2022
Lễ phong chân phước cho chị Pauline Jaricot
Lễ phong chân phước cho chị Pauline Jaricot
Lúc 3 giờ chiều, Chúa nhật 22 tháng Năm vừa qua, Đức Hồng y Luis Antonio Tagle, Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng cho các dân tộc, đã đại diện Đức Thánh cha Phanxicô, chủ sự thánh lễ tôn phong Nữ Tôi tớ Chúa giáo dân Pauline Jaricot lên bậc chân phước.
Pauline sinh tại Lyon năm 1799 trong một gia đình khá giả, cha là một nhà công nghệ tơ sợi. Năm 23 tuổi, tức là ngày 05 tháng Năm năm 1822, chị thành lập Hội Truyền bá Đức tin, để giúp đỡ các xứ truyền giáo. 100 năm sau đó, Hội trở thành Hội Giáo hoàng Truyền bá Đức tin và ngày nay hiện diện tại 140 quốc gia trên thế giới.
Tham dự thánh lễ, dài hai giờ rưỡi đồng hồ, tại Hội trường Triển Lãm Chassieu, có 12.000 tín hữu, trong đó có 120 vị Giám đốc toàn quốc từ các nước tựu về Lyon tham dự đại hội thường niên trong những ngày qua và tham dự thánh lễ đặc biệt này. Trong số các tín hữu hiện diện, cũng có gia đình ông Emmanuel Trần, thân phụ của bé Mayline. Năm 2012, bé được ba tuổi, lâm vào tình trạng hôn mê không thể hồi lại vì bị hóc và ngộp thở, nhưng được cứu sống một cách lạ lùng nhờ các tín hữu thuộc Hội Mân côi sống làm tuần chín ngày cầu xin chị Pauline Jaricot cứu giúp. Hội này cũng do chị thành lập. Cuộc khỏi bệnh này được Bộ Phong thánh nhìn nhận là phép lạ nhờ lời chuyển cầu của vị Tôi tớ Chúa Pauline.
Đồng tế với Đức Hồng y Tagle, có nhiều hồng y, giám mục và hàng trăm linh mục.
Cũng nên nhắc lại, trong buổi đọc kinh Lạy Nữ Vương Thiên đàng trước đó, trưa Chúa nhật 22 tháng Năm, tại Quảng trường thánh Phêrô, với khoảng 15.000 tín hữu hành hương, Đức Thánh cha Phanxicô cũng chào mừng lễ phong chân phước chị Pauline Jaricot. Đức Thánh cha nói: “Nữ giáo dân này, sống vào tiền bán thế kỷ XIX, là một phụ nữ can đảm, quan tâm đến những thay đổi của thời đại với cái nhìn bao quát về sứ mạng của Giáo hội. Ước gì tấm gương của chị khơi lên nơi mọi người ước muốn tham gia, bằng kinh nguyện và việc bác ái, vào việc phổ biến Tin mừng trên thế giới.”
(Leprogres.fr 22-5-2022)
- Trần Đức Anh, O.P
2022
Nữ tu Shalini Mulackal dấn thân cho người Dalit ở Ấn Độ
Nữ tu Shalini Mulackal dấn thân cho người Dalit ở Ấn Độ
Sơ Shalini Mulackal là nữ chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội Thần học Ấn Độ. Sơ đã viết nhiều bài báo tập trung vào việc trao quyền cho phụ nữ trong Giáo hội và trong xã hội, và rất quan tâm đến các vấn đề xã hội có ảnh hưởng đến người nghèo nói chung và phụ nữ nói riêng.
Phụ nữ chủ tịch đầu tiên của các thần học gia
Sơ Shalini là thành viên của Hội Thần học Ấn Độ và được chọn làm nữ chủ tịch đầu tiên của Hiệp hội nhiệm kỳ 2014-2017. Mặc dù trước đó đã có nhiều nữ tu đã hoàn thành các nghiên cứu như sơ nhưng đa số không tham gia vào các hoạt động công khai. Vì thế trong lĩnh vực nữ quyền của đất nước, số phụ nữ tham gia rất ít. Rất ít nữ giáo dân được đào tạo trong lĩnh vực thần học.
Nữ quyền
Theo sơ, một nhà nữ quyền là người nhận thức được tình trạng bị áp bức mà phụ nữ đang phải trải qua và là người làm một điều gì đó để thay đổi tình trạng này. Chính khi nghiên cứu thần học mà sơ nhận ra rằng phụ nữ Ấn Độ chỉ ở vị trí thứ yếu trong xã hội, cùng với những đối xử tàn bạo đối với phụ nữ và trẻ nữ. Xã hội và Giáo hội Ấn coi vấn đề phụ nữ phải phục tùng nam giới là “bình thường”. Qua việc giảng dạy và các bài viết, sơ tiếp tục nâng cao nhận thức, đặc biệt đối với những người đang theo học để trở thành linh mục và nữ tu.
