2022
Đức Thánh Cha gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và cộng đoàn giáo xứ Thánh Tâm Edmonton
Đức Thánh Cha gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và cộng đoàn giáo xứ Thánh Tâm Edmonton
Sự kiện chính thức thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha là cuộc Gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton của các Dân tộc Đầu tiên.
Nhà thờ Thánh Tâm được xây dựng vào năm 1913, là một trong những nhà thờ Công giáo cổ nhất của thành phố. Năm 1991 Đức tổng giám mục Joseph MacNeil đã dành giáo xứ này cho các Dân tộc Bản địa First Nations, Métis và Inuit. Tại đây đức tin Công giáo được diễn tả trong bối cảnh của văn hoá bản địa.
Tòa nhà lưu giữ nhiều tác phẩm nghệ thuật thiêng liêng độc đáo do các nghệ nhân người bản địa tạo ra. Trong những năm qua, nhiều người nhập cư và tị nạn từ khắp nơi trên thế giới đến định cư tại Edmonton đã biến Nhà thờ Thánh Tâm trở thành ngôi nhà tâm linh của họ. Tòa nhà đã bị hư hại bởi một trận hỏa hoạn vào tháng 8 năm 2020 và đóng cửa trong hai năm để trùng tu. Công việc được hoàn thành đúng vào thời điểm Đức Thánh Cha đến thăm.
Lúc khoảng 4 giờ 45 chiều thứ Hai 25/7/2022 giờ Edmonton, tức là 5 giờ 45 sáng thứ Ba 26/7/2022 giờ Việt Nam, Đức Thánh Cha đã đến nhà thờ Thánh Tâm và được cha sở và các giáo dân chào đón trong tiếng trống của người bản địa.
Đến Canada như một người bạn, một người hành hương
Ngỏ lời với các tín hữu, Đức Thánh Cha cho biết ngài rất vui khi hiện diện ở đây, giữa các tín hữu và gặp lại những khuôn mặt của các đại diện của người bản địa đã đến gặp ngài ở Roma vài tháng trước. Ngài nói rằng cuộc viếng thăm đó rất có ý nghĩa với ngài, và bây giờ ngài đến nhà của họ, như một người bạn và một người hành hương tại miền đất của họ, trong nhà thờ nơi họ quy tụ lại như những người anh chị em để ngợi khen Thiên Chúa.
Đức Thánh Cha hài lòng nhìn thấy tại giáo xứ Thánh Tâm này, nơi những người thuộc các cộng đoàn khác nhau thuộc các Dân tộc Đầu tiên, Métis và Inuit đến cùng với những người không thuộc sắc tộc bản địa sống ở địa phương và nhiều anh chị em di dân khác bắt đầu những hành động cụ thể trong tiến trình chữa lành. Ngài nói: “Nơi này là một ngôi nhà cho tất cả, mở rộng và bao gồm, như Giáo hội phải là, vì đó là gia đình của các con cái Thiên Chúa, nơi đón tiếp và chào đón, những giá trị đặc trưng của văn hoá bản địa, là điều thiết yếu. Một ngôi nhà là nơi mọi người cảm thấy được chào đón, bất kể kinh nghiệm quá khứ và lịch sử đời sống cá nhân.”
Đức Thánh Cha cám ơn cộng đoàn đã gần gũi với nhiều người nghèo qua công việc bác ái của họ. “Đó là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta, vì như Người nói với chúng ta, lặp đi lặp lại trong Phúc Âm: ‘Khi các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy’ (Mt 25,40).”
Đau lòng vì sai lỗi của Giáo hội trong quá khứ
Tuy thế, Đức Thánh Cha lưu ý rằng trong Giáo hội cũng có lúa mì xen lẫn với cỏ lùng. Và đây là lý do ngài đã muốn thực hiện cuộc hành hương thống hối này. Ngài nói: “Tôi bắt đầu nó vào sáng nay bằng việc nhắc lại sai lầm mà nhiều Kitô hữu đã làm với các dân tộc bản địa và bằng cách cầu xin sự tha thứ, với lòng đau khổ. Tôi thật đau lòng khi nghĩ rằng người Công giáo đã góp phần vào các chính sách đồng hóa và chiếm đóng, tạo ra cảm giác thấp kém, cướp đi bản sắc văn hóa và tinh thần của cộng đồng và cá nhân, cắt đứt cội nguồn và nuôi dưỡng thái độ thành kiến và phân biệt đối xử; và điều này cũng được thực hiện dưới danh nghĩa của một hệ thống giáo dục được cho là Kitô giáo.”
Hoà giải nhờ Thánh giá – “cây sự sống”
Tiếp đến, Đức Thánh Cha chia sẻ một số suy tư về từ ngữ Hoà giải.
Trước hết, như Thánh Tông đồ Phaolô cho chúng ta biết, Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách quy tụ lại với nhau, bằng cách làm cho hai nhóm xa cách nhau trở thành một: một thực tại, một linh hồn, một dân tộc. Và Người làm điều đó thế nào? Qua thập giá (x. Ep 2,14). Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta với nhau trên Thánh giá, trên ‘cây sự sống’, như các Kitô hữu xa xưa yêu thích gọi như thế.” Đức Thánh Cha nói: “Trên Thánh giá, Chúa Kitô đã hòa giải và gắn kết lại mọi điều tưởng như không thể tưởng tượng được và không thể tha thứ được; Người ôm lấy tất cả mọi người và mọi vật. Mọi người và mọi vật!”
