2022
Làm thế nào ông Cain tìm được vợ?
Làm thế nào ông Cain tìm được vợ?
Sách Sáng Thế chỉ nói về anh em Cain, Aben và Sét là các con của đôi vợ chồng Ađam, Êva. Vậy làm thế nào mà ông Cain tìm được vợ? Thật ra Kinh Thánh có nhiều dữ kiện hơn thế.
Sau khi ông Cain ám sát em mình là Aben, “Cain trốn khỏi mặt Đức Chúa, đến vùng đất Nót, phía đông Êđen” (St 4,16). Ngay sau đó, Kinh Thánh cho biết “Cain ăn ở với vợ mình, bà thụ thai và sinh con đặt tên là Khanốc” (St 4,17).
Có điều gì đó kỳ lạ. Vậy là ông Cain đã có vợ trước đó? Thế thì bà ấy từ đâu ra?
Chúng ta nên nhớ rằng, con người thời Sáng Thế sống lâu hơn thời nay nhiều lần. Theo Kinh Thánh, “tổng tất cả thì Adam sống được chín trăm ba mươi tuổi, rồi ông qua đời” (St 5,5).
Trước đó, Sánh Thánh có nói rõ “ông có nhiều con trai con gái” (St 5,4). Theo lý luận của sách Sáng Thế, để có thể “sinh sản thật nhiều cho đầy mặt đất”, Ađam và Êva cần phải sinh thật nhiều con cái. Nếu không vậy thì loài người sẽ diệt vong ngay. Một số truyền thống truyền khẩu của Do Thái tin rằng “Ông Ađam có 33 con trai và 23 con gái.”
Kinh Thánh không cho ta biết ông Cain lấy vợ lúc nào, cũng không biết ông đã lấy một chị em gái, một người cháu, con của anh em ông, hay thậm chí là một người cháu nội hay cháu ngoại của anh em ông. Không có chi tiết nào mảy may tiết lộ điều này. Bối cảnh của Sáng Thế Ký cho thấy chắc chắn rằng Ađam và Êva là cặp vợ chồng đầu tiên của toàn thể nhân loại, do đó Cain bắt buộc phải lấy một người bà con.
Nhiều nhà Kinh Thánh học tin rằng, nói về di truyền học, Ađam và Êva hoàn toàn hoàn hảo (nếu không xét đến nguyên tội) vì là tác phẩm trực tiếp từ tay Thiên Chúa, do đó việc kết hôn cận huyết của hậu duệ ông bà sẽ không gây ra một khuyết tật nào cho con cái. Đó là kế hoạch khởi đầu của Thiên Chúa về việc sản sinh dân số cho trái đất.
Nói về văn hoá, thời đó, khi thế giới còn sơ khai, có thể xem như thời con người ăn lông ở lỗ, các loại luật pháp chưa tồn tại, cả luật Môsê cũng chưa ra đời, thì việc những người cận huyết ăn ở hay lấy nhau không những không có gì sai trái, mà còn là một phần thật sự cần thiết trong kế hoạch của Thiên Chúa. Đó cũng có thể là điều đúng với trường hợp của các con cái ông Nôê sau Đại Hồng Thuỷ.
Mặt khác, nhiều chuyên gia Kinh Thánh khác lại tin rằng Thiên Chúa đã tạo ra nhiều người khác bên cạnh Ađam và Êva, để rồi khi Cain rời khỏi Êđen, ông gặp nhiều người khác không có quan hệ máu mủ với mình và lấy một người con gái trong số đó làm vợ. Đây được gọi là thuyết đa tổ, cho rằng có nhiều tổ tông bên cạnh Ađam và Êva, và phát triển độc lập. Chẳng hạn học giả Mary Joan Winn Leith cho rằng Kinh Thánh được người Israen viết ra, do đó các vị tác giả Sách Thánh chỉ quan tâm các truyền thống về tổ tiên của riêng dân tộc mình mà không để ý gì các dân khác.
Sách Sáng Thế là một quyển Sách Thánh mang nặng tính biểu tượng về bản chất chứ không phải về khoa học, do đó có thể có nhiều quan niệm khác nhau được chấp nhận mà không đối lập với tinh thần nguyên thuỷ của văn bản. Việc gần đây Giáo Hội không nói nhiều về tính biểu tượng hay thực chất của các sự kiện trong sách Sáng Thế đã để lại một cánh cửa mở.
Huấn quyền Hội Thánh bác bỏ thuyết đa tổ. Đức Giáo Hoàng Piô XII đã viết trong Tông thư “Humani Generis”:
“Các tín hữu không được cổ vũ một trong các ý niệm rằng sau Ađam thì có những con người không có nguồn gốc từ ông như là tổ tiên của tất cả, hay rằng Ađam chỉ là đại diện một số những con người được tạo dựng đầu tiên. Rõ ràng là không có cách nào một ý niệm như thế có thể dung hoà với các nguồn chân lý được mặc khải và các văn bản huấn quyền của Hội Thánh liên quan đến tội nguyên tổ, tội phát nguyên từ một tội lỗi thực sự đã phạm bởi Ađam, và là tội được truyền qua mọi thế hệ, tội mọi người đều mang như là tội lỗi của chính bản thân.”
