2022
Lời Chủ Chăn GP Xuân Lộc tháng 08 – 2022: “Hãy ngước mắt lên mà nhìn” (Ga 4:35)
LỜI CHỦ CHĂN GIÁO PHẬN XUÂN LỘC
THÁNG 08 – NĂM 2022:
“Hãy ngước mắt lên mà nhìn” (Ga 4:35)
Quý Cha và Quý Tu sĩ thân mến,
Một
Chúa Giêsu gọi: ‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn’. Chúa gọi ai? Gọi ‘những kẻ Người muốn’. Họ đến, ở với Người. Đó là nhóm 12 (x. Mc 3: 13-19).
Chúa Giêsu gọi: ‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn’. Chúa gọi ai? Gọi ‘những kẻ Người muốn’. Họ đến, ở với Người. Đó còn là nhóm 72. Thánh Luca, đệ tử của Tông đồ dân ngoại, đề cập sự kiện Chúa Giêsu mở rộng nhóm loan Tin Mừng của Giáo hội tới tầm vóc toàn cầu qua con số 72. Chúng ta nhận thức tính chất nghiêm túc của thông tin này. Ngay từ đầu, tham dự sứ mạng của Chúa Giêsu, không nguyên nhóm 12, nhưng còn nhiều hơn nữa. Chúa muốn nhiều hơn nữa…Thánh sử Luca, với số 72, hẳn là liên hệ tới danh sách 72 dân tộc thế giới nơi đoạn 10 sách Khởi Nguyên.
‘Khởi Nguyên 10 lược toát dưới hình thức gia phả, kiến thức của người Israel vào lối thế kỷ thứ năm. Các dân được chia ra từng nhóm, không theo chủng tộc, ngôn ngữ, nhưng theo liên lạc lịch sử và địa dư. Bản thống kê dựa trên một tế nhận đạo lý: sự duy nhất của một nhân loạilan tràn trên mặt đất cho thấy sự chúc lành của Thiên Chúa (Kn 9: 1) được thành tựu làm sao. Trái lại, nguồn văn Yahviste, (11: 1-9) sự tản mác là do bởi tội. Hai phương diện của lịch sử nhân loại: trong đó Thiên Chúa có can thiệp nhưng loài người cũng lộ bày ra ác tính của họ’[1].
Chúa Giêsu gọi: ‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn’. Nhìn ai? Nhìn vào đoàn ‘dân chúng đông đảo’, ‘rảo bộ mà đổ dồn đến nơi ấy’. Về hiện tượng, các Tông đồ vẫn thấy họ đi lại trước mắt, nghe họ truyện trò ồn ào…mà về tương quan, Tông đồ và đoàn dân vẫn lạ xa ngăn cách… ‘Hãy ngước mắt mà nhìn’, ‘nhìn’ trong phong cách Giêsu nhìn ‘họ như cừu chiên không có người chăn giữ’, ‘nhìn’ trong phong cách Giêsu ‘chạnh lòng thương xót họ’, ‘nhìn’ trong phong cách Giêsu ‘lên tiếng giảng dạy họ nhiều điều’ và cho ‘ai nấy đều ăn và ăn no’ (x. Mc 6: 30-44).
Thánh sử Gioan lưu giữ và cẩn thận tường thuật từng lời của Chúa Giêsu: ‘Này: Ta bảo các ngươi: Hãy ngước mắt lên mà nhìn: Đồng lúa đã chín vàng chờ gặt!’ Chờ gặt là sao? Đó là ‘thu lượm hoa màu cho sự sống đời đời’ (Ga 4: 35.36)… ‘Chúa Giêsu băng qua Samari’… ‘mỏi mệt vì đàng sá, nên Đức Giêsu ngồi phệt xuống bên giếng. Lúc ấy chừng giờ thứ sáu’… ‘Có một phụ nữ người Samari đến kín nước. Đức Giêsu nói với bà ấy ‘cho tôi uống với’…Có một bờ lũy hiểm trở ‘Làm sao ông là Dotháimà lại xin uống với tôilà đàn bà Samari?’…
Đến trong tâm trí chúng ta vấn nạn của một luật sĩ: ‘Nhưng ai là đồng loại của tôi?’ (Lc 10: 29). Chúa Giêsu đã dẫn luật sĩ vào thứ tự phân định: không phải tìm ngoài tôi ai là đồng loại, nạn nhận dở sống dở chết hay người Samaritanô, và sẽ rơi vào mông lung mơ hồ…nhưng trước tiên xác định ngay ‘chính tôi’ là ‘người đồng loại’ và như thế, giải đáp được sáng tỏ. ‘Chính tôi’ là người đồng loại thì cả nhân loại đều trong trái tim tôi…
Chúa Giêsu đã đặt chính mình là ‘người đồng loại’,vượt bờ lũy ngăn cách để đi vào tâm tư cuộc đời phụ nữ Samari…Bờ lũy ‘gàu Ngài không có, giếng thì sâu, vậy Ngài lấy đâu ra cho có nước sinh sống?’…Nếu chị ‘biết được ơn của Thiên Chúa và ai là người đang nói với chị…’Phụ nữ Samari đã chạm đến Đấng làm thỏa khát khao của chị… ‘xin Ngài ban cho tôi thứ nước ấy, để tôi hết khát và khỏi phải đến đây kín nước’… ‘Lạy Ngài, tôi thấy Ngài là một tiên tri’…và chị bỏ cả vò nước, về làng nói với mọi người ‘Hãy đến mà xem’…
Chúa Giêsu tận tụy ‘lòng kề lòng’ (cor ad cor), thấm mùi ‘chiên cừu’ bơ vơ, giữa ‘đồng lúa chín vàng chờ gặt’,‘thu lượm hoa màu cho sự sống đời đời’…
Hai
Chúa Giêsu muốn Giáo hội là hiện thân của Chúa và muốn các tín hữu là hiện thân của Giáo hội, mang ơn sự sống đời đời cho nhân thế.
Chúa Giêsu mời gọi tất cả chúng ta ‘đến, ở với Người’ và ‘hãy thụ giáo’ với Người (x. Mt 11: 29).
Thụ giáo tinh thần hiệp hành ‘gặp gỡ, lắng nghe, phân định’ (ĐTC Phanxicô, bài giảng 10.10.2021) như Chúa Giêsu bên thanh niênvới tâm trạng ‘tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm cơ nghiệp?’ (Mc 10: 17)…như Chúa Giêsu bên hai môn đệ về Emmaus, sau đoạn đường chung bước, quyến luyến ‘cố nài ép…Hãy lưu lại với chúng tôi, vì trời đã về chiều, và ngày đã xế’ (Lc 24: 29)…và như Chúa Giêsu linh hướng cho phụ nữ Samari, Người ‘ngồi phệt xuống bên giếng’… bất kể ‘mỏi mệt vì đàng sá’…nhập nội ‘đồng lúa chín vàng chờ gặt’, thu lượm hoa màu cho sự sống đời đời’ (Ga 4: 6.35.36).
Anh chị em thân mến,
Anh chị em có nghe được tiếng lòng tín hữu mong mỏi mục tử, tu sĩ đạo đức để lòng họ được nâng lên không? Và cả những tiếc nuối khôn vơi…trước những mục tử :
‘Xẩy có lời Đức Chúa đến với tôi rằng: con người hỡi, hãy tuyên sấm trên các mục tử của Israel…Đức Chúa phán thế này: khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ chăn nuôi lấy mình. Mục tử thì phải chăn chiên chứ?Sữa, các ngươi ăn; len, các ngươi mặc; những con vật béo tốt, các ngươi làm thịt. Còn chiên các ngươi lại không chăn; chúng ốm yếu, các ngươi không bổ sức; chúng bịnh hoạn, các ngươi không chạy chữa; chúng xây xát, các ngươi không băng bó; chúng tản mác, các ngươi không lùa về; chúng thất lạc, các ngươi không tìm kiếm. Các ngươi thống trị trên chúng bằng võ lực, bằng bạo ngược. Chiên của Ta đã tán loạn, không người chăn giữ. Chúng đã nên mồi cho tất cả các dã thú…’ (Ezekiel 34: 1-5).
Anh chị em thân mến,
…Chúa Giêsu và Hiền Thê của Người tha thiết gọi chúng ta: ‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn…Họ như cừu chiên không có người chăn giữ’ (x. Mc 6: 30-44)…‘Hãy ngước mắt lên mà nhìn: Đồng lúa đã chín vàng chờ gặt…thu lượm hoa màu cho sự sống đời đời’ (Ga 4: 35.36).
Gương lành cuộc đời Thánh I-nhã, 500 năm trước (1522), Người được ơn hoán cải…và 400 trăm năm trước (1622), Người được Giáo hội tuyên Thánh. Hoán cải và nên Thánh,hành trình cuộc đời chúng ta.
✞ Gioan Đỗ Văn Ngân
Giám mục Giáo phận Xuân Lộc
2022
Thượng Hội Đồng và tính hiệp hành theo Tân Ước
THƯỢNG HỘI ĐỒNG VÀ TÍNH HIỆP HÀNH THEO TÂN ƯỚC
Yves-Marie Blanchard[1]
Xem ra việc đề cập đến tính hiệp hành trong Tân Ước là hơi tự phụ vì chữ “thượng hội đồng” lẫn khái niệm thần học ẩn dưới khái niệm ấy không thấy xuất hiện trong các bản văn Tân Ước.
