2022
Linh mục Roman Krat: “Sự tàn ác của người Nga là chưa từng thấy”
Linh mục Roman Krat: “Sự tàn ác của người Nga là chưa từng thấy”
Câu chuyện của linh mục Ukraine Roman Krat về việc quân Nga chiếm Kherson: “Sự tàn ác của người Nga là chưa từng thấy”
Cha Roman Krat, 40 tuổi, đã sống ở thành phố bị rơi vào tay quân xâm lược xác nhận người dân ở đây là nạn nhân của nạn đói, cướp bóc và bắt bớ.
Một ngôi trường bị phá hủy ở Zelenyi Hai, giữa Kherson và Mykolaiv. (Ảnh của BULENT KILIC / AFP) BULENT KILIC – AFP
Odessa – Hôm qua, nhân vật số hai của chính phủ do Mátxcơva bổ nhiệm ở Kherson – thành phố lớn duy nhất của Ukraine bị Vladimir Putin chiếm đóng trong hai tháng rưỡi chiến tranh-, đã tuyên bố họ sẽ xin sáp nhập vào Liên bang Nga vì “Kherson là nước Nga”, nhưng ở Odessa người dân họ không nghĩ như vậy.
“Lời xin sát nhập là hoàn toàn tuyên truyền”, linh mục Krat nói với báo La Nación, linh mục sống cả đời ở Kherson và có liên lạc với hai linh mục công giáo khác vẫn ở lại vùng này, cách đó khoảng 200 cây số về phía đông của Odessa.
Cha Roman Krat, Giáo hội công giáo Odessa – Elisabetta Piqué
Cha giải thích: “Trong những ngày đầu chiếm đóng, khi vẫn còn một số dấu hiệu của dân chủ và tự do, khi binh lính Nga chưa được lệnh đàn áp các cuộc biểu tình, đã có những biểu hiệu rõ rệt về những gì người dân Kherson muốn. Mặc dù không có vũ khí, nhưng với lòng dũng cảm cao độ, người dân đã lao ra để hét vào mặt người Nga: “Cút đi!”
Cha nói tiếp: “Người Nga muốn tổ chức một cuộc trưng cầu dân ý để thành lập một nước ‘Cộng hòa Nhân dân Kherson’ nhưng gặp nhiều phản đối nên họ loại bỏ ý tưởng này.”
Người công giáo là dân tộc thiểu số ở Ukraine, một nước cộng hòa thuộc Liên xô trước đây là chính thống giáo kitô. Ở Odessa có hai nhà thờ công giáo và ba nhà nguyện, có 2.500 tín hữu công giáo; và ở Kherson, một thành phố từng có khoảng 400.000 cư dân, nay chỉ còn ít hơn một nửa.
Trong số hàng ngàn người đã tìm cách trốn khỏi Kherson có mẹ của linh mục Krat. Cha cho biết: “Ngày chiến tranh bắt đầu, tôi lái xe đi tìm bà và bây giờ mẹ tôi đang tị nạn ở Wolfsburg, Đức. Tôi được tin căn nhà của mẹ tôi vẫn còn nguyên vẹn, trong khi nhiều nhà khác đã bị lính Nga cướp phá và phá hoại một cách dã man. Cho đến hai tuần trước người dân vẫn có thể rời thành phố nhưng bây giờ thì họ gặp nhiều khó khăn, hiện thành phố đã bị phong tỏa.”
Đối với cha Krat, tuyên truyền của Nga là hoàn toàn sai sự thật, rằng hơn một nửa người dân của Kherson là thân Nga: “Nếu nó là sự thật thì đã có những người tham gia biểu tình ủng hộ người Nga. Nhưng hầu như không bao giờ có ai đi, người Nga phải đưa người từ các vùng khác đến bằng xe buýt như người ở vùng Crimea. Và chắc chắn tuyên bố sát nhập là tuyên truyền, ở Kherson không ai muốn sát nhập.” Linh mục đặt câu hỏi: “Vậy thì với luật quốc tế nào việc sáp nhập có thể được biện minh?”.