Các dân tộc bản địa gán cho bốn phương hướng một ý nghĩa vũ trụ mạnh mẽ, không chỉ được xem như các điểm tham chiếu địa lý mà còn là các chiều kích bao trùm tất cả thực tại và chỉ ra cách để chữa lành nó, như được biểu tượng bởi cái gọi là “bánh xe y học” (của thổ dân). Đức Thánh Cha nhận xét nhà thờ Thánh Tâm sử dụng tính biểu tượng đó của bốn phương hướng và cho nó một ý nghĩa Kitô học. Chúa Giêsu, qua bốn cực điểm của Thánh giá của Người, đã ôm choàng bốn điểm chính yếu và đã quy tụ các dân tộc xa xôi nhất lại với nhau; Người đã chữa lành và mang lại bình an cho muôn vật (x. Ep 2,14). Trên Thánh giá, Chúa đã hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa: “hòa giải mọi vật” (x. Cl 1,20).
Thánh giá Chúa có ý nghĩa gì đối với những người mang trong mình những vết thương lòng đau đớn như vậy? Chúng ta cần phải khởi hành lại, từ Thánh giá. Đức Thánh Cha giải thích: “Tình yêu đó khiến Chúa để bàn tay và bàn chân bị đâm xuyên bởi những chiếc đinh, và đầu đội mão gai. Đây là con đường tiến bước: cùng nhau nhìn lên Chúa Kitô, yêu thương bị phản bội và bị đóng đinh vì chúng ta; nhìn lên Chúa Kitô, chịu đóng đinh trong nhiều học sinh của các trường nội trú. Nếu chúng ta muốn được hòa giải với nhau và với chính mình, được hòa giải với quá khứ, với những sai trái đã phải chịu đựng và những ký ức bị thương tích, với những kinh nghiệm đau thương mà không một sự an ủi nào của con người có thể chữa lành được, thì chúng ta phải ngước mắt lên nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh; hòa bình phải đạt được nơi bàn thờ thập giá của Người.”
Giáo hội là thân thể hòa giải sống động
Một khía cạnh khác của sự hòa giải được Đức Thánh Cha chia sẻ là theo Thánh tông đồ Phaolô, Chúa Giêsu, nhờ Thánh giá, đã hòa giải chúng ta nên một thân thể (x. Ep 2,14). Đó là thân thể của Giáo hội. Giáo hội là thân thể hòa giải sống động này. Đức Thánh Cha nói: “Nếu chúng ta nghĩ về nỗi đau lâu dài mà rất nhiều người trong các cơ sở giáo hội phải trải qua ở những nơi này, chúng ta không cảm thấy gì khác ngoài sự tức giận và xấu hổ. Điều đó xảy ra bởi vì các tín đồ trở nên thế tục, và thay vì thúc đẩy sự hòa giải, họ đã áp đặt các mô hình văn hóa của riêng mình…”
Đức Thánh Cha nói tiếp: “Tuy vậy, điều này đã xảy ra bao nhiêu lần trong lịch sử! Trong khi Thiên Chúa bày tỏ mình cách đơn giản và lặng lẽ, chúng ta luôn có cám dỗ áp đặt Người và áp đặt mình nhân danh Người. Chính cám dỗ của thế gian muốn Người xuống khỏi Thánh giá và thể hiện mình bằng quyền lực. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trên Thánh giá, không phải bằng cách xuống khỏi Thánh giá. Dưới chân Thánh giá, có những kẻ chỉ nghĩ đến mình và không ngừng cám dỗ Đức Kitô, bảo Người hãy tự cứu lấy chính mình (x. Lc 23,35,36) và đừng nghĩ đến người khác.”
Đức Thánh Cha cầu xin cho điều này không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội. Xin Chúa Giêsu được rao giảng như Người mong muốn, trong tự do và bác ái. Trong mỗi người bị đóng đinh mà chúng ta gặp, xin cho chúng ta thấy không phải là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được yêu thương, là xác thịt của Chúa Kitô được yêu thương. Xin cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là một thân thể sống động của sự hòa giải!
Nhà thờ – dấu hiệu sự gần gũi của Thiên Chúa
Cuối cùng, trong nhà thờ này, phía trên bàn thờ và Nhà Tạm, có bốn cột của một chiếc lều điển hình của người bản địa, một chiếc lều teepee. Lều teepee này có tính biểu tượng sâu sắc trong kinh thánh. Khi dân Israel hành trình trong sa mạc, Thiên Chúa ngự trong một cái lều được dựng lên mỗi khi dân chúng dừng lại và cắm trại: đó là Lều Hội ngộ. Lều teepee nhắc nhở rằng Thiên Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta và rất thích gặp gỡ chúng ta cùng nhau, trong hội họp, trong hội đồng.
Thiên Chúa là Thiên Chúa gần gũi, và trong Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta ngôn ngữ của lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng. Đó là điều chúng ta nên ghi nhớ mỗi khi bước vào một nhà thờ, nơi Chúa Giêsu hiện diện trong Nhà Tạm, nguyên ngữ có nghĩa là “lều”. Thiên Chúa đã cắm lều của Người ở giữa chúng ta; Người đồng hành với chúng ta qua các sa mạc của chúng ta. Người không ở trong những dinh thự trên trời, nhưng ở trong Giáo hội của chúng ta, nơi mà Người muốn trở thành một ngôi nhà hòa giải.
Đức Thánh Cha kết thúc bài diễn văn với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và sống lại, Chúa ngự ở đây, giữa dân tộc của Chúa, và Chúa muốn vinh quang của Chúa chiếu tỏa qua các cộng đồng và trong các nền văn hóa của chúng con. Xin hãy nắm lấy tay chúng con, và thậm chí băng qua những sa mạc của lịch sử, tiếp tục hướng dẫn những bước đi của chúng con trên con đường hòa giải. Amen.”
