2021
Đức Phanxicô sẽ không cử hành thánh lễ Ngày Thế Giới Ông Bà
Đức Phanxicô sẽ không cử hành thánh lễ Ngày Thế Giới Ông Bà
Đức Phanxicô sẽ không cử hành thánh lễ Ngày Thế Giới Ông Bà, chúa nhật 25 tháng 7, ngày do chính ngài thiết lập vào tháng 1 năm 2021. Hồng y Rino Fisichella, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Phúc Âm hóa sẽ cử hành thánh lễ thay thế ngài. Ông Matteo Bruni, giám đốc Văn phòng Báo chí của Tòa thánh cho biết, sau cuộc phẫu thuật ngày chúa nhật 4 tháng 7, Đức Phanxicô vẫn cần phải nghỉ ngơi.
Được thành lập vào tháng 1 đầu năm, Đức Phanxicô muốn nói lên sự phong phú của người lớn tuổi và ngày này sẽ được cử hành hàng năm vào một ngày trước ngày lễ Thánh Anna và Gioakim, ông bà của Chúa Giêsu. Trong lần công bố đầu tiên, Bộ Giáo dân, Gia đình và Đời sống cho biết, Đức Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ ở Đền thờ thánh Phêrô.
Đức Phanxicô tiếp tục dưỡng bệnh
Ngày chúa nhật 4 tháng 7, Đức Phanxicô mổ đại tràng vì bị hẹp túi thừa. Vatican dự trù Đức Phanxicô ở bệnh viện bảy ngày nhưng cuối cùng ngài đã ở lại bệnh viện Gemelli mười ngày.
Ông Matteo Bruni cho biết, Đức Phanxicô đi bộ được nhưng lúc này ngài không đi bộ được một quãng xa. Một nguồn tin ở Vatican nói với hãng tin I. Media: “Chúng ta không nên lo lắng, ngài đang tiếp tục tiến trình hồi phục bình thường của ngài.”
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Thư Đức Phanxicô gửi các giám mục trên thế giới về Tự sắc Traditionis Custodes
Thư Đức Phanxicô gửi các giám mục trên thế giới về Tự sắc Traditionis Custodes
Giống vị Tiền nhiệm của tôi là Đức Bênêđíctô XVI đã làm với Tự sắc Summorum Pontificum, tôi muốn đính kèm Tự sắc Traditionis một lá thư giải thích các động cơ thúc đẩy quyết định của tôi. Tôi hướng đến qúy huynh đệ với niềm tín thác và mạnh dạn, nhân danh “sự lo lắng chung đối với toàn thể Giáo hội, góp phần tối cao vào lợi ích của Giáo hội Hoàn vũ” như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta.
Rôma, ngày 16 tháng 7 năm 2021
Qúy huynh đệ trong hàng Giám mục thân mến,
Giống vị Tiền nhiệm của tôi là Đức Bênêđíctô XVI đã làm với Tự sắc Summorum Pontificum, tôi muốn đính kèm Tự sắc Traditionis một lá thư giải thích các động cơ thúc đẩy quyết định của tôi. Tôi hướng đến qúy huynh đệ với niềm tín thác và mạnh dạn, nhân danh “sự lo lắng chung đối với toàn thể Giáo hội, góp phần tối cao vào lợi ích của Giáo hội Hoàn vũ” như Công đồng Vatican II đã nhắc nhở chúng ta.[1]
Hầu hết mọi người đều hiểu các động cơ từng thúc đẩy Thánh Gioan Phaolô II và đức Bênêđictô XVI cho phép sử dụng Sách lễ Rôma, do Thánh Piô V ban hành và Thánh Gioan XXIII hiệu đính năm 1962, cho Hy tế Thánh Thể. Năng quyền – được cấp bởi đặc miễn (indult) của Thánh bộ Phụng thờ Thiên Chúa vào năm 1984 [2] và được Thánh Gioan Phaolô II xác nhận trong Tự sắc Ecclesia Dei năm 1988 [3] – trước hết được thúc đẩy bởi mong muốn cổ vũ việc hàn gắn cuộc ly giáo với phong trào của Đức Cha Lefebvre. Với ý định nhằm khôi phục sự hiệp nhất Giáo hội, do đó, các Giám mục được yêu cầu rộng lượng chấp nhận “nguyện vọng chính đáng” của các tín hữu đã yêu cầu sử dụng Sách lễ đó.
Nhiều người trong Giáo hội coi năng quyền này là cơ hội để tự do tiếp nhận Sách lễ Rôma do Thánh Piô V ban hành và sử dụng nó theo cách song song với Sách lễ Rôma do Thánh Phaolô VI ban hành. Để điều chỉnh tình trạng này trong khoảng thời gian nhiều năm, Đức Bênêđíctô XVI đã can thiệp để giải quyết tình trạng sự việc này trong Giáo hội. Nhiều linh mục và cộng đoàn đã “sử dụng với lòng biết ơn khả thể được cung cấp bởi Tự sắc” của Thánh Gioan Phaolô II. Nhấn mạnh rằng sự phát triển này không thể lường trước được vào năm 1988, Tự sắc Summorum năm 2007 dự định đưa ra “một quy định pháp lý rõ ràng hơn” trong lĩnh vực này [4]. Để cho phép những người, kể cả những người trẻ tuổi, những người khi “khám phá ra hình thức phụng vụ này, cảm thấy được lôi cuốn và tìm thấy trong đó một hình thức, đặc biệt phù hợp với họ, để gặp gỡ mầu nhiệm Thánh Thể cực thánh” được tiếp cận nó[5], Đức Bênêđíctô XVI tuyên bố “Sách lễ do Thánh Piô V ban hành và mới được Chân phước Gioan XXIII hiệu đính, là một cách diễn đạt ngoại thường của cùng một luật cầu nguyện [lex orandi]”, và ban “khả thể rộng rãi hơn cho việc sử dụng Sách lễ năm 1962” [6].
Khi đưa ra quyết định của mình, các ngài tin tưởng rằng một dự liệu như vậy sẽ không gây nghi ngờ cho một trong những biện pháp quan trọng của Công đồng Vatican II hoặc giảm thiểu thẩm quyền của nó bằng cách này: Tự sắc công nhận rằng, theo đúng quyền của nó, “Sách lễ ban hành bởi Đức Phaolô VI là cách diễn đạt thông thường của luật cầu nguyện của Giáo Hội Công Giáo theo nghi lễ Latinh ” [7]. Việc công nhận Sách lễ do Thánh Piô V ban hành “như một cách diễn đạt ngoại thường của cùng một luật cầu nguyện”, bất cứ cách nào, cũng không hề hạ giá việc cải cách phụng vụ, nhưng được ra sắc lệnh với mong muốn thừa nhận “những lời cầu nguyện khẩn thiết của các tín hữu này,” cho phép họ “cử hành Hy tế Thánh lễ theo tiêu bản [editio typica] của Sách lễ Rôma do Chân phước Gioan XXIII ban hành năm 1962 và không bao giờ bị bãi bỏ, như là hình thức ngoại thường của Phụng vụ Giáo hội”[8]. Điều an ủi Đức Bênêđíctô XVI trong sự phân định của ngài là nhiều người mong muốn “tìm thấy hình thức Phụng vụ thánh thân thiết với họ”, “rõ ràng chấp nhận đặc tính ràng buộc của Công đồng Vatican II và trung thành với Đức Giáo Hoàng và các Giám mục” [9]. Hơn nữa, ngài tuyên bố là vô căn cứ việc sợ có sự chia rẽ trong các cộng đồng giáo xứ, bởi vì “hai hình thức sử dụng Nghi lễ Rôma sẽ làm giàu lẫn cho nhau” [10]. Vì vậy, ngài mời gọi các Giám mục gạt bỏ những nghi ngờ và sợ hãi của họ, và hoan nghênh các quy tắc, “lưu tâm để mọi điều tiến hành trong hòa bình và thanh thản,” với lời hứa rằng “sẽ có thể tìm được các giải pháp” trong trường hợp “các khó khăn nghiêm trọng được đưa ra ánh sáng” trong việc thực hiện các tiêu chuẩn “một khi Tự sắc có hiệu lực” [11].
