2022
Tiến trình mở hồ sơ xin phong Thánh cho Đức Cha Lambert de La Motte và Đức Cha François Pallu
Tiến trình mở hồ sơ xin phong Thánh cho Đức Cha Lambert de La Motte và Đức Cha François Pallu
Tóm tắt tiến trình mở hồ sơ xin phong Chân phước và phong Thánh cho hai tôi tớ Chúa là Đức Cha Lambert de La Motte và Đức Cha François Pallu
Tóm tắt tiến trình mở hồ sơ
xin phong Chân phước và phong Thánh
cho hai tôi tớ Chúa
là Đức Cha Lambert de La Motte và Đức Cha François Pallu
Lịch sử truyền giáo tại Việt Nam ghi đậm dấu ấn của các vị Thừa sai thuộc nhiều dòng tu: Dòng Tên, Dòng Phanxicô, Dòng Đaminh, Dòng Augustinô. Các Đấng đã hy sinh lên đường đến Việt Nam, với thao thức mang Tin mừng Cứu độ đến cho dân tộc chúng ta. Trong số các vị thừa sai, đặc biệt phải kể đến hai vị Giám mục thuộc Hội Thừa Sai Hải ngoại Paris (MEP) là Đức cha Lambert de La Motte và Đức cha François Pallu. Hai vị được coi như đồng sáng lập của Hội, và cũng là hai vị Đại diện Tông toà đầu tiên của Giáo hội Công giáo Việt Nam.
Ngày 9.9.1959, qua Tông sắc Super Cathedram[1], Đức Thánh cha Alexandre VII quyết định thành lập hai Giáo phận Tông toà đầu tiên tại Việt Nam là Đàng Ngoài và Đàng Trong. Đức cha Pierre Lambert de La Motte được bổ nhiệm làm Giám mục Đại diện Tông tòa Đàng Trong và Đức cha François Pallu, Đại diện Tông toà Đàng Ngoài.
Ngày 11.6.1660, cha Pierre Lambert được Đức Tổng giám mục Bouthillier, Tổng Giám mục Giáo phận Tours tấn phong Giám mục tại nguyện đường Dòng Đức Mẹ Thăm Viếng ở Paris[2], với hiệu toà Bérythe. Sau một tuần tĩnh tâm, ngài rời Paris ngày 18.6.1660 lên đường trong sự vâng phục Tòa thánh và chứng tỏ đã thấu triệt tinh thần các Huấn thị Rôma, mà ngài sẽ còn nhiều tháng đi đường để suy gẫm thêm[3]. Ngày 22.08.1662 Đức cha Lambert đến Ayutthaya, kinh đô Thái Lan.
Ngày 17.11.1658, cha Pallu được Đức Hồng y Antonio Barberini, tổng trưởng Thánh bộ Truyền bá Đức tin tấn phong Giám mục tại Rôma với hiệu toà Héliopolis (nay thuộc Liban). Ngày 2.01.1662, ngài lên tàu tại cảng Marseille để đi Việt Nam, nhưng đã chẳng bao giờ đến được nhiệm sở của mình. Ngày 27.01.1664, ngài tới được Ayutthaya, kinh đô Thái Lan.
Cả hai vị Giám mục đã có công đặt nền móng cho sự phát triển của Giáo hội Công giáo tại Việt Nam. Đức cha François Pallu được Toà thánh đặt làm Đại diện Tông toà Đàng Ngoài, nhưng chưa một lần đặt chân đến miền Bắc. Ngài uỷ quyền cho Đức cha Lambert de La Motte điều hành công việc truyền giáo và mục vụ. Nếu Đức cha Lambert de La Motte chuyên cần hoạt động để tổ chức Công đồng Phố Hiến, thành lập Dòng Mến Thánh Giá, truyền chức cho linh mục bản xứ, thì Đức cha François Pallu, với các chuyến đi từ châu Á sang châu Âu, đã xin Toà Thánh chuẩn y và công nhận những thành quả tông đồ của Đức cha Lambert de La Motte. Mỗi người mỗi cách, cả hai vị đều nhiệt thành cho công cuộc loan báo Tin mừng tại Việt Nam trong sự vâng phục Tòa thánh.