Sau bài diễn văn, Đức Thánh Cha cùng cộng đoàn đọc kinh Lạy Cha và sau đó ngài ban phép lành cho mọi người.
Cuối cuộc gặp gỡ Đức Thánh Cha đã chào một số tín hữu của giáo xứ. Sau đó, đi ra ngoài, ngài làm phép tượng thánh nữ Kateri Tekakwitha, nữ thổ dân đầu tiên của Bắc Mỹ được Giáo hội Công giáo tuyên thánh.
Sau cuộc gặp gỡ, Đức Thánh Cha trở về chủng viện thánh Giuse cách đó hơn 4 km để dùng cơm tối và nghỉ đêm, kết thúc ngày thứ hai của chuyến viếng thăm Canada.
Hồng Thủy
2022
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại giáo xứ Thánh Tâm Edmonton
Diễn văn của Đức Thánh Cha tại giáo xứ Thánh Tâm Edmonton
Sự kiện chính thức thứ hai trong chuyến tông du của Đức Thánh Cha là cuộc Gặp gỡ các Dân tộc Bản địa và các thành viên của cộng đoàn giáo xứ tại Nhà thờ Thánh Tâm ở Edmonton của các Dân tộc Đầu tiên.
TÔNG DU CANADA
Bài nói chuyện của ĐTC với các Dân tộc Bản địa
và các Thành viên của Cộng đồng Giáo xứ Edmonton, Nhà thờ Thánh Tâm,
25/07/2022
Anh chị em thân mến, chào anh chị em!
Tôi rất vui khi hiện diện ở đây ở giữa anh chị em và gặp lại một lần nữa những gương mặt của các đại diện của người bản địa đã đến gặp tôi ở Roma vài tháng trước. Cuộc viếng thăm đó rất có ý nghĩa với tôi, và bây giờ tôi đến nhà của anh chị em, như một người bạn và một người hành hương tại miền đất của anh chị em, trong nhà thờ này nơi anh chị em quy tụ lại như những người anh chị em để ngợi khen Thiên Chúa. Tại Roma, sau khi đã lắng nghe câu chuyện của anh chị em, tôi đã tuyên bố rằng “bất cứ tiến trình chữa lành nào để thực sự có hiệu quả cần có những hành động cụ thể” (Diễn từ với các Đại diện các Dân tộc Bản địa Canada, 01/04/2022). Vì vậy tôi hài lòng nhìn thấy điều đó trong giáo xứ này, nơi những người thuộc các cộng đoàn khác nhau thuộc các Dân tộc Đầu tiên, Métis và Inuit đến cùng với những người không thuộc sắc tộc bản địa sống ở địa phương và nhiều anh chị em di dân khác của chúng ta, nỗ lực này đã được bắt đầu. Nơi này là một ngôi nhà cho tất cả, mở rộng và bao gồm, như Giáo hội phải là, vì đó là gia đình của các con cái Thiên Chúa, nơi đón tiếp và chào đón, những giá trị đặc trưng của văn hoá bản địa, là điều cốt yếu. Một ngôi nhà là nơi mọi người cảm thấy được chào đón, bất kể kinh nghiệm quá khứ và lịch sử đời sống cá nhân. Tôi cũng muốn cám ơn anh chị em về sự gần gũi cụ thể mà anh chị em bày tỏ với nhiều người nghèo – vì họ rất đông, ngay cả ở đất nước giàu có này – qua công việc bác ái của anh chị em. Đó là điều Chúa Giêsu yêu cầu chúng ta, vì như Người nói với chúng ta, lặp đi lặp lại trong Phúc Âm: “Khi các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Tuy thế chúng ta không được quên rằng trong Giáo hội cũng có lúa mì xen lẫn với cỏ lùng. Và chính vì những cỏ lùng đó, tôi đã muốn thực hiện cuộc hành hương thống hối này; tôi bắt đầu nó vào sáng nay bằng việc nhắc lại sai lầm mà nhiều Kitô hữu đã làm với các dân tộc bản địa và bằng cách cầu xin sự tha thứ, với lòng đau khổ. Tôi thật đau lòng khi nghĩ rằng người Công giáo đã góp phần vào các chính sách đồng hóa và chiếm đóng, tạo ra cảm giác thấp kém, cướp đi bản sắc văn hóa và tinh thần của cộng đồng và cá nhân, cắt đứt cội nguồn và nuôi dưỡng thái độ thành kiến và phân biệt đối xử; và điều này cũng được thực hiện dưới danh nghĩa của một hệ thống giáo dục được cho là Kitô giáo. Giáo dục luôn phải bắt đầu từ sự tôn trọng và phát huy những tài năng đã có nơi các cá nhân. Nó không phải là, cũng không bao giờ có thể là một thứ gì đó được đóng gói sẵn và áp đặt. Vì giáo dục là một cuộc phiêu lưu, trong đó chúng ta cùng nhau tìm hiểu và khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Tạ ơn Chúa, vì trong những giáo xứ như thế này, ngày qua ngày, qua sự gặp gỡ, những nền tảng đang được đặt để hàn gắn và hòa giải. Tôi muốn nói một điều hông được viết ở đây: Tôi muốn cám ơn một cách đặc biệt công việc mà các giám mục đã làm để đảm bảo tôi có thể đến đây, các bạn có thể đến đây. Một Hội đồng Giám mục thống nhất làm được những điều tuyệt vời, nó mang lại nhiều kết quả. Xin chân thành cảm ơn Hội đồng Giám mục.