Với mười ba năm trôi qua, tôi đã chỉ thị cho Bộ Giáo lý Đức tin phân phối một bảng câu hỏi cho các Giám mục về việc thực thi Tự sắc Summorum Pontificum. Các câu trả lời tiết lộ một tình huống khiến tôi bận tâm và buồn phiền, đồng thời thuyết phục tôi về sự cần thiết phải can thiệp.
Thật đáng tiếc, mục tiêu mục vụ của các vị Tiền nhiệm của tôi, những vị vốn có ý định “làm mọi điều có thể để bảo đảm rằng tất cả những người thực sự khát vọng hiệp nhất sẽ thấy họ có thể duy trì sự hiệp nhất này hoặc tái khám phá nó” [12], thường bị coi thường một cách trầm trọng. Một cơ hội được Thánh Gioan Phaolô II và, một cách rộng lượng hơn, được Bênêđíctô XVI cung ứng, nhằm khôi phục sự hợp nhất của cơ thể Giáo hội với những nhạy cảm phụng vụ đa dạng, đã bị khai thác để mở rộng thêm hố phân cách, tăng cường các khác biệt và khuyến khích các bất đồng gây tổn hại cho Giáo hội, chặn đường đi của Giáo Hội, và khiến Giáo Hội phải đối đầu với nguy cơ chia rẽ.
Đồng thời, tôi đau buồn về các lạm dụng trong việc cử hành phụng vụ ở mọi phía. Cùng với Bênêđíctô XVI, tôi lấy làm tiếc sự kiện này là “ở nhiều nơi, các quy định của Sách Lễ mới không được tuân thủ trong việc cử hành, nhưng thực sự còn bị hiểu như một sự cho phép hoặc thậm chí như một đòi hỏi của óc sáng tạo, dẫn đến những bóp méo gần như không thể chịu đựng được” [13]. Nhưng tôi vẫn thấy buồn vì việc sử dụng Sách Lễ Rôma năm 1962 như một công cụ thường có đặc điểm ở chỗ bác bỏ không những cuộc cải tổ phụng vụ, mà cả chính Công đồng Vatican II, vì cho rằng nó đã phản bội Truyền thống và “Giáo hội đích thực”, với những khẳng định vô căn cứ và không thể được chống đỡ. Con đường của Giáo hội phải được nhìn trong tính năng động của Truyền thống “bắt nguồn từ các Tông đồ và tiến diễn trong Giáo hội với sự trợ giúp của Chúa Thánh Thần” (DV 8). Giai đoạn gần đây của tính năng động này đã được Công đồng Vatican II thiết lập trong đó hàng giám mục Công Giáo đến với nhau để lắng nghe và phân định con đường cho Giáo hội được Chúa Thánh Thần chỉ định. Nghi ngờ Công đồng là nghi ngờ ý định của chính những Nghị phụ đã thực thi quyền lực hợp đoàn của các ngài một cách long trọng cum Petro et sub Petro [cùng với Phêrô và dưới Phêrô] trong một công đồng chung[14], và, nếu phân tích cho cùng, nghi ngờ chính Chúa Thánh Thần, Đấng hướng dẫn Giáo Hội.
Mục tiêu sửa đổi việc cho phép do các Vị tiền nhiệm của tôi ban cấp được chính Công đồng Vatican II nêu bật. Từ việc các phiếu bầu của các Giám mục đệ trình ở đó, ta thấy các ngài nhấn mạnh rất nhiều đến việc tham gia trọn vẹn, có ý thức và tích cực của toàn thể dân Chúa vào phụng vụ[15], phù hợp với các đường hướng đã được Đức Piô XII chỉ ra trong Thông điệp Mediator Dei [Đấng Trung gian của Thiên Chúa] về việc canh tân phụng vụ[16]. Hiến chế Sacrosanctum Concilium đã xác nhận lời kêu gọi này, bằng cách tìm kiếm “sự đổi mới và thăng tiến phụng vụ”[17], và bằng cách chỉ ra các nguyên tắc nên hướng dẫn cuộc cải tổ[18]. Đặc biệt, nó xác định rằng các nguyên tắc này liên quan đến Nghi lễ Rôma, và các nghi lễ hợp pháp khác nếu có thể áp dụng, và yêu cầu “các nghi lễ được duyệt xét cẩn thận dưới ánh sáng truyền thống lành mạnh, và chúng được cung cấp sức sống mới để đáp ứng các hoàn cảnh và nhu cầu thời nay ”[19]. Trên cơ sở những nguyên tắc này, một cuộc cải tổ phụng vụ đã được thực hiện, với biểu thức cao nhất của nó trong Sách Lễ Rôma, được Thánh Phaolô VI công bố trong tiêu bản [20] và được Thánh Gioan Phaolô II sửa đổi [21]. Do đó, cần phải cho rằng Nghi lễ Rôma, được thích ứng nhiều lần trong suốt nhiều thế kỷ theo nhu cầu của thời đại, không những phải được bảo tồn mà còn được đổi mới “trong sự tuân thủ trung thành đối với Truyền thống”[22]. Bất cứ ai muốn cử hành với lòng sùng kính theo các hình thức trước đây của phụng vụ có thể tìm thấy trong Sách lễ Rôma được cải cách theo Công đồng Vatican II tất cả các yếu tố của Nghi lễ Rôma, đặc biệt là Lễ qui Rôma [Roman Canon] vốn tạo thành một trong những yếu tố khác biệt hơn của nó.
