngoại tình. Tình trạng của chị dường như nguy kịch, nhưng với cái nhìn của Người, một chân trời mới không thể nghĩ đến, được mở ra. Bị bao trùm bởi những lời sỉ nhục, chị sẵn sàng nhận những lời nói cay nghiệt và những hình phạt nghiêm khắc, nhưng rồi chị kinh ngạc khi thấy mình được Chúa tha bổng, mở ra cho chị một tương lai bất ngờ: “Không ai lên án chị sao? – Chúa nói với chị – Tôi cũng không lên án chị; thôi chị cứ về đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (các câu 10.11). Một sự khác biệt giữa vị Thầy và những người tố cáo, những người đã trích dẫn Kinh Thánh để lên án; chính Chúa Giêsu, Lời của Thiên Chúa, đã hoàn toàn phục hồi người phụ nữ, khôi phục lại hy vọng của chị. Từ câu chuyện này, chúng ta học được rằng mọi đánh giá, nếu không được đánh động bởi lòng bác ái và không chứa đựng lòng bác ái, thì nhấn chìm thêm những ai tiếp nhận nó. Trái lại, Thiên Chúa luôn mở ra một cơ hội và luôn biết tìm cách giải thoát và cứu rỗi.
Cuộc sống của người phụ nữ đó thay đổi nhờ sự tha thứ. Thậm chí chị có thể đi đến chỗ, được Chúa Giêsu tha thứ, đến lượt mình cũng học cách tha thứ. Có lẽ chị sẽ thấy nơi những người tố cáo không còn là những người cứng nhắc và xấu xa, mà là những người đã cho phép chị gặp gỡ Chúa Giêsu. Chúa muốn rằng cả chúng ta là các môn đệ, chúng ta là Giáo hội, được Người tha thứ, cũng trở thành chứng tá không mệt mỏi của sự tha thứ, của một Thiên Chúa mà đối với Người, không tồn tại từ “không thể phục hồi”; của một Thiên Chúa luôn tha thứ, tiếp tục tin tưởng vào chúng ta và luôn trao cơ hội để bắt đầu lại. Không có tội lỗi hay thất bại nào, được mang đến với Người, mà không trở thành cơ hội để bắt đầu một cuộc sống mới, khác biệt, theo dấu hiệu của lòng thương xót.
Vị Thiên Chúa này là Chúa Giêsu. Người thực sự biết rõ Chúa Giêsu chính là người cảm nghiệm được ơn tha thứ của Chúa, là người, giống như người phụ nữ trong Tin Mừng, khám phá ra rằng Thiên Chúa đến thăm chúng ta ngang qua những vết thương nội tâm chúng ta. Chính tại nơi đó, Chúa ưa thích hiện diện, vì Người đến không phải cho những ai khỏe mạnh nhưng cho những người đau ốm (x. Mt 9,12). Và hôm nay, chính người phụ nữ này, người đã kinh nghiệm được lòng thương xót trong nỗi khốn cùng của chị và là người đi vào thế giới được chữa lành nhờ sự tha thứ của Chúa Giêsu, gợi ý cho chúng ta, với tư cách là Giáo hội, trở lại trường học của Tin Mừng, nơi trường học của Chúa của hy vọng, Đấng luôn tạo nên sự ngạc nhiên. Nếu chúng ta noi gương Người, chúng ta sẽ không đặt trọng tâm vào việc tố cáo tội lỗi, nhưng lên đường với tình yêu để tìm kiếm tội nhân. Chúng ta sẽ không đếm những người có mặt, nhưng chúng ta sẽ tìm kiếm những người vắng mặt. Chúng ta sẽ không lại chỉ tay vào người khác, nhưng sẽ bắt đầu lắng nghe. Chúng ta sẽ không loại bỏ những người bị khinh thường, nhưng sẽ nhìn trước hết đến những người bị coi là cuối cùng. Đây là điều mà hôm nay Chúa Giêsu dạy chúng ta qua ví dụ này. Chúng ta hãy để mình được Người làm cho ngạc nhiên. Chúng ta chào đón sự mới mẻ của Người với niềm vui.
