2023
Thiêng liêng nghi lễ truyền thống làm phép ghe, thuyền
Thiêng liêng nghi lễ truyền thống làm phép ghe, thuyền
Ngày 29.6 hằng năm, dịp mừng lễ thánh Phêrô – Phaolô tông đồ, ngư dân giáo xứ Long Hương, giáo phận Phan Thiết cùng tham dự thánh lễ và nghi thức làm phép ghe, thuyền. Ðây là nghi lễ truyền thống, được người dân giáo xứ Long Hương duy trì hơn 50 năm qua.
Từ tờ mờ sáng, nhiều ngư dân đã đến tập trung tại giáo xứ để kiệu tượng thánh Phêrô ra bờ biển, nơi thực hiện nghi thức làm phép ghe, thuyền. Đây cũng là ngày tạ ơn thánh Phêrô bổn mạng dân chài đã cùng họ vươn khơi đánh bắt trong một năm qua và cầu mong năm tới được bình an, thuận lợi.
![]() |
Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng thực hiện nghi thức làm phép ghe, thuyền |
Tạ ơn “người thầy” ngư phủ đã cùng vươn khơi đánh bắt
Dọc bờ biển cách giáo xứ gần 2 cây số, những ngày này có hàng trăm chiếc thuyền neo đậu, nghỉ ngơi sau một năm xuôi ngược. Trên giữa thân thuyền, những câu lời Chúa “Vâng lời Thầy con thả lưới”; “Có Thầy đây đừng sợ”… được treo trang trọng và đẹp mắt. Có một chiếc ghe được trang trí đặc biệt, ở giữa đặt tượng thánh Phêrô với những bình hoa được kết xung quanh. Chủ nhân cho biết đây là chiếc ghe được chọn để rước tượng thánh Phêrô – quan thầy của ngư dân và cũng là nơi để Đức cha giáo phận đứng chủ sự nghi thức.
Trước đó một tuần, sau chuyến đi biển cuối cùng, các ghe cập bến, ngư dân đã làm vệ sinh ghe, thuyền, ngư cụ. Họ sửa chữa, sơn màu, chỉnh trang cho mới ghe thuyền. Sau đó, được sắp xếp vị trí theo ban tổ chức.
Các công việc cho nghi thức làm phép ghe thuyền được người dân chuẩn bị từ những ngày trước đó. Trang trí bàn kiệu tượng thánh Phêrô, căng những câu Kinh Thánh liên quan đến thánh nhân và người dân biển, giăng đèn trên khắp đoạn đường rước kiệu, dọn dẹp khuôn viên nơi diễn ra sự kiện…
![]() |
Các ghe, thuyền được chuẩn bị rực rỡ cho ngày lễ truyền thống |
Ông Nguyễn Thế Long, Chủ tịch HĐMV giáo xứ cho biết, nghi lễ được tổ chức vào ngày mừng lễ thánh Phêrô, bởi thánh nhân đã từng gắn bó và làm ngư phủ tại biển hồ Galilê trước khi Đức Chúa Giêsu gọi làm tông đồ đi theo Ngài. Ngư dân còn xem thánh Phêrô như người thầy của mình, thánh lễ và nghi thức làm phép ghe thuyền là một cách tạ ơn thầy, cầu mong sự bảo vệ và che chở họ trong mỗi chuyến ra khơi. “Ngư dân chúng tôi an tâm và tin tưởng rằng qua sự cầu bầu, che chở của thánh Phêrô, chúng tôi sẽ vững vàng trong mỗi chuyến ra khơi” – ông Trần Phương, 60 tuổi – một lão ngư với gần 50 năm kinh nghiệm nói.
Ước nguyện được bình an, thuận lợi
Từ chiều tối hôm trước ngày lễ, nhiều người đã ra bờ biển để ngắm nhìn những ghe thuyền đã được chuẩn bị và trang trí rực rỡ. Họ ngồi và kể cho nhau những kỷ niệm về ngày lễ truyền thống này và những may lành họ nhận được trong năm qua ở những chuyến vượt sóng ngoài khơi. Đối với họ, sự may lành không phải chỉ là đánh bắt được nhiều sản phẩm mà là giữa lúc khó khăn, vật lộn vất vả, họ vẫn được bình an. Gắn bó với biển từ khi sinh ra, bà Trần Thị Nghĩa (80 tuổi) đưa mắt nhìn ra biển, miệng chúm chím tự hào: “Năm nào cũng vậy, mọi người đều vui với tục lệ truyền thống lâu đời này. Vào ngày này, tôi đều nguyện cầu, mong cho tất cả mọi người đều bình an”.
![]() |
Bà con ngư dân cùng Đức cha giáo phận và các linh mục rước tượng thánh Phêrô từ biển về lại nhà thờ Long Hương để cùng hiệp dâng thánh lễ tạ ơn |
Ngay từ 4 giờ sáng ngày lễ, đoàn người tiến về giáo xứ để rước tượng thánh Phêrô ra bờ biển. Đức cha Giuse Đỗ Mạnh Hùng, Giám mục giáo phận Phan Thiết, sau những lời cầu nguyện và ban phép lành, đã xuống ghe với anh chị em ngư dân. Cùng với ngài, cha quản xứ GB. Trần Văn Thuyết và cha phó Phaolô Nguyễn Anh Tuấn đi rảy nước thánh từng ghe thuyền được neo sát thẳng hàng. Gần 6 giờ, hơn 100 chiếc thuyền công suất từ 45CV đến 700CV đồng loạt nổ máy, nối đuôi nhau xuất hành khoảng 3 hải lý. Sau đó, mọi người trở về thánh đường giáo xứ để cùng nhau tham dự thánh lễ tạ ơn, cầu nguyện cho một năm ra khơi được thuận lợi, bình an và thu hoạch được dồi dào.