Nghiên cứu về người Công giáo Dalit
Hiện nay, sơ là chủ tịch Trung tâm nghiên cứu Dalit ở New Delhi do tiến sĩ James Massey thiết lập. Dân số người Dalit khoảng 200 triệu, là những người không có đẳng cấp trong xã hội. Họ bị phân biệt đối xử ở mọi cấp độ. Cách đây vài năm có một sinh viên đã tự sát và đã để lại một lá thư trong đó nói rằng anh đến trần gian này là một định mệnh. Sai lầm duy nhất của anh là đã sinh ra làm người Dalit. Đã có một thời gian nhiều người Dalit chuyển sang Kitô giáo vì họ tin rằng Kitô giáo không tin vào chế độ đẳng cấp và mọi người được tôn trọng như nhau. Nhưng theo sơ, thực tế ở Ấn Độ vẫn còn những Kitô hữu vẫn chưa hoàn toàn giải thoát mình khỏi não trạng đẳng cấp, và như thế ở một số nơi người Dalit cảm thấy mình thuộc về hạng hai.
Trung tâm Nghiên cứu Dalit dưới sự điều hành của tiến sĩ James Massey đã thực hiện dự án chú giải tất cả các sách Kinh thánh, một bộ sách gồm hai mươi tập đã được hoàn thành. Sơ đã đóng góp hai tập. Chú giải Kinh thánh Dalit là cuốn đầu tiên thuộc loại này ở Ấn Độ. Mục đích là để đọc Kinh thánh từ quan điểm của thực tế Dalit và tìm cách trao quyền cho họ. Vì vậy, trong khi viết chú giải về ba cuốn sách Rut, Ester và Giuđitha, sơ tập trung vào phụ nữ Dalit và hoàn cảnh của họ. Sơ nhấn mạnh vào hành động của những người phụ nữ Dalit, như ba người phụ nữ trong Kinh thánh, những người đã chủ động cứu dân tộc của họ.
Với sinh viên trong khu ổ chuột
Trường Cao đẳng Thần học Divya Jyoti, nơi sơ đã giảng dạy từ năm 1999, nhấn mạnh vào thần học bối cảnh. Khóa học đầu tiên dành cho sinh viên năm thứ nhất được gọi là “Thần học nhập môn và phân tích văn hóa xã hội”. Ngay từ đầu, sơ đã phụ trách môn này. Trong nội bộ, trường cung cấp cho sinh viên các chương trình liên hệ trực tiếp tại Delhi.
Sơ cho biết về dự án này như sau: Cho đến nay, chúng tôi không sống trong khu ổ chuột, nhưng tôi đã đưa học sinh đến các khu ổ chuột ở Delhi, đặc biệt những người kiếm sống ở bãi rác. Chúng tôi leo lên một cấu trúc hình ngọn đồi, thực ra là một đống rác. Khi chúng tôi lên đến đỉnh, điều ấn tượng nhất là nhìn thấy động vật và con người đang vật lộn và chiến đấu để giành lấy bất cứ thứ gì có thể lấy được khi rác thải mới được đổ ra từ các xe tải. Đó là một cảnh tượng khủng khiếp. Mùi hôi bốc lên từ chất thải thật không thể chịu nổi. Tuy nhiên, chúng tôi thấy nhiều người và cả trẻ em ở lại nơi đó cả ngày để kiếm sống. Chúng tôi cũng đến thăm một số ngôi nhà của họ nằm dưới chân ngọn đồi đó.
Không có từ ngữ nào để diễn tả sự khốn cùng mà họ đang sống. Buổi trải nghiệm để lại cho học sinh nhiều ấn tượng sâu sắc về nỗi khổ của người nghèo ở Ấn Độ. Và điều này trở thành điểm quy chiếu cho suy tư thần học của chúng tôi. Tôi cũng đưa họ đến Jantar Mantar, một nơi ở Delhi, nơi mọi người có thể đến và phản đối những sai trái khác nhau mà họ phải gánh chịu. Sinh viên tương tác với những người này. Họ có thể ở đó hàng tuần và hàng tháng để đòi hỏi quyền lợi chính đáng của họ từ chính phủ.
Gia đình và ơn gọi
Sơ Shalini Mulackal là con thứ ba trong số 10 anh chị em của một gia đình Công giáo nghi lễ Syro-Malabar ở Kerala, Ấn Độ. Tất cả lớn lên trong một gia đình đầm ấm, cùng với ông bà.
Kể về gia đình, sơ nói: “Ông tôi là một người đạo hạnh, mỗi tối ông hướng dẫn gia đình cầu nguyện, thường xuyên tham dự Thánh lễ, và nếu ngày nào không thể đi được ông cầu nguyện nhiều hơn. Tôi nhớ khi còn nhỏ, vào sáng sớm tôi thường nghe ông bà cầu nguyện với kinh Mân Côi.”