—
Lời chào trước khi đọc Kinh Truyền Tin
Cuối Thánh Lễ, trước khi đọc Kinh Truyền Tin, ĐTC cảm ơn đất nước Malta, đặc biệt là Đức TGM Scicluna (sic-lu-na), Tổng thống, giới chức chính quyền và những người làm việc để chuẩn bị cho chuyến viếng thăm này. Ngài cũng chào thăm các tín hữu thuộc các Giáo hội Kitô khác cũng như các tôn giáo khác.
Đức Thánh Cha nói rằng ngài thấy được cảm thức về Dân Thiên Chúa tại Malta này. Ngài khuyến khích các tín hữu tiếp tục tiến bước như thế, đặc biệt trong việc hăng say phục vụ Thiên Chúa và người khác.
Cuối cùng, Đức Thánh Cha hướng đến những người trẻ và nói rằng: “Cha muốn chia sẻ với các con điều đẹp nhất của cuộc sống. Đó là niềm vui trải mình trong tình yêu, điều này làm chúng ta tự do. Mà niềm vui này có một cái tên: Giêsu.” Đức Thánh Cha chúc các bạn trẻ có được một tình yêu với Chúa Giêsu, Thiên Chúa của lòng thương xót, Đấng tin tưởng họ, ước mơ với họ, yêu thích cuộc sống của họ và không bao giờ làm họ thất vọng.
Đức Thánh Cha mời gọi mọi người hướng về Mẹ Maria để cầu xin Mẹ gìn giữ mọi người, đặc biệt là người dân Ucraina.
Văn Yên, SJ
2022
Tông du Malta: ĐTC gặp những người di dân ở Malta
Tông du Malta: ĐTC gặp những người di dân ở Malta
Gặp gỡ với khoảng 200 người di cư tại Trung tâm Thực nghiệm Hòa bình Giovanni XXIII ở Hal Far, Đức Thánh Cha mời gọi đừng nhìn họ như những con số. Lắng nghe hai chứng từ, Đức Thánh Cha nhớ đến hàng ngàn người chạy trốn khỏi Ucraina vì một cuộc chiến tranh phi nghĩa và man rợ. Sau đó, ngài cầu nguyện trước Đức Mẹ với một gia đình tị nạn và cho những người chết trong vụ đắm tàu gần đây ngoài khơi bờ biển Libya.
Sự kiện cuối cùng trong chuyến viếng thăm hai ngày của Đức Thánh Cha tại Malta là cuộc gặp gỡ người di dân tại trung tâm “Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII” vào chiều Chúa Nhật 3/4/2022.
Trung tâm “Thực nghiệm Hoà bình Gioan XXIII”
Trung tâm được cha Dionysus Mintoff, dòng Phanxicô, thành lập năm 1971. Nơi này có thể đón tiếp khoảng 50 người di dân, trong đó đông nhất là những người đến từ Somalia, Eritrea và Sudan. Trung tâm cung cấp cho người di dân công việc và giáo dục họ trong lĩnh vực nhân quyền và công bằng, cũng như sự trợ giúp y tế. Trung tâm đón nhận những người xin tị nạn và cổ võ liên đới và các giá trị Kitô giáo nói chung. Tại đây người tị nạn có thể liên lạc với gia đình nhờ điểm Thông tin và quán cà phê internet.
Khi đến trung tâm Đức Thánh Cha được Giám đốc Mục vụ Di dân và Giám đốc Trung tâm dành cho người Di dân đón tiếp. Sau đó ngài đi đến nhà hát ngoài trời, nơi có khoảng 200 người di dân hiện diện tham dự cuộc gặp gỡ với ngài.
Chứng từ của Daniel
Cuộc gặp gỡ bắt đầu với chứng từ của Daniel và Siriman. Daniel, sống tại Malta từ 4 năm nay, thuật lại hành trình từ Nigeria đến Libya, rồi những lần trả tiền vượt biên vào Ý bất thành, phải đến Tunisia, rồi trở lại Libya, và từ đó cuối cùng anh đã đến được Malta, nhưng ngay tức khắc bị giam 6 tháng. Nhiều đêm anh đã hỏi Chúa “Tại sao?”. Đôi khi anh mong mình đã chết. Anh tự hỏi có phải hành trình của anh là sự sai lầm. Tại sao những người di dân bị đối xử như tội phạm và không phải như anh em?