Lý do cuối cùng cho quyết định của tôi là thế này: Càng rõ ràng hơn trong lời nói và thái độ của nhiều người là mối liên hệ chặt chẽ giữa việc lựa chọn cử hành theo các sách phụng vụ trước Công đồng Vatican II và việc bác bỏ Giáo hội và các định chế của Giáo hội nhân danh điều được gọi là “Giáo hội đích thực”. Ở đây, người ta đang đương đầu với một tác phong mâu thuẫn với sự hiệp thông và nuôi dưỡng khuynh hướng chia rẽ – “Tôi thuộc về Phaolô; Thay vào đó tôi thuộc về Apollo; Tôi thuộc về Cephas; Tôi thuộc về Đấng Kitô ”- điều mà Thánh Tông đồ Phaolô đã phản đối một cách mạnh mẽ [23]. Để bảo vệ sự hợp nhất của Thân thể Chúa Kitô, tôi buộc phải thu hồi năng quyền được các vị Tiền nhiệm của tôi ban cấp. Việc sử dụng đầy xuyên tạc đã được thực hiện cho năng quyền này là trái với các ý định dẫn đến việc cho phép tự do cử hành Thánh lễ với Sách Lễ Rôma [Missale Romanum] năm 1962. Vì “các cử hành phụng vụ không phải là các hành động riêng tư, nhưng là các cử hành của Giáo hội, là bí tích hiệp nhất ” [24], chúng phải được thực hiện trong sự hiệp thông với Giáo hội. Công đồng Vatican II, trong khi tái xác nhận các mối ràng buộc bên ngoài của việc tháp nhập vào Giáo hội – tuyên xưng đức tin, các bí tích, sự hiệp thông – đã khẳng định với Thánh Augustinô rằng việc ở lại trong Giáo hội không chỉ “bằng thân xác” mà còn “bằng tâm hồn” là điều kiện để được cứu rỗi [25].
Qúy huynh đệ thân mến trong hàng Giám mục, Sacrosanctum Concilium giải thích rằng Giáo hội, “bí tích hiệp nhất”, là như vậy vì là “Dân thánh được quy tụ và cai quản dưới thẩm quyền của các Giám mục”[26]. Hiến chế Lumen gentium, trong khi nhắc lại rằng Giám mục Rôma là “nguyên tắc vĩnh viễn và hữu hình và là nền tảng của sự hiệp nhất của cả các giám mục lẫn của vô số các tín hữu”, nói rằng quý huynh đệ Giám mục là “nguyên tắc hữu hình và nền tảng của sự hiệp nhất của các Giáo hội địa phương của qúy vị, trong đó và qua đó hiện hữu một Giáo Hội Công Giáo duy nhất ”[27].
Đáp ứng yêu cầu của qúy huynh đệ, tôi cương nghị quyết định bãi bỏ tất cả các quy tắc, huấn thị, giấy phép và phong tục có trước Tự sắc này, và tuyên bố rằng các sách phụng vụ được ban hành bởi các Đức Giáo Hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II, phù hợp với các sắc lệnh của Công đồng Vatican II, tạo thành biểu thức độc nhất của luật cầu nguyện của Nghi lễ Rôma. Trong quyết định này, tôi tìm an ủi ở sự kiện này là sau Công đồng Trent, Thánh Piô V cũng bãi bỏ tất cả các nghi lễ không được chứng mình là có tính cổ xưa, và đã thiết lập cho toàn thể Giáo hội Latinh một Sách lễ Rôma duy nhất. Trong bốn thế kỷ, Sách lễ Rôma, do Thánh Piô V ban hành, do đó, là biểu thức chính của luật cầu nguyện của Nghi thức Rôma, và có chức năng duy trì sự thống nhất của Giáo hội. Không phủ nhận phẩm giá và sự cao cả của Nghi lễ này, các Giám mục tập hợp trong công đồng chung yêu cầu nó được cải tổ; ý định của các ngài là “các tín hữu sẽ không tham dự như những người xa lạ và những khán giả im lặng vào mầu nhiệm đức tin, nhưng, với sự hiểu biết đầy đủ về các nghi thức và lời cầu nguyện, sẽ tham dự vào hành động thánh thiêng một cách có ý thức, sốt sắng và tích cực” [28]. Thánh Phaolô VI, khi nhắc lại rằng công việc sửa đổi Sách Lễ Rôma đã được Đức Piô XII khởi xướng, đã tuyên bố rằng việc sửa đổi Sách Lễ Rôma, được thực hiện dưới ánh sáng của các nguồn phụng vụ cổ xưa, có mục đích cho phép Giáo Hội dâng lên, bằng nhiều ngôn ngữ khác nhau, “một lời cầu nguyện duy nhất và đồng nhất” nói lên sự hiệp nhất của Giáo Hội [29]. Sự hiệp nhất này tôi dự tính sẽ tái lập trong toàn bộ Giáo hội của Nghi lễ Rôma.
Công đồng Vatican II, khi mô tả tính Công Giáo của dân Chúa, đã nhắc lại rằng “trong sự hiệp thông Giáo hội”, hiện hữu nhiều Giáo hội đặc thù hưởng thụ các truyền thống riêng của mình, không gây hại đến quyền tối thượng của Tòa Phêrô, là tòa chủ trì tình hiệp thông bác ái hoàn vũ, đã bảo đảm tính đa dạng hợp pháp và cùng nhau bảo đảm rằng cái đặc thù không những không làm tổn hại đến cái phổ quát mà trên hết còn phải phục vụ nó” [30]. Trong việc thi hành thừa tác vụ của mình để phục vụ sự hiệp nhất, trong khi tôi đưa ra quyết định đình chỉ năng quyền do các vị Tiền nhiệm của tôi ban cấp, tôi yêu cầu qúy huynh đệ chia sẻ với tôi gánh nặng này như một hình thức tham gia vào viêc lo lắng cho toàn thể Giáo hội vốn là trách nhiệm của các Giám mục. Trong Tự sắc, tôi muốn khẳng định điều này: tùy thuộc vị Giám mục ra qui định cho các việc cử hành phụng vụ, vì ngài vốn là người phối trí, cổ vũ và bảo vệ đời sống phụng vụ của Giáo hội mà ngài là nguyên tắc hiệp nhất. Trong tư cách các bản quyền địa phương, Qúy huynh đệ có quyền cho phép tại các Giáo Hội của qúy vị việc sử dụng Sách Lễ Rôma năm 1962, trong khi áp dụng các tiêu chuẩn của Tự sắc này. Qúy vị có thể tiến hành một cách nào đó để trở lại hình thức cử hành nhất thể [unitary], và xác định từng trường hợp thực tại của các nhóm cử hành với Sách Lễ Rôma này.
Các chỉ dẫn về cách tiến hành trong giáo phận của qúy vị chủ yếu được quy định bởi hai nguyên tắc: một mặt, cung cấp lợi ích cho những người đã bén rễ vào hình thức cử hành trước đây và cần phải kịp thời trở lại với Nghi lễ Rôma do Các Thánh Phaolô VI và Gioan Phaolô II ban hành, và mặt khác, việc ngừng thiết lập các giáo xứ tòng nhân mới gắn liền với mong muốn và ước nguyện của cá nhân linh mục hơn là nhu cầu thực sự của “Dân thánh Thiên Chúa”. Đồng thời, tôi yêu cầu qúy huynh đệ hãy thận trọng trong việc bảo đảm rằng mọi phụng vụ phải được cử hành trang trọng và trung thành với các sách phụng vụ được ban hành sau Công đồng Vatican II, không có những hành vi lập dị dễ trở thành lạm dụng. Các chủng sinh và tân linh mục nên được đào tạo về việc trung thành tuân giữ các quy định của Sách Lễ và các sách phụng vụ, trong đó phản ánh ý chí cải tổ phụng vụ của Công đồng Vatican II.