Mẹ tôi có một đức tin sâu sắc vào Chúa và một lòng sùng kính Đức Mẹ đặc biệt. Bà đã cố gắng để tất cả con cái được lớn lên trong đức tin này. Mùa Vọng và Mùa Chay, bà khuyến khích chúng tôi đi tham dự Thánh lễ mỗi ngày, và ăn chay vào ngày thứ Tư và thứ Bảy. Bà khắc ghi trong lòng chúng tôi các giá trị, đặc biệt sự thật và lòng trung thực. Chính từ nền giáo dục này đã cho tôi sự dịu dàng và lòng trắc ẩn đối với những người nghèo và đau khổ. Năm 15 tuổi, mục tiêu của tôi là trở thành bác sĩ để phục vụ những người cần giúp đỡ và nghèo khổ. Lúc đó tôi không muốn lập gia đình và có một gia đình riêng. Nhưng tôi cũng không muốn vào tu viện trở thành nữ tu.
Nhưng rồi Chúa đã có dự tính của Người trên cuộc đời tôi. Người đã chọn tôi để trong đời sống dâng hiến, tôi có nhiều cơ hội hơn phục vụ người nghèo. Khi tìm hiểu đặc sủng Dòng Đức Mẹ Dâng Mình tôi nhận ra đây là ơn gọi của tôi.
Ngọc Yến
2022
Để giúp con cái trong độ tuổi thanh thiếu niên
Cerith Gardiner
Ai trong chúng ta cũng cảm thấy rằng, những tiến bộ về khoa học kỹ thuật số hiện nay kéo theo nhiều thay đổi về môi trường sống, nét văn hoá và ảnh hưởng rất nhiều đến việc hình thành tính cách của người trẻ. Tuy nhiên, trong việc nuôi dạy con cái, vẫn có những yếu tố, hay nói cách khác, có những nguyên tắc cơ bản mà bậc cha mẹ cần ghi nhớ để có thể giúp con cái thích nghi và trưởng thành trong xã hội hiện đại.
milicad | Shutterstock
Sau đây là một vài điểm cụ thể và hữu hiệu có thể hỗ trợ cha mẹ trong việc giáo dục con cái ở độ tuổi thanh thiếu niên:
- Cha mẹ là cha mẹ – chứ không phải bạnđồngtrang lứa
Ngày nay, nhiều người thích nhấn mạnh đến việc cha mẹ cần gần gũi và thân thiết với con cái giống như là những người bạn. Do đó mối tương quan giữa cha mẹ với con cái trở thành mối tương quan bạn bè ngày càng trở nên phổ biến hơn. Tuy nhiên, điều này không hoàn toàn đúng. Thật ra, vấn đề quan trọng là phải xây dựng một mối tương quan trong đó cha mẹ yêu thương, thấu hiểu, tôn trọng và gần gũi với con cái, nhưng trẻ em cũng cần phải nhìn nhận ranh giới cần phải có: Cha mẹ là cha mẹ – chứ cha mẹ không phải bạn đồng trang lứa. Khi có ranh giới rõ ràng như thế, việc trẻ kính trọng cha mẹ và việc cha mẹ dạy dỗ, hướng dẫn con cái sẽ dễ dàng và hiệu quả hơn.
Shutterstock | Dejan Dundjerski
- Trẻ cần làm việc để có đượcnhững gì chúng muốn
Một điều rất rõ là, sống trong một xã hội tiêu thụ, trẻ dễ dàng bị cuốn hút để đòi mua thứ này thứ khác mà chúng thật sự không cần tới. Nên việc cha mẹ dễ dàng chiều theo ý trẻ, và luôn mua cho chúng, dù chỉ là một món quà nhỏ mỗi khi đi chợ, là điều không thực sự cần thiết, thậm chí còn phản tác dụng.
Điều quan trọng là trẻ phải được giúp để biết chuyển hóa ý muốn đòi được đáp ứng ngay lập tức thành sự kiên nhẫn. Ví dụ, nếu trẻ muốn có một chiếc xe đạp mới thì chúng cần được chỉ cho biết là phải tiết kiệm những khoản tiền tiêu vặt, hoặc đôi khi là tiền được thưởng mỗi khi chúng làm việc nhà, khi chúng đạt kết quả tốt ở trường… Một khi trẻ bắt đầu nhận ra phần thưởng của công sức, nỗ lực mà mình đạt được thì trẻ sẽ ý thức hơn về việc mua món đồ chúng muốn, đồng thời cũng có được cảm giác thực sự về thành tích và sự hoàn thành chúng đạt được.