Giáo Hội dạy rằng Kinh Thánh chủ yếu chứa đựng những gì là cần thiết cho ơn cứu độ của chúng ta, do đó không nhất thiết phải trùng khớp tuyệt đối với khoa học, thế nên có nhiều chi tiết mà các tác giả đã bỏ qua vì muốn tập trung vào trọng tâm của văn bản.
Theo Aleteia
Gioakim Nguyễn lược dịch
2022
5 điều các giáo lý viên có thể làm tốt hơn trong năm học tới
5 điều các giáo lý viên có thể làm tốt hơn trong năm học tới
Tôi viết bài này đúng 24 giờ trước khi các con trai tôi rước lễ lần đầu.
Tôi và chúng đều cảm thấy phấn khởi.
Toàn thể các thánh trên thiên đàng đều hân hoan.
Thế nhưng đâu đó vẫn còn một cảm giác chưa thỏa mãn.
Bạn thấy đấy, tôi là giáo viên tiểu học cho đến nay đã gần 20 năm và với tư cách là một nhà giáo chuyên nghiệp, tôi cảm thấy mình biết chút ít việc giúp bọn trẻ học. Tôi được đào tạo qua nhiều hệ thống và kinh nghiệm để nhận ra những lỗ hổng trong việc phát triển học thuật, để lấp đầy những lỗ hổng đó và cho phép kiến thức từ thế giới (và các tầng trời) lấp đầy tâm trí các em cho đến khi nó tuôn tràn ra những thành tựu.
Nhưng năm nay, ngay tại thời điểm này, tôi cảm thấy chúng ta vẫn chưa đạt được bất cứ điều gì.
Chắc chắn, các con tôi biết thêm một vài kinh, một ít câu chuyện về một số vị thánh mới, và một vài điều về bí tích Thánh Thể thực sự là gì (hoặc là ai).
Nhưng tôi không tin bọn trẻ hiểu đầy đủ nguồn mạch và chóp đỉnh của đời sống Kitô hữu.
Tôi nghĩ không đứa trẻ nào được như vậy.
Các giáo lý viên ở mọi nơi đều nhận thức sâu sắc rằng dù chúng ta nghĩ rằng mình đã dạy rất hay cho học trò về tình yêu Thiên Chúa, việc chúng ta dạy vẫn không thể so sánh với tình yêu Thiên Chúa thực sự.
Vậy bạn dạy thế nào về tình yêu Thiên Chúa? Làm thế nào để sử dụng thủ bản buồn tẻ mà giáo phận yêu cầu bạn dùng để giảng dạy và từ những trang giấy vô hồn đó thắp lên ngọn lửa sự sống và tình yêu trong tâm hồn các em trong lớp giáo lý?
Đây là năm gợi ý cho những ai tìm cách xem xét lại hệ thống giáo lý hiện tại.
Đào tạo giáo lý viên
Giảng dạy là một hành vi phức tạp của đức ái. Tại bất kỳ thời điểm nào, tâm trí giáo viên đều đang đưa ra hàng trăm, có lẽ thậm chí hàng nghìn quyết định nhỏ. Chúng có thể bao gồm từ việc lấy tông giọng nào để truyền đạt một bài học cho đến việc chọn giáo trình nào để giảng dạy. Quá trình ra quyết định đối với giáo viên, đặc biệt là giáo viên năm thứ nhất, có thể khó khăn đến mức khiến họ chọn bỏ nghề luôn (thực tế đáng buồn là hầu hết bỏ nghề trong 5 năm đầu). Vấn đề đau đầu nhất? Quản lý lớp học.
Cách tối ưu duy nhất để cải thiện lớp giáo lý là đào tạo giáo lý viên biết quản lý lớp học đúng cách. Họ cần biết cách khen thưởng cố gắng của học sinh, duy trì không gian học tập tích cực và an toàn, đồng thời dập tắt ngay những hành vi tiêu cực tiềm ẩn trước khi chúng xảy ra. Tôi biết một thực tế là không phải mọi học sinh lớp giáo lý đều là những thiên thần như chúng ta mong ước, là một giáo lý viên, bạn cần biết cách thiết lập tương quan tích cực với các em để chúng có thể học biết cách mở lòng với vị Thầy tuyệt vời là Chúa Giêsu.
Điều đó khởi đầu từ việc quản lý lớp học.
Làm cho bài giáo lý mang tính hướng dẫn thiêng liêng nhiều hơn và bớt tính cách là một môn học
Có một sự khác biệt lớn giữa học và thực sự sống các sự kiện tôn giáo. Chúng ta đã rơi vào cái bẫy biến lớp giáo lý thành một lớp học chứ không phải một cung cách sống. Quá nhiều điều chúng ta dạy dựa trên giáo trình và thủ bản, quá nhiều đến nỗi các em liên tưởng hành trình đức tin với cấu trúc hệ thống trường lớp – nếu tôi học xong lớp này, tôi sẽ được “tốt nghiệp” và được rước lễ lần đầu hoặc thêm sức.