Từ năm 2009, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã chính thức trình lên Toà thánh Thỉnh Nguyện Thư, để xin phong Chân phước và phong Thánh cho hai vị Giám mục. Thỉnh Nguyện Thư mang chữ ký của Đức cha Phêrô Nguyễn Văn Nhơn, lúc đó là Giám mục Đà Lạt – Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam, và chữ ký của cha Jean-Baptiste Etcharren, lúc đó là Bề trên Tổng quyền của Hội Thừa sai Paris. Hai vị Giám mục là Đức cha Giuse Võ Đức Minh và Đức cha Giuse Nguyễn Chí Linh được Hội đồng Giám mục uỷ nhiệm để xúc tiến thủ tục này.
Nhân chuyến đi Ad Limina của Hội đồng Giám mục Việt Nam, vào tháng 3 năm 2018, trong một cuộc họp tại Foyer Phát Diệm (Rôma), Hội đồng Giám mục đã chính thức trao công việc này cho hai Giám mục: Đức cha Giuse Vũ Văn Thiên (lúc đó là Giám mục Hải Phòng) và Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng (lúc đó là Giám quản Tông toà Tổng Giáo phận Sài Gòn). Sau một thời gian làm việc, hai vị Giám mục, với sự cộng tác của một số linh mục và nữ tu Dòng Mến Thánh Giá, đã sưu tầm một số tài liệu có liên quan đến hai vị Đại diện Tông toà đầu tiên của Việt Nam.
Vì Đức cha Lambert de La Motte qua đời ngày 15.6.1679 tại Ayutthaya (Thái Lan)[4] và Đức cha François Pallu qua đời ngày 29.10.1684 tại Phúc Kiến (Trung Quốc)[5], nên theo Giáo Luật, Hội đồng Giám mục Việt Nam phải xin uỷ quyền từ các vị Giám mục của hai Giáo phận này. Đức Hồng y François Xavier Kriengsak Kovithavanij, Tổng Giám mục Bangkok, trong Văn thư đề ngày 18.5.2020, chính thức uỷ quyền cho Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng đặc trách tiến hành thủ tục xin phong Chân phước và phong Thánh cho Đức cha Lambert de La Motte. Bộ Phong Thánh, qua Văn thư số 3542-1/20 do Đức Hồng y Tổng trưởng Marcellus Semeraro ký ngày 15.9.2021, đã chấp thuận cho Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, là Giám mục có thẩm quyền, để tiến hành thủ tục xin phong Chân phước và phong Thánh cho Đức cha François Pallu.
Từ trước tới nay, những hồ sơ liên quan đến hai vị Đại diện Tông toà đều được tiến hành chung. Cũng vậy, một kinh cầu nguyện xin ơn đã được soạn thảo chung cho cả hai Đấng. Nay, theo ý kiến của những vị có chuyên môn, hồ sơ liên quan đến Đức cha François Pallu được trao cho Đức Tổng Giám mục Giuse Vũ Văn Thiên, vì Đức cha François Pallu là Đại diện Tông toà Đàng Ngoài. Hồ sơ liên quan đến Đức cha Lambert de La Motte được trao cho Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, vì Đức cha Lambert là Đại diện Tông toà Đàng Trong. Các vị hữu trách đã soạn và phát hành hai kinh cầu nguyện riêng, với hy vọng những phép lạ sẽ nhận được góp phần tiến hành các thủ tục pháp lý thuận lợi hơn.
Tại Việt Nam, cho đến nay, rất ít người biết đến Đức cha Lambert de La Motte, ngoài các nữ tu Mến Thánh Giá và Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá. Đối với Đức cha François Pallu, thì hầu như không ai biết đến ngài. Nhiều người nghĩ rằng công lao của hai vị Đại diện Tông toà chỉ là các Hội dòng Mến Thánh Giá. Đó là một quan niệm phiến diện, thiếu công bằng đối với lịch sử. Công lao của các ngài không chỉ thành lập Dòng Mến Thánh Giá, mà theo chỉ thị của Tòa thánh Đức cha Pierre Lambert de La Motte đã tiến trình thành lập Hàng giáo sỹ bản xứ Việt Nam qua việc phong chức cho các linh mục Việt Nam là các thầy giảng: Giuse Trang, Luca Bền, Gioan Huệ, Bênêđictô Hiền (linh mục Giuse Trang, người Việt đầu tiên, được truyền chức ngày 31.3.1668)[6], tổ chức Công đồng tại Ayutthaya (năm 1664), lập Hiệp hội Tín hữu Mến Thánh Giá (năm 1669-1670), Công nghị Phố Hiến (năm 1670), lập Dòng Mến Thánh Giá Đàng Ngoài (năm 1670), Công nghị Hội An (năm 1672), lập Dòng Mến Thánh Giá Đàng Trong (năm 1671). Những điểm nhấn quan trọng này chứng minh các Ngài là Đại ân nhân của Giáo hội chúng ta.