Tôi cầu xin Thần Khí của Chúa Phục Sinh xuống trên qúy huynh đệ, xin Người làm cho qúy huynh đệ trở nên mạnh mẽ và cương nghị trong việc phục vụ dân Chúa mà Chúa đã giao phó cho qúy huynh đệ, để sự quan tâm và cảnh giác của qúy huynh đệ thể hiện sự hiệp thông ngay cả trong sự thống nhất của một Nghi lễ duy nhất, trong đó sự phong phú tuyệt vời của truyền thống phụng vụ Rôma được bảo tồn. Tôi cầu nguyện cho qúy huynh đệ. Xin qúy huynh đệ cầu nguyện cho tôi.
Phanxicô
[1] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, số. 23 AAS 57 (1965) 27.
[2] Xem Bộ Phụng tự, Thư gửi các Chủ tịch các Hội đồng Giám mục “Quattuor abhinc annos”, ngày 3 tháng 10 năm 1984: AAS 76 (1984) 1088-1089.
[3] Đức Gioan Phaolô II, Tông thư dưới dạng Tự sắc “Ecclesia Dei”, ngày 2 tháng 7 năm 1988: AAS 80 (1998) 1495-1498.
[4] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[5] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[6] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 797.
[7] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007) 779.
[8] Đức Bênêđíctô XVI, Tông thư dưới dạng Tự sắc“Summorum Pontificum”, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007) 779.
[9] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[10] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 797.
[11] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 798.
[12] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 797-798.
[13] Đức Bênêđíctô XVI, Thư gửi các Giám mục nhân dịp công bố Tông thư “Dưới dạng Tự sắc” Summorum Pontificum về việc sử dụng Phụng vụ Rôma trước cuộc cải tổ năm 1970, ngày 7 tháng 7 năm 2007: AAS 99 (2007 ) 796.
[14] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 23: AAS 57 (1965) 27.
[15] Xem Acta et Documenta Concilio Oecumenico Vaticano II apparando, Series I, Volumen II, 1960.
[16] Đức Piô XII, Thông điệp về phụng vụ thánh “Mediator Dei”, ngày 20 tháng 11 năm 1947: AAS 39 (1949) 521-595.
[17] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, nn. 1, 14: AAS 56 (1964) 97.104.
[18] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 3: AAS 56 (1964) 98.
[19] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 4: AAS 56 (1964) 98.
[20] Missale Romanum ex decto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI Issgatum, editio typica, 1970.
[21] Missale Romanum ex decto Sacrosancti Oecumenici Concilii Vaticani II instauratum auctoritate Pauli PP. VI promulgatum Ioannis Pauli PP. II cura reggnitum, editio typica altera, 1975; editio typica tertia, 2002; (reimpressio emendata 2008).
[22] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 3: AAS 56 (1964) 98.
[23] 1Cr 1,12-13.
[24] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 26: AAS 56 (1964) 107.
[25] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 14: AAS 57 (1965) 19.
[26] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 6: AAS 56 (1964) 100.
[27] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 23: AAS 57 (1965) 27.
[28] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế về phụng vụ thánh “Sacrosanctum Concilium”, ngày 4 tháng 12 năm 1963, n. 48: AAS 56 (1964) 113.
[29] Đức Phaolô VI, Tông hiến “Missale Romanum” về Sách lễ Rôma mới, ngày 3 tháng 4 năm 1969, AAS 61 (1969) 222.
[30] Xem Công đồng chung Vatican II, Hiến chế tín lý về Giáo hội “Lumen Gentium”, ngày 21 tháng 11 năm 1964, n. 13: AAS 57 (1965) 18.
Vũ Văn An
2021
Mật nghị bầu giáo hoàng tương lai giữa môi trường hoạt đầu truyền thông xã hội
Mật nghị bầu giáo hoàng tương lai giữa môi trường hoạt đầu truyền thông xã hội
Massimo Faggioli là một sử gia Giáo Hội, giáo sư thần học và tôn giáo học tại Đại Học Villanova, California, và một cây viết của tạp chí Commonweal. Trên tạp chí La Croix International gần đây, ông có bài viết tựa đề là Thấp thoáng Mật nghị, những người theo chủ nghĩa dân túy Công Giáo và “dubia” (The looming conclave, Catholic populists and the “dubia”), đại ý nhấn mạnh việc Đức Giáo Hoàng Phanxicô cần khẩn cấp duyệt lại thể thức bầu vị kế nhiệm ngài.
Theo Giáo sư Faggioli, Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã thay đổi đáng kể thành phần cử tri đoàn, thậm chí bằng cách bổ sung vào số lượng của nó những người từ các quốc gia trước đây chưa từng có Hồng Y. Điều này phản ảnh cố gắng của ngài nhằm phi Âu hóa Giáo hội và bộ phận cuối cùng sẽ bầu ra người kế nhiệm ngài.
Đó là một thay đổi định chế rất quan trọng. Nhưng vị giáo hoàng, người sẽ bước sang tuổi 85 vào tháng 12 này, vẫn chưa cập nhật các tiêu chuẩn quy định mật nghị. Ngài cần phải làm như vậy sớm, nếu không có thể có vấn đề nghiêm trọng. Một bài báo gần đây trên tạp chí chính trị Ý Il Mulino của nhà sử học Giáo hội nổi tiếng Alberto Melloni (một trong những tôn sư của Faggioli) nêu ra nhiều vấn đề cấp bách liên quan đến mật nghị sắp tới. Đây là phiên bản sửa đổi và cập nhật của một cuốn sách rất quan trọng mà ông đã viết vào đầu những năm 2000 về lịch sử các cuộc bầu cử giáo hoàng. Trước tiên, nó cung cấp một phân tích ngắn gọn về những thay đổi gần đây nhất trong các quy tắc dành cho mật nghị, đặc biệt là tông hiến Universi Dominici Gregis (Chăn dắt Đoàn chiên Thiên Chúa) của Đức Gioan Phaolô II (1996). Bản văn này đặc biệt ấn định Rôma là nơi duy nhất việc bầu Giáo Hoàng có thể diễn ra, do đó đã loại bỏ qui định cũ theo đó, mật nghị diễn ra ở bất cứ nơi nào vị giáo hoàng qua đời. Sau đó, Melloni đề cập đến sự sửa đổi nhỏ mà Đức Bênêđíctô XVI đã thực hiện đối với Universi Dominici Gregis vào ngày 22 tháng 2 năm 2013, ngay sau khi tuyên bố từ chức giáo hoàng. Dù sao, Đức Bênêđíctô đã khôi phục sự cần thiết của đa số 2/3 đối với việc bầu chọn Giám Mục Rôma, hủy bỏ khả thể bầu cử theo đa số tương đối mà Đức Gioan Phaolô đã đưa ra.