Cuộc hội họp tại Giêrusalem, thường được đưa ra làm mẫu mực, cũng không phải là đối tượng để người ta đánh giá, ngoài việc “các tông đồ và các kỳ mục họp nhau (động từ sun-agô ở thụ động cách) để xem xét vụ này” (Cv 15,6). Trong trường hợp ấy, nó có liên quan đến các lời phát biểu của một số người Pharisêu đã trở thành tín hữu chủ trương “phải làm phép cắt bì cho những người ngoại đã trở lại và truyền cho họ giữ luật Môsê” (Cv 15,5). Cuộc thảo luận lúc bấy giờ được điều hành do các người có thể được xem là chuyên viên diễn ra trước mặt cộng đồng địa phương, được gọi cách đơn giản là “tất cả đám dân” (pan to plèthos: Cv 15,12).
Ngược lại, khi các cuộc thảo luận kết thúc, quyết định gửi các sứ giả đến Antiôkhia được xem như là thành quả của một thỏa thuận giữa các giới chức cộng đồng tại Giêrusalem, một lần nữa được gọi là “các tông đồ và kỳ mục” và toàn thể hội nghị (holè hè ekklèsia: Cv 15,22). Như thế, người ta đã dùng trước từ ekklèsia – dịch sát là: hội nghị được triệu tập (động từ ek-kaleô) của mọi công dân đã đến hạn tuổi – việc dùng trước hạn từ này sẽ được coi như tiêu chuẩn để vừa gọi cộng đoàn riêng biệt vừa gọi sự hiệp thông giữa các thực thể địa phương.
Sự tương tác của các từ nguyên
Về từ gốc của chữ sun–odos, trong tiếng Hy Lạp cổ điển chỉ người bạn đồng hành (hè hodos: quốc lộ, dân lộ, con đường), nó chỉ xuất hiện 2 lần trong toàn bộ Tân Ước, và chỉ trong các bản văn của Luca mà thôi. Trước hết nơi Luca 2,44, chữ sun-odia áp dụng cho đoàn người hành hương trở về từ Giêrusalem. Cha mẹ của trẻ Giêsu, không biết ngài còn ở lại trong Đền thờ với các thầy tiến sĩ, nên nghĩ ngài đi về với các khách hành hương. Thánh Luca ghi nhận sự nhầm lẫn của các ngài kéo dài cả một ngày đàng (dịch sát: “con đường của một ngày” – hèmeras hodos). Sự quy chiếu về đoạn đường đã đi ở đây thật rõ ràng: nhưng có phải vì thế mà ta có thể nối kết một cách có hệ thống với các từ “thượng hội đồng” và “tính hiệp hành” không?
Đàng khác, nơi Cv 9,7, động từ sun-odeuô (cùng đi chung) liên hệ đến các bạn đồng hành với Phaolô trên đường Đamát: họ bỗng chốc hoảng sợ vì nghe được tiếng người nói với Phaolô, nhưng không biết từ đâu đến. Ở đây nữa, hình ảnh con đường thật rõ nét, nếu chỉ xét bối cảnh tường thuật. Nhưng đối với chúng ta, câu hỏi được đặt ra một lần nữa: nó có nhất thiết phát xuất từ chữ “thượng hội đồng” (sun-odos) như chúng ta dùng hiện nay? Hơn nữa, cần lưu ý là từ Hy Lạp sun-odos thông thường không chỉ một nhóm người quy tụ lại, ví dụ để cùng đi, nhưng chỉ một cá nhân, một người bạn của những người khác cùng đi bên cạnh người ấy. Do đó, từ tương đương trong tiếng Latinh sẽ là danh từ comes, -itis; danh từ này gồm tiếp đầu ngữ cum và động từ ire (đi). Bản Phổ thông sẽ dịch từ sun- odia của Lc 2,24 bằng danh từ comitatus, us để chỉ động tác cùng đi với nhau, và động từ sun-odeuô bằng comitari (cùng đi chung với nhau) áp dụng cho các bạn đồng hành với Phaolô trên đường Đamát.
Như vậy giải quyết ra sao vấn đề từ nguyên của từ “synode” được xem như tương đương với từ Latinh concilium; từ này lại xuất phát từ một động từ Latinh cổ calare: gọi, triệu tập, là cặp đôi với từ Hy Lạp kaleô, có mặt trong danh từ ek-klèsia?
Theo ý kiến của các chuyên viên ưu tú, ý kiến này cũng chỉ xác nhận những dữ kiện của Từ điển Hy Lạp-Pháp của Bailly, từ sun- odos gồm tiếp đầu ngữ sun và danh từ oudos hay odos (đọc với hơi thở nhẹ, khiến nó khác với con đường: hodos, đọc với hơi thở mạnh). Danh từ oudos/odos chỉ cái ngưỡng của một ngôi nhà, giống như lối đi phải vượt qua nếu người ta muốn ở chung với nhau hay họp nhau vì bất cứ mục đích nào, bắt đầu bằng nhu cầu trao đổi, bàn cãi, thảo luận. Do đó, từ sunodos, thường gặp trong tiếng Hy Lạp (ngược với từ đồng âm của nó liên quan đến con đường và rất ít được sử dụng) chỉ mọi thứ hội nghị, họp mặt, hội thảo, giả định người ta gặp nhau, dành thời giờ lắng nghe nhau, chia sẻ, quyết định, giống như đã xảy ra ở hội nghị tại Giêrusalem. Từ đó, cho dù vì lợi ích thực tiễn của một từ nguyên gợi lên sự kiện đi đường, ta phải nhìn nhận rằng ý nghĩa chính xác của từ “synode” liên quan đến sự kiện dừng lại để cùng xác định tình hình một vấn đề, sẵn sàng chia tay sau đó và, tiếp tục theo đuổi con đường đã đi với bước đi tích cực hơn. Lúc ấy, việc ở chung hay sống chung với nhau quan trọng hơn là làm việc chung, lời trao đổi tỏ ra cần thiết cho việc tiếp tục lên đường.
Ở và làm / ở hay làm
Làm sao không nghĩ đến trình thuật của Gioan về việc rửa chân? Ở đó nữa, sự kiện “dự phần” với Chúa Kitô, bằng việc để cho Chúa rửa chân (Ga 13,5-11), sự kiện đó đi trước và tạo điều kiện cho chúng ta có khả năng noi gương Ngài để rửa chân cho nhau, một cách khiêm tốn và hoàn toàn quảng đại (Ga 13,12-15). Hình ảnh ngưỡng cửa cũng có thể gợi lên hình ảnh cánh cửa trong Gioan (Ga 10,1-10) – đàng khác hình ảnh cánh cửa còn được đồng hóa với Chúa Kitô mục tử – để cho đàn chiên đi qua mà vào trong vào cuối ngày (để được an toàn trong đêm) cũng như đi qua mà ra ngoài mỗi buổi sáng, để đến các nguồn nước và đồng cỏ cần thiết cho đàn chiên sống còn. Như thế, đối với các con chiên trong dụ ngôn, đi qua cánh cửa – hay ngưỡng cửa – theo chiều này hay chiều kia là vấn đề sinh tử, thì đối với cộng đoàn các môn đệ vấn đề không kém cần thiết là quy tụ lại, trong nhà và như thể là họp kín, để bàn luận những câu hỏi và vấn nạn mà việc thực thi sứ vụ hằng ngày đặt ra. Như thế tiến trình hiệp hành xem ra trước tiên thuộc trật tự ở với nhau, trước khi nói đến việc lên đường trở lại để đi với nhau. Dù sao đi nữa, sự đối chiếu hai từ nguyên, từ nguyên đúng cũng như từ nguyên sai, có thể tạo nên nhiều ảnh hưởng về phương diện giáo hội học cũng như trong lãnh vực áp dụng mục vụ. Tuy nhiên, người ta sẽ được tất cả, nếu không bằng lòng với những phỏng đoán ngữ nghĩa học, cả đến những ảo tưởng về từ nguyên.
Cũng thế đối với những trình thuật kêu gọi nhóm Mười Hai trong các Tin mừng Nhất lãm. Việc “làm” được chờ đợi nơi các tông đồ khi được sai đi tỏ ra không thể tách biệt với việc “ở” với Chúa Giêsu, làm thành cấu tố của điều kiện làm môn đệ. Giống như đối với từ “hiệp hành”, trước tiên phải cùng ngồi lại với nhau, nếu sau đó muốn bước đi cùng một nhịp, nghĩa là loan báo Tin mừng theo cách của chính Chúa Giêsu, chứ không theo một gương mẫu nào khác thừa hưởng của thế gian. Như thế, Máccô, tuy giản dị, nhưng cũng nói đến việc làm bạn trước đó với Chúa Giêsu:
“Người lên núi và gọi đến với Người những kẻ Người muốn. Và các ông đến với Người. Người lập Nhóm Mười Hai, để các ông ở với Người và để Người sai các ông đi rao giảng, với quyền trừ quỷ” (Mc 3,13-15).