Là một ngư dân đánh bắt xa bờ, ông Trần Phương cho biết mỗi chuyến ra khơi từ 10-15 ngày, các anh em đem theo sách Tin Mừng để họp nhau cầu nguyện thay cho những ngày không tham dự thánh lễ. Mỗi năm, ngư dân đánh bắt được mùa là nhờ ơn Chúa phù hộ, thánh Phêrô che chở, ghe thuyền vươn khơi thuận buồm xuôi gió. Vì thế, mọi người cùng tạ ơn Thiên Chúa. Đồng thời, đây cũng là dịp để những người ngày đêm lênh đênh sóng nước luôn biết cậy dựa vào thánh quan thầy Phêrô, lấy việc sống đạo là điểm tựa cho công việc làm ăn của mình.
2023
La Vang – Điểm hẹn yêu thương “thân tuy cách đó, dạ thường mến đây”
La Vang – Điểm hẹn yêu thương “thân tuy cách đó, dạ thường mến đây”
Điện thoại đổ chuông, tôi bắt máy. Phía bên kia là giọng trầm ấm quen thuộc của cô tôi: “Cháu ạ, đã có thông báo về Đại Lễ hành hương Mẹ La Vang chưa? Tháng Tám năm nay có tổ chức lễ tại La Vang như mọi năm không cháu?”. Tôi mau mắn trả lời cô: “Dạ có cô ạ. Thông tin về cuộc lễ Hành hương đã có rồi, cháu sẽ chuyển cho cô.”
Thế đó, nhắc đến Mẹ La Vang là cô cháu chúng tôi huyên thuyên, vui vẻ, những kỷ niệm đẹp chúng tôi có được trong nhiều lần cô tôi trở về hành hương La Vang. Cô tôi năm nay đã ngoài 70 tuổi, người gốc Quảng Trị vào Nam lập nghiệp. Bao nhiêu năm xa quê, nhưng chưa năm nào cô bỏ lỡ cơ hội hành hương về bên Mẹ La Vang. Suốt năm cô cố gắng làm việc, dành giụm để có thể đến bên Mẹ vào mỗi dịp tháng Tám. Hai năm đại dịch không đi được, cô tiếc lắm. Sau đại dịch kinh tế khó khăn hơn, nhưng không vì thế mà cô nản lòng. Cô không muốn lỡ hẹn với Mẹ La Vang yêu dấu.
Chúng tôi may mắn hơn, vì được sống cận kề bên Mẹ. Đã nhiều lần tôi được đến vùng đất linh thiêng này cách dễ dàng. Tôi thuộc nằm lòng mọi ngõ ngách của khuôn viên đất Mẹ. Tôi biết rõ sự tích Mẹ hiện ra để che chở đoàn con cái Chúa trong cuộc bách hại đạo năm 1798 dưới thời vua Cảnh Thịnh, và cứu giúp họ vượt qua căn bệnh hiểm nghèo giữa chốn rừng thiêng nước độc. Tôi nhờ như in lời hứa của Mẹ La Vang năm xưa: “Các con hãy tin tưởng và cam lòng chịu khổ. Mẹ đã nhận lời các con cầu xin. Từ nay về sau, hễ ai chạy đến cầu khẩn cùng Mẹ ở chốn này, Mẹ sẽ nhận lời ban ơn theo ý nguyện”.
Có thể, đối với nhiều điều khác thì “quen quá hóa nhàm”, nhưng với tôi, đến với Mẹ La Vang chưa bao giờ làm cho tôi thấy chán. Cứ mỗi lần đến bên Linh đài Mẹ La Vang, tôi đều cảm nhận sự bình yên đến lạ. Bởi tôi tin rằng, có Mẹ từ ái đang ngày đêm giang rộng đôi tay chờ đón con trở về. Bởi Mẹ La Vang – Mẹ Việt Nam – Mẹ của đoàn con dương thế lầm than khốn khổ. Mẹ vẫn đứng đó, chờ đón những ai đến bên Mẹ. Mẹ sẵn sàng trao ban chính Chúa Giêsu, Con yêu dấu của Mẹ. Mẹ đứng đó mà nhìn thấu suốt nỗi lòng của từng người con để cảm thông và chia sớt, để chữa lành và thi ân.
Mỗi người con đến với Mẹ đều mang theo biết bao tâm tình. Không ai bảo ai, nhưng trong thâm tâm mỗi người đều cảm nhận được tình thương của Mẹ. Người đến tạ ơn, kẻ đến cầu khẩn, khi trở về lòng đầy phấn khởi, bình an. Tôi đã được nghe biết bao chuyện lạ người ta truyền tụng về những ơn lạ Mẹ ban. Tôi đã có dịp đi hết các bức tường để đọc những tấm bia tạ ơn của những người đã được Mẹ thi ân lưu lại trên thánh địa.Tạ ơn Chúa cho Mẹ thực hiện muôn điều kỳ diệu trên những người con bé nhỏ đến bên Mẹ, kêu van Mẹ và tin tưởng vào lời cầu bầu của Mẹ.