Sự tự do của mật nghị sắp tới đang gặp nguy hiểm
Melloni cho rằng Đức Phanxicô không có nghĩa vụ phải cập nhật các tiêu chuẩn của mật nghị, nhưng ông thúc giục Đức Giáo Hoàng làm như vậy dựa trên hai sự kiện mới. Đầu tiên là việc Đức Phanxicô tạo ra các chuẩn mực đặc biệt mới để chống lại việc lạm dụng tình dục của các giáo sĩ và sự thất bại của các giám mục không chịu hành động, trong một hệ thống đôi khi phải dùng đến hình thức công lý chiếu lệ (summary justice) làm tổn hại đến sự công bằng, do áp lực bên ngoài thường có cái nhìn khắc nghiệt đối với các giáo sĩ vi phạm. Thứ hai là việc Đức Phanxicô khôi phục hệ thống “công lý thế tục” [temporal justice] ở Vatican, hệ thống này có thể khiến các vị Hồng Y bị buộc tội sai lầm (instrumental accusation) có khả năng loại họ khỏi mật nghị hay ít nhất khỏi danh sách có thể được bầu làm Giáo Hoàng (papabili) (những ứng cử viên hàng đầu). Melloni cho biết, những phát triển mới này đã đặt tự do của mật nghị sắp tới vào vòng nguy hiểm.
Ông cảnh báo, “Nếu không có một số sửa đổi trong tông hiến quy định mật nghị, thế kỷ 21 có thể có nghĩa là sự trở lại của một quyền phủ quyết đáng gờm có khả năng thay đổi kết quả của cuộc bầu cử giáo hoàng: một quyền phủ quyết không còn được thực hiện bởi các quân vương Công Giáo, mà là bởi các đế quốc xã hội mới là các phương tiện truyền thông và những người có kỹ thuật để sử dụng chúng hoặc một mối lợi để huy động chúng”.
Bốn thay đổi được đề nghị
Melloni đưa ra bốn đề nghị để cập nhật các quy tắc cho mật nghị. Đề nghị đầu tiên của ông là tăng cường clausura (cấm cửa). Ông nói rằng tất cả các Hồng Y cử tri nên được yêu cầu cư trú tại Cư sở Santa Marta ngay khi các ngài đến Rôma, thay vì được phép đợi cho đến khi mật nghị thực sự bắt đầu. Đề nghị thứ hai của ông là “các phiên họp toàn thể” – tức các phiên họp hàng ngày trước mật nghị gồm tất cả các Hồng Y, kể cả những các vị không có quyền bỏ phiếu, trên 80 tuổi – cũng nên bao gồm các phiên họp trong bầu khí kiểu clausura chỉ dành cho các Hồng Y cử tri. Đề nghị thứ ba của Melloni là thay đổi tần suất các cuộc bỏ phiếu: chỉ một lần bỏ phiếu mỗi ngày trong ba ngày đầu tiên; hai lần bỏ phiếu mỗi ngày trong ba ngày tiếp theo; và bốn lần bỏ phiếu trong ba ngày sau đó. Ông nói điều này sẽ giúp các “bên khác nhau” trong mật nghị có thêm thời gian để thảo luận. Nó cũng sẽ giải phóng các cử tri khỏi áp lực của các phương tiện truyền thông nhằm nhanh chóng có được vị tân giáo hoàng. Đề nghị thứ tư và cuối cùng cũng liên quan đến những rủi ro của một cuộc bầu cử vội vàng. Melloni đề nghị các quy tắc mới nên dành cho vị Hồng Y đã nhận đủ phiếu bầu để trở thành giáo hoàng có nhiều thời gian hơn để cầu nguyện, suy ngẫm và xem xét lại lương tâm của mình. Điều này sẽ giúp ngài xét xem liệu có điều gì trong quá khứ của mình (cũng như khi ngài phải xử lý các trường hợp lạm dụng) có thể khiến cuộc bầu cử giáo hoàng trở thành dubia (nghi vấn).
Đó đều là những đề nghị chu đáo và sáng suốt và những đề nghị khác cũng có thể được bổ sung, nhất là trong bối cảnh các Hồng Y cử tri hiện tại hầu như không biết nhau. Thậm chí còn nghiêm trọng hơn trước đây vẫn tin.
Trong hơn tám năm làm giáo hoàng, Đức Phanxicô chỉ tụ tập tất cả các Hồng Y còn sống lại với nhau có một lần duy nhất (20-21 / 2/2014). Nhưng việc thảo luận tự do rất hạn chế. Hiện nay, những cuộc tụ tập như vậy dường như còn quan trọng hơn bao giờ hết.
Trước nhất, nhóm các Hồng Y hiện nay bao gồm những vị từ các khu vực địa lý mà trước đây chưa từng được đại diện tại một mật nghị. Và thứ hai, các mạng lưới giáo sĩ cũ, trước đây vốn là thành phần của cuộc bầu cử giáo hoàng, nay không có cùng một tầm quan trọng mà họ từng có nữa. Họ đã được thay thế bởi các mạng lưới gây ảnh hưởng khác.
Điều quan trọng cần lưu ý là tình hình có thể còn nghiêm trọng hơn Melloni thừa nhận, vì ít nhất hai lý do. Lý do đầu tiên liên quan đến một tình hình giáo hội đặc thù ở Hoa Kỳ, nơi chúng ta đã thấy những mối đe dọa trực tiếp đến quyền tự do của Đức Giáo Hoàng và mặc nhiên, đối với mật nghị sắp tới. Vụ lạm dụng tình dục của Theodore McCarrick, cựu Hồng Y, và các cuộc tấn công cơ hội chủ nghĩa chống lại Đức Giáo Hoàng Phanxicô của Tổng giám mục Carlo Maria Viganò, cựu sứ thần tại Washington, đã gây ra một làn sóng phẫn nộ trong một số nhóm và mạng lưới Công Giáo. Các ý thức hệ chống Đức Phanxicô đang hoạt động để gây ảnh hưởng đến mật nghị sắp tới.
Điều trên cho thấy khúc ngoặt chống định chế, hư vô chủ nghĩa của phe bảo thủ ngày nay – ngay cả bên trong Giáo Hội Công Giáo. Thí dụ, có một điều gọi là “Báo cáo Mũ đỏ”, lưu giữ các hồ sơ về tất cả các Hồng Y cử tri. Người ta chỉ có thể tưởng tượng điều này sẽ được sử dụng ra sao khi các ngài, một lần nữa, tụ họp ở Rôma, để bầu vị giáo hoàng kế tiếp. Phải nhìn sáng kiến này trong bối cảnh phẫn nộ ý thức hệ chống lại Đức Giáo Hoàng Phanxicô, một điều xem ra khá rõ ràng trong một số giới giáo sĩ, trí thức, tài chính và chính trị ở Hoa Kỳ.