Các lớp dự bị hôn nhân không nên như vậy (ít nhất, tôi hy vọng là không!). Ngược lại, hầu hết các chương trình dự bị hôn nhân đều có sự tham gia của một cặp vợ chồng giàu kinh nghiệm với những cặp đôi sắp cưới để hướng dẫn những gì họ mong đợi. Đó là một quá trình dễ chịu hơn, tập trung nhiều vào việc hướng dẫn thiêng liêng hơn là chỉ toàn những sự kiện phải học. Quá trình đó vượt lên trên cái cơ bản để đi vào sự huyền nhiệm. Đó là cách thức mà mọi lớp giáo lý nên theo.
Gia tăng cầu nguyện
Như tôi đề cập trong bài viết trước, Giáo hội dạy có ba phương thức cầu nguyện: khẩu nguyện, tâm nguyện và chiêm niệm. Ở mọi cấp độ học giáo lý, cần phải tập trung cao độ vào việc giúp các em phát triển nhiều về đời sống cầu nguyện. Điều này nên được thực hiện một cách có kế hoạch để đảm bảo các em tiến triển từ phương thức này đến phương thức kế tiếp phù hợp với sự trưởng thành của chúng (và ân sủng Thiên Chúa). Trong khi chúng ta giảng dạy với hy vọng các em học được cách sống tốt đức tin, thì chính Chúa Thánh Thần là người sau cùng mở rộng tâm trí và tâm hồn để các em đón nhận những kiến thức và sự khôn ngoan đó. Chúng ta chỉ là những ống dẫn mang tính giáo dục qua đó ân sủng Thiên Chúa có thể đi vào tâm hồn các em. Cầu nguyện hợp nhất việc giảng dạy với ý Chúa không chỉ vì sứ mạng của chúng ta mà sau cùng còn vì ơn cứu độ của các em (và của chúng ta nữa!).
Đưa ra những con đường hướng tới hành động nội tại
Một trong những tình huống nghịch lý nội tại của việc giảng dạy đó là, mặc dù hầu hết các giáo viên đều có động lực giảng dạy, nhưng không phải mọi học sinh đều có động lực học tập. Số lớp học, dự án, kỳ thi… theo yêu cầu có khuynh hướng ít tạo nên động lực. Nếu bạn muốn làm cho điều gì trở nên ít được mong muốn hơn? Hãy biến nó thành một yêu cầu.
Đừng hiểu sai ý tôi, tôi hiểu (và trân trọng) việc dạy những kỹ năng cần thiết để đạt được những kỹ năng cao hơn. Khi chơi bóng rổ, tôi không thích chạy nước rút, chạy cự ly dài hay nâng tạ như yêu cầu trước mùa giải. Tuy nhiên, tôi thích cách chúng biến tôi trở thành một cầu thủ bóng rổ giỏi hơn.
Khi nói đến dạy giáo lý, yêu cầu rất cần thiết là dạy cho các em các câu kinh, mười điều răn và cách đọc Kinh thánh. Nhưng, thật không may, hầu hết các chương trình giáo lý chỉ dừng lại ở đó, và không tiếp tục đi vào khía cạnh biến đổi của huấn giáo. Lớp giáo lý chỉ đơn giản là một lớp học bắt buộc, nơi các em (yêu cầu phải tham dự) đọc các bản văn theo yêu cầu để đạt được các mục tiêu học thuật cần có.
Nếu chúng ta muốn xây dựng các chương trình giáo lý hoàn chỉnh, hãy khôn ngoan khi tập trung vào những mong muốn của các em cũng như vào các giáo thuyết nền tảng cần thiết trong đức tin. Hãy nói chuyện với từng em một. Làm cho chúng trở thành môn đệ. Tìm hiểu điều gì đang bùng cháy trong tâm hồn chúng và giúp hướng dẫn các em đến điều mà Thiên Chúa mời gọi chúng trở thành. Một khi đã phân định được, chúng sẽ có động lực và không gì ngăn cản được chúng.
Cho phép những em đã thêm sức mở ra con đường riêng
Nếu giáo xứ của bạn giống của tôi, một khi một thanh thiếu niên nam hay nữ được thêm sức, họ hiếm khi tham dự vào bất cứ điều gì khác mà Giáo hội đề nghị. Trong thực tế, đôi khi họ còn trốn tránh hoàn toàn và cùng nhau bỏ đạo.
Điều này không thể xảy ra được.
Nó giống như một người lính hoàn thành khóa huấn luyện chỉ để rời khỏi quân ngũ trước khi bước vào cuộc chiến mà anh ta được huấn luyện.
Cần có một chương trình hậu-Thêm sức, tập trung vào những khả năng của người vừa lãnh bí tích này để giúp phục vụ cộng đoàn mà họ đang sống. Chương trình này nên dựa trên 14 mối thương người, và cho phép những thành viên trẻ này của Giáo hội gặt hái những ơn ích thiêng liêng để sống đức ái hoàn hảo.
Cứ cho là vậy, nhưng chúng ta hiện có các chương trình ở hầu hết các giáo xứ mà những người mới thêm sức có thể tham gia – như đọc sách trong Thánh lễ, thừa tác viên ngoại thường của Bí tích Thánh Thể, người hướng dẫn, ca viên, phục vụ phòng thánh, giúp lễ, giới trẻ, giúp nhà trẻ, v.v..
Nhưng có thể có nhiều hơn nữa.