Có lẽ vì cảm nhận được tình thương của Mẹ, nên con cái Mẹ khắp nơi siêng năng chạy đến với Mẹ. Ngày nay, không những người trong nước mà còn nhiều đoàn hành hương từ khắp năm châu tuôn đến La Vang. Vào những ngày đại lễ kính Mẹ, mùa hè, dịp nghỉ lễ, hết đoàn này đến nhóm kia hành hương kính viếng Mẹ, dâng Thánh lễ, cầu kinh xướng hát. Kẻ đi một mình thì âm thầm cầu khẩn xa xa ở góc cây, ghế đá; người thì đến trước tượng Mẹ cung chiêm gối quỳ. Kẻ thì cố tiến đến sờ vào chân Mẹ, người thì ngưỡng vọng thánh nhan Mẹ say sưa lời kinh Avê. Cả một không gian thánh thiêng với bao tâm tình tha thiết dâng về Chúa nhờ lời chuyển cầu của Mẹ La Vang.
Tôi cũng biết được nhiều người trở lại đạo Chúa nhờ hồng ân Mẹ La Vang. Và không ít người được ơn hoán cải trở về đường ngay nẻo chính. Tạ ơn Chúa. Tạ ơn Chúa vô vàn. Tri ân Mẹ không ngơi.
Đoàn con cái Mẹ vẫn luôn hướng về La Vang. Những ai đã đến lại cứ khắc khoải hy vọng được trở về “Nhà Mẹ”. Những ai chưa một lần đến, nghe danh Mẹ La Vang đã thấy thân thương muốn gần. Có lẽ vì thế mà Cố Linh mục Giuse Maria Nguyễn Văn Thích đã gửi gắm tâm tình yêu mến Mẹ qua những vần thơ đầy xác tín:
“…Còn trời đất còn nước non,
Con còn cầu khẩn, Mẹ còn đoái thương.
Nay con từ biệt Thánh Đường,
Thân tuy cách đó dạ thường mến đây.
Chốn này, ngày này, hội này,
Lòng này ghi tạc dám phai đá vàng…”
La Vang tuy vẫn còn nhỏ hẹp, thiếu thốn mọi bề, nhưng tôi dám chắc một điều: Đến với Mẹ La Vang, BẠN sẽ không ra về tay không, bởi “MẸ LA VANG – MẸ CỦA ĐOÀN CON HIỆP HÀNH” đang chờ mong đoàn con trở về với Mẹ, để Mẹ yêu thương vỗ về, an ủi.
La Vang – Ngôi nhà chung của Mẹ chúng ta đó. La Vang – nơi tình Chúa chứa chan, tình Mẹ lai láng và cả khung trời bình an đang chờ đón BẠN.
Chúng ta hẹn nhau về La Vang hành hương kính viếng Mẹ mến yêu, BẠN nhé!
Hẹn gặp BẠN – con yêu dấu của Mẹ La Vang!
Nữ tu Maria
Dòng Mến Thánh Giá Huế
2023
Lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Nha Trang
Lễ tấn phong Giám mục Giáo phận Nha Trang
Sáng 27.6.2023, tại Ðại Chủng viện Sao Biển Nha Trang đã diễn ra thánh lễ tấn phong Giám mục cho Ðức cha Giuse Huỳnh Văn Sỹ. Thánh lễ tổ chức sau gần hai tháng, kể từ khi Tòa Thánh loan tin bổ nhiệm vào ngày 1.5.2023.
Sau hơn 11 tháng trống tòa, giáo phận Nha Trang đã chính thức có vị chủ chăn mới. Đức cha tân cử Giuse Huỳnh Văn Sỹ là vị Giám mục chánh tòa thứ 5 của giáo phận Nha Trang. Thánh lễ bắt đầu từ 5g sáng, khi trời còn tờ mờ nhưng có đông đảo tín hữu con dân giáo phận đã có mặt.
Thánh lễ có sự tham dự của gần như đầy đủ các Đức cha trong HĐGMVN đương nhiệm. Đức Tổng Giám mục Marek Zalewski, Đại diện Tòa Thánh không thường trú ở Việt Nam cũng đã hiện diện. Vị chủ phong là Đức Tổng Giám mục Huế Giuse Nguyễn Chí Linh. Hai vị phụ phong là Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi, Giám mục giáo phận Qui Nhơn và Đức cha Vinhsơn Nguyễn Văn Bản, Giám mục giáo phận Hải Phòng. Đức cha Matthêu Nguyễn Văn Khôi trong bài giảng lễ đã nhắc lại lịch sử hình thành giáo phận Nha Trang, giới thiệu về vị giám mục tân cử dù thuộc hàng giáo sĩ giáo phận Qui Nhơn, nhưng đã xuất thân từ Đại Chủng viện Sao Biển Nha Trang là nơi đào tạo linh mục cho ba giáo phận phận Nha Trang, Ban Mê Thuột và Qui Nhơn. Từ năm 2008, ngài từng là giáo sư giáo luật tại Đại chủng viện…, vì vậy, vị giám mục tân cử không xa lạ gì với giáo phận Nha Trang. Nhắc đến khẩu hiệu của Đức tân Giám mục Vâng lời Thầy, Con thả lưới – In Verbo Tuo, Laxabo Rete (Lc 5,5), Đức cha Khôi đã gợi lên mối quan tâm của vị tân giám mục về mục vụ truyền giáo nơi giáo phận Nha Trang nằm trên bờ biển miền Nam Trung Bộ, Đức cha mời gọi cộng đoàn giáo phận Nha Trang cùng cộng tác với vị tân chức : “… Nếu chức Giám mục là một đặc sủng Chúa ban cho Đức cha tân cử thì bản thân Đức cha cũng là một ân huệ mà Thiên Chúa ban cho giáo phận Nha Trang”.