- Biết cách chuyểnsựmong đợi của trẻ sang lòng biết ơn
Chúng ta cần giúp cho trẻ hiểu rằng sự mong đợi của chúng phải thực tế. Mặc dù, trẻ có thể mong đợi có được điểm cao nếu chúng học tập chăm chỉ. Nhưng điều quan trọng là phải phát triển lòng biết ơn ngay từ rất sớm. Mỗi khi chúng nhận được bất kỳ thứ gì đó từ cha mẹ, dù chỉ là cây kem khi đi chơi, thì đó không phải là điều đương nhiên, nên nếu có nhận được một cây kem, chúng sẽ phải cảm thấy biết ơn.
YAKOBCHUK VIACHESLAV | Shutterstock
Trong thực tế, điều này lại không dễ thực hiện, bởi vì không ít bậc cha mẹ thường bị rơi vào cái bẫy của sự nhẹ dạ cả tin đó là cho con cái thứ chúng muốn chỉ để mình có một chút yên ả và tĩnh lặng. Đúng ra, vào những lúc như thế, chúng ta cần mạnh mẽ hơn, kiên quyết hơn để không lùi bước trước những mong muốn và sự vòi vĩnh của trẻ. Làm được như vậy, chắc chắn không phải chỉ chúng ta mà ngay cả con cái chúng ta sẽ đạt được những mục đích lớn và tốt đẹp hơn.
- Cách cư xử của trẻ
Một điều cũng rất dễ thấy là, nhiều người thường than phiền về sự thiếu tác phong của trẻ em ngày nay. Dù thế, cũng chẳng thể phủ nhận là vẫn có rất nhiều thanh thiếu niên thật tuyệt vời, và vẫn những người trẻ có cách cư xử hoàn hảo, luôn sẵn sàng, nhiệt tâm để giúp đỡ người khác.
Mặc dù chúng ta không còn đòi hỏi trẻ phải bỏ mũ, cúi đầu, khoanh tay khi chào người khác, nhất là với người lớn hơn… nhưng chúng ta vẫn cần khuyến khích con cái nhường bước, nhường ghế cho người cần đến, ví dụ như người lớn tuổi, người khuyết tật, phụ nữ mang thai chẳng hạn. Cách cư xử nhã nhặn cần phải được bắt đầu ngay ở trong gia đình, vì vậy hãy làm gương bằng cách nói cảm ơn khi trẻ giúp chúng ta điều gì đó, và cũng cần nói một cách lịch sự khi đưa ra yêu cầu, hoặc sai bảo trẻ.
- Trẻ được phép mắc lỗi
Nói chung, nhờ có internet, với sự truy cập thông tin phong phú, nhiều thứ trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn bao giờ hết, nhưng không phải vì thế mà trẻ tránh được những sai phạm. Vì vậy, nếu con cái mắc lỗi, chúng ta hãy dành thời gian để nói cho chúng biết về những sai lỗi ấy. Chúng đã học được gì từ sai lầm? Làm thế nào để tránh tái phạm? Hãy cho phép trẻ có quan điểm riêng để rút kinh nghiệm, và từ đó, sẽ tự tin và cẩn trọng hơn.
fizkes | Shutterstock
- Trẻcần có được cảm giác an toàn
Gia đình phải là nơi trú ẩn an toàn và bình yên. Hơn bất cứ điều gì, cảm giác an toàn xuất phát từ việc trẻ biết mình được tôn trọng; biết mình có thể mắc sai lầm; biết mình có thể chia sẻ những thành công, thất bại; biết mình luôn được nâng đỡ, và yêu thương vô điều kiện. Những cảm thức này không chỉ giúp hình thành những đức tính tốt mà còn giúp trẻ vươn rất xa.
- Trẻcần có những gương sáng về đức tin
Trong một môi trường sống, với nhiều hoàn cảnh khác nhau, cảm thức về tôn giáo nhiều khi bị mờ nhạt, nên đôi khi rất khó để người trẻ dám tuyên xưng đức tin và sống niềm tin của mình cách công khai. Chúng ta cần khích lệ trẻ nhận ra rằng, trong Giáo hội vẫn luôn có hàng ngàn, hàng vạn những con người, ở mọi độ tuổi, mọi hoàn cảnh đã sống một cuộc đời rất nhân bản, tốt lành, thánh thiện. Và thực, Giáo hội có rất nhiều vị thánh rất tuyệt vời, trở thành những mẫu mực cho trẻ trong việc sống đức tin, đức hạnh và ý nghĩa ngay trong cuộc sống đời thường.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: aleteia.org (03. 5. 2022)
2022
Niềm vui Kitô giáo và nỗi buồn con người
Tác giả: SE Greydanus
“Anh em hãy vui luôn trong niềm vui của Chúa. Tôi nhắc lại: vui lên anh em!” (Philíp 4: 4). Điều này và những lời khuyên dạy khác trong Kinh thánh đã hình thành truyền thống Kitô giáo với sự hiểu biết rằng niềm vui là một phần trong cuộc sống của chúng ta. Theo truyền thống, niềm vui được tính trong số các hoa quả của Chúa Thánh Thần: “Các hoa trái của Thánh Thần là những điều thiện hảo Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu. Truyền thống Hội Thánh kể ra mười hai hoa trái của Thánh Thần “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết (Galát 5,22-23)” (GLGHCG 1832). Các tác giả tâm linh thường nhận xét về tầm quan trọng của nó, bao gồm cả Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI, là người đã gọi nó là “một đặc điểm phân biệt cơ bản của các Kitô hữu”.[1] Thật vậy, vì chính Chúa Giêsu Kitô đã cầu nguyện “để họ được hưởng trọn vẹn niềm vui của con” (Gioan 17:13), chúng ta có thể suy ra rằng niềm vui là một phần trong những gì Chúa Giêsu Kitô muốn ban cho chúng ta.