Tất cả họ đều được kết nối tốt với hệ sinh thái truyền thông mới, vốn định hình các bài tường thuật về tình trạng của đạo Công Giáo và nền chính trị của Giáo hội. Sẽ là một sai lầm nghiêm trọng khi đánh giá thấp những gì họ có khả thể làm với tất cả thông tin và ảnh hưởng mà họ đã tích lũy được để định hình kết quả của mật nghị kế tiếp. Trước, trong và sau chiến dịch tranh cử tổng thống năm 2020, nhiều người Công Giáo (kể cả một số giám mục) đã từ chối thừa nhận và chấp nhận rằng Joe Biden đã được bầu một cách hợp pháp. Một kịch bản tương tự cũng có thể xảy ra với cuộc bầu vị giáo hoàng kế tiếp. Viganò và những người ủng hộ ngài đã phá vỡ điều cấm kỵ cuối cùng trong đạo Công Giáo định chế bằng cách yêu cầu Đức Phanxicô từ chức. Nếu một người có thể mưu toan lật đổ một vị giáo hoàng, thì bất cứ điều gì cũng có thể xảy ra. Giáo Hội Công Giáo ở Hoa Kỳ đang ở trong tình trạng ly khai mềm hoặc thực tế (material) giữa hai nhóm khác nhau. Họ bị chia rẽ mạnh mẽ trong triều giáo hoàng của Đức Phanxicô. Mưu toan của Viganò và những người khác nhằm lật đổ giáo hoàng vào tháng 8 năm 2018 tương đương về phương diện giáo hội học với cuộc tấn công ngày 6 tháng 1 vào Đồi Capitol ở Washington của những người ủng hộ Donald Trump. Nhưng tại mật nghị kế tiếp sẽ có một khoảng trống quyền lực ở Rôma, một khoảng trống đã không có vào tháng 8 năm 2018. Tình hình có thể nguy hiểm hơn nhiều so với dự đoán của nhiều người.
Thật là ngây thơ khi cho rằng những người luôn cáo buộc Đức Phanxicô không phải là Công Giáo sẽ hạn chế làm bất cứ điều gì và mọi điều có thể để có được phương cách của họ tại mật nghị sắp tới. Tăng cường bộ máy phao tin đồn.
Lý do thứ hai khiến tình hình bây giờ có thể trở nên nguy hiểm hơn những gì Melloni thừa nhận trong bài báo của ông (xuất bản vào tháng 5) là những gì đã xảy ra vào ngày 4 tháng 7. Đó là buổi tối Đức Phanxicô được phẫu thuật tại bệnh viện Gemelli ở Rôma. Sau mười ngày lưu lại bệnh viện, giờ đây Đức Giáo Hoàng đã trở về nhà tại Cư sở Santa Marta. Không rõ sự hồi phục sẽ như thế nào đối với một người ở tuổi cao nhưng một số người đã bắt đầu suy đoán về khả năng tiếp tục điều hành Giáo hội của ngài. Tin đồn về vị Hồng Y nào có cơ hội tốt nhất để kế vị Đức Phanxicô cũng đã rộ lên. Việc Đức Giáo Hoàng quyết định công bố Tự sắc Traditionis Custodes gần đây bãi bỏ tự sắc Summorum Pontificum là một dấu hiệu cho thấy quyết tâm của ngài. Nhưng một số người đọc nó như truyền tải một cảm thức khẩn cấp vì sức khỏe giảm sút của vị giáo hoàng và việc sắp kết thúc triều giáo hoàng của ngài.
Đức Phanxicô có thể là một nhà lập pháp hữu hiệu và sắc bén, như chúng ta đã thấy trong nhiều lĩnh vực khác. Nhưng đôi khi ngài do dự thay đổi các bộ máy định chế, thay vào đó thích khởi xướng những cải cách tâm linh lâu dài nhằm mục đích biến đổi đường lối của Giáo hội theo thời gian. Nhưng ngài đang chấp nhận rủi ro lớn khi không cập nhật các quy tắc chi phối mật nghị hoặc nghĩ rằng ngài có thể đợi cho đến khi vào chính cuối triều đại giáo hoàng mới làm như vậy. Đây là một vấn đề cấp bách hơn, không thể chờ đợi. Có lẽ sự thay đổi lớn nhất kể từ hai mật nghị cuối cùng – bầu Đức Bênêđíctô năm 2005 và Đức Phanxicô năm 2013 – là quyền lực của những người có ảnh hưởng Công Giáo trên các phương tiện truyền thông chính dòng, truyền thông kỹ thuật số và truyền thông xã hội. Kể từ năm 2013, các nhóm nhỏ những người với những nghị trình cực kỳ đặc trưng (bao gồm một số giáo phẩm sở hữu các phương tiện truyền thông rộng lớn và nhiều người theo dõi mạng xã hội của họ) đã xây dựng một loại trình thuật có tính ý thức hệ về Giáo hội. Họ không thể cưỡng lại cơn cám dỗ tạo nên cơn bão truyền thông khi không tranh thủ được đường lối của mình. Chỉ cần nhìn vào cách một số người trong số họ đã phản ứng với Tự sắc Traditionis Custodes của Đức Phanxicô hạn chế sử dụng Thánh lễ Latinh Cổ. Lúc đó, bạn sẽ có ý niệm về sự tàn phá mà họ có thể gây ra cho mật nghị sắp tới.
Vũ Văn An
2021
Sứ điệp của Đức Thánh Cha nhân Ngày Thế giới Ông Bà và Người Cao tuổi lần thứ nhất (25.7.2021)
Theo thông điệp video đầu tiên của Đức Thánh Cha về Ngày thế giới dành cho Ông Bà và Người Cao tuổi, Ngài muốn dành ngày Chúa nhật 25.07.2021, lễ nhớ thánh Gioakim và Anna, ông bà của Chúa Giêsu, cầu nguyện cho các ông bà và người cao tuổi. Sau đây là nguyên văn sứ điệp của Đức Thánh Cha về Ngày thế giới dành cho Ông Bà và Người Cao tuổi.
——-
SỨ ĐIỆP CỦA ĐỨC THÁNH CHA
NHÂN NGÀY THẾ GIỚI ÔNG BÀ VÀ NGƯỜI CAO TUỔI
LẦN THỨ NHẤT
(25.7.2021)
“Ta luôn ở cùng anh chị em”
Các bậc ông bà và các bạn cao niên thân mến!
“Ta luôn ở cùng anh chị em” (x. Mt 28,20): đây là lời Chúa đã hứa với các môn đệ trước khi về trời. Hôm nay Ngài lặp lại lời này với mỗi anh chị em, các bậc ông bà và người cao niên. Với tư cách Giám mục Roma và cũng lớn tuổi như anh chị em, tôi muốn gởi đến anh chị em trong Ngày Thế giới Ông bà và Người cao tuổi lần thứ nhất cùng những lời này: “Tôi luôn ở cùng anh chị em”. Toàn thể Giáo hội gần gũi với anh chị em – hay đúng hơn, với tất cả chúng ta – và quan tâm đến anh chị em, yêu thương anh chị em và không muốn để anh chị em đơn độc!
Tôi biết rõ thông điệp này đến với anh chị em vào thời khắc khó khăn: đại dịch như cơn bão dữ dội và bất ngờ vùi dập chúng ta; đó là thời gian thử thách đối với tất cả mọi người, đặc biệt là đối với chúng ta, những người cao tuổi. Nhiều người trong chúng ta ngã bệnh, những người khác qua đời hoặc chứng kiến cái chết của vợ/chồng hoặc những người thân yêu, cũng có những người rơi vào tình trạng tách biệt và cô đơn kéo dài.