Hiện tại, Ban làm việc vẫn đang tiến hành nghiên cứu các hồ sơ có liên quan đến hai vị Đại diện Tông toà, dựa trên những chỉ dẫn của Toà thánh qua Văn kiện SANCTORUM MATER của Bộ Phong thánh ban hành năm 2007. Ban làm việc cũng phiên dịch và phát hành những hồ sơ văn bản có liên quan đến các Đấng, với mục đích giúp các tín hữu Việt Nam biết về một giai đoạn lịch sử quan trọng của công cuộc loan báo Tin mừng tại quê hương chúng ta.
Việc xin phong Chân phước và phong Thánh cho hai vị Đại diện Tông toà là một lộ trình dài, cần kiên trì và cầu nguyện. Công việc này cũng thể hiện tâm tình yêu mến và tri ân của Giáo hội Công giáo Việt Nam đối với các bậc Tiền nhân. Kính xin quý Đức cha, quý cha, quý tu sĩ và anh chị em cầu nguyện cho nguyện ước của chúng ta được thành hiện thực.
Hà Nội, ngày 01 tháng 8 năm 2022
+Giuse Vũ Văn Thiên
Tổng Giám mục Hà Nội
Kinh xin ơn nhờ lời chuyển cầu của Đức cha Lambert
Kinh xin ơn nhờ lời chuyển cầu của Đức cha François Pallu
(hdgmvietnam.com 01.08.2022)
[1] A.M.E.P, vol. 247, p 45. Adrien Launay, Histoire de la Mission de Cochinchine, Tome I, bản la ngữ, p. 9.
[2] Jean Guennou, Les missions étrangères, Paris, 1963, p. 69 ; François Fauconnet-Buzelin, Aux sources des Missions étrangères, Pierre Lambert de la Motte, Édition Perrin 2006, p. 72.
[3] X. J. DE BOURGES, Relation du voyage de Mgr l’Évêque de Bérythe, Vicaire apostolique du Royaume de la Cochinchine, Paris, Bechet, 1666, tr. 34-35 (Bản dịch tiếng Việt kèm chú thích của Lm Giuse ĐÀO QUANG TOẢN, do Lm Antôn NGUYỄN NGỌC SƠN hiệu đính: Ký Sự Cuộc Hành Trình Của Đức Cha Bérythe, lưu hành nội bộ, 1996, tr. 34-35).
[4] X. HĐGMVN, Tiểu sử Đức cha François Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Nxb. Tôn giáo, 2020, tr. 96-99.
[5] X. HĐGMVN, Tiểu sử Đức cha François Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte, Nxb. Tôn giáo, 2020, tr 52.
[6] Lm. Bùi Đức Sinh O.P., M.A., Giáo Hội Công Giáo ở Việt Nam, p. 258.
2022
Sơ Virgula Maria Schmith phục vụ người phong cùi ở Indonesia
Sơ Virgula Maria Schmith phục vụ người phong cùi ở Indonesia
Vào ngày 27/6/2022, sơ Virgula Maria Schmith, thuộc Dòng Thừa sai Chúa Thánh Thần đã qua đời ở Steyl, Hà Lan, hưởng thọ 93 tuổi. Sự ra đi của sơ Virgula không chỉ làm cho các chị em trong dòng thương tiếc, nhưng đối với Giáo hội Công giáo ở Indonesia đó là một sự mất mát lớn. Các tín hữu luôn nhớ đến sơ là một người đã dành cả cuộc đời phục vụ người phong cùi ở quốc gia châu Á.
Các Nữ tu Thừa sai Chúa Thánh Thần là một Hội dòng truyền giáo do Thánh Arnold Janssen thành lập năm 1889 tại Steyl. Hiện Hội dòng có hơn 3.000 thành viên hiện diện trên 46 quốc gia.
Sơ Virgula, sinh ngày 3/9/1929 tại Grunebach của Đức. Sơ được biết đến nhiều ở Indonesia vì đã thực hiện một cuộc cách mạng bênh vực bệnh nhân phong trong nước, sau khi mở hai trung tâm chuyên chăm sóc bệnh này.
Bề trên giám tỉnh của các Nữ tu Thừa sai Chúa Thánh Thần ở Indonesia, sơ Yohana Momas, cho biết các nữ tu đã mở các Trung tâm Phục hồi Người bệnh Phong San Damián và San Rafael, đặt tại Cancar và Binongko, trên đảo Flores, ở Indonesia.