Chứng từ của Siriman
Còn Siriman, ở Malta được 5 năm, khẳng định rằng không có người di dân nào rời quê hương của họ vì không yêu đất nước mình. Nhưng hành trình của họ bắt đầu với hy vọng tìm được nơi bình an. Chạy trốn chiến tranh bạo lực, vi phạm nhân quyền, người di dân quyết tâm sống cuộc sống tốt hơn và có nhiều can đảm để đối mặt với những thử thách. Họ tìm tự do và dân chủ. Nhưng không may, có những người bị bóc lột, trở thành nạn nhân của bóc lột và lạm dụng và không được đối xử xứng với nhân phẩm. Anh nói: “Hôm nay, chúng tôi muốn nhắc mọi người đưa ra quyết định và những người nắm quyền lực rằng các quyền và phẩm giá của con người là phổ quát và gắn liền với con người, chúng được thừa nhận và tôn trọng, chứ không được trao ban.” Anh cũng đề cập đến những người không được chấp nhận tị nạn nhưng cũng không thể trở về quê hương, không biết đi đâu và không có quyền lợi gì. “Họ không chỉ là những câu chuyện và con số, nhưng họ là chúng ta, những con người bằng xương bằng thịt, những khuôn mặt với giấc mơ bị tan vỡ.”
Diễn văn của Đức Thánh Cha
Ngỏ lời với những người di dân, Đức Thánh Cha lặp lại những điều ngài đã nói vài tháng trước ở Lesvos: “Tôi ở đây… để đảm bảo với anh chị em sự gần gũi của tôi… Tôi ở đây để nhìn gương mặt và nhìn vào mắt anh chị em” (Diễn văn tại Mytilene, 5/12/2021). Từ ngày đến thăm Lampedusa, tôi không quên anh chị em. Anh chị em luôn ở trong tim tôi và trong lời cầu nguyện của tôi.”
Malta: “bến cảng an toàn” thực sự cho người di dân
Nhắc lại ý nghĩa của logo của chuyến viếng thăm Malta, thuật lại cách người dân Malta chào đón tông đồ Phaolô và những người bạn đồng hành của ngài bị đắm tàu gần đó với “lòng nhân hậu hiếm có” (Cv 28,2), Đức Thánh Cha hy vọng rằng đó là cách Malta sẽ luôn đối xử với những người cập bến ở bờ biển của nó, mang đến cho họ một “bến cảng an toàn” thực sự.
Nạn đắm tàu của nền văn minh
Từ nạn đắm tàu của hàng ngàn người ở Địa Trung Hải trong những năm gần đây Đức Thánh Cha nói đến một loại đắm tàu khác đang diễn ra: sự đắm tàu của nền văn minh. Làm thế nào chúng ta có thể tự cứu mình khỏi vụ đắm tàu có nguy cơ đánh chìm con tàu của nền văn minh của chúng ta?
Đức Thánh Cha trả lời: “Bằng cách hành xử với lòng nhân đạo. Bằng cách xem con người không chỉ đơn thuần là những con số thống kê, nhưng như chính họ thực sự là, những khuôn mặt, những câu chuyện, đơn giản là những người đàn ông những phụ nữ, các anh chị em. Bằng cách tưởng tượng rằng những người mà chúng ta nhìn thấy trên những chiếc thuyền đông đúc hoặc trôi dạt trên biển, trên ti vi hoặc trên báo chí, có thể là bất kỳ ai trong chúng ta, hoặc con trai hoặc con gái của chúng ta … ”
Ngài nói thêm: Có lẽ chính lúc này, khi chúng ta đang ở đây, có những chiếc thuyền đang vượt biển, từ phương nam hướng về phía bắc … Chúng ta hãy cầu nguyện cho những anh chị em của chúng ta, những người liều mạng sống giữa biển khơi để tìm kiếm hy vọng. Anh chị em cũng đã trải qua thử thách này và đã đến đây.”
Đức Thánh Cha cũng nghĩ đến hàng ngàn hàng vạn người tị nạn Ucraina vì chiến tranh, đến rất nhiều người ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ, những người đã phải rời bỏ nhà cửa và đất đai của mình để tìm kiếm sự an toàn.