Trước đó, ngày 26.6, tại Tòa Giám mục Nha Trang, Đức cha Giuse Huỳnh Văn Sỹ đã tuyên xưng đức tin và tuyên thệ trung thành với Giáo hội. Nghi thức này được cử hành trong giờ kinh chiều do Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh chủ sự, trước sự chứng kiến của Đức Tổng Giám mục Marek Zaleski, một số Giám mục trong HĐGMVN và linh mục, tu sĩ cùng giáo dân giáo phận Nha Trang.
Hiện nay giáo phận Nha Trang có 10 giáo hạt, 116 giáo xứ, 4 dòng tu nam, cùng 1 đan viện và 2 tu hội nam, 15 dòng tu nữ cùng 1 đan viện và 3 tu hội nữ. Giáo phận có 260 linh mục triều, 75 linh mục dòng, và hơn 230.000 giáo dân.
Minh Hải
2023
Tính lai ghép – Một cách nhận thức và mô tả hội họa Việt Nam
Tính lai ghép – Một cách nhận thức và mô tả hội họa Việt Nam
TÍNH LAI GHÉP –
MỘT CÁCH NHẬN THỨC VÀ MÔ TẢ HỘI HỌA VIỆT NAM
Lm. Phạm Trung, S.J (Seattle University)
– Linh mục Phạm Hoàng Trung là một tu sĩ Dòng Tên (tỉnh dòng Miền Tây, California và Oregon, Hoa Kỳ), đồng thời là họa sĩ, thạc sĩ mỹ thuật (MFA) – giảng viên Khoa nghệ thuật Trường Đại học Seattle University, Tiểu bang Washington, Hoa Kỳ.
Bài viết “tính lai ghép – một cách nhận thức và mô tả hội họa Việt Nam” được linh mục Phạm Hoàng Trung soạn bằng tiếng Anh, nhân chuyến về thăm, triển lãm một số tranh- tượng, và gặp gỡ giới họa sĩ Công giáo Việt Nam tại hai cuộc triển lãm diễn ra trên địa bàn TGP. Tp.HCM: Triển lãm tranh “Loan báo Tin mừng yêu thương” tại Tu viện Đa Minh Mai Khôi (5-12.8.2014) và triển lãm chum chóe cổ & triển lãm mỹ thuật “lời ru” tại Nhà truyền thống TGP. Tp.HCM (từ ngày 16/8 đến 15.10.2014).
Bản tiếng Việt dưới đây do Thành Thi chuyển ngữ. (Ban biên tập Hiệp Thông)
DẪN NHẬP
1. NGHỆ THUẬT HỘI HỌA VIỆT NAM 3. KHÁI NIỆM TÍNH LAI GHÉP, MỘT CÁCH NHẬN THỨC VÀ MÔ TẢ HỘI HỌA VIỆT NAM |
DẪN NHẬP
Mục đích của bài nghiên cứu này là giới thiệu mảng sáng tác về đề tài tôn giáo của các nghệ sĩ Việt Nam trong thế kỷ XX và từ những tác phẩm hội họa này, lý giải cách thức Kitô giáo đưa giáo huấn thần học đi vào và hội nhập văn hóa Việt Nam.
Bài viết này gồm ba phần, trình bày sự phong phú và những ý nghĩa thần học của nghệ thuật Việt Nam về đề tài Đức Mẹ. Phần thứ nhất, điểm qua một cách ngắn gọn tình hình lịch sử nghệ thuật Việt Nam đã được Nora Taylor mô tả về phương diện dân tộc học. Nỗ lực này nhằm khơi lên ý thức về nghệ thuật Việt Nam và đặt nó vào bản đồ mỹ học Đông Nam Á. Phần thứ hai cố gắng đưa ra câu trả lời vì sao phần lớn các tranh trong bộ sưu tập đều vẽ Đức Mẹ và Chúa Hài Nhi. Sự phát hiện này đặt người nghiên cứu phải tiếp cận tìm hiểu về đạo Mẫu trong tín ngưỡng dân gian. Phần thứ ba, từ bối cảnh đa dạng và phức tạp của văn hóa Việt Nam, thử đưa ra khái niệm lai ghép (hybridity) như một cách nhận thức và mô tả đối với hội họa Việt Nam.
1. NGHỆ THUẬT HỘI HỌA VIỆT NAM
Sự quan tâm đến hội họa Việt Nam trên thị trường tranh tại châu Á bắt đầu từ năm 1990 và hiện vẫn đang tăng lên. Sự bùng nổ này là kết quả của cuộc cải cách kinh tế vào năm 1986, được gọi là cuộc “đổi mới”, được dịch sang tiếng Anh là “new change”. Đảng Cộng sản, sau 15 năm nắm quyền lãnh đạo trên toàn lãnh thổ Việt Nam, đã chấp nhận nền kinh tế thị trường mở cửa, chào đón sự đầu tư của nước ngoài và thành lập các doanh nghiệp tư nhân, trái với tập thể hóa và sở hữu nhà nước trong các ngành công nghiệp và sản xuất hàng hóa[1]. Cuộc cải cách kinh tế đã thu hút ngành du lịch và đầu tư nước ngoài, nhờ đó, đã thúc đẩy tăng trưởng thị trường tranh Việt Nam. Quốc tế đã đầu tư ồ ạt vào nền nghệ thuật hội họa Việt Nam.