Mátthêu trực tiếp đi từ kêu gọi đến sai đi (Mt 10,1-3), sau đó kể tiếp các chỉ thị truyền giáo (10,5-15) mà phần lớn được tìm thấy trong Máccô (6,10-11), cũng như trong Tin mừng thứ ba. Về phần Luca, ngoài thói quen nhấn mạnh đến lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trước mọi quyết định quan trọng (6,12), đã cẩn thận phân biệt hai tình trạng nối tiếp nhau được đặt cho các bạn đồng hành của Chúa Giêsu (6,13): trước hết, tình trạng làm môn đệ, giả thiết một sự gần gũi mọi lúc (có lẽ theo cách của các huynh đoàn Pharisêu nối kết chặt chẽ thầy và trò); sau đó là tình trạng làm tông đồ, đặc thù của Nhóm Mười Hai, trong khi chờ đợi chương trình hành động : chương trình này không những định hình cho sứ vụ riêng biệt của họ (9,1-6), nhưng còn áp dụng cho nhóm 72, bằng những từ ngữ gần như giống hệt nhau (10,1-12). Cách diễn tả của Luca 6,13 – “Đến sáng, Người kêu các môn đệ lại, chọn lấy mười hai ông và gọi là tông đồ” – đặt Nhóm Mười Hai vào trung gian của hai tập thể: một đàng, các môn đệ của Chúa Giêsu mà công việc hàng đầu là lắng nghe Thầy để được huấn luyện tại trường học của Thầy; đàng khác, các tông đồ dành riêng cho sứ vụ ở xa, với tất cả những đòi hỏi cần thiết cho một công tác vừa cam go vừa phấn khởi.
Như thế, ơn gọi Kitô hữu, được hình dung qua thân phận của Nhóm Mười Hai, nối kết hai chiều kích bổ túc cho nhau: hiện hữu và hành động. Tính Hiệp hành của Giáo hội nằm ở nơi khả năng “ngồi chung với nhau” để cầu nguyện, thảo luận, quyết định, đồng thời nơi khả năng “đồng hành” trên những con đường thi hành sứ vụ. Do đó, hai từ nguyên của chữ sunodos cũng tỏ ra phong phú xét theo quan điểm giáo hội học, cho dù cuộc tranh luận của các nhà văn phạm học về giá trị khoa học của giả thuyết này hay giả thuyết kia có là gì đi nữa.
Hội nghị Giêrusalem
Đã đến lúc ta nên trở lại với hoạt cảnh mẫu mực của hội nghị diễn ra tại Giêrusalem theo Cv 15. Thật vậy, đó là kinh nghiệm hiệp hành duy nhất được nêu ra rõ ràng trong Tân Ước. Người ta không thể không xem đó là một “mẫu gương” khả dụng qua các thời đại, tuy không đánh giá thấp khoảng cách lớn lao giữa một bên là những dò dẫm ban đầu vào thời các tông đồ và bên kia là các thể chế vững chắc và các bố trí nặng nề được Giáo hội thiết lập vào thời các giáo phụ và còn tồn tại cho đến nay. Không nhấn mạnh tới những điểm tương đồng với các hoàn cảnh hiện nay, chúng ta cũng có thể nêu ra nhiều đặc điểm của hội nghị nói trên, điều đó không phải là không có ích cho ngày hôm nay.
Trước tiên, cuộc gặp gỡ tại Giêrusalem không có mục đích nào khác ngoài việc thực thi Sứ mạng, trong những điều kiện tốt nhất có thể, bắt đầu bằng việc đón nhận các tân tòng đến từ ngoại giáo. Đó không phải là việc Giáo hội nhìn lại chính mình hay thảo luận về số phận của chính mình, độc lập với ưu tiên dành cho việc Phúc âm hóa. Vấn đề được thảo luận xuất phát chính yếu, từ những thành công do Phaolô và Banaba đạt được nơi lương dân (bảng tổng kết rất tích cực, được nhắc lại trong 14,26-28), mặc cho một số Kitô hữu gốc Do thái (15,1), đặc biệt những thành viên của các nhóm đạo đức người Pharisêu e ngại (15,5). Đàng khác, nguồn gốc của một “công đồng chung” – như người ta sẽ nói mãi về sau này – chỉ được áp dụng sau khi đã sử dụng hết mọi hình thức bàn thảo với nhau giữa các tác nhân trực tiếp liên quan đến vấn đề (15,2.6). Từ đó, tất cả nội dung của các cuộc thảo luận liên hệ đến việc mở rộng công cuộc truyền giáo, như được thực hành bởi Phaolô trong số các người khác: các diễn giả, Phêrô (15,7-9) cũng như Giacôbê (15,14) cũng đều quy chiếu về đó.
Kế đến, cho dù vấn đề quan trọng, bầu khí nói chung vẫn vui vẻ, tiếp theo các thành công truyền giáo đạt được tại chỗ và được Phaolô và Banaba thuật lại khi các ngài về Antiôkhia (14,27-27), sau đó tại Giêrusalem (15,4). Đàng khác, sự đi lại giữa hai thủ phủ của Kitô giáo đầu tiên đã làm phát sinh những trình thuật “khiến tất cả anh em rất đỗi vui mừng” (15,3).
Cũng thế, các phát biểu của các diễn giả tiếp nối nhau không cho thấy bất cứ một khiêu khích nào, mỗi người đều quan tâm xây dựng một cách hợp lý các luận cứ trình bày (như Phêrô: 15,10-12), khi cần không ngần ngại nại đến uy thế không thể chối cãi trong lãnh vực này là Kinh thánh (15,15-18), như được thực hành trong môi trường Do Thái nơi các hội đường. Ngay chính các người tham dự cũng giữ một sự thinh lặng chăm chú, và có lẽ phần lớn đều ủng hộ (15,12). Dẫu sao, một khi đạt được thỏa thuận, niềm vui chung có thể bộc lộ không dè giữ (15,31), sự liên kết như thế được củng cố giữa các cộng đoàn địa phương và các nhà truyền giáo lưu động; các nhà truyền giáo này thực thi thừa tác vụ do các Giáo hội ủy thác, chính yếu là Giáo hội Antiôkhia, đi tiên phong trong lãnh vực này (x. 13,2-3). Điều đáng lưu ý là, nếu cuộc thảo luận diễn ra công khai trước mặt mọi người (15,12), các quyết định chung cuộc cũng được truyền đạt cho mọi người, bao gồm những người ở xa, bằng cách gửi đến Antiôkhia một phái đoàn có uy tín cấp cao (15,22.30-34).
Như thế thay vì chỉ hoàn toàn theo cảm tính, sự hiệp nhất được tìm lại là thành quả của một công trình mà độc giả thời nay chỉ có thể đánh giá cao tính cách chặt chẽ của phương pháp, ngay cả trên bình diện truyền thông, là điều cần thiết cho sự đón nhận tốt đẹp toàn bộ tiến trình công đồng. Ở đây nữa, ngày hôm nay chúng ta học biết được điều gì đó…
Riêng về chính thành quả, nếu có những dáng vẻ thỏa hiệp thì không vì thế mà có tính cách tùy tiện: nó còn có vẻ quy chiếu về điều mà chúng ta gọi là “trật tự các chân lý”. Thật vậy, nó phân biệt rõ ràng giữa cái chính yếu mà người ta không thể nhân nhượng – đó là không được áp đặt cái gì ngăn cản các tân tòng gốc ngoại giáo đến với ơn cứu độ (nói cách khác, việc bó buộc phải cắt bì) – và cái phụ thuộc, như các quy định về ăn uống, và ngay cả về hôn nhân; về những quy định này, có thể xem chúng là những cam kết bảo vệ nền tảng Do Thái và Kitô giáo của cộng đoàn Antiôkhia. Một sự khôn ngoan như thế phản ánh một chút gì đó thái độ hòa giải nổi tiếng của Luca. Dù sao đi nữa, sự khôn ngoan ấy mặc cho trình thuật của sách Công vụ một màu sắc lạc quan và thoải mái: điều này chỉ có thể khuyến khích các độc giả thời nay cổ võ cho việc thực hành tính hiệp hành như vậy giữa lòng các Giáo hội Kitô giáo – và hơn thế nữa giữa các Giáo hội ấy với nhau, theo một đường hướng đại kết minh nhiên – và thực hành điều đó nhân danh sự ưu tiên dành cho việc Phúc âm hóa, không biên giới cũng không có bất cứ phân biệt nào.
Sau cùng, – và có lẽ đây là điểm quan trọng nhất của trình thuật này – quyết định (động từ dokein, từ đó tiếng Pháp có từ “dogme”) hội nghị đưa ra không chỉ được gán cho nhóm “chúng tôi” là các “tông đồ và kỳ mục” họp lại vì việc này, mà còn cho Thánh Thần, theo công thức nổi tiếng: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài..(15,28).