Không phải bạn trẻ nào cũng bị thu hút bởi những việc đó. Một số được lôi cuốn vào công việc truyền giáo, số khác vào lối sống một mình. Trong khi đó, có người được lôi cuốn vào lối sống chiêm niệm và nghiên cứu chuyên sâu hơn về đức tin. Thậm chí có một số bạn trẻ táo bạo tham gia vào việc phát triển quỹ hỗ trợ!
Chúng ta cần vượt ra khỏi các cơ hội phục vụ “thông thường” nơi giáo xứ và để cho những người mới thêm sức cho chúng ta biết họ muốn làm gì với tất cả những gì mà Thiên Chúa đã ban. Rất hy vọng rằng bí tích Thêm sức sẽ không còn được xem như ngày “tốt nghiệp” lớp giáo lý, mà là bước đầu để đi vào thế giới thực nơi “lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” (Mt 9,37).
Như bạn có thể thấy, còn rất nhiều việc phải làm trên mặt trận giáo lý. Nếu bạn là một giáo lý viên, hoặc nếu bạn biết ai đó là giáo lý viên, hãy đưa năm đề xuất này đến Trưởng Ban Giáo lý và quyết định cách bạn có thể đem hệ thống hiện tại của mình tích hợp với năm đề xuất này để tạo ra một chương trình mạnh mẽ và hiệu quả hơn.
T.J. Burdick (*)
Nhóm Sao Biển
Chuyển ngữ từ Catholicexchange.com
(*) Tác giả T.J. Burdick là tác giả của một số cuốn sách và bài báo về đức tin Công giáo. Anh viết và thuyết trình về cách lớn lên trong sự thánh thiện giữa những phiền nhiễu và khó khăn của thời đại hiện nay. Bên cạnh việc dành thời gian cho gia đình hoặc viết sách, bạn có thể thấy anh ấy dạy các khóa về đức tin Công giáo thông qua chương trình Signum Dei (signumdei.com). Để biết thêm về T.J., hãy truy cập trang web của anh tại tjburdick.com.
2022
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại Maskwacis
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại Maskwacis
Thứ Hai 25/7/2022, ngày thứ hai trong chuyến tông du kéo dài 6 ngày tại Canada của Đức Thánh Cha, Đức Thánh Cha đã có hoạt động chính thức đầu tiên: đến Maskwacis để gặp gỡ các dân tộc bản địa First Nations, Métis và Inuit.
Thưa Bà Thống đốc Toàn quyền, ông Thủ tướng
Thưa anh chị em bản địa của Maskwacis và của vùng đất Canada này,
Thưa anh chị em thân mến!
Tôi đã chờ đợi để đến với anh chị em. Chính từ đây, nơi gắn liền với những ký ức đau buồn này, tôi muốn bắt đầu điều mà tôi mang trong lòng: một cuộc hành hương thống hối. Tôi đến quê hương của anh chị em để nói với anh chị em rằng tôi rất đau buồn, để cầu xin Chúa tha thứ, chữa lành và hòa giải, để cho anh chị em thấy sự gần gũi của tôi, để cầu nguyện với và cho anh chị em.
Tôi nhớ lại những cuộc gặp gỡ của chúng ta ở Roma bốn tháng trước. Lúc đó, tôi đã được tặng hai đôi giày da đanh như một dấu hiệu của sự đau khổ mà trẻ em bản địa phải chịu đựng, đặc biệt là những em thật không may, ở các trường nội trú và không bao giờ trở về nhà nữa. Tôi đã được yêu cầu trả lại những chiếc giày da đanh khi tôi đến Canada, và tôi sẽ làm như vậy khi tôi kết thúc bài nói chuyện này. Tôi muốn suy tư về biểu tượng này, biểu tượng mà trong vài tháng qua đã khiến tôi cảm thấy đau buồn, phẫn nộ và xấu hổ. Ký ức về các trẻ em đó quả thực rất đau đớn; nó thúc giục chúng ta làm việc để đảm bảo rằng mọi trẻ em đều được đối xử bằng tình thương, danh dự và sự tôn trọng. Đồng thời, những chiếc giày da đanh đó cũng nói cho chúng ta biết một con đường phải theo, một hành trình mà chúng ta mong muốn cùng nhau thực hiện. Chúng ta muốn cùng nhau bước đi, cùng nhau cầu nguyện và làm việc, để những đau khổ trong quá khứ có thể dẫn đến một tương lai công bằng, chữa lành và hòa giải.
Đây là lý do tại sao chặng đầu tiên của cuộc hành hương giữa anh chị em lại diễn ra ở vùng này, nơi mà từ xa xưa đã chứng kiến sự hiện diện của các dân tộc bản địa. Đây là những vùng đất nói với chúng ta, cho phép chúng ta ghi nhớ.
Ghi nhớ: anh chị em đã sống trên những mảnh đất này hàng ngàn năm, với lối sống tôn trọng chính mảnh đất mà anh chị em đã nhận được như một di sản từ các thế hệ trước và gìn giữ cho các thế hệ tương lai. Anh chị em đã coi nó như một ân ban của Đấng Tạo Hóa để chia sẻ với người khác và yêu thương trong sự hài hòa với mọi thụ tạo, trong mối tương giao sâu sắc với mọi sinh vật. Bằng cách này, anh chị em đã học được cách nuôi dưỡng ý thức về gia đình và cộng đồng, và phát triển mối liên kết bền chặt giữa các thế hệ, tôn trọng người lớn tuổi và quan tâm đến những người bé nhỏ. Một kho tàng các phong tục và lời dạy tốt, tập trung vào sự quan tâm đến người khác và tình yêu sự thật, vào lòng can đảm và sự tôn trọng, vào sự khiêm tốn và lòng trung thực, vào sự khôn ngoan của cuộc sống.