Sự bùng nổ của thị trường tranh Việt Nam cũng đã lôi cuốn giới học giả viết về mỹ thuật Việt Nam. Nora Taylor là người đi đầu trong công việc này, tuy nhiên, việc nghiên cứu cũng đã diễn ra hết sức khó khăn vì thiếu tài liệu, không nhận được sự quan tâm từ cộng đồng các nghệ sĩ Việt Nam cũng như giới học giả nước ngoài và không có ngân sách hỗ trợ. Với nỗ lực đưa nền nghệ thuật Việt Nam vượt khỏi phạm vi quốc gia, được biết đến và lưu tâm về phương diện học thuật, Taylor sử dụng cách tiếp cận theo phương pháp mô tả dân tộc học để theo đuổi việc nghiên cứu của mình, bằng cách trao đổi với các họa sĩ, xem tranh và chụp hình các họa phẩm tại xưởng vẽ của các họa sĩ, tại các viện bảo tàng và tại tư gia của các nhà sưu tập tranh. Nỗ lực của bà nhằm hai điều: đặt hội họa Việt Nam vào bản đồ Đông Nam Á, nhằm xóa bỏ tình trạng Việt Nam bị gạt ra ngoài lề lịch sử nghệ thuật châu Á; thứ hai, khắc phục tình trạng khái quát hóa chung chung về khung cảnh nghệ thuật, coi đây là vấn đề “toàn cầu hóa” hoặc “hậu dân tộc chủ nghĩa” và khuyến khích loại nghệ thuật hậu thuộc địa vốn xu thế chung không còn ủng hộ.
Nhằm mang lại sự chú ý đối với nghệ thuật tôn giáo Việt Nam trong bối cảnh hình thành nền nghệ thuật đương đại Việt Nam, tôi muốn tập trung vào mảng sáng tác chưa được phương Tây lưu tâm và đề cập. Việc sưu tập tranh này là một cố gắng của cha Trần Thái Hiệp, người đã có dự định sưu tập tranh tôn giáo cho Giáo Hội. Những tác phẩm hội họa này được sáng tác trong giai đoạn 1970-1990. Chúng gồm nhiều khổ khác nhau và được vẽ bằng màu nước thực hiện trên lụa, sơn mài, do các họa sĩ nổi tiếng, trong số đó có các họa sĩ bậc thầy như Nguyễn Gia Trí, Lê Văn Đệ… Hiện những họa phẩm này được lưu giữ tại Nhà Truyền thống TGP. TPHCM.
Điều đáng nói là những bức tranh này chủ yếu thể hiện đề tài về Mẹ và Con. Đồng thời phần nhiều gần như được bố cục để diễn tả mối tương tác giữa Mẹ và Con. Đặc điểm hội họa trong nghệ thuật thánh của Việt Nam là chọn Đức Mẹ Việt Nam làm chủ đề chính và ít vẽ về Chúa đã phản ánh sâu sắc một đặc điểm văn hóa tinh thần của người Việt Nam. Để hiểu đặc điểm này, cần phải tiếp cận nền tảng văn hóa, tôn giáo của người Việt Nam.
2. TÔN GIÁO TẠI VIỆT NAM
Tục thờ thần Nữ
Văn hóa Việt Nam là văn hóa đa tôn giáo. Ba tôn giáo chính là Phật, Nho, Lão, gọi là Tam Giáo. Phật giáo là tôn giáo chính thời Lý-Trần, nhưng chỉ kéo dài trong bốn trăm năm[2]. Dưới thời Lê, Nho giáo là quốc giáo. Thiên Chúa giáo cũng đã là một hiện tượng vào thế kỷ XVI với việc sáng tạo chữ quốc ngữ. Tóm lại, tại Việt Nam, tôn giáo có nhiều ảnh hưởng và các tôn giáo đều được du nhập từ nước ngoài như Trung Hoa, Ấn Độ và châu Âu. Vậy trong văn hóa Việt Nam, tôn giáo nào là tôn giáo bản địa?
Người Việt có truyền thống thờ thần Nữ. Sự thực hành tôn giáo này là kết quả của lối sống nông nghiệp, động cơ chính của các hoạt động kinh tế. Việc thờ 75 nữ thần cùng các tín ngưỡng dân gian và truyền thuyết về nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã tạo ra một hệ thống tôn giáo được gọi là tục thờ thần Mẫu tại Việt Nam[3]. Tục thờ này bắt nguồn từ tín ngưỡng cổ xưa đặt niềm tin vào các thần linh[4]. Tín ngưỡng đa thần duy linh này thờ các thần như mặt trời, mặt trăng, các hiện tượng thiên nhiên và nhiều thần khác được tôn thờ vì được coi là nguồn sống của trái đất. Các nữ thần này lấy sức nóng của mình sưởi ấm mặt đất ẩm ướt, chiếu sáng và mang lại sự sống cho Trái Đất. Hoạt động sản xuất nông nghiệp khiến người Việt đến với tục thờ cúng đất, nước, núi non, lúa gạo vốn mang tính nữ. Người mẹ vốn có thuộc tính che chở, sinh sôi, sáng tạo[5].
Các nữ thần này có đền thờ ở nhiều nơi và được vua ban sắc phong làm thần hoàng của nhiều làng; ví dụ bà liễu Hạnh là thành hoàng làng Phố Cát, Thanh Hóa, Hai Bà Trưng ở Mê Linh, Bà Đanh ở Nghệ An, Bà Đá ở Hải Hưng, Linh Sơn Mị Nương ở Bắc Ninh…[6]. Các nữ thần cũng là những vị tổ của các hoạt động thuộc nghề nông cổ truyền như gieo hạt, trồng tỉa, làm bánh.