Nhưng niềm vui này có ý nghĩa gì trong thực tế? Nó như thế nào, và nó liên quan như thế nào đến những lúc đau khổ? Không còn nghi ngờ gì nữa, một số bài giảng về niềm vui của Kitô hữu được rao giảng với mục đích tốt lành, có thể tạo ấn tượng rằng nếu chúng ta cầu nguyện, có đức tin và nói chung là giữ thái độ đúng mực đối với Thiên Chúa, chúng ta sẽ luôn thanh thản, vui vẻ và lan tỏa hạnh phúc của mình cho thế giới. Một bài thánh ca đáng yêu khác lạ, “Có một độ rộng mở trong Lòng Thương Xót của Thiên Chúa”, lập luận theo những dòng này:
Nếu tình yêu của chúng ta đơn sơ hơn, chỉ vậy thôi,
Chúng ta nên nghe theo lời của Ngài,
Và cuộc sống của chúng ta sẽ chỉ toàn là ánh nắng mặt trời
Trong sự ngọt ngào của Chúa chúng ta.
Nếu chúng ta không cảm nhận ngay được bằng trực giác rằng điều này đang nhấn mạnh quá nhiều vào tính cách con người, chúng ta rất có thể sẽ tìm thấy được bằng kinh nghiệm. Ngay cả những người có tính cách lạc quan nhất cũng có lúc cảm thấy buồn, và không phải ai cũng có tính cách lạc quan. Ý tưởng rằng cuộc sống của một Kitô hữu phải “hoàn toàn là ánh nắng mặt trời” cũng có thể dẫn đến việc đối xử vô cảm với những người đau khổ; Sẽ thật nhẫn tâm khi nói với ai đó đang tràn ngập đau buồn, lo lắng, bệnh tật, v.v. rằng chỉ cần họ cầu nguyện và có niềm tin, là mọi thứ sẽ ổn.
Hơn nữa, chúng ta có lý do từ các sách Tin mừng để nghĩ rằng Chúa của chúng ta không đòi hỏi sự thư thái vô tư lự liên tục từ chúng ta. Ngài ban phúc cho những ai than khóc và hứa an ủi họ: “Phúc thay ai sầu khổ, vì họ sẽ được Thiên Chúa ủi an” (Mátthêu 5: 5), nhưng không bảo họ vui lên. Ngài cũng cho thấy những nỗi đau của phận người trong cõi lòng Ngài, rơi lệ trước mộ bạn Ngài: “Chúa Giêsu liền khóc” (Gioan 11:35) và đổ mồ hôi máu trước Cuộc Khổ Nạn của Ngài: “Ngài lâm cơn xao xuyến bồi hồi, nên càng khẩn thiết cầu xin. Và mồ hôi Ngài như những giọt máu rơi xuống đất” (Luca 22:44). Nếu Chúa Giêsu khóc và run rẩy trong những lúc đau khổ, thì những người theo Ngài khó có thể bị khiển trách vì đã không mỉm cười vào những lúc đau khổ như vậy.
Vậy, niềm vui là một phần của đời sống Kitô hữu có ý nghĩa gì? Mặc dù tôi không phải là nhà thần học luân lý, nhưng một số suy nghĩ trong Kinh thánh và các nguồn khác đã làm sáng tỏ cho tôi về chủ đề này, và tôi hy vọng chúng cũng có thể làm được điều tương tự đối với những chủ đề khác.