Hoà giải. Chiều nay, tôi muốn chia sẻ với anh chị em một số suy tư về từ này. Chúa Giêsu nói gì với chúng ta khi Người nói về sự hòa giải hay khi Người linh hứng cho chúng ta về sự hoà giải? Hoà giải có nghĩa là gì đối với chúng ta ngày nay? Các bạn thân mến, sự hòa giải do Chúa Kitô mang lại không phải là thỏa thuận để duy trì hòa bình bên ngoài, một loại thỏa thuận của các quý ông nhắm để giữ cho mọi người hạnh phúc. Nó cũng không phải là một nền hòa bình từ trên trời rơi xuống, được áp đặt từ trên cao, hoặc bằng cách đồng hóa với nhau. Thánh Tông đồ Phaolô cho chúng ta biết rằng Chúa Giêsu đã hòa giải bằng cách quy tụ lại với nhau, bằng cách làm cho hai nhóm xa cách nhau trở thành một: một thực tại, một linh hồn, một dân tộc. Và Người làm điều đó thế nào? Qua thập giá (x. Ep 2,14). Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta với nhau trên Thánh giá, trên “cây sự sống”, như các Kitô hữu xa xưa yêu thích gọi như thế. Thánh giá, cây sự sống.
Các bạn, những người anh chị em bản địa thân yêu của tôi, có nhiều điều để dạy chúng tôi về biểu tượng và ý nghĩa quan trọng của cây. Được kết hợp với đất bởi rễ của nó, một cái cây cung cấp oxy qua lá và nuôi dưỡng chúng ta bằng quả của nó. Thật ấn tượng khi thấy cách thế biểu tượng của cây được phản ánh trong kiến trúc của nhà thờ này, nơi một thân cây tượng trưng cho sự kết hợp trái đất bên dưới và bàn thờ mà trên đó Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trong Bí tích Thánh Thể trong “một hành động của tình yêu vũ trụ” điều “kết hợp trời và đất, bao trùm và thâm nhập vào mọi tạo vật” (Laudato Si’, 236). Biểu tượng phụng vụ này làm tôi nhớ đến những lời tuyệt vời mà Thánh Gioan Phaolô II đã nói ở đất nước này: “Chúa Kitô linh hoạt chính tâm điểm của mọi nền văn hóa. Vì vậy, không chỉ Kitô giáo phù hợp với người dân bản địa, mà trong các chi thể của Thân thể Người, Chúa Kitô cũng chính là người bản địa” (Phụng vụ Lời Chúa với các Dân tộc Bản địa Canada, ngày 15 tháng 9 năm 1984). Trên Thánh giá, Chúa Kitô đã hòa giải và gắn kết lại mọi điều tưởng như không thể tưởng tượng được và không thể tha thứ được; Người ôm lấy tất cả mọi người và mọi vật. Mọi người và mọi vật! Các dân tộc bản địa gán cho bốn phương hướng một ý nghĩa vũ trụ mạnh mẽ, không chỉ được xem như các điểm tham chiếu địa lý mà còn là các chiều kích bao trùm tất cả thực tại và chỉ ra cách để chữa lành nó, như được thể hiện bởi cái gọi là “bánh xe y học” (của người bản địa). Nhà thờ này sử dụng tính biểu tượng đó của bốn phương hướng và cho nó một ý nghĩa Kitô học. Chúa Giêsu, qua bốn cực điểm của Thánh giá của Người, đã ôm choàng bốn phương và đã quy tụ các dân tộc xa xôi nhất lại với nhau; Người đã chữa lành và mang lại bình an cho muôn vật (x. Ep 2,14). Trên Thánh giá, Chúa đã hoàn thành kế hoạch của Thiên Chúa: “hòa giải mọi vật” (x. Cl 1,20).
Anh chị em thân mến, điều này có ý nghĩa gì đối với những người mang trong mình những vết thương lòng đau đớn như vậy? Tôi tưởng tượng sự khó khăn khi nghĩ đến việc hòa giải của những người đã đau khổ rất nhiều vì những người nam và nữ, những người lẽ ra phải nêu gương về đời sống Kitô giáo. Không gì có thể xoá đi sự vi phạm nhân phẩm, kinh nghiệm về điều ác, sự phản bội của lòng tin. Hoặc loại bỏ sự xấu hổ của chính những người có đức tin chúng ta. Tuy nhiên, chúng ta cần phải khởi hành lại, và Chúa Giêsu không dành cho chúng ta những lời nói hay những đề nghị dễ chịu, mà là Thánh giá: tình yêu đó khiến Chúa để bàn tay và bàn chân bị đâm xuyên bởi những chiếc đinh, và đầu đội mão gai. Đây là con đường tiến bước: cùng nhau nhìn lên Chúa Kitô, yêu thương bị phản bội và bị đóng đinh vì chúng ta; nhìn lên Chúa Kitô, chịu đóng đinh trong nhiều học sinh của các trường nội trú. Nếu chúng ta muốn được hòa giải với nhau và với chính mình, được hòa giải với quá khứ, với những sai trái đã phải chịu đựng và những ký ức bị thương tích, với những kinh nghiệm đau thương mà không một sự an ủi nào của con người có thể chữa lành được, thì chúng ta phải ngước mắt lên nhìn Chúa Giêsu bị đóng đinh; hòa bình phải đạt được nơi bàn thờ thập giá của Người. Vì chính trên cây Thánh giá, nỗi buồn được biến thành tình yêu, sự chết thành sự sống, thất vọng thành hy vọng, sự từ bỏ thành tình bạn, xa cách thành hiệp nhất. Sự hòa giải không chỉ đơn thuần là kết quả của những nỗ lực của chính chúng ta; đó là một ân sủng tuôn tràn từ Chúa chịu đóng đinh, một sự bình an tỏa ra từ trái tim của Chúa Giêsu, một ân sủng cần phải được tìm kiếm.
