2021
Kibeho: Cuộc hiện ra duy nhất của Đức Mẹ được công nhận ở Phi Châu
2021
5 điều thú vị về Giáo Hội Công Giáo mà có thể bạn chưa biết
5 điều thú vị về Giáo Hội Công Giáo mà có thể bạn chưa biết
Phần lớn thời gian, Giáo Hội Công Giáo được gọi chính thức là “Giáo Hội Công Giáo Rôma”. Có nhiều lý do lịch sử sau chuyện đó. Tuy nhiên, tên gọi đôi khi gây hiểu nhầm – Giáo Hội Công Giáo không hẳn là duy nhất Rôma. Hội Thánh này bao gồm 24 Giáo Hội riêng biệt, trong đó Hội Thánh Rôma Latinh là Giáo Hội lớn nhất.
Chữ “công giáo” nghĩa là hoàn vũ, xuất phát từ chữ gốc Hy Lạp katholikos. Chữ này lần đầu tiên được dùng bởi Thánh Inhaxiô Antiôkhia trong lá thư gửi tín hữu Ximiếcna vào khoảng năm 110, và được các giáo phụ khác sử dụng lại trong nhiều văn bản và bài giảng, đặc biệt trong các cuộc diễn thuyết giáo lý của Thánh Xyrilô Giêrusalem. Chữ “Công Giáo” được dùng một cách nghiêm túc và có tính thẩm quyền để chỉ Kitô Giáo như tôn giáo chính thức của đế quốc La Mã, cả Đông lẫn Tây, trong sắc lệnh De Fide Catholica của vua Theodosius vào năm 380.
Cách ngắn gọn, Công Giáo không đơn thuần là một truyền thống đồng nhất. Thực tế, Hội Thánh khá đa diện, phong phú, và thỉnh thoảng là khác biệt nữa. Mỗi Giáo Hội trong 24 Giáo Hội cấu thành Công Giáo (thuộc các nghi lễ Eritrean, Maronite, Syriac, Greek Byzantine, Ethiopian, Coptic) đều có các phụng tự, tinh thần, nền thần học, truyền thống giáo luật riêng, đã được bảo tồn và thừa kế từ thế hệ này sang thế hệ khác. Đó là những di sản đa dạng phức tạp mà từ đó hình thành nên tính hoàn vũ, tức là tính công giáo của Hội Thánh. Và đương nhiên, có nhiều điều mà bạn có thể chưa biết về Hội Thánh ấy. Ở đây, chúng ta hãy tìm hiểu 5 điểm thú vị về Giáo Hội Công Giáo.
- Trường đại học là phát minh của Công Giáo
Gọi Trung Cổ là thời kỳ tăm tối là một điều rỗng tuếch. Thuật ngữ “đêm trường Trung Cổ” là do những nhà nhân văn thời Phục Hưng tạo ra để cho rằng họ là những người thừa kế trực tiếp của thời cổ đại.
Hệ thống đại học được phát triển ở châu Âu trong các “trường chính toà”: đầu tiên, các học viện, thường gắn liền với tu viện hoặc nhà thờ chính toà, được dành cho các giáo sĩ muốn học giáo luật, thần học hoặc triết học. Không lâu sau đó, những trường này được mở cửa cho cả giới giáo dân, và trở thành các trung tâm học vấn, cấp các chứng chỉ y như ngày nay ta vẫn cấp: bằng cử nhân, thạc sĩ và tiến sĩ.
- Các tu sĩ đã phát minh ra nước hoa
Vài năm sau khi tu viện Thánh Giacomo của dòng Cathusian hoàn thành (thế kỷ 14), người tu viện trưởng đã ngạc nhiên khi nghe tin vị nữ hoàng trước đó hiến đất cho tu viện, Giovanna de Angio, sắp thăm tu viện. Ngài vội vàng trưng bày các bông hoa đẹp nhất của khu đất để đón bà.
Khi nữ hoàng rời đi, các bông hoa chuẩn bị được vứt bỏ, tu viện trưởng phát hiện ra rằng nước (3 ngày chưa được thay) đã nhiễm một mùi thơm mà ngài chưa từng biết. Ngài đem nước đó đến cho một tu sĩ thực vật học để tìm nguồn gốc; kết quả là mùi hương phát xuất từ “garofilum silvestre caprese”. Thứ nước đó về sau trở thành nước hoa đầu tiên của đảo Capri.
- Có một nghi thức chính thức của Giáo Hội để chúc lành cho phô mai
Chương VIII của Rituale Romanum (Nghi Thức Rôma), một quyển sổ tay phụng tự có từ năm 1614, có những nghi thức chúc lành đặc biệt cho mọi thứ mà bạn có thể sử dụng trong cuộc sống. Chương này có tên “Chúc lành những vật dùng được dành để dùng hằng ngày”. Trong đó, có nghi thức chúc lành cho bơ, hạt giống, muối, thức ăn động vật, tàu đánh cá, dụng cụ leo núi, và cả bia.