Theo giải thích của Bề trên Giám tỉnh, sơ Virgula đến truyền giáo ở Indonesia vào năm 1965 và sống nhiều năm tại khu vực Manggarai, phía đông đảo Flores, nơi đây sơ phục vụ người nghèo và người bệnh. Ở Indonesia sơ Virgula được biết đến là người đầu tiên khởi xướng các hoạt động nhân đạo, đặc biệt các hoạt động dành cho người khuyết tật, các bệnh nhân phong, và nạn nhân của bạo lực tình dục. Sơ từng nói: “Tôi được kêu gọi để giải thoát những người bị xiềng xích bởi những căn bệnh khác nhau, vì họ là con Chúa”.
Sơ kể một lần kia một linh mục dòng Phanxicô đã tìm thấy một người phong cùi bị gia đình bỏ rơi trong sa mạc, và đưa người bệnh này đến bệnh viện San Rafael nơi sơ làm việc. Khi nhìn thấy người bệnh phong này sơ đã xúc động mạnh mẽ. Sơ bày tỏ: “Tôi vô cùng kinh ngạc và choáng váng khi vị linh mục đưa người bệnh đến với tôi. Thân thể anh đầy vết thương và tóc anh xơ xác và dài ra. Tôi không biết phải làm gì. Tuy nhiên, tôi đã đón nhận bệnh nhân và dành cho anh sự chăm sóc tốt nhất. Sau đó, tôi đã nhờ người thân của tôi ở Đức giúp đỡ để tôi có thể chăm sóc các bệnh nhân tốt hơn”.
Kể từ đó, vào năm 1966, vị tông đồ bệnh phong được tách ra khỏi Phòng khám Đa khoa San Rafael. Trong thời gian làm việc, sơ Virgula đã chứng kiến sự chữa lành của nhiều người có nguy cơ tử vong cao. Trong số đó nổi bật là Yance, đứa trẻ mồ côi đầu tiên sơ chăm sóc, một đứa trẻ sinh non sống sót dù sinh ra chỉ nặng 600 gram.
Nữ tu người Đức từng khiêm tốn bày tỏ rằng công việc này “giống như một phép lạ”, không thể thực hiện được nếu chỉ nhờ vào nỗ lực của sơ nhưng phải nhờ đến bàn tay Thiên Chúa. Sơ Virgula nói: “Đó không phải là tất do công sức của tôi. Tôi không phải là một cá nhân tuyệt vời hay trí tuệ. Tôi tuân theo ý muốn của Chúa”.
Hơn nữa, cầu nguyện là một trong những trụ cột trong sứ vụ của sơ. Sơ nói: “Tôi cầu nguyện mỗi sáng: Lạy Chúa, xin chỉ cho con những gì Chúa muốn con làm hôm nay và ban cho con khả năng làm điều đó. Nếu Chúa muốn điều gì đó, chúng ta không thể kháng cự Người. Tôi không cảm thấy lo lắng hay sợ hãi, bởi vì tôi tin Chúa ở cùng tôi”.
Sơ Virgula khẳng định rằng sơ có thể cảm nhận được sự quan phòng của Chúa trong suốt sứ vụ. Sơ giải thích: “Chúa luôn giúp đỡ đúng lúc. Khi các nữ tu cần thuốc men, quần áo, thức ăn hay các dịch vụ khác thì luôn có sự giúp đỡ. Tôi tin và cảm nghiệm rằng Chúa không thể bỏ rơi chúng tôi”.
Nhờ sự dấn thân quên mình của sơ Virgula mà hiện nay ở Indonesia Giáo hội Công giáo điều hành 9 trung tâm phục vụ bệnh nhân phong.
Tại Indonesia và ở châu Phi, châu Á và châu Mỹ Latinh, mặc dù có thể điều trị nhưng bệnh phong vẫn là một vấn đề sức khỏe cộng đồng. Vì vậy, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã đưa bệnh phong nằm trong danh sách các Bệnh nhiệt đới bị lãng quên (NTM).
Vì thế, hàng năm vào Ngày Thế giới người bệnh phong cùi Giáo hội tiếp tục giúp mọi người ý thức rằng bệnh phong là một căn bệnh có thể điều trị được, nhưng đánh bại nó không chỉ là một cuộc chiến đơn giản trên bình diện y tế; cũng cần tìm cách xóa bỏ sự kỳ thị của xã hội đi kèm với căn bệnh nan y này và cuối cùng, giúp con người phục hồi chức năng một cách toàn diện.