Một trong những gương mặt quan trọng nhất là Mẹ Âu Cơ. Theo truyền thuyết, Âu Cơ sinh ra dân tộc Việt Nam. Người Việt hãnh diện nhận mình là con Rồng cháu Tiên – hậu duệ của rồng và nữ thần/bà chúa. Họ tin mình được sinh ra từ bào thai trong lòng Âu Cơ. Dù chỉ là một truyền thuyết, nhưng Âu Cơ là trở thành biểu tượng vị Thần Mẫu linh thiêng trong tâm khảm người Việt. Trong truyền thuyết này, bà là một người mẹ tuyệt vời không chỉ thể hiện một tình yêu vô bờ đối với con cái, mà còn dạy họ biết khai phá đất đai, phát triển các nghề, may quần áo che thân[7]. Người Việt đã nói lên niềm tin của mình qua việc dựng ngôi đền đầu tiên thở Mẹ Âu Cơ gần Sông Thao, một thành phố nhỏ ở miền Bắc Việt Nam[8].
Kitô giáo
Kitô giáo đến Việt Nam vào đầu thế kỷ XVI. Việc du nhập muộn này đã gặp mảnh đất tâm linh đã thấm sâu triết lý của các tôn giáo truyền thống bao gồm Phật, Lão Khổng đã có hằng ngàn năm. Việt thiết lập Kitô giáo tại Việt Nam đồng nghĩa với Giáo Hội cần đưa giáo thuyết và tư tưởng thích nghi với những tập quán bản địa. Tiến trình dưa sứ điệp Kitô giáo vào văn hóa Việt Nam phải đối mặt với nhiều cuộc xung đột về tư tưởng với ba tôn giáo lớn cũng như tập quán văn hóa của việc thờ cúng tổ tiên. Thách đố chủ yếu là sự khác biệt trong việc nhận biết Thiên Chúa. Đối với người Việt Nam, quan niệm về Thiên Chúa (Ông Trời) khá mơ hồ, khó xác định[9]. Thiên Chúa Ba Ngôi của Kitô giáo thì cụ thể và rõ ràng. Thiên Chúa của Kitô giáo là Đấng toàn năng, toàn trí, toàn ái và toàn mỹ, còn Đức Kitô là bằng chứng cho một Thiên Chúa đầy lòng từ bi nhân hậu. Trái lại, Thiên Chúa (Ông Trời) trong tín ngưỡng truyền thống Việt Nam thì thánh thiêng và quyền năng nhưng lại không bao giờ xác định được. Thần thánh hiện diện trong cõi linh thiêng, vô hình. Ngoài ra, tập quán văn hóa thờ cúng tổ tiên có lẽ đã khiến người Việt Nam ngoảnh quay đi trước điều răn trong Giáo Hội là chỉ tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất. Các vị thừa sai phải tìm cách giữ đúng giáo thuyết của Hội Thánh vốn chưa uyển chuyển với thực tế văn hóa. Giải quyết thách đố này, các vị thừa sai chọn phương pháp bán linh hoạt. Một ví dụ cụ thể là Cha Đắc Lộ, một tu sĩ Dòng Tên người Pháp, người đã được ghi nhận là người đầu tiên soạn ra chữ quốc ngữ. Đôi khi cha cũng đã thích nghi giáo thuyết Kitô giáo với tập quán văn hóa nhưng cũng đã từng từ chối những phong tục tùy theo những thực hành thuận hay nghịch lại giáo huấn của Giáo Hội. Mục đích của cha là nhằm giải thích rõ Kitô giáo, tôn giáo mới, trong bối cảnh có những tôn giáo khác. Cha không muốn pha trộn đức Tin Kitô giáo với niềm tin trong các tôn giáo khác.
Đến nay việc bàn thảo vẫn chỉ tập trung vào vấn đề đưa sứ điệp Kitô giáo đi vào văn hóa Việt Nam, trong khi đó, tiến trình Phúc âm hóa đòi hỏi hai khía cạnh: thích nghi và tiếp nhận. Người Công giáo Việt Nam lãnh nhận sứ điệp Kitô giáo với sự tự do như thế nào? Họ đã đáp lại như thế nào khi đã lãnh nhận đức Tin Kitô giáo? Trả lời những câu hỏi này sẽ góp phần làm rõ vì sao đa số họa phẩm được lưu trữ tại Nhà Truyền thống TGP.TPHCM lại vẽ về Đức Maria.
Đức Mẹ Việt Nam
Một trong những lý do có thể nêu lên liên quan đến nhãn quan triết lý văn hóa Việt Nam. Người Việt Nam thường tư duy theo lối nhị nguyên, đối lập giữa thiêng và phàm. Cái bên ngoài hoặc ở ngoài là cái thánh thiêng, còn cái bên trong hoặc bản địa thì phàm tục. Thanh khiết là sự đòi hỏi cần phải có đối với thánh thiêng. Thánh thiêng nghĩa là thanh khiết. Thiên Chúa vượt trên hết thảy. Để có một Thiên Chúa siêu việt, thánh thiện và toàn năng, thì Ngài cần phải ở ngoài bước vào, là người từ ngoài mà đến. Đối với người Việt Nam, những đường nét nơi khuôn mặt Thiên Chúa phải có dáng dấp nước ngoài, bởi đường nét Việt Nam sẽ làm giảm đi tính chất thánh thiêng[10]. Hơn nữa, về mặt lịch sử, Chúa Giêsu không phải là người Việt Nam. Mô tả một Thiên Chúa không có dáng dấp người bản địa là một cách giữ sự trung thành với truyền thống lịch sử vốn là một nét tính cách chủ yếu của người Công giáo Việt Nam.