Tôi nghĩ điều đầu tiên cần hiểu là Chúa không đòi hỏi cảm xúc từ chúng ta. Đôi khi chúng ta có thể khuyến khích hoặc ngăn cản những cảm xúc đó, nhưng chúng ta không thể giữ được lâu bất kỳ cảm xúc nào. Vì vậy, nếu chúng ta có thể quyết tâm làm một điều gì đó hoặc khuyến khích người khác làm điều đó, thì điều cần phải có không phải là có một cảm xúc, mà còn hơn thế nữa. Như CS Lewis nhận xét, “Một lời hứa cần phải là những điều tôi có thể làm, liên quan đến hành động: không ai hứa mình sẽ tiếp tục cảm xúc theo một cách nào đó. Nếu vậy, thì người ấy chả tội gì lại không hứa sẽ không bao giờ bị đau đầu hoặc không phải lúc nào cũng cảm thấy đói.”[2]
Bối cảnh của nhận xét của Lewis là một cuộc thảo luận về tình yêu mà các cặp đôi hứa hẹn với nhau, và thực sự tình yêu vợ chồng có thể là một sự tương đồng tốt đẹp. Chúng ta nói về một người chồng và người vợ có một “cuộc hôn nhân hạnh phúc”, nhưng chúng ta biết điều này không có nghĩa là họ luôn sống trong tình trạng say mê lãng mạn liên tục. Điều đó có nghĩa là mối quan hệ của họ (nói chung) là lành mạnh và tốt lành, rằng họ sống sự trao ban cho nhau trong những thói quen nhỏ nhặt hàng ngày của họ. Đó là “một sự thống nhất sâu sắc, được duy trì bởi ý chí và được củng cố một cách có chủ ý bởi thói quen; được củng cố bởi ân sủng (trong các cuộc hôn nhân Kitô giáo) mà cả hai bên cầu xin và nhận được từ Thiên Chúa.”[3] Họ không cần phải có hoặc không ngừng có một cuộc hôn nhân hạnh phúc ngay cả khi họ cảm thấy bực bội với cuộc sống hoặc với nhau.
Niềm vui của Kitô hữu có thể được so sánh với cuộc hôn nhân hạnh phúc này. Đó không phải là trạng thái xuất thần hay phấn khích, mặc dù nó có thể dẫn đến những khoảnh khắc như vậy, và đó cũng là những ân huệ từ Thiên Chúa. Chắc chắn sự thánh thiện không bảo đảm cho cảm giác vui vẻ hay yên tĩnh. Người ta có thể dễ dàng tìm thấy những ví dụ về các vị thánh có tính khí không quá sáng ngời – Augustinô đa sầu, Giêrônimô mãnh liệt – hoặc những người đã trải qua nhiều năm dài, thậm chí cho đến cuối đời, trong đủ loại đau khổ khủng khiếp; và, như bất kỳ con người nào, cảm thấy cuộc đời thật khó khăn. Thánh Têrêsa thành Lisieux, chết vì bệnh lao và không thể cảm nhận được sự hiện diện của Thiên Chúa, đã thừa nhận rằng “đó là sự thống khổ thuần túy; không có sự an ủi!”[4]
Đúng hơn, niềm vui vốn là “đặc điểm phân biệt cơ bản của Kitô hữu” là một loại niềm vui siêu nhiên. Không phải niềm vui siêu nhiên theo nghĩa là ở mức độ phi thường, như Thị kiến Hạnh phúc, mà là một sự hầu như siêu nhiên. Chúa Giêsu nói với các tông đồ của Ngài: “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi” (Gioan 14:27): Giống như những hoa trái khác của Chúa Thánh Thần, đó là một cái gì đó bền vững, và thậm chí có thể cùng tồn tại với những đau khổ và đau đớn dữ dội. Niềm vui này cũng không phải là niềm vui mà chúng ta có thể “làm lên” bằng chính nỗ lực của mình, không cần có sự trợ giúp của ân sủng. Sách Giáo lý gọi hoa trái của Chúa Thánh Thần là “những điều thiện hảo Thánh Thần ban cho chúng ta như hoa quả đầu mùa của vinh quang vĩnh cửu” (GLCG số 1832). Vì vậy, chúng ta cần cầu nguyện để có được niềm vui này trong chính mình, tin cậy vào Thiên Chúa là Đấng biết rõ sự yếu đuối của chúng ta.
Vậy thì đó là loại niềm vui nào mà không phải là cảm xúc và không loại trừ nỗi đau buồn? Giống như tình yêu vợ chồng, đó là một tâm thế, một thói quen của tâm trí và trái tim, chúng ta học cách sống trong đó. Nó xuất phát từ sự hiểu biết về những gì Chúa chúng ta đã làm và tiếp tục làm cho chúng ta. Tất nhiên chúng ta vẫn có những nỗi buồn, trong “lũng đầy nước mắt” này; tuy nhiên, theo lời của Thánh Phaolô, chúng ta không “đau buồn như những người không có hy vọng khác” (1 Thêssalônica 4:13). Lưu ý rằng ngài không thúc giục những người trở lại đạo là đừng đau buồn, nhưng là đừng đau buồn như những người không có hy vọng.