Có một khía cạnh khác của sự hòa giải mà tôi muốn đề cập. Thánh tông đồ Phaolô giải thích rằng Chúa Giêsu, nhờ Thánh giá, đã hòa giải chúng ta nên một thân thể (x. Ep 2,14). Người đang nói về thân thể nào? Đó là thân thể của Giáo hội. Giáo hội là thân thể hòa giải sống độngnày. Nếu chúng ta nghĩ về nỗi đau lâu dài mà rất nhiều người trong các cơ sở Giáo hội phải trải qua ở những nơi này, chúng ta không cảm thấy gì khác ngoài sự tức giận và xấu hổ. Điều đó xảy ra bởi vì các tín đồ trở nên thế tục, và thay vì thúc đẩy sự hòa giải, họ đã áp đặt các mô hình văn hóa của riêng mình. Thái độ này khó diệt trừ, ngay cả từ quan điểm tôn giáo. Thật vậy, việc ép buộc Chúa trên con người có vẻ dễ dàng hơn là để họ đến gần Chúa. Tuy nhiên, điều này không bao giờ hiệu quả, bởi vì đó không phải là cách Chúa thực hiện. Người không ép buộc chúng ta, Người không đàn áp hoặc áp đảo; ngược lại, Người yêu thương, Người giải thoát, Người để chúng ta tự do. Người không ban Thần Khí của Người để hỗ trợ những kẻ thống trị người khác, những kẻ đã nhầm lẫn Tin Mừng về sự hòa giải của chúng ta với sự chiêu dụ tín đồ. Người ta không thể tuyên xưng Thiên Chúa theo cách trái ngược với chính Thiên Chúa.
Tuy vậy, điều này đã xảy ra bao nhiêu lần trong lịch sử! Trong khi Thiên Chúa bày tỏ mình cách đơn giản và lặng lẽ, chúng ta luôn có cám dỗ áp đặt Người và áp đặt mình nhân danh Người. Chính cám dỗ của thế gian muốn Người xuống khỏi Thánh giá và thể hiện mình bằng quyền lực. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã hòa giải chúng ta trên Thánh giá, không phải bằng cách xuống khỏi Thánh giá. Dưới chân Thánh giá, có những kẻ chỉ nghĩ đến mình và không ngừng cám dỗ Đức Kitô, bảo Người hãy tự cứu lấy chính mình (x. Lc 23,35,36) và đừng nghĩ đến người khác. Nhân danh Chúa Giêsu, xin cho điều này không bao giờ xảy ra nữa trong Giáo hội. Xin Chúa Giêsu được rao giảng như Người mong muốn, trong tự do và bác ái. Trong mỗi người bị đóng đinh mà chúng ta gặp, xin cho chúng ta thấy không phải là vấn đề cần giải quyết, nhưng là anh chị em cần được yêu thương, là xác thịt của Chúa Kitô được yêu thương. Xin cho Giáo Hội, Nhiệm Thể Chúa Kitô, là một thân thể sống động của sự hòa giải!
Từ ngữ “hòa giải” trên thực tế đồng nghĩa với từ “Giáo hội”. Thực tế nó có nghĩa là “hội họp lại lần nữa”. Giáo hội là ngôi nhà nơi chúng ta “hòa giải” một lần nữa, nơi chúng ta gặp nhau để bắt đầu lại và cùng nhau phát triển. Đó là nơi mà chúng ta ngừng suy nghĩ với tư cách cá nhân và thừa nhận rằng chúng ta là anh chị em của nhau. Nơi chúng ta nhìn vào mắt nhau, chấp nhận lịch sử và văn hóa của người kia, đồng thời cho phép sự huyền nhiệm của sự hòa hợp, rất đẹp lòng Chúa Thánh Thần, thúc đẩy việc chữa lành những ký ức bị thương tích. Đây là cách thế: không phải quyết định thay cho người khác, không phải nhốt tất cả mọi người trong phạm vi định kiếncủa chúng ta, nhưng đặt mình trước Chúa bị đóng đinh và trước anh chị em của chúng ta, để học cách bước đi cùng nhau. Đó là điều mà Giáo hội nên và luôn phải như vậy – nơi mà thực tế luôn vượt trội hơn so với các ý tưởng. Đó là điều mà Giáo hội luôn phải như vậy – không phải là một tập hợp các ý tưởng và giới luật để đào sâu vào con người, mà là một ngôi nhà chào đón cho tất cả mọi người! Đó là điều mà Giáo Hội là, và luôn luôn phải như vậy: một tòa nhà với những cánh cửa luôn mở, nơi tất cả chúng ta, như những đền thờ sống động của Thần Khí, gặp gỡ nhau, phục vụ lẫn nhau và được hòa giải với nhau. Các bạn thân mến: những cử chỉ và lời thăm hỏi có thể quan trọng, nhưng hầu hết những lời nói và hành động hòa giải diễn ra ở cấp địa phương, trong những cộng đồng như thế này, nơi các cá nhân và gia đình đi cùng nhau, ngày qua ngày. Cùng nhau cầu nguyện, giúp đỡ nhau, chia sẻ những câu chuyện cuộc sống, những niềm vui chung và những khó khăn chung: đây là điều mở ra cánh cửa cho công việc hòa giải của Thiên Chúa.