Việc nêu tên Thánh Thần trước cả những người có quyền quyết định, tạo cho tiến trình hội nghị một thẩm quyền tương đương với thẩm quyền của Kinh thánh được xem là “linh hứng”, nghĩa là được hơi thở của Thần Khí thổi sinh khí và do đó, được đón nhận toàn bộ như là những sấm ngôn. Như thế cuộc gặp gỡ ở Giêrusalem được trình bày như mắt xích đầu tiên của một dây chuyền không gián đoạn kể từ đó, bao gồm một loạt những công đồng và thượng hội đồng, ở cấp địa phương và toàn cầu: các cuộc hội họp này được xem như cách diễn đạt đầu tiên của huấn quyền Giáo hội, nhưng không vì thế cạnh tranh hay mâu thuẫn với chính uy quyền của Kinh thánh.
Trong chiều hướng này, diễn từ của Giacôbê hết sức thuyết phục, diễn giả ra sức chứng minh sự hoàn toàn phù hợp giữa kinh nghiệm truyền giáo đầu tiên của các tông đồ và “lời của các ngôn sứ (thực ra đó là Amốt 9,11-12, ngay cả Isaia 45,21) như đã chép.” (15,15). Không chỉ bằng lòng trích dẫn bản văn ngôn sứ làm ví dụ, Giacôbê còn tuyên bố xây dựng nhận định của chính ngài trên chính uy quyền của Kinh thánh: “Vì vậy phần tôi, tôi xét là.” (dio egô krinô: 15,19).
Đàng khác, để minh chứng sự liên tục đã được thiết lập như thế giữa thời xưa và thời hiện tại của bản văn, ông Giacôbê nhắc đến thực hành việc phụng tự hằng tuần tại hội đường: “Thật vậy, từ những thế hệ xa xưa, trong mỗi thành ông Môsê đều có những người rao giảng: họ đọc lời của ông trong các hội đường mỗi ngày sabát” (15,21). Một truyền thống Do Thái như thế là đi trước việc thực hành Kitô giáo liên quan đến Kinh thánh; thực hành này đặt nền trên chu kỳ các cuộc hội họp vào ngày Chúa nhật.
Hiệp nhất tính, đồng nhất tính, cộng đồng tính
Hiệp hành tính của Giáo hội trong hoàn cảnh đương thời – như người ta nói trong hoàn cảnh khủng hoảng vệ sinh y tế hiện nay – xuyên qua hội nghị tại Giêrusalem theo Cv 15, cũng được diễn ra ở khoảng cách xa, như được minh chứng bởi tầm quan trọng được gán cho các bức thư, không chỉ của Phaolô và các người kế vị, nhưng còn của Clêmentê Rôma hay Inhaxiô Antiôkhia, không bỏ sót những lá thư gọi là các thư Công giáo, được gán cho nhiều khuôn mặt thời các tông đồ (Phêrô, Gioan, Giacôbê, Giuđa). Các thư đích thực của Phaolô – có lẽ chỉ có 7 – như người ta biết, tạo nên những bản văn cổ xưa nhất của Tân Ước, trước khi các sách Tin mừng hoàn thành. Rõ ràng là các thư ấy trước tiên đáp ứng nhu cầu thiết lập các mối liên hệ, giữa tông đồ ở xa và một cộng đoàn nào đó đã được thiết lập hay được thăm viếng nhân một dịp ghé qua trước đó, cũng như giữa chính các cộng đoàn với nhau. Đối với chúng ta, một cách hành xử như thế xem ra đề cao một hình thức “hiệp hành” nào đó – có lẽ người ta cũng có thể nói đến “công giáo tính” – nói cách khác, đó là sự lưu chuyển không ngừng các thông tin và hướng dẫn liên quan đến cuộc sống xuyên qua một mạng lưới giữa các cộng đoàn địa phương: các cộng đoàn này được nối kết với nhau, vượt những khoảng cách và quy chiếu về uy thế của cùng một tông đồ. Những lời cuối trong thư gửi các tín hữu Côlôxê (có lẽ sau Phaolô) hoàn toàn bộc lộ hoàn cảnh liên cộng đoàn được thiết lập từ thời của Phaolô: “Sau khi anh em đọc thư này, xin liệu sao cho Hội thánh Laođikia cũng được đọc nữa. Xin anh em cũng đọc thư của tôi gửi cho Hội thánh Laođikia” (Cl 4,16). Do đó, các lá thư lúc đầu gửi cho một cộng đoàn nào đó, đã mau chóng có được quy chế của những lá thư luân lưu – nguyên văn là: “thông điệp” – được phổ biến rộng rãi. Như thế, do sự kiện luân chuyển của chúng, các lá thư của các tông đồ tham gia vào một tiến trình hiệp hành phục vụ cho sự hiệp thông, giữa lòng mỗi cộng đoàn cũng như giữa các cộng đoàn với nhau.
Dĩ nhiên, ở đây không phải là nơi nghiên cứu tỉ mỉ chủ đề phong phú về tính hiệp nhất của Giáo hội, như được Phaolô và các người kế vị trực tiếp quan niệm. Chúng ta chỉ cần lướt qua một đoạn ngắn của thư gửi tín hữu Philípphê, là lá thư nồng ấm nhất trong bộ thư đích thực, được gửi cho một cộng đoàn được Phaolô đặc biệt ưu ái. Ngay trước khi trình bày chứng từ Kitô học kinh hoàng, được truyền thống đón nhận như một “thánh thi” cổ xưa (2,6-11), Phaolô trong một vài chữ đã đề nghị một chương trình sống trong cộng đoàn cho các tín hữu Philípphê (2,1-5). Từ vựng phong phú và đa dạng của đoạn này vẽ nên những đường nét của một thực tại mà ngày nay người ta có thể gọi là “hiệp hành tính”.
Sự hiệp nhất được chờ đợi nhằm đáp lại lời khuyên bảo (paraklèsis) nhân danh Chúa Kitô (en Khristô) đòi hỏi sự khích lệ (paramuthion) và hiệp thông trong Thần Khí (koinônia pneumatos), sống trong bác ái (agapè), thương xót (splankhna) và những cử chỉ cảm thương (oiktirmoi). Cả một chương trình làm cho cõi lòng của thánh Tông đồ tràn ngập niềm vui khi ngài ở xa các tín hữu Philípphê của ngài (2,1-2a)! Nhưng những lời khuyên này không tĩnh lặng, nhưng nói đúng ra chúng có một “đích nhắm” (động từ phronein), đó là cùng đích của mọi cử chỉ, ý nghĩ hay tình cảm sống trong cộng đồng. Thật vậy, động từ phronein bao hàm trí năng (suy tư, phán đoán) cũng như ý chí (xem xét, quyết định), trong khung cảnh của một thái độ hướng về phía trước và cương quyết làm chủ các biến cố hay tình huống sẽ đến.
Như thế, sự hiệp nhất được chờ đợi không chỉ là tình cảm, ngay cả khi – như chúng ta đã thấy – rất nhiều từ vựng liên hệ đến “con tim” (tình yêu, thương xót, cảm thương: 2,1). Nó tùy thuộc vào một dự định có ý thức và quyết tâm, liên kết ba chiều kích bổ túc cho nhau (2,2). Ngoài chính sự hiệp nhất ra (to hen), đó còn là sự đồng nhất (hai lần “cùng một lòng”: tính từ bất xác định to auto/ten auten) và sự thông hiệp – liên đới (tiếp đầu ngữ sun trong tính từ sum- psukhos). Cũng cần lưu ý là sự hiệp nhất, sự đồng nhất và sự thông hiệp này liên quan đến nhiều khả năng của con người: trí năng và ý chí (hai lần động từ phronein), tình yêu và tình cảm (agapè), cũng như đời sống nội tâm nói chung (psukhè). Tắt một lời, trước khi đi vào một lãnh vực có tính cách luân lý hơn (2,3), cổ võ sự khiêm hạ (tapeinophrosunè) và sự quan tâm đến tha nhân, hơn là sự tranh chấp (eritheia) và kiêu hãnh (kenodoxia), tác giả nại đến một quan niệm về sự hiệp nhất (“một”: giống dở to hen) giả thiết vừa sự đồng nhất quan điểm (“cùng”: to auto) và việc đặt chung những khả năng riêng của mỗi người (“chung”: tiếp đầu ngữ sun).
Cân nhắc đến mọi khác biệt, người ta có thể xem đó là một định nghĩa về “hiệp hành tính” không? Nói cách khác, đó là sự tìm kiếm hiệp nhất trong tình yêu, nhờ một sự đồng nhất trong cách nhìn, cách đặt các dự phóng và định hướng; một sự đồng nhất có được nhờ bàn tính, trao đổi và tranh luận, huy động các khả năng của toàn thể cộng đoàn, đặc biệt các khả năng của các thừa tác viên liên kết với công trình của Phaolô.
Như thế, chúng ta hãy giữ lại công thức quân bình của thư Philípphê 2,2 nguyên văn như sau: “Anh em hãy làm cho niềm vui của tôi được trọn vẹn, là hãy có cùng một cảm nghĩ, cùng một lòng mến, cùng một tâm hồn, nhắm tới sự hiệp nhất”. Một chương trình đòi hỏi biết chừng nào, có thể dự kiến được dưới ánh sáng duy nhất của mẫu gương không thể vượt qua của Chúa Kitô, như được trình bày trong bài “thánh thi” gồm các câu 2,6-11, mối liên kết minh nhiên được nêu ra trong câu 5: “Giữa anh em với nhau, anh em hãy nhắm tới (một lần nữa động từ phronein được dùng) những tâm tình như chính Đức Kitô Giêsu”. Đòi hỏi hiệp hành tính, ngày nay được quan niệm như thiết yếu cho đời sống của Giáo hội được mời gọi phải hoán cải thường xuyên các thực hành và vận hành, có thể tìm thấy ở đấy nguồn cội và minh chứng thuần túy Kitô học.