Chúa nhận biết tất cả những nỗi thống khổ của chúng ta trong thời gian này. Ngài gần gũi với những ai cảm thấy buồn phiền vì bị cách ly. Ngài không dửng dưng với nỗi cô đơn của chúng ta, mà trong mùa dịch nỗi cô đơn này lại càng trở nên gay gắt hơn. Có một truyền thống kể lại rằng, thánh Gioakim, ông ngoại của Chúa Giêsu, cũng đã bị những người xung quanh xa lánh vì ngài không có con; cuộc sống của ngài, cũng như của bà Anna vợ ngài, bị coi là vô tích sự. Thế rồi Thiên Chúa đã sai thiên thần đến an ủi. Trong khi ngài buồn bã đăm chiêu bên ngoài cổng thành, một sứ giả của Chúa hiện ra và bảo: “Gioakim, Gioakim! Chúa đã nghe lời van nài tha thiết của ông”[1]. Họa sĩ Giotto, nơi một trong các bức bích họa nổi tiếng của mình[2], dường như đã đặt bối cảnh đó vào ban đêm, một đêm trong nhiều đêm mất ngủ, đầu óc đầy những kỷ niệm, lo lắng và mong ước, là những trải nghiệm mà chắc nhiều người chúng ta đã từng biết.
Ngay cả trong những thời khắc đen tối nhất, như trong những tháng ngày đại dịch này, Chúa vẫn tiếp tục sai các thiên thần đến để xoa dịu nỗi cô đơn của chúng ta và nhắc nhở chúng ta: “Ta luôn ở cùng anh chị em”. Ngài nói điều này với mỗi anh chị em, và Ngài nói điều đó với tôi. Đó là ý nghĩa của Ngày này, Ngày mà tôi muốn chúng ta cử hành lần đầu tiên trong năm đặc biệt này, sau thời gian dài bị cô lập và khi cuộc sống xã hội dần dần bắt đầu trở lại. Mong sao mọi bậc ông bà và người lớn tuổi, đặc biệt những người lẻ loi nhất trong chúng ta, được một thiên thần thăm viếng!
Đôi khi các thiên thần đó mang khuôn mặt con cháu chúng ta, có lúc lại là khuôn mặt của các thành viên trong gia đình, của các bạn nối khố hoặc những người mà chúng ta quen biết trong thời kỳ khó khăn này. Thời gian hiện nay cho chúng ta thấy rõ, đối với mỗi người chúng ta, những cái ôm và các cuộc thăm hỏi thì quan trọng dường nào. Tôi rất buồn vì ở một số nơi những điều này vẫn còn chưa thể thực hiện được!
Tuy nhiên, Chúa vẫn gửi cho chúng ta những sứ giả qua Lời Chúa. Ngài không bao giờ để cho cuộc đời chúng ta thiếu vắng Lời của Ngài. Mỗi ngày chúng ta hãy ráng đọc một trang Tin Mừng, cầu nguyện với các Thánh vịnh, đọc các sách Ngôn sứ! Chúng ta sẽ sửng sốt bởi sự thành tín của Chúa. Kinh Thánh cũng sẽ giúp chúng ta hiểu trong cuộc sống hiện nay Chúa yêu cầu chúng ta phải gì. Vì vào mỗi giờ trong ngày (x. Mt 20, 1-16) và ở mỗi giai đoạn cuộc đời, Chúa vẫn tiếp tục sai thợ vào làm vườn nho cho Chúa. Chính tôi có thể chứng thực rằng tôi đã được kêu gọi để trở thành Giám mục của Roma, có thể nói được là, khi tôi đã đến tuổi nghỉ hưu và nghĩ rằng tôi sẽ chẳng còn làm được điều gì mới. Chúa luôn ở gần chúng ta, luôn luôn ở gần, với những khả năng mới, ý tưởng mới, niềm an ủi mới, nhưng luôn luôn ở bên chúng ta. Anh chị em biết rằng Chúa là vĩnh cửu, Ngài không bao giờ nghỉ hưu, không bao giờ.
Trong Tin Mừng thánh Mátthêu, Chúa Giêsu nói với các Tông đồ: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em” (28, 19-20). Hôm nay những lời này cũng được nói với chúng ta, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về ơn gọi của mình: gìn giữ cội nguồn của chúng ta, trao truyền đức tin cho lớp trẻ và chăm sóc các trẻ nhỏ. Hãy suy nghĩ kỹ: ơn gọi của chúng ta ngày nay, ở tuổi của chúng ta là gì? Gìn giữ cội nguồn của mình, trao truyền niềm tin cho lớp trẻ và chăm sóc các trẻ nhỏ. Đừng bao giờ quên điều này.
Dù anh chị em bao nhiêu tuổi, còn đi làm hay đã nghỉ, độc thân hay có gia đình, trở thành ông, thành bà khi còn trẻ hay lúc đứng tuổi, vẫn tự lập hay cần trợ giúp, thì cũng chẳng hệ gì, bởi không có tuổi nghỉ hưu để khỏi loan báo Tin Mừng và chuyển trao các truyền thống cho con cháu. Anh chị em chỉ cần lên đường và nhất là ra khỏi chính mình để thực hiện điều gì đó mới.
Do đó, tại một thời điểm quyết định của lịch sử, mỗi anh chị em cũng có một ơn gọi được đổi mới. Anh chị em có thể tự hỏi: Làm sao có thể thế được? Sức lực tôi đang dần cạn kiệt và tôi không nghĩ mình có thể làm được nhiều việc. Làm sao tôi có thể bắt đầu hành xử khác đi khi thói quen đã thành quy tắc trong cuộc đời tôi? Làm sao tôi có thể cống hiến cho người nghèo khi còn canh cánh bao nỗi lo toan về gia đình mình? Làm sao tôi có thể mở rộng tầm nhìn khi tôi thậm chí không thể rời khỏi nơi mình đang ở. Chẳng lẽ sự cô độc của tôi chưa đủ là một gánh nặng hay sao? Có bao nhiêu người trong anh chị em đang hỏi câu đó: chẳng lẽ sự cô độc của tôi chưa đủ là một gánh nặng hay sao? Chính Chúa Giêsu đã nghe ông Nicôđêmô hỏi một câu tương tự: “Một người đã già rồi, làm sao có thể sinh ra được?” (Ga 3, 4). Chúa trả lời, điều đó có thể xảy ra nếu chúng ta mở lòng đón nhận sự tác động của Chúa Thánh Thần, Đấng muốn thổi đâu thì thổi. Chúa Thánh Thần vẫn hằng luôn tự do, Ngài đến bất cứ nơi đâu và làm bất kỳ điều gì Ngài muốn.
Như tôi đã nhiều lần lặp lại, chúng ta sẽ không thoát khỏi cuộc khủng hoảng hiện tại mà vẫn cứ y nguyên như cũ, hoặc sẽ tốt hơn hoặc sẽ tệ hơn. Và “Ước gì đây không là một bi kịch khác của lịch sử mà lại một lần nữa chúng ta chẳng học được gì – chúng ta vốn cứng đầu – ! Ước gì chúng ta luôn nhớ đến những người già đã chết vì thiếu máy trợ thở […]. Ước gì nỗi đớn đau dằn vặt lớn lao đó không trở nên vô ích, nhưng là bước tiến giúp chúng ta biết đổi mới cách sống. Ước gì chúng ta tái khám phá và vĩnh viễn nhận biết rằng chúng ta cần đến nhau, chúng ta mắc nợ lẫn nhau để nhờ đó, gia đình nhân loại được tái sinh”(Fratelli Tutti, 35). Không ai được cứu một mình. Tất cả chúng ta đều mắc nợ lẫn nhau. Tất cả chúng ta đều là anh chị em.