Còn với Đức Mẹ lại là một chuyện khác. Mẹ là người có phúc vì được chọn để cưu mang Con Thiên Chúa. Việc Đức Maria được nâng lên làm Mẹ của Con Thiên Chúa cho thấy đó là ân phúc từ trời cao. Miêu tả Đức Mẹ mang tính cách Việt Nam sẽ không làm giảm quyền thế của Mẹ nhưng thêm sức cho con người vươn đến sự linh thánh. Khắc họa hình ảnh Đức Mẹ mang tính cách Việt Nam sẽ đưa hình ảnh của Người đến gần với dân chúng và khơi niềm ước ao nên thánh. Ánh mắt mang sắc thái dân tộc Việt Nam của Mẹ giúp con người thấy con đường nên thánh gần gũi dễ dàng hơn vì nhận ra Mẹ cũng mang bản tính nhân loại. Hơn nữa, cảm nhận Mẹ là Đấng thánh thiện cũng nằm trong mạch truyền thống thờ nữ thần của người Việt Nam. Tục thờ thần nữ dễ dàng tiếp nhận việc tôn sùng Đức Mẹ. Sở dĩ có hiện tượng sùng mộ Đức Mẹ La Vang, theo linh mục Phan Đình Cho, vì Mẹ là biểu tượng của lòng từ bi[11]. Thể hiện Đức Mẹ với những đường nét Việt Nam không những không gặp phải sự chống đối mà còn nhận được sự ủng hộ, tôn kính, tôn sùng.
Ngoài những ý nghĩa về phương diện tâm linh, có thể nghiên cứu đề tài Mẹ và Con nơi những bức tranh trong bộ sưu tập này dưới lăng kính xã hội và tâm lý học.
Trong bối cảnh một đất nước chịu đau khổ vì chiến tranh và ách thống trị của ngoại bang, vai trò của người mẹ quan trọng hơn bao giờ hết. Các bà mẹ ở lại nhà và nuôi dạy con cái. Họ là chỗ dựa cho gia đình và thông truyền các giá trị văn hóa và lẽ khôn ngoan cho thế hệ sau khi đàn ông ra trận chiến đấu bảo vệ đất nước.
Bối cảnh xã hội và tôn giáo giải thích được vì sao Đức Mẹ Việt Nam đã trở thành đề tài được giới sáng tác nghệ thuật tôn giáo tại Việt Nam ưa thích. Nền hội họa này khác biệt ra sao về phương diện nghệ thuật với những nền hội họa khác ở phương Đông cũng như phương Tây?
3. KHÁI NIỆM TÍNH LAI GHÉP, MỘT CÁCH NHẬN THỨC VÀ MÔ TẢ HỘI HỌA VIỆT NAM
Người Việt Nam vốn luôn làm nghệ thuật nhưng nghệ thuật của họ đã từng bị coi chỉ là thứ nghề thủ công của người bản xứ. Nhờ nỗ lực của họa sĩ người Pháp Victor Tardieu, trường Mỹ thuật đầu tiên được thành lập tại Hà Nội vào năm 1925, dưới thời Pháp thuộc. Nhiệm vụ của trường Mỹ nghệ Đông Dương là “biến những người thợ thủ công bản xứ thành các nghệ sĩ chuyên nghiệp”[12]. Các nghệ sĩ Việt Nam bắt đầu được học và tin rằng nền hội họa Pháp cao cấp hơn hội họa Đông Dương. Học và làm chủ kỹ thuật hội họa phương Tây, trước hết là tranh sơn dầu, giúp họ đạt được trình độ học vấn cao và thấy mình bớt tự ti hơn. Việc thành lập trường đánh dấu một bước quan trọng đối với người họa sĩ trong việc phát triển phong cách sáng tác của mình. Thậm chí sự phát triển còn trở nên rõ rệt hơn khi chế độ thực dân Pháp kết thúc vào năm 1945. Ở miền Bắc, trường Mỹ nghệ Đông Dương trở thành trường Cao đẳng Mỹ thuật Việt Nam, và hiện nay là trường Đại học Mỹ thuật Việt Nam. Ở miền Nam, trường Mỹ thuật Gia Định được thành lập. Trường phối hợp hội họa tranh lụa Trung Hoa và kỹ thuật vẽ chân dung và khái niệm về bố cục của phương Tây. Kết quả là tạo ra được vẻ mềm mại và trong trẻo của mực nước vẽ trên lụa. Sự độc đáo là đã kết hợp được hai phương pháp hội họa. Đó là sự độc đáo của pha trộn. Sự độc đáo của việc không cần viền mép và phát sinh một đường hướng và thể loại mới.
Bây giờ xin nói về sự cách tân và ý nghĩa đích thực của tính lai ghép. Tính lai ghép hay không gian thứ ba là sự hợp nhất giữa các yếu tố khác biệt và đối chọi nhau. Như vậy, không gian thứ ba khu trú ở một vị trí không dành cho những đối chọi mang tính cực đoan, không mưu tìm bất kỳ sự chắc chắn hoặc ổn định nào. Mô hình này khước từ việc trở thành môn đệ của yếu tính luận (essentialist) và chấp nhận sự tồn tại giữa các đối cực. Do đó cần phải có ngay một không gian mới, đó là một không gian “khác biệt trong tương đồng” (sự dị biệt của cái tương đồng)[13]. Người nào nhìn nhận tính mơ hồ của thực trạng, người ấy không tìm cách phủ định mà chọn sự thương thảo. Nhà thờ chính tòa Phát Diệm tiêu biểu cho một dự phóng về văn hóa. Nhà thờ chính tòa Phát Diệm là một không gian khác biệt trong tương đồng.