Một hình ảnh cuối cùng có thể giúp chúng ta trong việc này. Ở đây, trong nhà thờ này, phía trên bàn thờ và Nhà Tạm, chúng ta nhìn thấy bốn cột của một chiếc lều điển hình của người bản địa, một chiếc lều teepee. Lều teepee này có tính biểu tượng sâu sắc trong Kinh Thánh. Khi dân Israel hành trình trong sa mạc, Thiên Chúa ngự trong một cái lều được dựng lên mỗi khi dân chúng dừng lại và cắm trại: đó là Lều Hội ngộ. Lều teepee nhắc nhở chúng ta rằng Thiên Chúa đồng hành với chúng ta trong cuộc hành trình của chúng ta và rất thích gặp gỡ chúng ta cùng nhau, trong hội họp, trong hội đồng. Và khi nhập thể làm người, Tin Mừng cho chúng ta biết, theo nghĩa đen, Ngài đã “dựng lều của mình giữa chúng ta” (x. Ga 1,14). Thiên Chúa là Thiên Chúa gần gũi, và trong Chúa Giêsu, Người dạy chúng ta ngôn ngữ của lòng trắc ẩn và tình yêu thương dịu dàng. Đó là điều chúng ta nên ghi nhớ mỗi khi bước vào một nhà thờ, nơi Chúa Giêsu hiện diện trong Nhà Tạm, nguyên nghĩa của nó là “lều”. Vì vậy, Thiên Chúa đã đặt lều của Người ở giữa chúng ta; Người đồng hành với chúng ta qua các sa mạc của chúng ta. Người không ở trong những dinh thự trên trời, nhưng ở trong Giáo hội của chúng ta, nơi mà Người muốn trở thành một ngôi nhà hòa giải.
Lạy Chúa Giêsu, chịu đóng đinh và sống lại, Chúa ngự ở đây, giữa dân tộc của Chúa, và Chúa muốn vinh quang của Chúa tỏa sáng qua các cộng đồng và trong các nền văn hóa của chúng con. Xin hãy nắm lấy tay chúng con, và thậm chí băng qua những sa mạc của lịch sử, tiếp tục hướng dẫn những bước đi của chúng con trên con đường hòa giải. Amen.
(vaticannews.va 26.07.2022)
2022
Quân khủng bố tại Syria pháo kích nhà thờ trong lễ khánh thành
Quân khủng bố tại Syria pháo kích nhà thờ trong lễ khánh thành
Thánh đường mang tên Sofia, để thay thế cho Đền thờ Sofia ở Istanbul, Thổ Nhĩ Kỳ bị chính phủ nước này biến thành Đền thờ Hồi giáo.
Hãng tin Asia News, truyền đi ngày 25 tháng Bảy vừa qua, cho biết thánh đường ở thành phố Suqaylabiyah bị pháo kích bằng một máy bay không người lái (drone), trong khi diễn ra lễ khánh thành với sự hiện diện của chính quyền và các tín hữu. Thủ phạm vụ này là nhóm Tahrit al-Sham, từ mười một năm nay vẫn chống chính phủ của Tổng thống Al Assad. Đây là lực lượng thân với nhóm khủng bố Al-Qaeda, nhưng được sự ủng hộ mạnh mẽ của Thổ Nhĩ Kỳ. Lực lượng này vẫn còn kiểm soát nhiều khu vực ở tỉnh Aleppo, Hama và Latalia. Trong những ngày qua, các máy bay chiến đấu của Nga, vốn ủng hộ Tổng thống Al Assad, đã tấn công nhóm này làm cho bảy người trong những vùng phiến quân kiểm soát.
Hồi tháng Ba năm 2020, Nga và Thổ Nhĩ Kỳ đã đình chiến với nhau tại vùng Idlib, và những khu vực phụ cận, nhưng hiệp định đình chiến này bị hai bên vi phạm. Trong tuần trước đây, một trong những đề tài được thảo luận tại Hội nghị thượng đỉnh giữa các vị tổng thống Iran, Thổ Nhĩ Kỳ và Nga nhóm tại Astana bên Kazakhstan về vấn đề hạ cường độ các cuộc xung đột tại Syria.
(Asia News 25-7-2022)
G. Trần Đức Anh, O.P.
2022
Thánh lễ tại Sân vận động Commonwealth ở Edmonton
Thánh lễ tại Sân vận động Commonwealth ở Edmonton
Thứ Ba, 26/7/2022, ngày thứ ba trong chuyến tông du 6 ngày của Đức Thánh Cha đến Canada. Vào lúc khoảng 9 giờ sáng giờ địa phương, nghĩa là khoảng 22 giờ Việt nam, từ Chủng viện Thánh Giuse, Đức Thánh Cha di chuyển đến Sân vận động Commonwealth ở Edmonton cách đó gần 5 km để chủ sự Thánh lễ cho hơn 60.000 tín hữu.
Sân vận động Commonwealth
Sân vận động Commonwealth là một khu phức hợp rộng 17 ha, nằm cách trung tâm thành phố chỉ vài phút trong khu McCauley. Đây là một trung tâm thể thao đa năng ngoài trời, chủ yếu là nơi tổ chức các trận đấu của đội bóng đá Edmonton Elks của Canada, các sự kiện và các buổi hòa nhạc thể thao lớn và quốc tế. Việc xây dựng Sân vận động này bắt đầu vào năm 1975, và hoàn thành vào năm 1978, nhân dịp Thế vận hội Khối Thịnh vượng chung, với sức chứa 42.500 khán giả. Trong những năm qua, nơi đây đã trải qua một số lần cải tạo và hiện đại hóa. Ngày nay, với sức chứa 56.302 chỗ ngồi, Sân vận động Commonwealth là sân vận động ngoài trời lớn nhất Canada.
Thánh lễ
Khi đến nơi, Đức Thánh Cha được đông đảo các tín hữu chào đón bằng những tiếng vỗ tay và bài hát nồng nhiệt. Trước khi cử hành Thánh lễ kính Thánh Gioakim và Thánh Anna, Đức Thánh Cha dùng xe đi xung quanh sân vận động để chào thăm các tín hữu.