Theo cái nhìn này, tôi muốn nói với mỗi anh chị em rằng cần phải có anh chị em để xây dựng thế giới tương lai, trong tình huynh đệ và tình bằng hữu xã hội, là thế giới mà chúng ta, cùng với con cháu chúng ta, sẽ sống sau khi cơn bão đã lắng dịu xuống. Tất cả “chúng ta hãy là những người chủ động trong việc phục hồi và hỗ trợ những tầng lớp xã hội bị tổn thương” (ibid., 77). Trong số các trụ cột chống đỡ công trình mới này, có ba trụ cột mà anh chị em, hơn bất kỳ ai khác, có thể giúp thiết lập. Ba trụ cột đó là ước mơ, ký ức và cầu nguyện. Sự gần gũi của Chúa sẽ ban cho tất cả chúng ta, ngay cả những người yếu đuối nhất, sức mạnh cần thiết để bắt đầu một cuộc hành trình mới trên con đường của ước mơ, ký ức và cầu nguyện.
Ngôn sứ Giô-en đã từng loan báo lời hứa này: “người già được báo mộng, thanh niên thấy thị kiến” (3, 1). Tương lai của thế giới phụ thuộc vào giao ước giữa trẻ và già. Ai có thể chắp cánh ước mơ của người già và biến chúng thành hiện thực, nếu không phải là người trẻ? Tuy nhiên, để có được điều này, chúng ta cần phải tiếp tục ước mơ. Ước mơ của chúng ta về công lý, về hòa bình, về tình liên đới có thể giúp những người trẻ chúng ta có những cái nhìn mới; bằng cách này, chúng ta có thể cùng nhau xây dựng tương lai. Anh chị em cần chứng tỏ rằng có thể vượt qua và đổi mới sau trải nghiệm gian khổ. Tôi chắc chắn rằng anh chị em đã hơn một lần trải nghiệm như thế: trong cuộc đời, anh chị em đã phải đối mặt với vô số khó khăn nhưng vẫn có thể vượt qua. Giờ đây hãy sử dụng những kinh nghiệm đó để biết cách vượt qua.
Những ước mơ vì thế mà đan xen với ký ức. Tôi nghĩ đến giá trị những ký ức đau thương của chiến tranh và tầm quan trọng của nó trong việc giúp các thế hệ trẻ học được giá trị của hòa bình. Những anh chị em đã trải nghiệm những đau khổ của cuộc chiến phải truyền lại thông điệp này. Sứ mệnh đích thực của mỗi người cao tuổi là giữ cho ký ức sống động: lưu giữ ký ức và chia sẻ nó với những người khác. Edith Bruck, người đã sống sót sau cuộc thảm sát Shoah, đã nói rằng “dù chỉ soi sáng lương tâm của một con người thì cũng đáng cho những nỗ lực và đau đớn để giữ ký ức về những gì đã qua được tồn tại”. Bà nói tiếp: “Đối với tôi, lưu giữ ký ức là sống.”[3] Tôi cũng nghĩ đến ông bà của tôi và những người trong anh chị em đã phải di cư và trải qua nỗi khó khăn khi rời bỏ chính ngôi nhà của mình, như rất nhiều người hôm nay vẫn tiếp tục phải làm thế, hy vọng nơi một tương lai tốt hơn. Một số người trong những người này thậm chí có thể bây giờ đang ở cạnh chúng ta, chăm sóc chúng ta. Ký ức này có thể giúp xây dựng một thế giới nhân văn và hiếu khách hơn. Ngược lại, không có ký ức, chúng ta sẽ không bao giờ có thể xây dựng; không có nền móng thì không bao giờ xây được nhà. Không bao giờ. Và nền tảng của cuộc sống là ký ức.
Cuối cùng là cầu nguyện. Như đấng tiền nhiệm của tôi, Đức Giáo Hoàng Biển Đức XVI, một vị cao niên thánh thiện vẫn tiếp tục cầu nguyện và làm việc cho Giáo hội, đã từng nói: “Lời cầu nguyện của người cao tuổi có thể bảo vệ thế giới, giúp ích cho thế giới có lẽ hữu hiệu hơn là hoạt động tất bật của nhiều người”[4]. Ngài đã nói những lời này năm 2012 lúc gần cuối triều đại giáo hoàng của ngài. Câu nói quá hay! Lời cầu nguyện của anh chị em là một nguồn lực vô cùng quý giá, như là hơi thở sâu nơi buồng phổi mà lúc này Giáo hội và thế giới rất cần (x. Tông huấn Evangelii Gaudium, 262). Đặc biệt là vào thời khắc khó khăn này của nhân loại, khi chúng ta tiếp tục chèo chống trên cùng một con thuyền giữa biển cả vượt cơn bão tố của đại dịch, lời cầu bầu của anh chị em cho thế giới và cho Giáo hội vô cùng giá trị: nó mang lại cho mọi người sự bình an và tin tưởng rằng chúng ta sẽ sớm cập bến.
Các bậc ông bà và anh chị em cao niên thân mến, kết thúc Sứ điệp gửi đến anh chị em, tôi cũng muốn đề cập đến mẫu gương Chân phước Charles de Foucauld (sắp được phong thánh). Ngài sống như một ẩn sĩ ở Algeria và ở đó ngài đã làm chứng cho “niềm khao khát được cảm nghiệm mọi người, bất kỳ ai, cũng đều là anh em của ngài” (Fratelli Tutti, 287). Câu chuyện về cuộc đời ngài cho thấy làm thế nào, con người dù có đơn độc trong sa mạc của riêng mình, vẫn có thể cầu bầu cho những người nghèo trên toàn thế giới và thực sự trở thành anh chị em của mọi người.
Tôi cầu xin Chúa cho tất cả chúng ta, nhờ gương lành của anh Charles, cũng có thể mở tấm lòng, biết nhạy cảm trước những nỗi khổ đau của người nghèo và biết cầu khẩn cho những nhu cầu của họ. Chớ gì mỗi người chúng ta học cách lặp lại với mọi người, và đặc biệt là với người trẻ, những lời an ủi mà chúng ta đã nghe nói hôm nay: “Ta luôn ở cùng anh chị em”! Hãy tiếp tục tiến bước! Xin Chúa chúc lành cho anh chị em.
Roma, đền thờ thánh Gioan Laterano, ngày 31/05/2021,
Lễ Đức Mẹ đi viếng bà thánh Elizabeth
Phanxicô
[1] Câu chuyện được kể trong Ngụy thư “Sách Tin mừng thứ nhất của thánh Giacôbê”.
[2] Hình ảnh này được chọn làm logo của Ngày Thế giới Ông bà và Người Cao tuổi.
[3] Ký ức là cuộc sống, chữ viết là hơi thở. Báo Quan sát viên Roma, 26/01/2021.
[4] Thăm viếng Nhà Hưu dưỡng “Hoan hô Người già”, 02/11/2012.
https://www.vatican.va/viva-anziani.html