Linh mục lặp lại: “Nước Nga có một trí nhớ rất ngắn vì lúc đầu họ nói họ không muốn chiếm các vùng lãnh thổ mới, họ nói họ không phủ nhận nền độc lập của Ukraine. Và bây giờ đã hai tháng trôi qua, lời nói này đã hoàn toàn thay đổi. Trên thực tế, họ không nói chính người Nga muốn thôn tính Kherson, họ nói chính phủ Kherson đã quyết định, rằng đó không phải là một chính phủ hợp pháp, không đại diện cho bất kỳ ai. Đó là lý do vì sao việc thôn tính này hoàn toàn là tuyên truyền”.
Cách đây vài ngày, người dân khu vực Kherson, những người tị nạn ở Mykolaiv, đã tố cáo các hành động tàn bạo với báo La Nación, linh mục Krat cũng nói về một cuộc đàn áp dã man đối với các nhà hoạt động Ukraine, những người từ chối người Nga. Ngài cáo buộc: “Không phải tất cả những người bị bắt trong các cuộc biểu tình bị trấn áp bằng hơi cay và bạo lực đều được trở về nhà. Sự tàn ác của người Nga là chưa từng có và có hơn 500 người bị giam giữ và thẩm vấn, những người mất tích và có lẽ là tù nhân trong tầng hầm của cung điện thành phố.”
Một vòng hoa trên đường phố khi các binh sĩ của Quân đội Nga đứng gần xe tải của họ trong cuộc biểu tình chống lại sự chiếm đóng của Nga ở Kherson.
Thêm nữa, những người lính Nga chiếm thành phố trong những ngày đầu tiên tháng 3 bị đói. Cha cho biết: “Họ cướp phá mọi thứ có trong các cửa hàng và siêu thị làm cho người dân không có thức ăn và bắt đầu bị đói. Họ cũng cướp máy ATM, vì vậy người dân không còn tiền để mua ngoài chợ, thẻ tín dụng không còn hoạt động và điều đáng kinh ngạc nhất là, vài tuần sau, người Nga bắt đầu phân phát viện trợ nhân đạo từ các sản phẩm của Ukraine.”
“Nhưng sự thật là người Nga đã ngừng viện trợ nhân đạo bởi vì không ai ở Kherson nhận viện trợ đó. Tôi đã xem một đoạn video với các tình nguyện viên trẻ của chúng tôi, họ rất dũng cảm đề nghị mọi người giúp đỡ, thay vì để người Nga giúp… Họ nói với tôi, có những người Nga quay phim những người lính Nga tốt bụng đã giúp đỡ người dân Kherson như thế nào, và dĩ nhiên người dân Kherson chưa bao giờ xuất hiện để cộng tác với tuyên truyền của Nga.”
Tìm giải thoát
Trong hai tháng, các lực lượng quân sự của Nga từ Kherson đã cố gắng tiến về Mykolaiv, một thành phố quan trọng để sau đó chiếm Odessa. Nhưng ở đó các lực lượng Ukraine không chỉ kháng cự mà còn cố gắng tiến về Kherson để giải phóng, trong một trận chiến tiêu hao đã gieo rắc sự tàn phá và chết chóc cho các thị trấn còn lại ở giữa.
Dù tình trạng có vẻ trì trệ này, Cha Krat vẫn lạc quan: “Tôi không nghi ngờ gì, rõ ràng binh lính chúng tôi đang chuẩn bị một cuộc tấn công lớn để chiếm lại Kherson. Theo chỗ tôi biết, Kherson sẽ được giải phóng vào cuối tháng 5, đầu tháng 6. Ukraine không muốn giải phóng Kherson bằng vũ lực, mà muốn bao vây thành phố để binh lính Nga phải đầu hàng, điều này sẽ khả thi nhờ có thêm các loại vũ khí mới và tốt hơn từ nước ngoài.”