Trong bài giảng Thánh lễ, Đức Thánh Cha tập trung vào khuôn mặt của Thánh Gioakim và Anna, nhằm mời gọi các tín hữu biết tôn trọng ông bà và người lớn tuổi cũng như lịch sử mà họ đã xây dựng, đồng thời biết gìn giữ và truyền lại cho thế hệ tương lai lịch sử đó.
Những người con của một lịch sử cần được giữ gìn
Mở đầu bài giảng Đức Thánh Cha nhấn mạnh rằng chúng ta là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn. Chúng ta không phải là những cá nhân biệt lập, những hòn đảo. Không có ai bước vào thế giới này mà không có sự liên kết với người khác. Nguồn gốc của chúng ta, tình yêu đã chờ đợi chúng ta và chào đón chúng ta bước vào thế giới, môi trường gia đình mà chúng ta lớn lên, là một phần của lịch sử duy nhất đã đi trước và trao ban cuộc sống cho chúng ta. Chúng ta không chọn lịch sử đó nhưng đón nhận nó như một ân ban; và lịch sử là một món quà mà chúng ta được kêu gọi để trân trọng. Bởi vì, như Sách Huấn ca đã nhắc nhở: chúng ta là “dòng dõi” của những người đi trước, là “gia tài quý báu” của họ (Hc 44,11).
Quý trọng ông bà và những người nhờ họ chúng ta hiện hữu
Để thực sự đón nhận chúng ta là ai và chúng ta quý giá như thế nào, chúng ta cần phải tiếp nhận những người mà nhờ họ chúng ta hiện hữu. Nhờ ông bà, chúng ta đã nhận được sự âu yếm từ lịch sử trước chúng ta: chúng ta đã học được rằng lòng tốt, sự dịu dàng và trí tuệ là những cội rễ vững chắc của con người. Trong nhà của ông bà, nhiều người trong chúng ta được hít thở hương thơm của Tin Mừng, sức mạnh của một đức tin làm chúng ta cảm thấy như ở nhà. Nhờ ông bà, chúng ta đã khám phá ra một loại đức tin “quen thuộc”. Bởi vì đức tin về cơ bản được thông truyền qua tình cảm và sự khuyến khích, chăm sóc và gần gũi.
Đây là lịch sử của chúng ta, chúng ta là người thừa kế vì thế chúng ta được mời gọi gìn giữ. Ông bà đã để lại trong chúng ta dấu ấn duy nhất về cách sống của họ, cho chúng ta phẩm giá, lòng tin tưởng vào bản thân và người khác. Họ đã ban tặng cho chúng ta một điều gì đó không bao giờ có thể lấy đi được, đồng thời đã cho phép chúng ta trở thành những con người độc nhất, có nguồn gốc và tự do. Từ ông bà, chúng ta học được rằng tình yêu không bao giờ là một sự ép buộc, không bao giờ tước đoạt tự do nội tâm của người khác. Đây là cách Thánh Gioakim và Thánh Anna yêu thương Đức Maria; và đó cũng là cách Mẹ Maria đã yêu Chúa Giêsu, bằng một tình yêu không bao giờ làm nghẹt thở hay giữ lại cho riêng mình, nhưng đồng hành trong việc thực hiện sứ vụ đã đến trong thế giới. Chúng ta hãy cố gắng học điều này với tư cách là cá nhân và với tư cách là Giáo hội.
Không đánh mất ký ức của người lớn tuổi
Sách Huấn ca cũng cho chúng ta biết rằng gìn giữ lịch sử đã cho chúng ta cuộc sống không có nghĩa là che khuất “vinh quang” của tổ tiên chúng ta. Chúng ta không được đánh mất ký ức ủa họ, cũng như không quên lịch sử đã sinh ra cuộc sống chúng ta. Chúng ta phải luôn nhớ đến đôi bàn tay âu yếm đã ôm chúng ta trong vòng tay của họ, bởi vì chính trong lịch sử này, chúng ta tìm thấy niềm an ủi trong những lúc nản lòng, một ánh sáng dẫn đường cho chúng ta và khuyến khích chúng ta can đảm đối diện với những thách đố cuộc sống. Tuy nhiên trân trọng ký ức của họ cũng có nghĩa là luôn quay trở lại ngôi trường đó, nơi lần đầu tiên chúng ta học bài học tình thương. Điều đó có nghĩa là, khi đối diện với những lựa chọn hàng ngày, chúng ta hãy tự hỏi mình rằng những người già khôn ngoan mà chúng ta từng biết và ông bà chúng ta sẽ khuyên chúng ta điều gì?
Gìn giữ và quý trọng ký ức
Tới đây, Đức Thánh Cha đặt ra một số câu hỏi: “Chúng ta hãy tự hỏi: liệu con cháu chúng ta có khả năng bảo vệ kho tàng mà chúng ta đã được thừa hưởng này không? Chúng ta có nhớ những lời dạy tốt đẹp mà chúng ta đã lãnh nhận không? Chúng ta có nói chuyện với những người lớn tuổi và dành thời gian lắng nghe họ không? Và trong những ngôi nhà ngày càng được trang bị hiện đại, đầy đủ và tiện dụng, chúng ta có biết dành một không gian xứng đáng để lưu giữ những ký ức của họ, một vị trí đặc biệt, qua những bức ảnh, vật dụng quý giá cho phép chúng ta nghi nhớ trong cầu nguyện những người đi trước chúng ta không? Chúng ta có biết giữ gìn Kinh Thánh và chuỗi hạt Mân Côi của tổ tiên không? Trong lớp sương mù của sự lãng quên che mờ thời kỳ hỗn loạn của chúng ta, điều cần thiết là phải vun trồng cội nguồn của chúng ta, cầu nguyện cho và với các bậc tiền nhân, dành thời gian để ghi nhớ và bảo vệ di sản của họ. Đây là cách một cây gia đình phát triển, đây là cách tương lai được xây dựng”.