Một khía cạnh quan trọng khác là sự thiếu hòa nhập xã hội có thể có tác động tiêu cực sâu sắc đến lòng tự trọng và cách nhìn của một người về cuộc sống, cuối cùng khiến họ dễ mắc bệnh tâm thần. Theo nghĩa này cộng đồng chăm sóc sức khỏe nói riêng và toàn xã hội, cung cấp một dịch vụ cho lợi ích chung khi họ giúp tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình hòa nhập cá nhân của những người bị bệnh phong và cho gia đình của họ. Không phải ai cũng có đủ kỹ năng hoặc kiến thức chuyên môn để chữa khỏi bệnh phong, nhưng mọi người đều có thể nuôi dưỡng văn hóa gặp gỡ, giúp chữa lành và mang lại hạnh phúc tinh thần cho những người bị ảnh hưởng bởi căn bệnh đau buồn này.
Ngọc Yến
2022
Một linh mục ở Sri Lanka bị bắt vì tham gia biểu tình chống chính phủ
Một linh mục ở Sri Lanka bị bắt vì tham gia biểu tình chống chính phủ
Vì tham gia các cuộc biểu tình ôn hoà chống chính phủ, ngày 27/7 cha Amila Jeewantha Peiris của Giáo hội Công giáo Sri Lanka đã bị cảnh sát xông vào nhà xứ và bắt đem đi.
Mặc dù các vụ bắt giữ và đe dọa bị lên án khắp nơi, nhưng các nhà hoạt động và nhà báo ở Sri Lanka vẫn tiếp tục phải đối mặt với sự trả thù. Vào ngày 27/7, cảnh sát đã xông vào nhà thờ Ratnapura, ở tỉnh Sabaragamuwa, miền trung-nam Sri Lanka để tìm bắt cha Amila Jeewantha Peiris, một trong những người đi đầu trong các cuộc biểu tình chống chính phủ ở đất nước bị ảnh hưởng bởi khủng hoảng.
Các quy luật trấn áp khẩn cấp cho phép cảnh sát có quyền bắt giữ một người lên đến 72 giờ là điều chưa từng có và vẫn đang được áp dụng ở Sri Lanka. Các nhà bảo vệ nhân quyền và các nhà lãnh đạo Giáo hội Sri Lanka lên án cuộc đột kích của cảnh sát ở Ratnapura. Cuộc đột kích xảy ra hai ngày sau khi một tòa án Sri Lanka cấm cha Peiris và 5 người khác rời khỏi đất nước vì bị cáo buộc tham gia “tụ tập bất hợp pháp và gây thiệt hại cho tài sản công” trong một cuộc biểu tình hồi tháng 6.
Nhà hoạt động nhân quyền nổi tiếng Ruki Fernando và nhiều người khác cho rằng các hành động của cảnh sát đối với cha Peiris là hoàn toàn không thể chấp nhận được, lưu ý rằng cha Peiris là một trong số ít các linh mục Công giáo người Sinhalese đã dành nhiều năm phục vụ các cộng đồng ở miền Bắc và Đông nơi người Tamil chiếm đa số, vốn đã bị tàn phá bởi nhiều thập kỷ nội chiến ở Sri Lanka bị chia cắt về sắc tộc. Cha Peiris luôn được giáo sĩ, tu sĩ và giáo dân Tamil yêu mến.
Những người tham gia các cuộc biểu tình làm chứng rằng, trong các cuộc biểu tình, cha Peiris không bao giờ rời bỏ mọi người đặc biệt trong những tình huống khó khăn như bạo lực và hơi cay do cảnh sát bắn. Khi mọi người dường như mất kiên nhẫn, cha đã bình tỉnh giúp mọi người bình tâm trở lại.
Cha từng tuyên bố không sợ hãi: “Không ai có thể đụng vào tôi trừ khi Chúa cho phép. Nếu Chúa cần mạng sống tôi để hoàn thành sứ vụ trong lúc này, tôi sẽ không lo lắng về cuộc sống của tôi”.
Mọi người hy vọng rằng với sự cương quyết đấu tranh cho nhân quyền, cha Peiris sẽ được các vị lãnh đạo Giáo hội và những người khác sẽ ủng hộ và bảo vệ. Đức cha Cletus Chandrasiri của Giáo phận Ratnapura nói ngài không ngừng cầu nguyện cho cha Peiris và sẽ nỗ lực để bảo vệ cha.