Một binh sĩ Ukraine đứng trước trường học bị trúng tên lửa của Nga ở làng Zelenyi Hai, miền nam Ukraine, giữa Kherson và Mykolaiv. BULENT KILIC – AFP
Linh mục cho biết: “Khi bắt đầu cuộc chiến, không ai ở phương Tây muốn cung cấp vũ khí cho chúng tôi vì họ nghĩ người Nga sẽ chinh phục đất nước chúng tôi trong hai ngày, họ sợ người Nga sẽ giữ tất cả vũ khí… Và họ đã sai, họ đã không tính toán, rằng tuyên truyền Nga nói lính của họ sẽ nhận hoa ở Ukraine, chuyện này hoàn toàn khác thực tế. Bây giờ phương Tây tin tưởng chúng tôi, mọi thứ đã thay đổi, tinh thần chúng tôi lên cao và người Nga sẽ không đến được Odesa và chúng tôi sẽ chiếm lại Kherson và Mariupol.”
Và đó không phải là tất cả. Ngoài những cái chết, sự tàn phá và hàng trăm ngàn người tị nạn, theo cha Krat, cuộc chiến của Putin có hai tác động tích cực. Tác động tích cực đầu tiên là người lính Nga đến Kherson thấy những lời tuyên truyền cho rằng chúng tôi sống nghèo khổ dưới chế độ đức quốc xã, chúng tôi đang chết đói, là không đúng sự thật. Họ thấy chúng tôi có mức sống cao hơn nhiều so với người Nga. Nhiều đến mức có những người lính phát hiện ra ở Kherson chúng tôi có Internet. Thậm chí có người lính còn leo lên cột ăng-ten, anh muốn lấy Internet để đem về nhà. Họ đến để giải thoát chúng tôi khỏi cái gì? Khỏi dân chủ và hạnh phúc ư?”
Tác động tích cực thứ nhì là cuộc chiến bất ngờ này ở trung tâm châu Âu đã làm thế giới đảo lộn, “người dân Ukraine đoàn kết hơn bao giờ và Ukraine-hóa Ukraine”. Mặc dù gần như tất cả chúng tôi đều nói được hai tiếng Nga và tiếng Ukraine nhưng hiện nay nhiều người, đặc biệt là người trẻ tuổi không muốn nói tiếng Nga nữa.
Cha Krat nói tiếng Ý giỏi vì đã sống ở Rôma bảy năm, cha không thấy giải pháp ngoại giao nào trong ngắn hạn: “Kết thúc thực sự nhất cho xung đột đã thành vũng lầy này với Nga, là một cái gì giống như một Afghanistan mới, hoặc là thay đổi chế độ ở Mátxcơva, hoặc bằng cách nào đó Putin phải bị loại bỏ, như một số câu nói vẫn hay nói – cuối cùng tôi không biết… Tôi không thấy lối thoát nào khác.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2022
Những Người Mẹ Ẩn sĩ Ai Cập: Sarra, Theodora và Sincletica
Những Người Mẹ Ẩn sĩ Ai Cập: Sarra, Theodora và Sincletica
Trong thời kỳ đầu của đời sống ẩn sĩ, có ba người phụ nữ đặc biệt đã để lại cho chúng ta một di sản thiêng liêng: Sincletica, Sarra và Teodora. Tình mẫu tử thiêng liêng của họ không chỉ dành cho phụ nữ, trinh nữ, mà còn dành cho cả các đan sĩ, các linh mục và thậm chí cả các giám mục, cũng như các tín hữu giáo dân.
“Một người được cứu như thế nào?”
Đây là câu hỏi mà nhiều người đặt ra với những người Cha (Abba) và người Mẹ (Amma) thiêng liêng trong sa mạc của Ai Cập cổ đại để chỉ cho họ “những gì phải làm” cách cụ thể trong “đời sống thực tế”, để đạt được sự cứu rỗi. Con đường nào phải theo, bài tập nào phải hoàn thành, nhân đức nào phải tập, làm thế nào để chiến thắng sự tấn công của ma quỷ và những cám dỗ của nó: trong thực hành, cần sống như thế nào, ở đây và bây giờ, để có được sự sống đời đời.