Thế thì sự khác biệt to lớn là đây. Đối với một Kitô hữu đau khổ không phải như vậy. Chúng ta đã được đảm bảo, có thể chịu đựng và vượt qua ngay cả những thử thách tồi tệ nhất trên trần gian – mất gia đình, mất sức khỏe, tương lai không chắc chắn, những vết thương mà tất cả chúng ta phải chịu kể từ đầu năm 2020 — với sự chắc chắn rằng chúng ta đã đối đầu với những đau khổ này, và chiến thắng, trong sự nhập thể, chết và sống lại của Chúa Giêsu. Thánh Phaolô nói với dân Thêssalônica trong câu tiếp theo: “Vì nếu chúng ta tin rằng Chúa Giêsu đã chết và đã sống lại, thì chúng ta cũng tin rằng những người đã an giấc trong Chúa Giêsu, sẽ được Thiên Chúa đưa về cùng Chúa Giêsu” (1 Thêssalônica 4:14). Cái chết và sự phục sinh của Chúa Giêsu là câu trả lời, không chỉ cho câu đố về cái chết, mà bằng cách này hay cách khác cho tất cả bóng tối bao quanh chúng ta.
Chúng ta đã không được cung cấp tất cả các câu trả lời ngay lập tức. Chúng ta không biết mọi tình huống cụ thể sẽ diễn ra như thế nào. Sự bảo đảm vui mừng của đức tin Kitô giáo không phải là khó khăn sẽ không đến, mà là quyền năng nhân từ của Chúa chúng ta lớn hơn tất cả những khó khăn đó, rằng Ngài đã chiến thắng mọi điều ác và rồi theo thời gian chiến thắng đó sẽ được thể hiện trọn vẹn.
JRR Tolkien đã có một cái nhìn sâu sắc về điều này như thế nào khi ông đặt ra khái niệm “eucatastrophe – cái kết có hậu”. Thuật ngữ này vốn dĩ được đặt ra cho các mục đích văn học, nhưng lại trở nên có liên quan với đức tin và niềm hy vọng của Kitô hữu. Nó có thể mang một ý nghĩa rộng hơn nhiều so với cái vẻ bên ngoài của nó. Tolkien đã giới thiệu cụm từ này khi giải thích làm thế nào một nút thắt trong một “câu chuyện cổ tích”, một khi được giải quyết bằng một kết thúc có hậu bất ngờ, có thể làm được nhiều việc hơn là việc giải quyết mối xung đột. Đó có thể là một khoảnh khắc vui mừng bất ngờ, kỳ diệu, hữu ích đến mức nó mang một sức mạnh sâu sắc và hướng đến một hy vọng cuối cùng lớn lao. Nó “phản chiếu ánh hào quang muộn”[5] sau tất cả các sự kiện trước đó, mang lại cho các sự kiện đó ý nghĩa mới. Tolkien giải thích: Mất mát và bi thảm không làm cho “cái kết có hậu” kém giá trị hơn:
“Cái kết có hậu” không phủ nhận sự tồn tại của thảm họa khó giải quyết, của nỗi buồn và sự thất bại: sự tồn tại của những điều này là cần thiết cho niềm vui của sự giải thoát; nó phủ nhận (dù đứng trước nhiều bằng chứng, nếu bạn muốn) sự thất bại chung cuộc phổ quát và cho đến nay nó là Tin Mừng – Evangelium, đang đem đến một cái nhìn thoáng qua về Niềm vui. Niềm vui vượt ra ngoài các bức tường của trần thế, vốn sầu thảm như nỗi đau buồn.[6]
Vì vậy, đau buồn có thể là chuyện đương nhiên hoặc thích đáng, nhưng chúng ta vẫn có thể giữ lấy một niềm vui mà chúng ta biết là có thật ngay cả giữa nỗi đau buồn đó.
Khi quy chiếu về “Tin Mừng – Evangelium”, khái niệm “cái kết có hậu” không chỉ áp dụng cho tiểu thuyết; trong thực tế, nó có thể được áp dụng tuyệt vời cho lịch sử, cụ thể là lịch sử cứu độ. Tolkien tiếp tục nói, “Sự ra đời của Chúa Kitô là một “cái kết có hậu” trong lịch sử của loài người. Sự Phục Sinh là “cái kết có hậu” của câu chuyện về Sự Nhập Thể.” Còn có sự giải thoát bất ngờ, kỳ diệu nào hơn chính việc Thiên Chúa đến ở giữa chúng ta để gánh lấy mọi gánh nặng của tội lỗi và khốn khổ của chúng ta? Câu chuyện đó còn có đỉnh cao vinh quang nào, vốn không thể có, hơn việc Chúa Nhập Thể phá bỏ xiềng xích của sự chết, mở ra cánh cửa dẫn đến một cuộc sống đổi mới cho chính Ngài và cho tất cả chúng ta?