- Vị Giáo Hoàng cuối cùng để râu là vào năm 1691
Đó là Đức Giáo Hoàng Innôcentê XII, trị vì từ 1691 đến 1700.
Hầu hết người Hy Lạp và La Mã trong thời Chúa Giêsu đều để râu. Trong các bức hoạ rất cổ về phép rửa của Chúa Giêsu, Người không có râu, không như các bức hoạ bên Đông phương Byzantine. Vào khoảng thế kỷ VI, giáo luật ở Anh yêu cầu các giáo sĩ không cho phép tóc và râu mọc tự do.
Luật cấm này sau đó được thúc đẩy nghiêm ngặt hơn trong suốt thời Trung Cổ. Công đồng Toulouse ra lệnh sẽ vạ tuyệt thông các giáo sĩ để râu tóc dài như giáo dân. Tuy nhiên, luật đó lại cho để râu ngắn, được chải chuốt.
Tuy nhiên, nhiều người lại cho rằng râu ria trên mặt tượng trưng cho vô số tội lỗi. Cạo râu biểu trưng cho sự cắt bỏ tội lỗi và những thói quen, không chỉ thói xấu mà cả những thói không cần thiết, như râu trên mặt là thứ hoàn toàn vô dụng và không cần thiết. Ngoài ra, cũng có một lý do thực tế khác cho việc không để râu liên quan đến phụng vụ: để râu sẽ ảnh hưởng đến việc môi chạm vào chén thánh gây bất kính.
- “Guadalupe” không phải là một cái tên xuất phát từ Mêxicô
Thực tế, Guadalupe cũng không phải là một cái tên Tây Ban Nha, mặc dù nó là tên của một con sông chảy trong tỉnh Extremadura Tây Ban Nha.
Theo các chuyên gia, từ Guadalupe là một từ tiếng Castilian, dịch từ từ “wadi-al-lubben” tiếng Ả Rập, nghĩa là “dòng sông ẩn”. Lý do nó xuất phát từ tiếng Ả Rập là vì bán đảo Iberia mà Tây Ban Nha nằm trên đó đã bị người Hồi Giáo Moors nói tiếng Ả Rập xâm chiếm suốt 800 năm. Nhiều người khác cũng cho rằng Guadalupe được ghép từ từ “wadi” tiếng Ả Rập và “lupe” tiếng Latinh”, nghĩa là “dòng sông của loài sói”.
Theo Daniel Esparza, Aleteia
Gioakim Nguyễn biên dịch
2021
Liệu người Công giáo xăm mình được không? 5 điều cần xem xét
Liệu người Công giáo xăm mình được không? 5 điều cần xem xét
Nếu chúng ta thực sự lựa chọn ghi dấu ấn vĩnh viễn trên cơ thể chúng ta, chúng ta cần đảm bảo rằng các dấu hiệu ấy miêu tả những giá trị mà chúng ta sẽ luôn luôn đồng nhất và sống với chúng, bởi vì hình xăm chắc chắn nói điều gì đó về việc chúng ta là ai.
Sau đây là một số điều suy xét có ý nghĩa khi bạn nghĩ tới việc xăm hình lên cơ thể bạn:
- Nhiều trích dẫn trong sách Lêvi chương 19 nói không được xăm mình. Nhưng nếu hiểu theo ngữ cảnh của nó, việc cấm ấy được đưa ra vì các lý do văn hoá hoặc tôn giáo (chẳng hạn, hình xăm thể hiện lòng tôn kính ngẫu tượng) hơn là hành động xăm mình.
- Các hình xăm thô bỉ hay tục tĩu rõ ràng là không tốt.
- Bạn xăm chúng ở đâu là điều quan trọng. “Ở đâu” liên hệ trực tiếp đến những gì bạn đang cố gắng nói (đặc biệt về tính dục của bạn)… và “nơi đó” có thể không phù hợp.
- Phần lớn các hình xăm không hẳn là một điều xấu, nhưng nó gợi lên câu hỏi: “Bạn đang nói gì khi bạn xăm lên cơ thể của bạn nhiều như thế? Bạn đang cố gắng nói điều gì đó qua những hình xăm này?”
- Trước khi xăm lên cơ thể, bạn hãy tự hỏi: 10 năm trước, bạn đã nhận hình xăm nào; và 10 năm sau, bạn vẫn muốn hình xăm đó trên cơ thể bạn chứ?
Công Trình, SJ chuyển ngữ
2021
Chúng tôi, ông bà, chúng tôi làm chứng bằng đời sống của mình!
Chúng tôi, ông bà, chúng tôi làm chứng bằng đời sống của mình!