Những lời khuyến khích và chỉ dạy mà những người Cha và người Mẹ ẩn sĩ Ai Cập cổ đại đã đưa ra để giúp các môn sinh – tu sĩ và giáo dân – đã được thu thập và viết ra trong nhiều loạt sách Cách ngôn của các Giáo phụ, trong đó quan trọng nhất là sách Bảng chữ cái, được tác giả sưu tầm và sắp xếp theo thứ tự bảng chữ cái tên của họ; trong khi sách được gọi là Hệ thống được sắp xếp theo các chủ đề, chẳng hạn như: khiêm nhường, vâng lời, bác ái, không phán xét.
Trong bộ Bảng chữ cái, 133 người Cha và 3 người Mẹ đã được liệt kê. Đó là những người Mẹ Sarra, Theodora và Sincletica. Mặc dù những con số những người Mẹ rất ít so với số người Cha, tuy nhiên, không phải là ít quan trọng hơn. Những câu nói của họ là một bằng chứng quan trọng về danh tiếng của họ, về lời dạy và vai trò của họ.
Nhưng những người Mẹ này là ai, những người đã biến việc bước theo Đấng Phục sinh thành mục đích duy nhất của cuộc đời họ?
Họ là những phụ nữ từ thời trẻ, trong nhà riêng và trong sự cô tịch của một ngôi mộ, như Sincletica, hoặc trong những nơi ở đơn độc, như Sarra, hoặc trong tu viện, như Teodora, đã dâng hiến cuộc sống của họ trong đời ẩn sĩ, để thực hiện một hành trình khổ hạnh nghiêm túc và khó khăn, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Đấng đã đưa họ đến chóp đỉnh của nhân đức. Hành trình thiêng liêng này cũng cho họ đặc sủng hướng dẫn thiêng liêng, nghĩa là khả năng biết hướng dẫn những người đến xin họ những lời chỉ dẫn đến sự cứu rỗi, ngang qua sự phân định những Lời được soi sáng.
Luôn sẵn sàng khuyên nhủ, khích lệ, an ủi, đồng hành với sự nghiêm khắc và dịu dàng, trong khi bao bọc những người con nam nữ bằng lời cầu nguyện của họ, để một khi đã vượt qua được mọi cạm bẫy của ma quỷ, họ sẽ được Thần Khí làm cho sống động và biến đổi.
Tình mẫu tử thiêng liêng của họ không chỉ dành cho phụ nữ, trinh nữ hay đã kết hôn, mà còn dành cho cả các đan sĩ, các linh mục và thậm chí cả các giám mục, cũng như các tín hữu giáo dân. Thực tế, việc hướng dẫn thiêng liêng không liên quan đến yếu tố giới tính, nhưng đến hành trình được thực hiện trong Thánh Thần, để trở thành ‘người nữ của Thiên Chúa’, và những người mang Thần Khí, cho phép họ có khả năng “neo thân tàu vào bến cứu độ, gắn đời mình vào đức tin nơi Thiên Chúa như một cái neo chắc chắn ” (Cuộc đời của Sincletica 19). Do đó, những người Mẹ này là một điểm tham chiếu cho toàn thể cộng đoàn đan sĩ và giáo hội.
Nhiều lời dạy khác nhau của những người Mẹ Sarra, Theodora và Sincletica được bảo tồn, phác thảo một con đường thiêng liêng, đơn giản nhưng chắc chắn.
Chẳng hạn, Mẹ Sarra chú ý đặc biệt đến tương quan một cách chân thực và mang tính xây dựng với các tu huynh, ngang qua sự tự do và trong sạch của tâm hồn, không bị chi phối bởi ước muốn được chào đón và nhận xét tốt:
“Nếu tôi cầu xin Chúa để tất cả mọi người đều hoàn toàn hài lòng với tôi, thì tôi sẽ đến sám hối trước cửa mỗi người. Tôi thà cầu nguyện cho lòng tôi được trong sạch với mọi người” (Sarra 5).
Ngược lại, Mẹ Theodora kiên quyết chịu đựng đau khổ và mọi nghịch cảnh để “giành lấy và chuộc lại thời gian” của cuộc đời (Teodora 1). Thật vậy, những đau khổ và cám dỗ có thể làm cho chúng ta trưởng thành và tiến bộ, dẫn chúng ta đến sự sống vĩnh cửu:
“Cũng như đối với cây cối: nếu không trải qua mùa đông và mưa, thì chúng không thể kết trái. Vì vậy, đối với chúng ta cũng vậy, thế kỷ hiện tại là mùa đông. Chỉ có trải qua nhiều đau khổ và cám dỗ, chúng ta mới có thể trở thành người thừa kế nước trời” (Theodora 2).