Nhưng, nếu đây là những bước đầu tiên được thực hiện trong những lãnh thổ này, thì đáng buồn là ký ức đưa chúng ta đến những bước tiếp theo. Nơi chúng ta đang tụ họp gợi lại trong tôi cảm giác đau đớn và hối hận sâu sắc mà tôi đã cảm nhận trong những tháng qua. Tôi nghĩ lại thảm kịch mà rất nhiều người trong số anh chị em, gia đình, cộng đồng anh chị em đã biết; với những gì anh chị em đã chia sẻ với tôi về những đau khổ phải chịu đựng trong các trường nội trú. Đây là những chấn thương, theo một cách nào đó, bừng sống lại mỗi khi chúng được gợi lại. Tôi cũng nhận ra rằng cuộc gặp gỡ của chúng ta ngày hôm nay cũng có thể gợi lại những ký ức và nỗi đau, và nhiều người trong số anh chị em có thể thấy không thoải mái ngay cả khi tôi nói. Nhưng chúng ta phải nhớ, bởi vì sự lãng quên dẫn đến sự thờ ơ và như đã nói, “đối lập của tình yêu không phải là hận thù, đó là sự thờ ơ … đối lập của sự sống không phải là cái chết, mà là sự ‘thờ ơ với sự sống hay cái chết. ‘(E. WIESEL). Nhớ lại những kinh nghiệm đau thương đã diễn ra ở các trường nội trú là điều gây phẫn nộ, đau xót, nhưng rất cần thiết.
Cần phải nhớ rằng các chính sách đồng hóa và giải phóng, gồm cả hệ thống trường học nội trú, đã tàn phá như thế nào người dân của những vùng lãnh thổ này. Khi những người thực dân châu Âu đến đó lần đầu tiên, có một cơ hội tuyệt vời để phát triển một cuộc gặp gỡ hiệu quả giữa các nền văn hóa, truyền thống và các hình thức tâm linh. Nhưng phần lớn điều đó đã không xảy ra. Và một lần nữa những câu chuyện của anh chị em lại xuất hiện trong tâm trí tôi: làm thế nào các chính sách đồng hóa đã kết thúc bằng cách làm cho người bản địa bị gạt ra ngoài lề một cách có hệ thống; làm thế nào, ngay cả qua hệ thống trường nội trú, ngôn ngữ và văn hóa của anh chị em đã bị bôi nhọ và loại bỏ; trẻ em đã bị lạm dụng thể chất và lời nói, tâm lý và tinh thần; Làm thế nào các em bị đưa đi khỏi nhà các em khi các em còn nhỏ và làm thế nào điều này đã đánh dấu không thể xóa nhòa quan hệ giữa cha mẹ ông bà và con cháu.
Cám ơn anh chị em đã cho tôi biết rõ điều này, đã nói cho tôi biết những gánh nặng mà anh chị em đang có trong lòng, đã chia sẻ với tôi ký ức cay đắng này. Hôm nay tôi ở đây, trên mảnh đất này, cùng với những ký ức xa xưa, lưu giữ những vết thương lòng còn hở. Tôi ở đây bởi vì bước đầu tiên của cuộc hành hương thống hối của tôi giữa anh chị em là một lần nữa cầu xin sự tha thứ, để nói với anh chị em rằng tôi rất đau buồn. Tôi xin lỗi vì những cách thức mà trong đó, đáng tiếc là nhiều Kitô hữu đã ủng hộ não trạng thực dân hóa của các thế lực áp bức dân bản địa. Đặc biệt tôi cầu xin sự tha thứ đối với những cách thức mà nhiều thành viên của Giáo hội và các cộng đoàn dòng tu đã hợp tác, kể cả qua sự thờ ơ, trong các dự án phá hủy văn hóa và cưỡng bức đồng hóa do các chính phủ thời đó thúc đẩy, mà đỉnh điểm là hệ thống các trường học nội trú.
Mặc dù hoạt động bác ái Kitô giáo luôn hiện diện và không ít trường hợp là mẫu gương trong việc phục vụ trẻ em, nhưng hậu quả chung của các chính sách liên quan đến trường học nội trú là rất thảm khốc. Điều mà đức tin Kitô nói với chúng ta rằng đó là một sai lầm nghiêm trọng, không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô. Thật đau đớn khi biết rằng nền tảng giá trị, ngôn ngữ và văn hóa của lãnh thổ đó, những điều mang lại cho các dân tộc của anh chị em một bản sắc đích thực, đã bị xói mòn và anh chị em tiếp tục phải trả giá. Trước sự dữ gây phẫn nộ này, Giáo hội quỳ gối trước Thiên Chúa và cầu xin sự tha thứ cho tội lỗi của con cái mình. Tôi muốn nhắc lại điều đó với sự xấu hổ và rõ ràng. Tôi khiêm tốn cầu xin sự tha thứ cho tội ác của rất nhiều Kitô hữu chống lại người bản địa.