Đức Phanxicô sẽ cử hành thánh lễ nhân Ngày Thế giới Ông bà vào chúa nhật thứ tư của tháng 7, trước lễ Thánh Anna và Gioakim. Bà Sylvie Bethmont-Gallerand nói lên vai trò của tổ tiên trong việc trao truyền đức tin.
Tin giờ chót: Vì lý do sức khỏe, Đức Phanxicô sẽ không cử hành thánh lễ Ngày Thế giới Ông bà như dự kiến ban đầu, Tổng Giám mục Rino Fisichella, chủ tịch Hội đồng Giáo hoàng đặc trách Phúc Âm hóa sẽ cử hành thánh lễ.
lavie.fr, Stéphanie Combe, 2021-07-22
Một trong những niềm vui to lớn của ông bà là niềm vui được trao truyền.
Bà Sylvie Bethmont-Gallerand, chuyên về lịch sử nghệ thuật thời trung cổ, bà dạy tại Viện Bernardins. Bà vừa xuất bản quyển Sách cầu nguyện của Ông bà (Livre de prière des grands-parents, nxb. Mame).
Chúng ta có thể truyền lại đức tin không?
Bà Sylvie Bethmont-Gallerand: Đức tin là ơn của Chúa. Tất cả vấn đề là ở: tôi phải làm gì với ơn thiêng liêng này? Tôi có bốn người con nay đã trưởng thành, và giữ đạo trong âm thầm, tất cả các cháu của tôi đều được rửa tội.
Các cháu biết tôi tin ở Chúa, một ngày nọ, một cháu trai xin tôi cầu nguyện ban phước lành, điều mà chính tôi cũng không thường làm! Đúng là chúng ta không mong chờ để thấy các hạt mầm phát triển một cách huyền ẩn như vậy.
Chúng tôi đã truyền cho con cái các giá trị, và dần dần các giá trị này được thấm nhuần, đó là những giá trị như tôn trọng người khác, tôn trọng tạo vật kể cả con kiến mà chúng ta cẩn thận không dí nó chết, tính giản dị, đoàn kết, v.v.
Các ông bà nội ngoại làm chứng như thế nào?
Tôi rất thích thuật ngữ “nhân chứng” khi chạy tiếp sức, người chạy trước chuyền cho người chạy sau. Trước hết chúng tôi làm chứng bằng chính đời sống chúng tôi.
Khi các cháu đến chơi, chúng tôi bỏ các việc khác để lúc nào cũng ở bên cạnh các cháu. Dù đã có quy tắc, nhưng chúng tôi không tạo áp lực buộc phải làm cho chuẩn, chúng tôi có những phá cách. Các ông bà nội ngoại là niềm vui lớn cho các cháu.
Ông bà cũng là người an ủi các cháu, các cháu thường tâm sự nhỏ to với ông bà, những lo lắng nhỏ cũng như nỗi buồn nặng trĩu của chúng. Thêm nữa, ở tuổi chúng tôi, chúng tôi còn có những mệt mỏi, những lo lắng sức khỏe do tuổi tác, những chuyện này dạy cho trẻ em biết tôn trọng sự mong manh của người lớn tuổi.
Khi còn nhỏ, trẻ em có một giai đoạn thuận lợi để tiếp thu. Làm thế nào để tận dụng giai đoạn này?
Các em còn nhỏ rất thích nghe chuyện và đi tìm ý nghĩa trong các chuyện này. Cháu gái 8 tuổi của tôi đột ngột hỏi tôi: “Bà ơi, vì sao người dữ lại có thể sống lại?” Những lời bộc phát này luôn thoáng qua, vì thế phải luôn sẵn sàng để hứng lấy! Tôi nói với cháu, dưới mắt Chúa, không ai là xấu 100%.
Các em lớn hơn cũng thích hỏi. Chúng tôi đưa cháu lớn nhất, 13 tuổi đến Viện Kiến trúc ở Paris. Trong số các kỳ quan, Viện trưng bày các khuôn giấy nổi tiếng, chẳng hạn như bức Phán xét cuối cùng của nhà thờ Autun hay của nhà thờ Saint-Michel-d’Entraygues, lấy cảm hứng từ Ngày tận thế, khi con rồng bị thiên thần giết. Các tác phẩm điêu khắc này là những bài giáo lý. Cháu tôi mê các “câu chuyện” này và cháu bộc phát xin tôi kể cho cháu nghe.
Bà phản ứng như thế nào trước sự thờ ơ của con cái với đức tin, thậm chí chúng còn tỏ ra thù nghịch?
Thánh Phaolô đã trả lời: “Tôi tìm cách nắm bắt Chúa, nhưng chính Ngài đã nắm bắt tôi.” (trong thư Philipphê). Với chúng tôi, Chúa Kitô là thiết yếu, Ngài mang lại ý nghĩa cho cuộc sống chúng ta. Chúng tôi cố gắng truyền hạnh phúc khi gặp Ngài, nhưng chúng tôi tôn trọng sự lựa chọn của người khác. Và chúng tôi mong họ tôn trọng chúng tôi.