Lưu lại trong Chúa Kitô / với anh em
Bí quyết của thái độ gọi là “hiệp hành”, xuyên qua những cuộc gặp gỡ đặc biệt cũng như qua cái thường hằng của đời sống cộng đoàn, có thể tương ứng với động từ “lưu lại” (Hy Lạp menô), thường được dùng trong Tin mừng Gioan và thư thứ nhất trong các thư của cùng một tác giả. Được áp dụng không chỉ cho Chúa Cha và Chúa Con, được xem như cùng sống trong nhau (Ga 14,10), động từ “lưu lại” mô tả chính xác tình trạng của các môn đệ vừa đối với Chúa Con theo hình ảnh cây nho và cành nho (Ga 15,4.5.6.7.10), vừa đối với Chúa Thánh Thần, cam kết đứng bên các ông trong các mối tương quan sóng gió với thế gian (14,17). Từ đó, lá thư thứ nhất liệt kê mọi chiều kích của “ở-trong-Chúa-Kitô” cũng sẽ có đầy đủ ý nghĩa của việc “ở-chung” (2,3-11; 3,11-17). Lần lượt tình yêu (1 Ga 2,6;3,17), ánh sáng (2,10), lời nói (2,14), sự sống đời đời (2,17;3,15), sứ điệp đã nhận (2,24), xức dầu (2,27), mầm sống (3,9), các lệnh truyền (3,24) sẽ được đặt vào trung tâm của sự trao đổi thường xuyên, được thiết lập giữa các môn đệ và Chúa của họ, cho dẫu Ngài đã rút lui khỏi thế giới này. Thế mà, nơi mỗi câu này đều có động từ “ở lại”, như một điệp khúc nhắc lại cho chúng ta hai chiều kích của từ “synodos”: ở với nhau một cách đích thực, ngồi với nhau, để sống và đi với nhau.
Sự phong phú của ẩn dụ “ở lại” trong Gioan được tóm tắt cách hoàn hảo trong hai đoạn văn nối tiếp nhau đáng trích dẫn đầy đủ ở đây. Trước tiên, ở 1 Ga 4,12-13:
Thiên Chúa, chưa ai được chiêm ngưỡng bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau, thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta, và tình yêu của Người nơi chúng ta mới nên hoàn hảo. Căn cứ vào điều này chúng ta biết được rằng chúng ta ở lại trong Người và Người ở lại trong chúng ta: đó là Người đã ban Thần Khí của Người cho chúng ta.
Cũng thế ở 1 Ga 4,15-16:
Hễ ai tuyên xưng Đức Giê-su là Con Thiên Chúa, thì Thiên Chúa ở lại trong người ấy và người ấy ở lại trong Thiên Chúa. Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó. Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy.
Đi theo một nhịp bước
Động từ “ở lại” trong Gioan một cách nào đó không phải là tương đương với từ ngữ sunodos, rõ ràng không thấy có trong Tân Ước, nhưng lại nhất quán vừa với khái niệm phức tạp về sự hiệp nhất như trong Phaolô, vừa với trình thuật về công đồng Giêrusalem của Luca sao? Như thế, xét về phương diện nghiên cứu, nếu không hoàn toàn là chú giải, chúng tôi xem là thích hợp khi phóng lên các bản văn Tân Ước một chìa khóa để đọc chúng theo hướng giáo hội học, dĩ nhiên hậu thời hơn các bản văn nói trên. Chúng tôi không có tham vọng sát nhập bản văn Kinh thánh vào những cách đặt vấn đề sau này, tuy nhiên chúng tôi thấy việc thiết lập một cuộc đối thoại giữa thời nguyên sơ và hoàn cảnh hiện thời là phong phú, giữa lòng một Giáo hội đang tìm kiếm tính hiệp hành và được kêu gọi hoán cải các não trạng, nếu không phải là cải cách các thể chế và thực hành về chuyện này. Ít ra, chúng tôi sẽ lấy làm thỏa mãn nếu tiểu luận này góp phần thúc bách các ý thức cũng như thực hiện các áp dụng thực tiễn. Thật vậy, chúng tôi xác tín rằng hiệp hành không phải là đồ xa xỉ, nhưng nó đích thực thuộc về bản chất của một Giáo hội có ơn gọi vừa để sống chung vừa để đi chung theo một nhịp bước, theo hai từ nguyên áp dụng cho danh từ Hy Lạp sun-odos.
Lm. Gioan Bosco Cao Tấn Phúc
Chuyển ngữ từ: Yves-Marie Blanchard, Synode et Synodalité selon le Nouveau Testament, báo SPIRITUS số 245 tháng 12/2021 (tr. 409-421).
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 129 (Tháng 5 & 6 năm 2022)
[1] Yves-Marie Blanchard – linh mục của giáo phận Poitiers – là giáo sư danh dự của Đại học Công giáo Paris, Pháp quốc
2022
Cây Thánh giá thật đã đến Tây Ban Nha như thế nào?
Cây Thánh giá thật đã đến Tây Ban Nha như thế nào?
Theo truyền thống, Tu viện Santo Toribio de Liébana ở miền bắc Tây Ban Nha là nơi lưu giữ mảnh rời Thánh giá thật lớn nhất từng được bảo quản.
Cantabria, ở miền bắc Tây Ban Nha, là nơi có một trong những thánh tích được yêu mến nhất trong Kitô giáo. Theo truyền thống, tu viện nơi này lưu giữ mảnh rời lớn nhất từng được bảo quản của Lignum Crucis (Gỗ Thánh giá), cây Thánh giá (được cho là) thật mà trên đó Chúa Kitô đã chịu đóng đinh.
Vào ngày 23 tháng 9 năm 1512, Đức Giáo Hoàng Juliô II đã ban cho Tu viện Santo Toribio de Liébana đặc ân tổ chức Năm Thánh cho chính mình khi nhìn nhận tầm quan trọng của thánh tích này. Qua đó, ngài đã biến tu viện này thành một trong năm thánh địa của Kitô giáo (cùng với Rome, Jerusalem, Santiago de Compostela, và Caravaca de la Cruz) được phép tổ chức Năm Thánh bảy năm một lần.
Thánh Helena và Thánh giá
Theo truyền thống, Thánh giá thật đã được Thánh nữ Helena thành Constantinople, mẹ của hoàng đế Constantine, tìm thấy ở Jerusalem vào khoảng năm 326. Khi ra lệnh phá hủy một đền thờ của người Rome nằm trên đồi Golgotha và khai quật một tàn tích nơi người Rome vứt bỏ thập giá sau khi các tù nhân bị hành quyết, thánh nữ đã nhận ra cây Thánh giá thật khi một người chết đã sống lại sau khi được đụng chạm vào cây Thánh giá này (theo lời giải thích từ cuốn Golden Legend – Huyền thoại Vàng son). Bản văn có nội dung như sau:
Đó là lý do mà tại chính nơi đặt cây Thánh giá, hoàng đế Adrian đã dựng lên một đền thờ dành cho nữ thần, bởi vì tất cả ai đến nơi này đều phải tôn thờ nữ thần đó, nhưng hoàng hậu (Helena) đã cho phá hủy đền thờ này. Sau đó, Judas đã chuẩn bị sẵn sàng và bắt đầu đào bới, và khi đến độ sâu hai mươi bước (tương đương 15,2m), ông đã tìm thấy ba cây thập giá và mang chúng đến cho hoàng hậu, và vì không biết cây nào là Thánh giá của Chúa, nên ông đã đặt ba cây thập giá này ở giữa thành phố để chờ đợi sự tỏ lộ từ Thiên Chúa; và vào khoảng giờ trưa thì có xác của một nam thanh niên đang được đưa đi chôn cất đi qua. Judas giữ cỗ quan tài lại và đặt lên nó một trong các cây thập giá, rồi đến cây thứ hai, và khi ông đặt lên quan tài cây thứ ba, tức thì người chết đã sống lại.