Sự tồn tại đồng thời của cả hai mặt đối lập trong Không gian thứ ba, giữa cái tương đồng và cái khác biệt, hoặc cái mới, cái không chịu đóng khung cách này cách khác, đang vận hành như một hành động đối lập với chính mình. Tiến trình thương thảo và sản phẩm của sự lai ghép (hybridity) đặt ra thách thức đối với những cố gắng mang tính thực dân nhằm chia cắt giữa “trung tâm” và “ngoại vi”, hoặc nỗ lực của chủ nghĩa bản địa nhằm xây dựng một quá khứ thuần túy bản địa. Sự pha trộn trong Không gian thứ ba gây thất vọng cho mọi thẩm quyền, cho kẻ bảo vệ tính chính thống và những người nồng nhiệt chạy theo chủ nghĩa bản địa. Không gian thứ ba phá vỡ kiểu thống trị tuyến tính thuần túy và kiểu dùng thủ đoạn, vì nó bẻ cho gãy loại chính trị đơn cực giả tạo mà nhà cầm quyền thực dân và nhà cầm quyền bản địa chủ nghĩa cố gắng duy trì[14]. Nói cách khác, sự thương thảo và sự pha trộn chính là những hạt mầm gieo sự hủy diệt đối với những diễn ngôn độc quyền của thực dân, bởi sản phẩm của sự pha trộn không phải là một bắt chước hoặc một bản sao mờ nhạt do “trung tâm” kiểm soát, mà sự bắt chước này “chẳng hề xa sự nhạo báng bao giờ”[15].
Hội họa Việt Nam, đặc biệt nghệ thuật tranh lụa và sơn mài, chưa bao giờ mang nhãn hiệu là nghệ thuật khởi thủy, nhưng đã được nhìn nhận là nguyên tuyền, thuần khiết, không bị hư hoại[16]. Hội họa Việt Nam là một nền nghệ thuật “chính danh”, không lai căng, tái chế, không phải là bản sao mệt mỏi của hội họa châu Âu và Mỹ[17]. Tính chính danh của nền hội họa mang lại cho các họa sĩ một chỗ đứng vinh dự để đổi mới phương pháp sáng tạo nghệ thuật. Sự phối hợp hai luồng ảnh hưởng sẽ tạo ra một vị thế mới và xóa đi cái gọi là trên và dưới, trong và ngoài, ngoại vi và trung tâm. Quả thật đó là một vị thế dám đưa ra thách thức.
KẾT LUẬN
Bài viết này giới thiệu mảng tranh được sưu tập và lưu trữ tại Nhà truyền thống TGP. TP.HCM vốn chưa được các nhà nghiên cứu đề cập và thảo luận. Bài viết cũng đã tìm hiểu căn nguyên và cảm hứng của những hình ảnh sáng tạo này cũng như khám phá cách giải thích mới về phong cách của những họa phẩm này. Đặt trong bối cảnh xã hội hậu thực dân, những họa phẩm này cho thấy một cái nhìn tươi mới về cách làm thế nào đánh giá và điều chỉnh câu chuyện về lịch sử hội họa, ít nhất tại vùng Đông Nam Á. Nghệ thuật là đời sống. Khám phá nghệ thuật sẽ luôn gợi ra con đường “hội nhập”.
Thành Thi chuyển ngữ
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 84 (Tháng 9 & 10 năm 2014)
[1] Nora A. Taylor, Painters in Hanoi : an ethnography of Vietnamese art, Honolulu: University of Hawaii Press, 2004, 109.
[2] Đặng Việt Bích, Tìm hiểu Văn hóa Dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2006, 265.
[3] Đỗ Thị Hảo-Mai Thị Ngọc Chúc, Các nữ thần Việt Nam, Nxb Phụ nữ (Hà Nội, 1984).
[4] Nguyễn Minh San, Những thần nữ danh tiếng trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1996, 18.
[5] Đinh Gia Khánh, Tục thờ Mẫu và những truyền thống văn hóa dân gian ở Việt Nam, Tạp chí Văn học, số 5-1992.
[6] Ngô Đức Thịnh, Đạo Mẫu ở Việt Nam, Nxb Thông tin, Hà Nội 1996, 10.
[7] Nguyễn Minh San, Những thần nữ danh tiếng trong văn hóa tín ngưỡng Việt Nam, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 1996, 18.
[8] Nguyễn Minh San, Tiếp cận tín ngưỡng dân gian Việt Nam, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội 1994, 103.
[9] Đặng Việt Bích, Tìm hiểu Văn hóa Dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2006, 284.
[10] Vấn đề này cần được nghiên cứu thêm dưới khía cạnh tâm lý học.
[11] Peter C. Phan, Vietnamese-American Catholics, New York: Paulist Press, 2005, 113.
[12] Nora A. Taylor, Painters in Hanoi : an ethnography of Vietnamese art, Honolulu: University of Hawaii Press, 2004, 13.
[13] Homi K. Bhabha, The Location of Culture, New York: Routledge, 1994, 32.
[14] Homi K. Bhabha, The Location of Culture, New York: Routledge, 1994, 56.
[15] Bill Ashcroft, Grareth Griffiths and Helen Tiffin, Post-Colonial Studies: The Key Concepts, New York: Routledge, 2004, 139-142.
[16] Nora A. Taylor, Painters in Hanoi : an ethnography of Vietnamese art, Honolulu: University of Hawaii Press, 2004, 7.
[17] Nora A. Taylor, Painters in Hanoi : an ethnography of Vietnamese art, Honolulu: University of Hawaii Press, 2004, 7.