Bi kịch bị tách rời nguồn cội của chính mình
Tiếp đến Đức Thánh Cha nói đến một kinh nghiệm đau khổ của người di dân, đó là bị tách rời nguồn cội của chính mình, bị nhổ rễ, khi họ rời bỏ quê hương. Đó là một trải nghiệm ma theo Đức Thánh Cha, để lại dấu ấn của nó. “Không chỉ là nỗi đau và cảm xúc của khoảnh khắc đó, mà là một vết thương sâu đậm ảnh hưởng đến hành trình trưởng thành của anh chị em như là một người trẻ tuổi.”
Kinh nghiệm về lòng tốt
Để chữa lành nó, chúng ta cần có thời gian và trên hết cần kinh nghiệm về lòng tốt của con người: “gặp gỡ những người chấp nhận anh chị em và có thể lắng nghe, thấu hiểu và đồng hành cùng anh chị em. Nhưng cả kinh nghiệm sống bên cạnh những người bạn đồng hành khác, chia sẻ mọi thứ với họ và cùng nhau mang gánh nặng…”
Đức Thánh Cha đánh giá cao những trung tâm tiếp nhận là những nơi được đánh dấu bằng lòng tốt của con người! Ngài nhận định: “Chúng ta biết điều đó có thể khó khăn như thế nào, vì luôn có những thứ tạo ra căng thẳng và khó khăn. Tuy nhiên, trên mọi lục địa, có những cá nhân và cộng đồng chấp nhận thách đố, nhận ra rằng di cư là một dấu hiệu của thời đại, nơi có liên hệ với nền văn minh. Đối với các Kitô hữu chúng ta nó cũng có liên hệ với lòng trung thành với Tin Mừng của Chúa Giêsu, Đấng đã nói: ‘Tôi là khách lạ và anh em đã đón tiếp tôi’ (Mt 25,35).” Đức Thánh Cha nói rằng “Điều này không được thực hiện trong một ngày! Cần có thời gian, sự kiên nhẫn vô cùng và trên hết là cần tình yêu thương được tạo nên từ sự gần gũi, dịu dàng và lòng trắc ẩn, giống như tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta.”
Đến lượt mình, người di dân sẽ chào đón người khác
Một ước mơ của Đức Thánh Cha dành cho anh chị em di dân, đó là sau khi được chào đón giàu với lòng nhân ái và tình huynh đệ, đến lượt họ trở thành những chứng nhân và tác nhân của sự chào đón và tình huynh đệ. Ngài nói: “Tôi tin rằng việc những người di cư trở thành chứng nhân của những giá trị nhân văn cần thiết cho một cuộc sống có phẩm giá và huynh đệ là điều rất quan trọng trong thế giới ngày nay. Đó là những giá trị mà anh chị em gìn giữ trong tim, những giá trị là một phần cội nguồn của anh chị em. Một khi nỗi đau bị nhổ rễ đã nguôi ngoai, anh chị em có thể phát huy sự phong phú nội tâm, gia sản quý giá này của nhân loại, và chia sẻ nó với các cộng đồng sẽ chào đón anh chị em và những môi trường mà anh chị em sẽ là thành phần. Đây là con đường! Con đường của tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội. Đây là tương lai của gia đình nhân loại trong một thế giới toàn cầu hóa.”
Bằng lòng tốt và lòng nhân đạo
Chúng ta có thể và phải bắt đầu lại từ con người và phẩm giá của họ. Đức Thánh Cha lưu ý: “Chúng ta đừng để bị lừa dối bởi tất cả những người nói với chúng ta rằng ‘không thể làm gì được’; ‘những vấn đề này là quá sức chúng ta’; ‘hãy để người khác tự bảo vệ mình trong khi tôi lo công việc của tôi’. Không. Chúng ta đừng bao giờ rơi vào cái bẫy này.” Ngài mời gọi: “Chúng ta hãy đáp lại thách đố của người di cư và người tị nạn bằng lòng tốt và lòng nhân đạo. Chúng ta hãy thắp lên ngọn lửa tình huynh đệ xung quanh để mọi người có thể sưởi ấm, trỗi dậy và khám phá lại hy vọng. Chúng ta hãy củng cố kết cấu của tình bạn xã hội và nền văn hóa gặp gỡ, bắt đầu từ những nơi như thế này. Chúng có thể không hoàn hảo, nhưng chúng thực sự là “những phòng thí nghiệm của hòa bình”.