Như Mónica Arrizabalaga giải thích trong một bài báo của mình cho trang ABC với tựa đề Lady Egeria’s Itinerarium (tạm dịch là: Điểm đến hành hương của Quý bà Egeria) mô tả chi tiết về cách thức mà thánh tích Thánh giá được rước ra ngoài vào Thứ Sáu Tuần Thánh vào cuối thế kỷ thứ IV. Các số 74 và 75, trong cuốn Tôn kính Thánh giá, viết như sau:
Sau đó, một chiếc ghế được mang đến cho Đức Giám mục của Golgotha phía sau một cây thập giá hiện đã được dựng lên; Đức Giám mục ngồi vào ghế theo đúng nghi thức, và một cái bàn phủ bằng vải lanh được đặt trước mặt ngài; các phó tế đứng quanh bàn, và một chiếc tráp mạ bạc được mang đến mà trong đó là gỗ thánh từ cây Thánh giá. Chiếc trápđược mở ra và (gỗ thánh) được lấy ra, cả gỗ cây Thánh giá và chứng thư đều được đặt trên bàn. Bây giờ, khi đã được đặt lên bàn, các phần của gỗ thánh được Đức Giám mục cầm chắc trong tay trong khi vẫn ngồi, giữa lúc các phó tế đứng xung quanh để canh giữ. Gỗ thánh được canh giữ như thế vì theo phong tục, mọi người, cả tín hữu lẫn dự tòng, đều đến từng người một, cúi xuống bàn, và hôn lên gỗ thánh rồi đi qua. Và vìtôi không biết từ bao giờ, có một người nào đó được cho là đã cắn và lấy cắp một phần của gỗ thánh, nên do đó, gỗ thánh đã được các phó thế đứng xung quanh canh giữ nhằm đề phòng có người dám đến gần để làm như vậy một lần nữa.
Thánh giá đến Châu Âu
Dù vẫn được lưu giữ ở Jerusalem, những mảnh rời của thánh tích này đã đến Châu Âu vào đầu thế kỷ thứ V, như trường hợp của tu viện Thánh Giá (monastery of Holy Cross) nổi tiếng ở Poitiers, Pháp. Nhưng mảnh rời lớn nhất từ thánh tích của Thánh Giá đã được đưa đến Tây Ban Nha, từ Jerusalem (hoặc từ Rome, theo lời một số người), bởi Thánh Turibius của Astorga.
Trang web của tu viện tuyên bố rằng thánh tích là một phần từ tay trái của Thánh Giá. Thánh tích còn giữ lại lỗ đinh nơi bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh. santotoribiodeliebana.es
Truyền thống cho rằng sau khi Turibius qua đời, thánh tích của ngài và của Thánh giá thật đãđược đưa đến một tu viện ở Liébana (Tu viện Santo Toribio thuộc Liébana), nơi thánh tích này được lưu giữ và tôn kính cho đến ngày nay. Nhiều lời kể khác giải thích rằng cây Thánh giá đã được chuyển từ Astorga đến Liébana muộn hơn nhiều, vào thế kỷ thứ VIII, để được gìn giữ choan toàn khỏi những kẻ xâm lược Hồi giáo.
Trang web của tu viện này tuyên bố rằng thánh tích là một phần từ tay trái của Thánh Giá. Thánh tích còn giữ lại lỗ đinh nơi bàn tay của Chúa Giêsu chịu đóng đinh. Vào thế kỷ XVI, phần gỗ thánh này đã được chạm khắc cẩn thận để tạo hình cây thánh giá và được đặt trong hộp đựng thánh tích bằng bạc hiện vẫn đang còn được lưu giữ. Phần gỗ thánh là từ cây bách Địa Trung Hải (Cupressus sempervirens). Có tuổi thọ rất cao, một số cây được cho là đã hơn 1.000 năm tuổi.
Với chiều cao hơn 60 cm, chiều ngang hơn 35cm và bề dày gần 4cm, đây là thánh tích lớn nhất về Thánh giá Chúa Kitô từng được lưu giữ (thậm chí còn lớn hơn thánh tích được lưu giữ trong Vương cung Thánh đường Thánh Phêrô ở Rome).
Tác giả: Daniel Esparza – Nguồn:
Chuyển ngữ: Phil. M. Nguyễn Hoàng Nguyên
2022
Tiến trình phong thánh được tiến hành như thế nào đối với ĐHY Nguyễn Văn Thuận và Cha Trương Bửu Diệp
Tiến trình phong thánh được tiến hành như thế nào đối với ĐHY Nguyễn Văn Thuận và Cha Trương Bửu Diệp
Từ ngữ: tuyên thánh đúng hơn là phong thánh: Từ phong thánh quen dùng trong tiếng Việt, nguyên ngữ từ tiếng Hy Lạp “Kanon” có nghĩa là thước đo hay tiêu chuẩn hay được nhìn nhận là có giá trị. Ý nghĩa nầy được tìm thấy trong động từ canonizare của tiếng La tinh, rồi canoniser trong tiếng Pháp và Canonize trong tiếng Anh.
Những tín hữu trong thế kỷ đầu đã phong thánh cho các Tông Đồ khi gọi các Ngài là Thánh. Những vị tử đạo cũng được gọi là thánh. Rồi những thế kỷ kế tiếp, những giáo dân có đời sống thánh thiện, nêu gương sáng và thành mực thước cho người đời cũng được tuyên bố “đang ở trên thiên đàng” tức là thánh.
Như vậy theo từ Kanon và theo truyền thống, Giáo Hội không hề phong thánh hay không hề làm cho ai thành thánh cả. Giáo Hội, qua thời gian cầu nguyện lâu dài và qua những phép lạ được thực hiện nhờ lời chuyển cầu của những giáo dân đã chết và đã từng có đời sống thánh thiện, đã tuyên bố là những vị nầy đang ở trên trời với Chúa, tức họ là Thánh.
Vai trò của Giáo Hội là tuyên thánh, tức chính thức tuyên bố rằng: Ông A, bà B, hay Đức Cha C, hay linh mục D hay tu sĩ G . . . đã có đời sống thánh thiện khi còn sống và đang ở trên trời với Chúa. Từ nay họ được kanon, tức thành mẫu mực đáng cho chúng ta kính trọng, bắt chước và được cho vào danh sách phụng vụ chư thánh.
Tiến trình tuyên thánh
Bài viết dựa theo:
1. Những thông tin được Văn Phòng báo chí Vatican phổ biến ngày 12.9.1997 nhằm cắt nghĩa những điều lệ liên quan đến vấn đề tuyên thánh được qui định trong Tông huấn Divinus Perfectionis Magister, do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ban hành ngày 25.1.1983.
2. “Special Problems in Canon Law III – Canonizations, do linh mục Roland Jacques, omi. tức Cha Dương Hữu Nhân, Cha Giáo Sư và Khoa Trưởng Giáo Luật Đại Học St. Paul ở Ottawa soạn và dạy trong niên khoá 2007-2008.
3. Cha Giáo Dương Hữu Nhân đã có công rất lớn trong việc vận động tuyên phong Chân Phước cho Thầy Giảng Anrê Phú Yên, sinh năm 1625, mà Cha Nhân gọi là người Anh cả trong hàng các Thánh Tử Đại Việt Nam, chết ngày 26.7.1644. Đức Thánh cha Gioan Phaolô II đã tuyên phong chân phước cho Anrê Phú Yên ngày 5.3.2000 tại quảng trường Thánh Phêrô, Rôma.
Giai đoạn sơ khởi và những yếu tố căn bản cần biết.
1. Ứng viên tuyên thánh phải là một người Công Giáo hay dự tòng đã chết, tức đang ở trên thiên đàng. Không có vấn đề tuyên thánh cho ai còn đang sống.
2. Dư luận thuận lợi, kéo dài, công khai và mạnh mẽ về đời sống thánh thiện hay gương anh hùng tử đạo của ứng viên. Nếu có trở ngại và chống đối không thể vượt qua được, xin sớm huỷ bỏ tiến hành án tuyên thánh. Chỉ nên bắt đầu sau khi ứng viên đã chết đủ năm năm.
Mẹ Chân Phước Têrêsa thành Calcutta chết ngày 5.9.1997 và được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong chân phước ngày 19.10.2003, tức sau sáu năm 1 tháng và 14 ngày.
Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chết ngày 2.4.2005 và sẽ được tuyên phong chân phước ngày 1.5.2011, tức sau sáu năm một tháng.
3. Phải có thỉnh nguyện viên yêu cầu lập án tuyên thánh. Thỉnh nguyên viên có thể là: cá nhân một giáo dân, một nhóm giáo dân, một tổ chức có tư cách pháp nhân như giáo xứ, địa phận, Hội Đồng Giám Mục địa phương hay một bộ ở Giáo triều Rôma được thiết lập bởi Giáo Luật hay bởi Giáo quyền có thẩm quyền.
4. Giám Mục địa phận ex officio tức Giám Mục địa phương đương quyền. Tuy nhiên, ngài nên tránh khởi án tuyên thánh vì Ngài sẽ phải là chánh án trong toà án địa phận.
5. Cáo thỉnh viên (postulator) thường là một linh mục, được yêu cầu và được uỷ thác để chuẩn bị và trình bày thỉnh nguyện tuyên thánh: Phải được thỉnh nguyện viên yêu cầu và Giám Mục thẩm quyền chấp thuận; Phải thu tập tất cả những gì có liên quan đến ứng viên tuyên thánh: tiểu sử, văn từ, nhân chứng, chứng từ, hình ảnh…. Phải chịu trách nhiệm tài chánh để chi trả cho tiến trình tuyên thánh. Khi án tuyên thánh tiến sang giai đoạn ở Roma, cần một tân cáo thỉnh viên thường trú ở Roma để ứng phó với mọi tình huống liên quan đến vụ án.