Ngọc Yến
2022
Khai mạc Hội nghị Lambeth của Anh giáo
Khai mạc Hội nghị Lambeth của Anh giáo
Chúa nhật 31 tháng Bảy vừa qua, Hội nghị Lambeth của Liên hiệp Anh Giáo lần thứ XV đã khai diễn với thánh lễ lúc 10 giờ sáng, do Đức giáo chủ danh dự Justin Welby, Tổng giám mục Canterbury, chủ sự, tại Nhà thờ chính tòa trung tâm của Liên hiệp Anh giáo, ở mạn đông nam thủ đô Luân Đôn.
Vị giảng thuyết trong thánh lễ là nữ giám mục Vicentia Kgabe, của giáo phận Pretoria, thủ đô Nam Phi. Nhiều thứ tiếng được sử dụng trong buổi lễ, ngoài Anh ngữ, đó là tiếng Shona ở Nam Phi, tiếng Tây Ban Nha, Quảng Đông, Bengali, Pháp và Swahili.
Hội nghị Lambeth
Tham dự Hội nghị có khoảng 660 giám mục, trong đó có 97 nữ giám mục, đến từ 165 nước trên thế giới. Ngoài ra có 45 vị khách thuộc các Giáo hội Kitô khác, trong đó có phái đoàn Tòa Thánh do Đức Hồng y Kurt Koch, Bộ trưởng Bộ hiệp nhất các tín hữu Kitô, làm trưởng đoàn. Cùng hiện diện tại Hội nghị cũng có 480 người phối ngẫu của các giám mục nam nữ.
Các tham dự viên đã tựu về đây từ ngày 26 tháng Bảy và Hội nghị kéo dài đến ngày 08 tháng Tám tới đây.
Hội nghị Lambeth của Anh giáo đã nhóm lần đầu tiên năm 1867 với 76 giám mục. Thông thường Hội nghị này nhóm 10 năm một lần, nhưng sự chia rẽ trong Liên hiệp Anh giáo liên quan đến đạo lý về luân lý tính dục đã làm cho Hội nghị bị hoãn lại đến năm 2018, nhưng sau đó lại bị hoãn thêm vì đại dịch Covid-19 và nay mới tiến hành được.
Nội dung Hội nghị
Chủ đề Hội nghị hiện nay là “Giáo hội của Thiên Chúa cho thế giới của Thiên Chúa”. Các tham dự viên bàn về vấn đề: làm thế nào Giáo hội đáp ứng những thách đố của thế kỷ XXI. Cụ thể là công cuộc truyền giáo và loan báo Tin mừng, nghèo đói và thay đổi khí hậu, phòng nghèo lạm dụng, căn tính Anh giáo, hòa giải và phẩm giá con người. Điểm này cũng bao gồm vấn đề những người đồng tính luyến ái, việc truyền chức cho các linh mục và giám mục đồng tính luyến ái cũng như việc chúc hôn cho những cặp đồng phái. Những vấn đề đặc thù này được xử lý khác nhau trong các giáo tỉnh Anh giáo. Các giáo tỉnh Nigeria, Rwanda và Uganda bên Phi châu mạnh mẽ chống lại việc chấp nhận đồng tính luyến ái.
Trong phái đoàn Công giáo tham dự Hội nghị Lambeth cũng có Đức Tổng giám mục Bernard Longley của giáo phận Birmingham và 2 giám mục Công giáo từ Canada và Ấn Độ là hai nước có nhiều tín hữu Anh giáo: đó là Đức cha Donald Bolen, Tổng giám mục giáo phận Regina và Đức cha Anil Couto, Tổng giám mục giáo phận thủ đô New Delhi. Ngoài ra cũng có Đức cha Brian Farrell, người Ailen, Tổng thư ký Bộ Hiệp nhất các tín hữu Kitô từ 20 năm nay.
Đức Hồng y Koch sẽ lên tiếng tại hội nghị, cũng như Đức Hồng y Luis Tagle, Quyền Tổng trưởng Bộ Loan báo Tin mừng.
Các nghị quyết được bỏ phiếu tại Hội nghị Lambeth không có tính chất bó buộc trong toàn Liên hiệp Anh giáo. Vì thế những “nghị quyết” đó từ nay được gọi là những lời kêu gọi thay vì là những quyết định.
Liên hiệp Anh giáo trên thế giới có khoảng 70 triệu tín hữu thuộc 39 giáo tỉnh độc lập.
(Tổng hợp 31-7-2022)
Trần Đức Anh, O.P.