Sau cùng, Mẹ Sincletica thì đào sâu chủ đề về ơn gọi phổ quát, bởi vì đó là hoa trái của sự dấn thân cá nhân và của đức tin vào Thiên Chúa, Đấng hoạt động trong chúng ta. Khi ngỏ lời với những người đã được thánh hiến cho Thiên Chúa, Mẹ cảnh giác họ rằng:
Dường như chúng ta đang đi về phía bình yên trên biển, trong khi những người của thế gian đang gặp nguy hiểm. Chúng ta di chuyển ban ngày được hướng dẫn bởi mặt trời của công lý; và ngược lại, những người của đêm tối bị dẫn dắt bởi sự vô minh. Nhưng thường xảy ra là những người của thế gian, thấy mình trong đêm giông bão, kêu gào và cảnh giác, họ có thể cứu được con thuyền, trong khi chúng ta, do lơ là, đã chết đuối trong biển “bình lặng vì đã buông bánh lái của sự công chính” (Sincletica 26)
Những nhân cách, những người Mẹ này, trong một thời gian dài, không được biết đến và quý chuộng bởi những nhà nghiên cứu, cả về học thuật lẫn thần học, và ngày nay phải được tái khám phá để nâng cao vai trò của phụ nữ trong lịch sử Giáo hội.
Maria Luciana Tartaglia o.s.b.
Đại học Giáo hoàng San Anselmo
Văn Cương, SJ
2022
Một linh mục Mexicô bị giết trong cộng đồng vùng biên giới
Một linh mục Mexicô bị giết trong cộng đồng vùng biên giới
Mexico. Một linh mục Công giáo, người hướng dẫn nơi trú ẩn cho người di cư, đã bị giết ở bang Baja California, biên giới Mexico. Điều này càng cho thấy Mexicô là một quốc gia sát hại các giáo sĩ.
Cha José Guadalupe Rivas Saldaña và một người khác chưa xác định danh tính được tìm thấy đã chết vào ngày 17 tháng 5 tại thành phố Tecate, phía đông Tijuana, sau khi được thông báo mất tích vào ngày 15 tháng 5, theo truyền thông địa phương. Có dấu hiệu cho thấy Cha Rivas và nạn nhân kia bị thương ở đầu.
Tổng giáo phận Tijuana đã xác nhận các trường hợp tử vong vào ngày 18/5.
Cha Rivas đã từng là chính xứ giáo xứ Thánh Giuđa Tađêô ở Tecate và là giám đốc nơi trú ẩn dành cho người di cư kể từ tháng 6 năm 2021 và đã tham gia vào phong trào canh tân đặc sủng Công giáo.
Các cộng đồng Công giáo làm việc với những người di cư đã kêu gọi một cuộc điều tra thoả đáng về vụ sát hại Cha Rivas và cảnh báo về tình trạng mất an ninh tràn lan, khiến cả người di cư và những người bảo vệ họ có nguy cơ bị bạo lực.
“Chúng tôi biết rằng những nhà bảo vệ nhân quyền của người di cư và người tị nạn đang phải đối mặt với nhiều nghịch cảnh và bạo lực, vì vậy điều cần thiết lúc này, nhà nước phải đảm bảo an toàn cho những người đang thực thi công việc này”, tổ chức của Dòng Scalabrini dành cho người di cư và người tị nạn cho biết trong một tuyên bố ngày 19 tháng 5.
Cái chết của Cha Rivas xảy ra khi cuộc di cư qua Mexico được dự đoán diễn ra vào ngày 23 tháng 5 khi dỡ bỏ Đề mục 42, một chính sách biên giới cho phép các cơ quan biên giới nhanh chóng trục xuất những người nhập cư bất hợp pháp tại biên giới phía nam Hoa Kỳ trở về Mexicô vì lý do sức khỏe cộng đồng giữa đại dịch COVID-19.