6. Thường có hai loại nhân chứng: Nhân chứng de visu tức chứng kiến tận mắt và nhân chứng de auditu, nhân chứng được nghe từ nhân chứng de visu. Không chấp nhận nhân chứng de auditu ab audientibu tức nhân chứng nghe lại từ nhân chứng de auditu. Không giới hạn số nhân chứng, tuy nhiên, có một số người không được làm nhân chứng được như: Cáo thỉnh viên hay phó cáo thỉnh viên vụ án, viên chức trong toà án tuyên thánh cấp địa phận, cha giải tội và cha linh hướng của ứng viên.
7. Cáo thỉnh viên chính thức đệ trình bằng văn bản với Giám Mục đương nhiệm những gì có liên quan đến ứng viên: tiểu sử, nhân đức trổi vượt hay chứng từ tử đạo, dư luận thuận lợi, văn từ đã xuất bản và chưa xuất bản, danh sách nhân chứng, những “sự lạ” nghĩ là đã được Chúa nhậm lời qua lời chuyển cầu của ứng viên và cả những bất lợi nếu có… và xin Ngài cho phép tiến hành án tuyên thánh.
Giai đoạn I:
thiết lập án tuyên thánh cấp địa phận
1.Giám Mục địa phận đương quyền nên hỏi ý kiến của các Giám Mục địa phận phụ cận, các Giám Mục trong Giáo tỉnh hay ngay cả Hội Đồng Giám Mục về việc thực hiện tiến trình tuyên thánh. Phổ biến công khai thỉnh nguyện tuyên thánh cho ứng viên. Sau đó, Ngài cho thiết lập uỷ ban giám sát (board of inquiry) gồm những linh mục có kiến thức thần học, giáo luật và lịch sử để bảo đảm cho tiến trình hợp luật.
2.Sau khi đã có nhận được những xét đoán khôn ngoan thuận lợi, Giám Mục địa phận cho triệu tập giáo dân, tuyên bố chính thức thực hiện tiến trình tuyên thánh cho ứng viên được thỉnh nguyện.
3.Những thần học gia được chỉ định để nghiên cứu những văn từ của ứng viên tuyên thánh liên hệ đến đức tin và luân lý. Những sử gia và văn khố viên có nhiệm vụ trình bày về sự xác thực, giá trị của những văn từ và cả nhân cách của ứng viên qua những văn từ nầy.
4.Giám Mục thẩm quyền để cử Công tố Viên (promotor iustitiae) để xem xét về kết quả những nghiên cứu trên những văn từ của ứng viên. Công tố Viên có thể nêu những thắc mắc với Uỷ Ban Giám Sát. Sau khi không thấy có gì trở ngại, Đức Giám Mục địa phận cho phép phổ biến hình ảnh cũng như tiểu sử của Ứng Viên tuyên thánh trong Giáo phận mình.
5.Giám Mục địa phận gửi tất cả những tài liệu, án từ đến Bộ Tuyên Thánh Roma (Congregation for the Causes of Saints). Tài liệu phải được uỷ viên thư ký địa phận ký tên và đóng dấu trên từng trang. Bộ Tuyên Thánh của Rôma sẽ liên hệ với Bộ Giáo Lý Đức Tin (Congregation for the Doctrine of the Faith) và những văn phòng ở Toà Thánh có liên quan. Sau khi không nhận được một phản kháng nào, bộ tuyên thánh sẽ ra văn thư gọi là Nihil obstat, tức không có gì trở ngại, gửi cho Đức Giám Mục địa phận và cho phép tiếp tục tiến hành vụ án tuyên thánh.
Giai đoạn II:
Danh hiệu “Đầy Tớ Chúa” và tiến hành
giám sát về nhân đức hay việc tử đạo.
1. Sau khi nhận được Nihil Obstat từ bộ Tuyên Thánh, Giám Mục đương quyền ra quyết định chính thức:
a) Nhìn nhận và tuyên bố ứng viên là Đấy Tớ Chúa.
b) Thiết lập toà án cấp địa phận gồm có: chánh án (được hiểu là Giám Mục địa phận, tuy nhiên Ngài nên bổ nhiệm một linh mục có khả năng thần học, giáo luật và lịch sử đảm trách thay thế ngài); Công tố viên và vài Lục sự.
c) Thẩm phán có nhiệm vụ thăm viếng mộ phần của Đầy tớ Chúa và không nên chấp nhận những sùng bái nếu có. Thẩm phán phải theo những nguyên tắc Giáo Luật qui định về việc phỏng vấn nhân chứng ở những điều khoản 1548, 1553, 1558 và 1559.
d) Công tố viên: Phải là một linh mục thông thạo thần học, giáo luật và lịch sử và được Đức Giám Mục địa phận bổ nhiệm, GL. 1435. Nhiệm vụ: hiện diện trong tất cả mọi phiên toà, tra xét mọi chứng từ, ký nhận và bảo đảm tiến hành hợp luật.
e) Lục sự: có thể là một giáo dân có tiếng tốt được chỉnh định bởi Giám Mục hay chưởng ấn địa phận. Nhiệm vụ: ghi chép đúng nguyên văn lời khai, hành động và chứng từ.
f) Thiết lập bản câu hỏi: Có chuyên viên thiết lập bản câu hỏi và thông qua với uỷ ban Giám Sát địa phận. Không được trao bản câu hỏi cho nhân chứng trước. Nên cho nhân chứng thấy tiến trình thời gian cuộc đời của Đầy Tớ Chúa để theo dõi và cung cấp chứng từ cụ thể.
2. Phiên họp mở màn (Không nên diễn ra long trọng tại nhà thờ chánh toà nhằm tránh mọi ngộ nhận rằng: Đầy tờ Chúa đã được tuyên thánh): Giám Mục địa phận xác định việc bổ nhiệm: Chánh án, công tố viên, lục sự và uỷ viên giám sát. Giám Mục nhận lời thế của các viên chức toà án. Chưởng ấn ký nhận. Giới thiệu nhân chứng. Xác định chỗ lấy chứng từ. Có thể mời gia đình của Đầy tớ Chúa tham dự phiên họp mở màn nầy.
3. Thể thức sát hạch nhân chứng: Tất cả đều phải thề nói sự thật và chỉ sự thật. Chỉ có chánh án, công tố viên, lục sự và nhân chứng hiện diện. Giám Mục (nếu không là chánh án) và cáo thỉnh viên không được hiện diện. Giữ Giáo Luật các điều khoản 1539, 1547 và 1574 để có những chứng từ xác thực. Nhân chứng và công tố viên phải ký nhận trên từng trang chứng từ. Nếu có sửa chữa, công chứng viên và nhân chứng phải ký nhận. Sau cùng, lục sự đọc lại chứng từ và ký nhận.
4. Kết thúc giai đoạn giám sát nhân chứng cấp địa phận:
a) Gom góp tất cả những dữ kiện, chứng từ, sửa đổi, ghi chú, duyệt xét, đọc lại và tất cả thành viên toà án và nhân chứng thề rằng: đã cung cấp chứng từ thật.
b) Chánh án, công tố viên, lục sự đi viếng phần mộ cũng như những nơi được nhân chứng đề cập có liên quan đến Đầy tớ Chúa.
c) Hồ sơ, tài liệu được lập thành ba bản: Nguyên bản (archetypum) được niêm phong và lưu giữ ở văn khố Toà Giám Mục địa phận. Hai phó bản được lục sự đóng dấu, ký tên và gửi sang sang Roma. Một bản gọi là transumptum gởi đến bộ tuyên Thánh và giữ ở văn khố. Bản còn lại cũng gửi đến bộ tuyên thánh nhưng được trao cho cáo thỉnh viên hay những ai đang nghiên cứu về án tuyên thánh khảo sát.
d) Cáo thỉnh viên có nhiệm vụ mang sang Roma và trao cho bộ tuyên thánh: Lá thư gửi cho bộ trưởng bộ tuyên thánh. Hai phó bản do toà án địa phận thiết lập đã nói. Sách viết, thủ bản, văn thư, chứng từ của đầy tớ Chúa.. Tất cả được gọi là instrumentum được chứa trong một hộp, niêm phong gọi là clausurae. Án từ đã gửi đi, kết thúc giai đoạn tiến trình tuyên thánh cấp địa phận.
Giai đoạn III:
Tiến trình án tuyên thánh ở Roma
Không qua đường bưu điện, nhưng Cáo thỉnh viên phải mang hộp niêm phong tài liệu từ địa phận sang Roma. Yêu cầu Bộ tuyên thánh nhận và ra quyết định cho tiếp tục án tuyên thánh ở Roma.
Tân cáo thỉnh viên được thỉnh nguyện viên chỉ định và được bộ tuyên thánh nhìn nhận. Tân cáo thỉnh viên phải ở Roma.
Cáo thỉnh viên yêu cầu Bộ tuyên thánh ra quyết định nhìn nhận tiến trình đã thực hiện ở cấp địa phận là hợp luật và thành sự. Nếu tiến trình sơ khởi ở địa phận hợp luật và thành sự, tân cáo thỉnh viên yêu cầu bộ tuyên thánh cho nghiên cứu để xúc tiến việc tuyên thánh.