Anh chị em thân mến, nhiều người trong anh chị em và những người đại diện anh chị em đã nói rằng xin lỗi không phải là kết thúc của vấn đề. Tôi cũng nhận thức được rằng đó chỉ là bước đầu tiên, điểm khởi đầu. Tôi cũng nhận ra rằng, “sẽ không bao giờ là đủ nếu chỉ nhìn về quá khứ, cầu xin sự tha thứ và cố gắng sửa chữa những thiệt hại đã gây ra” và “sẽ không bao giờ là ít, nếu nhìn về tương lai, làm tất cả để mang lại cho cuộc sống một văn hoá có khả năng ngăn chặn những tình huống như vậy không chỉ không xảy ra nữa, nhưng còn là để nó không còn chỗ nữa” (Thư gửi Dân Chúa, 20/8/2018). Một phần quan trọng của quá trình này sẽ là tiến hành một cuộc tìm kiếm nghiêm túc về sự thật của những gì đã xảy ra trong quá khứ và hỗ trợ những người sống sót trong các trường nội trú cảm nghiệm việc chữa lành những tổn thương mà họ phải chịu đựng.
Tôi cầu nguyện và hy vọng rằng các Kitô hữu và xã hội dân sự của vùng đất này sẽ phát triển về khả năng chào đón và tôn trọng bản sắc và kinh nghiệm của người bản địa. Tôi hy vọng rằng những cách cụ thể sẽ được tìm thấy để làm cho những dân tộc đó được biết đến và được quý trọng hơn, để tất cả có thể học cách bước đi cùng nhau. Về phần mình, tôi sẽ tiếp tục khuyến khích sự dấn thân của tất cả những người Công giáo đối với người bản địa. Tôi đã làm điều này nhiều lần và ở nhiều nơi khác nhau, qua các cuộc họp, lời kêu gọi và qua Tông huấn. Tôi biết rằng tất cả những điều này đòi hỏi thời gian và sự kiên nhẫn: đây là những quá trình cần phải đi vào lòng người, và sự hiện diện của tôi ở đây và sự dấn thân của các Giám mục Canada là bằng chứng cho ý muốn tiến hành trên con đường này.
Anh chị em thân mến, cuộc hành hương này kéo dài vài ngày và xảy ra ở những nơi cách xa nhau; tuy nhiên, nó sẽ không cho phép tôi nhận nhiều lời mời và thăm các trung tâm như Kamloops, Winnipeg, các địa điểm khác nhau ở Saskatchewan, Yukon và các Lãnh thổ Tây Bắc. Ngay cả khi điều này là không thể, anh chị em biết rằng tất cả anh chị em ở trong suy nghĩ và trong lời cầu nguyện của tôi. Anh chị em biết rằng tôi biết những đau khổ, tổn thương và thách đố của những người bản địa trên mọi miền đất nước này. Những lời tôi nói trong hành trình thống hối này được gửi đến tất cả cộng đồng và người bản xứ, những người mà tôi ôm ấp trong tâm hồn.
Trong bước đầu tiên của cuộc hành trình, tôi muốn dành chỗ cho ký ức. Ở đây, hôm nay, tôi cùng anh chị em nhớ lại quá khứ, cùng khóc với anh chị em, cùng nhau cúi đầu trong thinh lặng và cầu nguyện trước những nấm mồ. Chúng ta hãy cho phép những khoảnh khắc thinh lặng này giúp chúng ta khắc sâu nỗi đau của mình. Thinh lặng. Và cầu nguyện. Trước sự dữ, chúng ta cầu xin Chúa nhân lành; đối diện với cái chết, chúng ta cầu nguyện với Chúa của sự sống. Chúa Giêsu Kitô của chúng ta đã chọn nấm mộ, dường như là nơi chôn vùi mọi hy vọng và ước mơ, chỉ để lại nước mắt, nỗi đau và sự cam chịu, và biến nó thành nơi tái sinh và phục sinh, khởi đầu lịch sử của cuộc sống mới và sự hòa giải phổ quát. Những nỗ lực của chúng ta không đủ để đạt được sự chữa lành và hòa giải: chúng ta cần ơn Chúa. Chúng ta cần sự khôn ngoan hiền lành và mạnh mẽ của Thánh Thần, tình yêu dịu dàng của Đấng An Ủi. Xin Người thực hiện những mong đợi sâu sắc nhất trong trái tim của chúng ta. Xin Thánh Thần hướng dẫn các bước của chúng ta và giúp chúng ta cùng nhau thăng tiến trên hành trình này.
(vaticannews.va 25.07.2022)
2022
Giáo hoàng ở Canada, ba thông điệp cho Giáo hội ngày mai
Giáo hoàng ở Canada, ba thông điệp cho Giáo hội ngày mai
Với chuyến hành trình ở miền cực bắc Canada từ ngày 24 đến 30 tháng 7, Đức Phanxicô không những chỉ đáp trả lại chuyến thăm của người bản địa đến Rôma vào mùa xuân vừa qua, họ đến tố cáo một loại “văn hóa diệt chủng” họ đã phải gánh chịu trong nhiều thập kỷ, vì thế thay mặt cho Giáo hội công giáo để nhận tội, nhưng cùng lúc ngài cũng gởi một thông điệp, vượt ngoài biên giới Canada, về việc Giáo hội sẽ như thế nào trong tương lai.