Những người thợ của một lịch sử cần được xây dựng
Đức Thánh Cha nói đến điều quan trọng thứ hai: “Ngoài việc chúng ta là những người con của một lịch sử cần được giữ gìn, chúng ta còn là những người thợ của một lịch sử cần được xây dựng. Mỗi người chúng ta có thể nhận ra mình là ai, được đánh dấu bằng cả ánh sáng và bóng tối, và bằng tình yêu mà chúng ta đã nhận được hay không. Đây là điều bí ẩn của cuộc sống con người: tất cả chúng ta đều là con của ai đó, được ai đó sinh ra và thành hình, nhưng khi chúng ta trở thành người lớn, chúng ta cũng được kêu gọi trao ban sự sống, trở thành cha, mẹ và ông bà của người khác. Vì vậy, nhìn về con người của chúng ta ngày hôm nay, chúng ta muốn làm gì cho bản thân? Ông bà đi trước, những người cao tuổi mơ ước, hy vọng và hy sinh vì chúng ta, hỏi chúng ta một câu hỏi cơ bản: các con muốn xây dựng một xã hội như thế nào? Chúng ta đã nhận được rất nhiều từ bàn tay của những người đi trước. Đến lượt chúng ta, chúng ta muốn để lại điều gì cho những người đến sau? Một đức tin sống động hay ‘Nước hoa hồng?’ Một xã hội được thành lập dựa trên lợi nhuận của các cá nhân hay dựa trên tình huynh đệ? Một thế giới hòa bình hay chiến tranh? Một thụ tạo bị tàn phá hay một ngôi nhà tiếp tục được chào đón?”
Chuyển động mang lại sự sống đi từ rễ đến quả
Đức Thánh Cha nhắc mọi người không được quên rằng nhựa mang lại sự sống đi từ rễ đến cành, đến lá, đến hoa, rồi đến quả của cây. Truyền thống đích thực được thể hiện theo chiều dọc: từ dưới lên. Chúng ta cẩn thận để không rơi vào bức tranh biếm họa của truyền thống, nó không di chuyển theo chiều dọc – từ rễ đến quả – mà theo hàng ngang – tiến và lùi. Truyền thống hình thành theo cách này chỉ dẫn chúng ta đến loại “văn hóa lạc hậu” nơi ẩn náu ích kỷ, đơn giản là nuôi dưỡng hiện tại, nhốt nó trong não trạng với lý luận “Chúng tôi luôn làm theo cách này”.
Thắp lại ngọn lửa mà ông bà đã nhóm lên
Theo Đức Thánh Cha, vấn đề không phải là bảo quản tro, nhưng là thắp lại ngọn lửa mà ông bà đã nhóm lên. Ông bà và những người lớn tuổi của chúng ta mong muốn thấy một thế giới công bằng, huynh đệ và liên đới hơn và họ đã chiến đấu để mang lại cho chúng ta một tương lai. Giờ đây, chúng ta không để họ thất vọng. Được những người là cội nguồn hỗ trợ, bây giờ đến lượt chúng ta việc sinh hoa kết trái là tùy thuộc vào chúng ta. Chúng ta là những cành phải nở hoa và gieo rắc những hạt giống mới vào lịch sử.
Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu hãy tự hỏi mình: “Tôi có đang tạo ra sự sống không? Tôi có đang mở ra cho lịch sử một tình yêu mới mà trước đây chưa có không? Tôi có đang loan báo Tin Mừng trong khu phố của tôi không? Tôi có đang tự do phục vụ người khác như cách mà những người đi trước đã làm cho tôi không? Tôi đang làm gì cho Giáo hội, thành phố và xã hội? Thật dễ dàng để chỉ trích, nhưng Chúa không muốn chúng ta chỉ là những người chỉ trích hệ thống, hoặc khép kín và ‘lạc hậu’. Đúng hơn Chúa muốn chúng ta trở thành những người thợ của một lịch sử mới, những người dệt nên hy vọng, những người xây dựng tương lai, kiến tạo hòa bình”.
Kết thúc bài giảng, Đức Thánh Cha cầu nguyện xin Thánh Gioakim và Anna chuyển cầu để chúng ta biết trân trọng lịch sử đã cho chúng ta sự sống, và biết xây dựng một lịch sử đó. Ngài mời gọi: “Xin Thánh Gioakim và Anna nhắc nhở chúng ta về bổn phận tinh thần của chúng ta trong việc kính trọng ông bà và những người lớn tuổi, quý trọng sự hiện diện của họ để xây dựng một tương lai tốt đẹp hơn. Một tương lai nơi người già không bị gạt sang một bên vì ‘từ quan điểm thực tế họ không còn cần thiết nữa’. Một tương lai không cho rằng giá trị của con người là do những gì họ tạo ra. Một tương lai không thờ ơ với nhu cầu cần được lắng nghe và quan tâm của người già. Một tương lai mà lịch sử bạo lực và gạt ra bên lề mà các anh chị em bản địa của chúng ta phải chịu đựng sẽ không bao giờ lặp lại. Tương lai đó là có thể nếu với sự trợ giúp của Chúa, chúng ta không cắt đứt mối dây liên kết giữa chúng ta với những người đi trước và nuôi dưỡng cuộc đối thoại với những người sẽ đến sau chúng ta. Già trẻ, ông bà và con cháu cùng nhau chúng ta tiến về phía trước, và cùng nhau chúng ta hãy ước mơ”.
Ngọc Yến