Các linh mục ở Mexico đã phải chịu bạo lực ở Mexicô cùng với người dân. Theo Trung tâm Truyền thông Công giáo ở Mexico City, ít nhất 5 linh mục người Mexicô đã bị giết hại kể từ tháng 12/2018.
Văn Cương, SJ
2022
Hội nghị học thuật được thiết lập để nghiên cứu lịch sử Giáo triều Roma
Hội nghị học thuật được thiết lập để nghiên cứu lịch sử Giáo triều Roma
Roma. Một hội nghị học thuật diễn ra tại Roma từ ngày 26-28/5 để nghiên cứu lịch sử của Giáo triều Roma, với mục đích cung cấp “một cái nhìn tổng quan về lịch sử rộng lớn nhằm giúp đi vào một lịch sử sống động của bộ máy quản trị trong Giáo hội Công giáo.
Hội nghị Giáo triều Roma, được tổ chức tại Viện Giáo phụ Augustinô từ ngày 26 đến ngày 28 tháng 5, với sự tham gia của các học giả từ khắp nơi trên thế giới và sẽ tập trung vào “Các phác thảo và bối cảnh lịch sử của Giáo triều Rôma”.
Đặc tính toàn cầu của Giáo hội
Tiến sĩ Donald Prudlo, người giữ chức Chủ tịch Warren về Nghiên cứu Công giáo tại Đại học Tulsa, là một trong những người tổ chức hội nghị, nói với Vatican News: “Giáo triều Roma là cơ quan hành chính lâu đời nhất còn tồn tại trên thế giới. Từ xưa và ngày nay cũng rất quan trọng, Giáo triều Roma là cơ quan hành chính đầu tiên của một thể chế toàn cầu thực sự.”
Trong bối cảnh ĐTC Phanxicô đang cải tổ Giáo triều – và đặc biệt là với việc ban hành Tông hiến Praedicate evangelium, có hiệu lực vào ngày hội nghị kết thúc, Tiến sĩ Prudlo nói rằng điều đó đặc biệt hữu ích “để suy ngẫm về lịch sử lâu dài và nhiều trường hợp cải cách trong lịch sử của Giáo triều, là một cơ quan lâu đời, có ảnh hưởng và đôi khi bị hiểu lầm.”
Trở lại nguồn gốc của Giáo triều
Tiến sĩ Prudlo nhấn mạnh rằng Giáo triều Roma tồn tại vì sự phục vụ của Giáo hội, “càng khôi phục lại những gốc rễ của nó và sứ mạng ban đầu của các văn phòng Giáo triều, thì càng giúp ích hơn cho những người có trách nhiệm cải cách Giáo triều ngày nay và để giúp họ có thể hiểu, phục vụ sứ mạng một cách tốt hơn.”
Hội nghị sẽ bao gồm các bài thuyết trình về nguồn gốc của Triều đại Giáo hoàng, sự phát triển của các viện giáo dục trong thời kỳ Trung cổ và hậu Công đồng Trentô, và tài chính của Giáo hoàng trong Thời kỳ Đầu Hiện đại, cùng những nội dung khác.
Tiến sĩ Prudlo, người sẽ trình bày một bài diễn văn về Giáo triều Roma và các trật tự mới trong thế kỷ 13, cũng sẽ trình bày bản dịch mới bằng tiếng Anh cuốn sách của tác giả Bartholomew of the Martyrs, OP, về lời khuyên cho các giám mục sau Công đồng Trentô trong sách có tựa đề Stimulus Pastorum. Đây là một tác phẩm có ảnh hưởng đặc biệt vào thời đó, Stimulus Pastorum đã giúp hướng dẫn phát triển nhiệm vụ giám mục trong thời kỳ hậu Công đồng Trentô.
Hội nghị mở cửa miễn phí và công khai, và cần đăng ký trước tại https://storiadellacuria.org. Các tài liệu sẽ được cung cấp bằng tiếng Anh và tiếng Ý, và sẽ có phiên dịch tại chỗ trong hội nghị.
Văn Cương, SJ