Sau khi đã ra quyết định nhìn nhận tiến trình sơ khởi của cấp địa phận, bộ tuyên thánh sẽ bổ nhiệm những viên chức như: Công tố viên, những nhà nghiên cứu sử học, báo cáo viên (Relator). Về phía thỉnh nguyện viên, được yêu cầu chọn một người cộng sự gọi là collaborator. Relator và Collaborator sẽ viết một positio, tức tiểu sử của đầy tớ Chúa, liên quan đến nhân đức trổi vượt hoặc việc tử đạo. Đại khái một positio như sau:
Thông tin về bốn điểm: lịch sử tiến trình sơ khởi – phương pháp thực hiện – tiểu sử đầy tớ Chúa và dư luận về đời sống nhân đức thánh thiện hay chứng từ tử đạo.
Trưng dẫn dữ kiện cụ thể, chứng từ và nhân chứng.
Tài liệu: Giấy rửa tội, chứng từ của gia đình, địa phận hay dòng tu.
Relato et Vota: Báo cáo và biểu quyết. Nếu đồng ý, bộ tuyên thánh sẽ để cử sáu nhà nghiên cứu sử học, mười tư vấn thần học để nghiên cứu trên positio. Nếu hai phần ba trong số nầy biểu quyết thuận, án tuyên thánh sẽ được báo cáo với bộ Giáo Lý Đức Tin. Nếu không, yêu cầu làm lại.
Giai đoạn hai ở Roma: Nâng Đấy tớ Chúa lên Venerable, Bậc đáng kính.
Các hồng Y và Giám Mục trong và ngoài Rôma được triệu tập và được cáo thỉnh viên yêu cầu chấp nhận án tuyên thánh. Một Ponens, tứ báo cáo viên được chọn từ các hồng y hay giám mục, thành viên của bộ tuyên thánh được bổ nhiệm để chấp nhận án tuyên thánh và báo cáo với Đức Giáo Hoàng. Một khi Đức Thánh Cha đã nhìn nhận những nhân đức siêu vượt hay cái chết anh hùng của dầy tớ Chúa là xác thực, Ngài ra quyết định cho nâng Đầy tớ Chúa lên Bậc đáng kính. Giờ đây, người ta được quyền làm Holy Card, tức thiệp thánh, có hình của Bậc Đáng Kính và kinh nguyện xin Chúa thực hiện dấu lạ qua sự chuyển cầu của Bậc đáng kính.
Đến đây, tiến trình tuyên thánh đã trãi qua hai giai đoạn rất khó khăn:
Thiết lập toà án cấp địa phận để thu thập tài liệu, chứng từ và sát hạch chứng nhân và đề xuất sang Rôma để nhận Nihil obstat và ứng viên được gọi là: Đầy tớ Chúa.
Mang án tuyên thánh sang Roma và chịu sự làm việc rất tỉ mỉ và tốn kém của bộ tuyên thánh để đầy tớ Chúa được nhìn nhận là bậc đáng kính.
Giai đoạn IV:
Phép lạ và tuyên phong chân phước
Phép lạ: Được coi như sự chuẩn nhận của Chúa trên ứng viên tuyên thánh đang ở trên Trời. Ngay từ thế kỷ thứ 13, dưới thời Đức Giáo Hoàng Innocent III, Giáo Hội đòi buộc phải có phép lạ thực hiện nhờ lời chuyển cầu của những Bậc Đáng Kính, những ứng viên tuyên thánh về đời sống đạo đức. Tuy nhiên, phép lạ được miễn trừ nơi những ứng viên tuyên thánh tử đạo.
Phép lạ phải là phép lạ thể lý, chứ không phải luân lý, tức kết quả những việc lạ phải được cảm nhận, được nhìn thấy, được minh chứng và giảo nghiệm y khoa. Và phải đã xảy ra một năm rồi.
Khi có việc lạ xảy ra, cáo thỉnh viên phải viết đơn xin Giám Mục thẩm quyền thiết lập ban giám sát. Sau khi xét đoán khôn ngoan có thể là phép lạ, Giám Mục địa phận để cử hai bác sĩ xét nghiệm, chuyên viên thu thập tài liệu, chứng từ và yêu cầu toà án địa phận thiết lập việc sát hạch nhân chứng.
Hồ sơ kết quả thẩm định, có thể là phép lạ, sẽ lập thành ba bản. Bản gốc giữ ở Toà Giám Mục địa phương. Hai bản còn lại gửi sang bộ tuyên Thánh Rôma để duyện xét và thẩm định.
Bộ tuyên thánh duyệt xét phép lạ trên ba tiêu chuẩn:
Y khoa: Đây là một chửa trị xác thực và lạ lùng mà y khoa bình thường không làm được.
Thần học: Nhân chứng đã khẩn cầu với Bậc Đáng Kính và nhận được phép lạ.
Lòng đạo: Hồng Y và các Giám Mục quyết định là rất hữu ích cho lòng sốt sắng của Giáo Hội hoàn vũ nếu ứng viên được tôn phong chân phước.
Tất cả được đệ trình lên Đức Thánh cha và để Ngài có quyết định sau cùng là có tiến tới tuyên thánh hay không. Nếu có, cũng chính Đức Thánh Cha sẽ công bố ngày giờ, nơi chốn cử hành việc tuyên phong Chân Phước.
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận
• Kinh xin ơn với Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận |
Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận từ trần ngày 16.9.2002. Rất may mắn, Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI cho phép Hội Đồng Công Lý và Hoà Bình của Ngài khởi án tuyên thánh ngày 16.9.2007. Ngài đã có Holy Card và Kinh Xin Ơn được Đức Giám Mục Giampietro Crepaldi, tổng thư ký Hội Đồng Công Lý và Hoà Bình lúc ấy chuẩn nhận và cho phép phổ biến ngày 16.9.2007.
Theo tiến trình tuyên thánh của Giáo hội Công giáo Rôma, Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đang ở bậc Tôi tớ Chúa (một trong bốn bậc phong thánh: Tôi tớ Chúa, Đấng Đáng kính, Chân phước và Thánh). Ngày 16 tháng 1 năm 2009, Hồng Y Agostino Valini, Giám Quản Toà Rôma ban Án lệnh chính thức vận động thu thập những chứng cứ, tài liệu, tác phẩm của/về Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận để phục vụ cho án phong chân phước. Ngày 22 tháng 10 năm 2010, án phong chân phước cho Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã được chính thức khởi sự.
Ngày 15 tháng 11 năm 2010, VietCatholic đưa tin về một chủng sinh người Việt Nam sinh ra ở Mỹ bị hôn mê 32 ngày và hai lần Bác sĩ đã tuyên bố là chết. Nhưng ba mẹ chủng sinh nầy và chính Thầy Giuse đã kêu cầu Đức Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn văn Thuận. Thầy Giuse đã thấy Đức Hồng Y trong thị kiến hai lần đến tận giường bệnh thăm viếng Thầy. Hiện tại thầy đã bình phục hẵn. Văn phòng cáo thỉnh ở Rôma đang đòi những chứng từ minh chứng cho phép lạ chữa bệnh nầy. Nếu Thầy Giuse có đủ bằng chứng về sự bình phục lạ lùng của Thầy. Chắc chắn Đức Hồng Y sẽ được tuyên phong chân phước sớm.
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp
Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp sinh ngày 01-01-1897, được Cha Giuse Sớm rửa tội ngày 2-2-1897 tại họ đạo Cồn Phước, làng Tấn Ðức, nay thuộc ấp Mỹ Lợi, xã Mỹ Luông, quận Chợ Mới, Tỉnh An-Giang. Ngày 12-3-1946, ngài bị bắt cùng với trên 70 người giáo dân tại họ Tắc Sậy, bị lùa đi và nhốt chung với bổn đạo tại lẫm lúa của ông giáo Sự ở Cây Dừa. Do sự tranh chấp giữa các giáo phái, vì bênh vực quyền lợi của giáo dân, ngài đã chết thay thế cho những người bị bắt chung.
Ở Việt Nam và hải ngoại, cả lương giáo, không ai không biết Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Vô số những phép lạ được truyền khẩu và được ghi chép thành văn bản. Việc lập án tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp có nhiều thuận lợi: Ngài bị giết chết trong khi thi hành nhiệm vụ mục tử, Ngài chết vì đạo. Chúa đã thực hiện nhiều phép lạ qua sự chuyển cầu của Ngài. Nhiều và rất nhiều nhân chứng “de visu”, là người thọ ơn Cha. Những người đã từng tiếp xúc với Cha thời sinh tiền vẫn còn sống như Đức Hồng Y Gioan Baotixita Phạm minh Mẫn.
Thời gian chuẩn bị đã lâu, nhiều người đang nức lòng và sẵn sàng làm chứng cũng như rộng rãi ủng hộ chương trình tuyên thánh cho Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp. Chương trình vinh danh Cha Phanxicô Xaviê Trương Bửu Diệp, vị mục tử dũng cảm đã dám chết vì đàn chiên, giống như Chúa Kitô, thầy chí Thánh, vị mục tử nhân hậu, tốt lành và mẫu mực đã đến lúc chín mùi. Xin trao vào tay Chúa nguyện ước thánh thiện nầy. Vì không điều gì là không có thể với Thiên Chúa! Xin cầu nguyện và ủng hộ!
(LM Phêrô Trần thế Tuyên, Kiến thức Công Giáo, 2/2011, Liên Tu sĩ Canada)