Thông điệp Hoà bình dưới thế của Đức Gioan XXIII
Đức Thánh Cha nhắc lại lời thánh Gioan XXIII trong thông điệp nổi tiếng về hòa bình: “Xin [Chúa] loại khỏi linh hồn của những người nam nữ bất cứ điều gì có thể gây nguy hiểm cho hòa bình. Xin Người biến đổi tất cả chúng ta thành những chứng nhân của sự thật, công lý và tình yêu thương huynh đệ. Xin Người dùng ánh sáng của Người soi sáng tâm trí của những nhà lãnh đạo, để ngoài việc quan tâm đến phúc lợi vật chất của các dân tộc của họ, họ cũng có thể bảo đảm cho các dân tộc món quà hòa bình công bằng nhất. Cuối cùng, xin Chúa Kitô khơi dậy ước muốn của tất cả mọi người nam nữ vượt qua những rào cản ngăn cách họ, củng cố mối dây yêu thương lẫn nhau, học cách hiểu nhau và tha thứ cho những ai đã làm sai. Nhờ quyền năng và sự soi dẫn của Người, xin cho tất cả các dân tộc coi nhau như anh chị em, và xin cho nền hòa bình mà họ luôn mong đợi nảy nở và ngự trị giữa họ” (Pacem in Terris, 171).
Ngọn lửa đức tin
Cuối cùng Đức Thánh Cha giải thích việc ngài cùng một số anh chị em đốt những ngọn nến trước ảnh Đức Mẹ: “Trong truyền thống Kitô giáo, ngọn lửa nhỏ đó là biểu tượng cho đức tin của chúng ta vào Thiên Chúa. Nó cũng là biểu tượng của niềm hy vọng, niềm hy vọng mà Đức Maria, Mẹ của chúng ta, luôn giữ cho sống động ngay cả trong những thời khắc khó khăn nhất. Đó là niềm hy vọng mà tôi đã nhìn thấy trong mắt anh chị em ngày hôm nay: niềm hy vọng đã làm cho cuộc hành trình của anh chị em trở nên ý nghĩa và niềm hy vọng khiến anh chị em luôn nỗ lực tiến tới. Xin Đức Mẹ giúp anh chị em đừng bao giờ đánh mất niềm hy vọng này! Tôi phó thác cho Mẹ mỗi người trong anh chị em và gia đình của anh chị em. Tôi sẽ mang theo anh chị em trong những lời cầu nguyện của tôi. Và tôi xin anh chị em đừng quên cầu nguyện cho tôi. Cảm ơn anh chị em!”
Kinh nguyện
Và cuộc gặp gỡ kết thúc với kinh nguyện chung.
Lạy Thiên Chúa, Đấng Tạo dựng vũ trụ,
nguồn mạch của tất cả tự do và hòa bình,
tình yêu và tình huynh đệ,
Cha đã tạo dựng chúng con theo hình ảnh Cha,
thổi vào chúng con hơi thở sự sống của Cha
để làm cho chúng con trở thành những người chia sẻ với cuộc sống hiệp thông của Cha.
Ngay cả khi chúng con không giữ giao ước của Cha,
Cha đã không bỏ rơi chúng con cho quyền lực của sự chết,
nhưng vẫn tiếp tục, với lòng thương xót vô biên,
gọi chúng con trở về với Cha,
và sống như con cái Cha.
Xin tuôn đổ Thánh Thần Cha trên chúng con
và ban cho chúng con một trái tim mới,
nhạy cảm với những tiếng kêu xin, thường thầm lặng,
của những anh chị em của chúng con, những người đã mất đi
sự ấm áp của ngôi nhà và quê hương của họ.
Xin giúp chúng con có thể trao tặng cho họ hy vọng
bằng sự chào đón và cử chỉ nhân đạo của chúng con.
Xin biến chúng con thành công cụ của hòa bình
và tình yêu huynh đệ thiết thực.
Xin giải thoát chúng con khỏi sợ hãi và thành kiến;
xin giúp chúng con có thể chia sẻ những đau khổ của họ
và cùng nhau chống lại sự bất công,
vì sự phát triển của một thế giới trong đó mỗi người
được tôn trọng với phẩm giá bất khả xâm phạm của mình,
phẩm giá mà chính Ngài, lạy Cha, đã ban cho chúng con
và Con của Cha đã thánh hiến mãi mãi. Amen.
Hồng Thủy