Chuyến tông du quốc tế thứ 37 của ngài thu hút sự chú ý đặc biệt vì gần đây ngài đi đứng khó khăn nên đã phải hủy chuyến đi đầu tháng 7 vừa qua tới Cộng hòa Dân chủ Congo và Nam Sudan. Nhưng ngoài chuyến đi Kiev, dự án Kazakhstan đã dự trù thì chúng ta không thấy triển vọng có những chuyến đi khác. Đức Phanxicô 86 tuổi, sẽ không còn đi như trước.
Một thực tế càng làm cho quyết tâm của ngài đáng kể hơn, không thể không làm cho những người thân cận ngài lo lắng, để xác nhận chuyến đi có những đòi hỏi khắt khe này ở vùng Bắc Cực. Tóm lại, đây là hành trình không thể thiếu: vì như chúng ta biết, giáo hoàng đặc biệt ấn tượng bởi chứng từ của các phái đoàn của Quốc gia Thứ nhất, Inuit và Metis mà ngài đã tiếp đón, trước tiên là riêng lẻ, sau đó là tất cả các phái đoàn, từ cuối tháng 3 đến đầu tháng 4, những câu chuyện của người lớn tuổi, những câu chuyện về lạm dụng thể chất và tình dục trong các “trường nội trú” được chính quyền Canada giao cho các tổ chức tôn giáo quản lý, trong đó có Giáo hội công giáo, những thiệt hại do văn hóa châu Âu với chủ nghĩa thực dân đã gây ra cho vùng này. Đúng, nhưng ở Canada, Đức Bergoglio dường như thấy đây là cơ hội để phát triển, và bắt rễ, ít nhất ba khái niệm gần gũi với trái tim của ngài và ngài xem là quan trọng cho Giáo hội công giáo trong những năm sắp tới.
Dĩ nhiên đòi hỏi xin tha thứ cho những hành vi lạm dụng của “những kẻ chinh phục” không phải là sáng kiến của Đức Jorge Mario Bergoglio. Trên tạp chí Văn minh Công giáo, linh mục Federico Lombardi nhắc lại thời giáo hoàng Phaolô III năm 1537 đã cảnh báo trong sắc chỉ “Sublimis Deus” (Thiên Chúa tối cao) rằng, “người kitô giáo” khi phát hiện ra người bản địa, trong bất cứ trường hợp nào, họ không được tước tự do, tước quyền sở hữu của cải của người bản địa, ngay cả khi những người này không tin vào Chúa Kitô. Gần đây và chỉ giới hạn ở Canada, Đức Gioan-Phaolô II đã đến đây ba lần và đã xin lỗi các dân tộc bản xứ. Đức Bênêđíctô XVI cũng đã làm như vậy khi ngài tiếp họ tại Vatican. Tuy nhiên, những lời chỉ trích Giáo hội vẫn tiếp tục. Sự thật lịch sử đến đúng lúc: một ủy ban “Sự thật và Hòa giải” được thành lập năm 2015 đã yêu cầu đích thân giáo hoàng đến Canada để xin lỗi. Các sự việc khủng khiếp khác xuất hiện, như việc phát hiện những phần sót lại thi thể của 215 trẻ em ở trường nội trú ở Kamloops, bang British Columbia: Nhà nước Canada đã trả lương thấp cho các trường này, khi trẻ em sống trong điều kiện vệ sinh kém qua đời, để tiết kiệm tiền, các em bị chôn cất gần đó, thay vì giao thi thể các em cho gia đình. Những sự kiện đã ảnh hưởng đến dư luận thế giới và thúc đẩy Giáo hội Canada phải lên án rõ rệt hơn trước.
Với Đức Phanxicô, cường độ tranh luận này chỉ có thể tăng lên. Là người thừa kế các nhà truyền giáo Dòng Tên, Đức Bergoglio luôn cực kỳ chú ý đến nút thắt lịch sử của chủ nghĩa thực dân, sự pha trộn lẫn lộn giữa truyền giáo và tước đoạt các nền văn hóa nguyên thủy. Năm 2015, ngài nói trong chuyến đi Bolivia: “Tôi khiêm tốn xin được tha thứ, không chỉ với tội lỗi của chính Giáo hội, mà còn với những tội ác chống lại người dân bản địa trong cuộc chinh phục nước Mỹ. Và cùng với lời xin tha thứ, công bằng mà nói, tôi cũng xin chúng ta nhớ đến hàng ngàn linh mục, giám mục, những người kiên quyết chống lô-gích thanh gươm quyền lực để nhận Thánh giá. Có tội lỗi, và có rất nhiều tội, nhưng chúng ta đã không xin tha thứ và vì điều này bây giờ chúng ta xin tha thứ, và tôi xin được tha thứ, ở đâu có tội lỗi ở đó có ơn Chúa dồi dào hơn thông qua những người này, những người đã bảo vệ công lý của các dân tộc nguyên thủy”. Năm 2019, ngài muốn Thượng hội đồng về vùng Amazon được họp tại Rôma mà trước đó định tổ chức ở Puerto Maldonado, nơi khám phá có vấn đề tương tác giữa công việc truyền giáo và thuộc địa.