Chính vì lý do chính đáng này mà Mẹ Giáo Hội liên tục nhắc nhở chúng ta về những mầu nhiệm này trong Thánh lễ và khuyến khích chúng ta suy ngẫm về những mầu nhiệm đó trong Kinh Mân Côi. Những sự thật này là nền tảng của niềm vui đặc trưng của Kitô hữu. Chúng không làm đau khổ mất đi cũng như chặn đứng nỗi buồn, nhưng chúng làm biến đổi trải nghiệm của chúng ta, thường theo những phương cách nhỏ bé mà chúng ta không phải lúc nào cũng có thể cảm nhận được, như bầu không khí mà chúng ta hít thở. Nhờ ân sủng và sự hợp tác của chúng ta với chúng, chúng ta nhìn thấy mọi thứ khác đi, trong ánh sáng vui tươi của Sự Cứu Chuộc.
Ví dụ, Thánh Edith Stein, khi vẫn còn là một người theo chủ nghĩa vô thần, đã đến thăm một người bạn theo đạo Thiên Chúa có chồng đã qua đời, và bị xúc động bởi cung cách người bạn của ngài gánh chịu sự mất mát của cô ấy, nỗi buồn của cô ấy được xoa dịu bởi một sức mạnh nhiệm mầu sâu sắc. Cuộc gặp gỡ này là một mạc khải đối với Edith, và là một bước quan trọng dẫn đến sự trở lại đạo của ngài. Vị thánh tương lai sau này nhớ lại, “Lần đầu tiên tôi thấy trước mắt mình là Giáo hội, được sinh ra từ sự đau khổ cứu chuộc của Chúa Kitô, đã chiến thắng trước nọc độc của cái chết”.[7]
Nhưng chúng ta không nên mất kiên nhẫn với bản thân nếu chúng ta không nhận thấy sự thay đổi như vậy trong cõi lòng của chúng ta chỉ sau một đêm. Quá trình nên thánh diễn ra trong tất cả cuộc sống của chúng ta, và thông thường, dường như linh hồn không biết điều gì đang xảy ra. Học cách sắp đặt niềm vui Kitô hữu cũng không phải là ngoại lệ. Phải mất nhiều thời gian rèn luyện hàng ngày, nhiều tác động nho nhỏ của ân sủng, để thực sự thay đổi cách nhìn tự nhiên của chúng ta sang cách nhìn siêu nhiên.
Mặt khác, đối với bất cứ tâm hồn Kitô hữu nào, hạt giống đã được gieo sẵn. Chúng ta có niềm tin vốn đem theo niềm vui trước “cái kết có hậu” lớn lao; chúng ta có Chúa Thánh Thần, Đấng là tác nhân của mọi sự thay đổi tốt lành trong chúng ta. Chúng ta đau khổ và chiến đấu và vác thập giá của mình, dù lớn hay nhỏ; nhưng chúng ta luôn biết rằng chúng ta có lý do – lý do vô cùng tận – để vui mừng. Giống như một ngọn đèn hiệu trên vùng biển cuồng nộ luôn chiếu sáng cho chúng ta; cho dẫu có lúc chúng ta rất khó để nhìn thấy nó, nhưng bằng việc lái con thuyền của chúng ta về phía ngọn đèn hiệu đó thì chúng ta đang làm chứng cho sự hiện diện của nó.
“Linh hồn tôi ngợi khen Đức Chúa,
thần trí tôi hớn hở vui mừng
vì Thiên Chúa, Đấng cứu độ tôi.” (Luca 1: 46–47).
Phêrô Phạm Văn Trung
Chuyển ngữ từ: hprweb.com (27.1.2022)
[1] Đức Giáo hoàng Benedict XVI, Diễn văn tại Hang Lộ Đức, Vườn Vatican, ngày 1 tháng 6 năm 2012. Tin tức Công giáo SG, truy cập ngày 20 tháng 10 năm 2021, https://catholicnews.sg/2012/06/04/faith-invites-us-to-look-beyond-appearances/
[2] CS Lewis, Mere Christianity – Chỉ là Kitô giáo (New York: HarperCollins, 1952), 107.
[3] Mere Christianity – Chỉ là Kitô giáo, 109.
[4] Thánh Têrêsa thành Lisieux, Chuyện một tâm hồn, ấn bản thứ ba, ed. John Clarke, OCD (Washington, DC: ICS Publications, 1996), 269.
[5] JRR Tolkien, “Về những câu chuyện cổ tích,” trong Cây và Lá – Tree and Leaf (Boston: Houghton Mifflin Company, 1989), 62.
[6] Tolkien, “Về những câu chuyện cổ tích,” 62.
[7] Teresia Renata Posselt, OCD, Edith Stein: Cuộc đời của một triết gia và nữ tu Carmelite, ed. Susanne Batzdorff, Josephine Koeppel và John Sullivan (Washington, DC: ICS Publications, 2005), 59–60. Trích trong Dianne Marie Traflet, Saint Edith Stein: Một chân dung tâm linh (Boston: Pauline Books & Media, 2008), 41.