Trước tình trạng con cái xa Giáo hội, chúng ta phải tránh những căng thẳng không cần thiết, không nên có những lo lắng hay thất vọng, nhưng tin tưởng và trau dồi lòng nhân từ. Với người con rể hơi khiêu khích của tôi, tôi thường trả lời: “Mẹ sẽ không chứng minh làm sao Chúa Giêsu sống lại, nhưng Kinh thánh là một kho tàng của tình yêu, của khôn ngoan, của lòng kiên nhẫn và thật đáng tiếc nếu mình không biết Kinh Thánh.”
Vì sao bà dùng con đường nghệ thuật?
Nghệ thuật dưới bất cứ hình thức nào, âm nhạc, thơ ca, hội họa, điêu khắc, bài hát, v.v. đều mang đến sự kỳ diệu. Từ năm 11 tuổi, tôi đã học khắc trổ, tôi phác họa và vẽ, gia đình chúng tôi có cây đàn dương cầm. Bất hoặc mình trau dồi một nghệ thuật nào hay xem một tác phẩm nào, cốt yếu là quan sát, học trong thinh lặng giúp chúng ta tiếp nhận nghệ thuật tự chính nó.
Có cách nào khác để hướng nội với những người có ít kỹ năng nghệ thuật không?
Thiên nhiên mang tính tiếp thu rất cao, chúng ta lắng nghe trong thinh lặng. Vẻ đẹp thiên nhiên dấy lên lòng ngưỡng mộ, vui sướng; lời khen ngợi đến một cách tự nhiên trên môi. Tuần trước cô cháu gái của chúng tôi đã ngưng ngang bữa ăn tối để đưa ông bà đi ngắm mặt trời lặn ở thôn quê.
Chúng tôi cũng cố gắng thu xếp để nói chuyện với từng cháu. Những giây phút cùng sáng tạo bên nhau, làm vườn hay đi dạo trong rừng, những sinh hoạt phát triển thói quen cho các quan hệ cá nhân. Cầu nguyện không gì khác hơn là thời gian đặc biệt dành cho Chúa.
Đức tin sống theo nhịp điệu của phụng vụ: một cách mang lại màu sắc cho cuộc sống, trẻ em có nhạy cảm với việc này không?
Giờ phụng vụ tạo nhịp điệu cho cuộc sống và dạy chúng ta chờ đợi: trước lễ Giáng sinh, niềm vui Phục Sinh, Chúa Thánh Thần hiện xuống… Trẻ em thích những khoảng thời gian chuẩn bị này, cũng như chúng rất thích mỗi đứa có một con cừu nhỏ riêng của mình trong máng cỏ. Được sự đồng ý của cha mẹ, chúng tôi đưa các cháu đi lễ.
Phụng vụ tự nó là cách cảm nhận Chúa qua năm giác quan. Trong thánh lễ, chúng ta nghe câu chuyện Thánh Kinh qua các bài đọc. Qua lời cầu nguyện giáo dân, chúng ta cầu nguyện cho người khác. Và khi rước lễ, chúng ta nói lên lời cám ơn. Trẻ em sẽ tự nguyện đi theo các bước khác nhau này.
Thánh Anna và Gioakim là mẫu gương như thế nào cho ông bà?
Chúng ta gần như không biết gì về hai thánh, nhưng như thế lại tốt và Kinh thánh không chỉ ca tụng các vị vua vĩ đại, các nhà tiên tri, các anh hùng thuộc mọi loại. Hai ông bà Anna và Gioakim là những người bình thường, họ trải qua nỗi đau vô sinh. Vì thế họ không phải là mẫu ông bà hoàn hảo, nhưng chắc chắn họ là chứng từ của đức tin và lòng kiên trì trong lời cầu nguyện.
Hannah trong tiếng do thái có nghĩa là “ân sủng”. Hình tượng được cảm hứng từ các phúc âm ngụy thư, mô tả Thánh Anna dạy Sách Thánh cho Mẹ Maria. Trong bức tranh nổi tiếng của danh họa Leonardo da Vinci, Thánh Anna bồng Mẹ Maria, Mẹ Maria bồng Chúa Giêsu và Chúa Giêsu nâng một con chiên. Ông bà Anna và Gioakim là sợi dây kết nối Cựu ước và Tân ước, họ là hiện thân của sự trao truyền chuẩn bị cho lời Xin vâng của Đức Mẹ.
Thánh Anna, Đức Mẹ và Chúa Giêsu, Leonardo da Vinci (vẽ trong khoảng 1503-1519)
Marta An Nguyễn dịch