Tuy nhiên, một cam kết lâu dài – và đây là điểm đầu tiên có thể thấy trong trong chuyến đi Canada, có nguy cơ bị giới hạn ở Mỹ Latinh. Vì giáo hoàng Argentina quan tâm đến vấn đề này, ngài đến từ nơi duy nhất trên thế giới từng xảy ra vấn đề này. Một liên hệ giữa thuộc địa hóa và chú giải sai Phúc âm, “học thuyết khai phá” được Hội thánh la-mã chúc phúc, đã diễn ra ở nhiều nơi và có thể diễn ra gần như khó ngụy trang ngay cả trong thế giới ngày nay bởi các nhà truyền giáo, công giáo và các giáo phái kitô giáo khác.
Chuyến đi đến Canada sẽ tạo cơ hội cho ngài mở rộng vấn đề vượt xa Châu Mỹ La-tinh, và xa hơn nữa là thế giới nói tiếng Tây Ban Nha. Ngài sẽ đọc các bài phát biểu bằng tiếng Tây Ban Nha và sẽ được dịch sang tiếng Anh, tiếng Pháp, vì thế sẽ đến được Hoa Kỳ láng giềng, Australia xa xôi, ở châu Phi cũng như ở châu Âu cũ.
Một thông điệp – và đây là điểm thứ hai – gắn bó chặt chẽ đến sự đa dạng văn hóa và đến “ngôi nhà chung”. Giáo hoàng của Laudato si’ và của Fratelli đều đã nói và nhắc lại các thông điệp này, nhưng bây giờ ngài sẽ nhắc lại bằng từ ngữ rõ ràng từ quốc gia của nhóm G7 luôn nhạy cảm với vấn đề môi trường. Như tu sĩ Dòng Tên người Canada Gilles Mongeau giải thích với hãng tin I. Media: “Chúng tôi nhận ra các dân tộc bản địa là những người bảo vệ đầu tiên vùng đất này. Chúng ta được hưởng lợi từ đất đai và đất đai chưa bao giờ được chính thức trao cho người thực dân. Họ đã chiếm giữ nó. Một trong những điểm khác biệt đáng kể nhất giữa văn hóa châu Âu và văn hóa bản địa là mối quan hệ với đất đai. Người châu Âu sở hữu đất đai, họ mua bán đất đai. Họ có quyền trên đất đai. Người dân bản địa xem mình là người quản lý đất đai. Họ xem đất đai như món quà và chia sẻ với nhau hơn.” Một khái niệm mà Giáo hội biết cách tự tạo và nâng cao, không giao chủ đề về môi trường cho người khác, và hoạt động như người thúc đẩy cam kết giải quyết một vấn đề luôn tồn tại cho nhân loại hôm nay và mai sau.
Từ Canada, Đức Phanxicô sẽ có dịp để thể hiện thêm một lần nữa, nhưng dưới một góc độ mới, gương mặt của Giáo hội công giáo xa với hình ảnh của một Giáo hội khép mình, chỉ chú ý đến phụng vụ và giáo luật, một Giáo hội cùng với những người thiện tâm lo cho lợi ích chung. Đó là một cách để nhấn mạnh ý nghĩa đích thực nhất của việc truyền giáo. Như ngài đã nói ở Bolivia, ngài tin chắc từ những năm 1500 và cho đến ngày nay, ngay cả trong Giáo hội, vẫn có những ý kiến khác nhau, và thực sự là mâu thuẫn nhau, về ý nghĩa của việc mang “Tin Mừng” đến với thế giới: một số người áp đặt Tin Mừng với “lô-gích thanh kiếm”, một số khác tuân theo “sức mạnh của Thập giá”. Để làm rõ hơn, để phân định và quyết định, phải đi từ sự thật lịch sử. Một sự thật không thể không đau đớn. Như linh mục Lombardi ghi nhận, các sự kiện bi thảm của lịch sử, “chúng ta đã gặp phải những đau khổ lớn lao, trước hết là của người dân bản địa, của các học sinh nội trú, những nạn nhân của những bất công to lớn và lạm dụng nghiêm trọng, mà đàng sau là đau khổ của những người đã cống hiến hết sức mình với ý muốn chân thành phục vụ Tin Mừng và các dân tộc bản địa. Giờ đây, họ cảm thấy thất vọng trước những lời chỉ trích rất gay gắt, kể cả việc vơ đũa không đúng. Chúng tôi nghĩ – linh mục Dòng Tên viết – đây là cái giá đền tội, tất cả phải trả bằng con đường thanh tẩy của Giáo hội. Chúng tôi hy vọng nó sẽ đơm hoa kết trái trong cuộc gặp gỡ sâu đậm hơn, hiệu quả hơn và đổi mới – thực sự được hòa giải – với người dân bản địa và toàn xã hội Canada.
Những chữ giải thích vì sao Đức Phanxicô đến Canada như hành trình hành hương sám hối, dành riêng cho người bản địa Canada nhưng những chữ này có khả năng vượt xa biên giới Canada.
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch