2021
Giáo hội Sri Lanka cử hành Ngày Giáo sĩ Bản địa
Giáo hội Sri Lanka cử hành Ngày Giáo sĩ Bản địa
Chúa Nhật 25/7, Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo (POM) ở Sri Lanka tổ chức Ngày Giáo sĩ Bản địa, nhằm nâng cao nhận thức về ơn gọi linh mục và đào tạo những người trẻ hướng đến ơn gọi linh mục.
Chủ đề của Ngày Giáo sĩ Bản địa được trích từ đoạn Kinh Thánh Cựu Ước: “Ta đã nắm chặt lấy ngươi, đưa ngươi về từ tận cùng cõi đất, kêu gọi ngươi từ những miền xa thẳm. Ta đã nói với ngươi: ‘Ngươi là tôi tớ Ta, Ta đã chọn ngươi, Ta đâu ruồng bỏ’” (Is 41,9). Để chuẩn bị cho ngày này, trước đó, tập tài liệu với tiêu đề “Ngươi là tôi tớ Ta, Ta đã chọn ngươi”, đã được Ban Giám đốc quốc gia của Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo biên soạn và cho phổ biến tới các giáo phận.
Cha Basil Fernando, Giám đốc quốc gia của Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo cho biết, ngày này cũng sẽ là dịp để thực hiện cuộc quyên góp quốc gia hỗ trợ Hội Thánh Phêrô Tông đồ, một trong bốn hội của Các Hội Giáo hoàng Truyền giáo. Bằng cách này, toàn thể Giáo hội Sri Lanka muốn đóng góp cho việc đào tạo giáo sĩ ở cả quốc gia, cũng như ở tất cả các quốc gia khác trên thế giới, với một chân trời phổ quát luôn luôn là chân trời của Giáo hội Công giáo.
Cha Basil Fernando nói: “Mọi người đang sống trong giai đoạn rất khó khăn do đại dịch. Ai cũng cảm nhận được những vết thương của bệnh tật, nghèo đói. Nhiều người gặp khó khăn trong việc kiếm sống hàng ngày, đặc biệt là ở khu vực phía tây của Sri Lanka. Mặc dù vậy, đức tin thúc đẩy người Công giáo mở rộng tầm nhìn, hướng đến những người đau khổ trên khắp thế giới, để cầu nguyện và giúp đỡ vật chất cho đời sống của Giáo hội và việc đào tạo những người làm vườn nho của Chúa”.
Những đóng nhận được, trước hết sẽ dành cho các đại chủng viện và tiểu chủng viện để giúp đào tạo các linh mục tương lai. Cùng với cuộc lạc quyên, những lời cầu nguyện đặc biệt sẽ được xướng lên trong Thánh Lễ để ngày càng có nhiều người trẻ đáp lại tiếng gọi của Chúa, trở thành linh mục.
Ngày của Giáo sĩ Bản địa muốn chỉ rõ hoạt động của Hội Thánh Phêrô Tông đồ, được thành lập tại Pháp vào năm 1889 nhờ công của hai phụ nữ Stephanie và Jean Bigard, với ý tưởng chuẩn bị và đóng góp vật chất và tinh thần cho hoạt động loan báo Tin Mừng, giúp phát triển giáo sĩ bản địa ở mỗi quốc gia.
Theo Niên giám thống kê của Giáo hội Công giáo năm 2019, tại Sri Lanka có 1,6 triệu người Công giáo trong tổng dân số 21,8 triệu; với 953 linh mục giáo phận, và 580 linh mục thuộc các dòng tu.
Ngọc Yến
2021
Các giám mục Ba Lan mời gọi sống điều độ, ngăn ngừa nghiện rượu và ma tuý
Các giám mục Ba Lan mời gọi sống điều độ, ngăn ngừa nghiện rượu và ma tuý
Trước tình trạng mỗi năm con số người nghiện và chết vì rượu ở Ba Lan rất cao, các giám mục Ba Lan nhắc lại các nguy hiểm và hậu quả tai hại của nghiện ngập và mời gọi các tín hữu sống điều độ trong gia đình và trong xã hội.
Mỗi năm có gần 20.000 người ở Ba Lan chết vì rượu và vào năm 2020, người Ba Lan đã chi khoảng 39 tỷ zloty, tương đương khoảng 8,5 tỷ euro, để mua và tiêu thụ rượu. Một con số đủ để mua hơn 100.000 căn hộ với giá trị trung bình.
Đây là số liệu được Đức cha Tadeusz Bronakowski, Chủ tịch Ủy ban Giám mục Ba Lan về Tông đồ cho những người nghiện rượu và nghiện ma túy, đưa ra trong thư tháng 8, tháng mà theo truyền thống Giáo hội Ba Lan dành để nâng cao nhận thức của các tín hữu về những rủi ro và nguy hiểm do việc nghiện rượu và ma túy gây ra.
Đức cha Bronakowski mời gọi suy tư về nguyên nhân của nghiện ngập và những hậu quả nặng nề mà chúng gây ra trong gia đình và xã hội. Ngài viết: “Chúng ta hãy nhìn những giọt nước mắt chảy ra từ mắt của những đứa trẻ sống trong nỗi sợ hãi cha mẹ chúng. Hãy nhìn những giọt nước mắt của những người cha, người mẹ xót xa cho số phận của những đứa con nghiện rượu và chúng ta hãy nhớ đến tiếng khóc của những người đã mất vợ hoặc chồng vì nghiện ngập”.
Chủ tịch của Ủy ban Giám mục về tông đồ cho người nghiện ngập cũng nhấn mạnh rằng “ở Ba Lan, trong đại dịch Covid-19, số người nghiện rượu và ma túy tăng lên, đặc biệt là ở những người trẻ”, cũng như sự thiếu hiểu biết về hậu quả, thường gây chết người, mà những bệnh lý này mắc phải, bao gồm “bạo lực gia đình, bệnh tật không thể chữa khỏi đối với trẻ em sinh ra từ bà mẹ nghiện rượu, tự tử, tai nạn đường bộ do lái xe say rượu”. Nói một cách ngắn gọn: đó là những “cuộc sống bị hủy hoại hoặc bị hư hại”. Vì lý do này, Đức cha Bronakowski nhấn mạnh, ngày nay hơn bao giờ hết cần phải có một sự thay đổi triệt để nhằm “điều độ và tiết chế”, hướng tới “trách nhiệm”, bởi vì đối với nhiều người, đó là “sự lựa chọn giữa sự sống và cái chết”.
Đức cha kêu gọi không chỉ người nghiện ngập kiêng rượu nhưng cả các thành viên trong gia đình, bạn bè, người thân và đồng nghiệp của họ, vì chỉ bằng cách này họ mới đưa ra chứng tá cụ thể, giúp đỡ và hỗ trợ cho những người nghiện ngập.
Đức cha cũng nhắc nhở các tín hữu rằng tất cả môn đệ Chúa Kitô được kêu gọi là tông đồ của sự điều độ, can đảm làm chứng rằng sống điều độ là một phúc lành và chống lại việc ép uống rượu. Điều độ cũng là trách nhiệm của Giáo hội, càng nhiều tín hữu từ bỏ rượu vì tình yêu Chúa và người khác, càng có nhiều người lớn và thanh thiếu niên điều độ hơn. Ngài nhấn mạnh đến vai trò của gia đình trong việc cổ võ lối sống điều độ nhờ tình yêu thương chân thành, sự hy sinh và trìu mến của vợ chồng và mối quan tâm chung của họ trong việc giáo dục trẻ em và người trẻ theo các nguyên tắc của Tin Mừng”. (CSR_5198_2021)
Hồng Thủy
2021
Hàng loạt các tín hữu Kitô bị bắt vì bị vu cáo cưỡng bức cải đạo ở Ấn Độ
Hàng loạt các tín hữu Kitô bị bắt vì bị vu cáo cưỡng bức cải đạo ở Ấn Độ
Một báo cáo của nhóm nhân quyền International Christian Concern, gọi tắt là ICC, cho biết hàng loạt các tín hữu Kitô bị bắt vì bị vu cáo cưỡng bức cải đạo ở Ấn Độ.
Trường hợp gần đây nhất được tổ chức này trích dẫn là vụ bắt giữ 9 Kitô Hữu vào ngày 18 tháng 7 với cáo buộc vi phạm luật chống cải đạo mới của bang Uttar Pradesh.
ICC cho biết họ đã ghi nhận sự gia tăng các cáo buộc cưỡng bức cải đạo ở bang Uttar Pradesh của Ấn Độ trong những tuần gần đây.
Báo cáo dẫn lời một trong những Kitô Hữu bị bắt, là anh Sadhu Srinivas Gautham. Anh cho biết khoảng 25 người theo chủ nghĩa Ấn Giáo cực đoan đã xông vào một buổi cầu nguyện mà anh tham dự ở thị trấn Gangapur.
Anh cho biết những người đàn ông này cáo buộc các Kitô hữu đã dụ dỗ trái phép những người Ấn Giáo chuyển sang Công Giáo.
“Họ nổi cơn thịnh nộ với tôi. Cứ như thể họ muốn giết tôi ngay tại chỗ. Tuy nhiên, cảnh sát đã đến và áp giải chúng tôi đến đồn cảnh sát”.
Gautham và sáu Kitô Hữu khác đã bị đưa đến đồn cảnh sát và bị buộc tội vi phạm luật chống cải đạo.
Anh cho biết thêm các quan chức cảnh sát coi chúng tôi là những người “bị quỷ ám”. Họ nói rằng những người theo Công Giáo đã từ bỏ tôn giáo truyền thống của Ấn Độ là Ấn giáo và chấp nhận một tôn giáo ngoại lai.
“Họ nói với chúng tôi là chúng tôi nên từ bỏ đức tin Kitô của chúng tôi và trở về với Ấn giáo”, Gautham nói.
Cũng trong ngày 18 tháng 7, Dinesh Kumar, một mục sư Tin lành, đã bị bắt cùng với một Kitô Hữu khác từ nhà riêng của ông, nơi đang diễn ra buổi họp nhóm cầu nguyện.
Họ cũng bị buộc tội vi phạm luật chống cải đạo của Uttar Pradesh.
Báo cáo của ICC cho biết vào ngày 21 tháng 7, thêm ba Kitô Hữu khác đã bị bắt tại thành phố Padrauna.
Mục sư Jeyawant, vợ và anh trai của ông, là người trông coi một trại trẻ mồ côi, đã bị bắt sau khi các quan chức chính quyền tiểu bang đột kích vào trại trẻ mồ côi.
Cảnh sát đã bắt giữ ba Kitô Hữu này và đưa 24 trẻ mồ côi mà họ chăm sóc vào nơi giam giữ.
ICC cho biết số vụ bắt giữ trong tháng này đã tăng lên 30 vụ.
“Thật là bất hạnh rằng tôn giáo trở nên miếng mồi ngon cho chính trị,” Dinanath, một nhà lãnh đạo Kitô giáo từ Uttar Pradesh, nói với ICC.
“Các chính trị gia cần một vấn đề cho cuộc bầu cử sắp tới của họ và giới truyền thông cần một câu chuyện giật gân. Cả hai đều được lợi nhưng những người vô tội phải trả giá, dù đó là người Hồi giáo hay các Kitô Hữu”.
2021
Cây cột biểu tượng Chúa Ba Ngôi nổi tiếng ở Áo
Cây cột biểu tượng Chúa Ba Ngôi nổi tiếng ở Áo
Một trong hai “Plague Column” còn tồn tại đến ngày nay đang nằm ở thủ đô Vienna của Áo, trở thành điểm nương tựa tinh thần của nhiều người trong lúc dịch Covid-19 tấn công châu Âu và thế giới.
Từ Constantinople đến London, những nơi từng trải qua các đợt dịch hạch tấn công trong nhiều thế kỷ, các thành phố và thị trấn châu Âu có thói quen dựng nên tượng đài ở những quảng trường quan trọng của đô thị sau khi đại nạn qua đi. Hình mẫu chung của các thức cột tuân thủ theo tiêu chuẩn kiến trúc Corinth hoặc Doric, được xây dựng trên một bệ vuông và bao quanh là các bức tượng. Tên gọi chung của chúng là “Plague Column” (tạm dịch: Cột dịch hạch). Nổi bật trong số đó là “Plague Column” ở thành Vienna, được xây dựng vào thời điểm dịch hạch càn quét nơi này vào năm 1679.
Cây cột của Lòng Thương Xót
Từ thế kỷ 14 trở về sau, thủ đô Áo thường xuyên trở thành mục tiêu của “Cái chết Ðen”, chỉ nạn dịch hạch hoành hành châu Âu thời xưa. Khi dịch hạch tấn công thành Vienna vào năm 1679, hoàng đế Leopold I trước khi lên đường lánh nạn đã cho xây “Plague Column” như là một biểu tượng của đức tin vào Chúa Ba Ngôi. Ngày nay, người dân thủ đô Áo đang đặt niềm hy vọng vào tượng đài từ thế kỷ 17 và cầu nguyện cho dịch Covid-19 sớm chấm dứt.
Vào năm 1679, thành Vienna đối mặt với đợt bùng phát dịch hạnh khủng khiếp, gieo rắc cái chết đen cho khoảng 75.000 người. Thời điểm đó, Vienna là kinh đô trù phú và vô cùng phát triển của đế quốc Áo – Hung, cai trị lãnh thổ ngày nay trải dài từ Áo, Ðức, Ý vào giai đoạn 1867 – 1918. Hoàng đế Leopold I buộc phải rời khỏi kinh đô để tránh dịch. Tuy nhiên, vị quân chủ quyết định để lại một dấu ấn của sự hy vọng, của đức tin vào Thiên Chúa có thể ngăn chặn và chấm dứt đại dịch chết chóc. Vua Leopold I đã chọn thiết kế “cây cột của Lòng Thương Xót” với hình tượng Chúa Ba Ngôi và 9 thiên thần.
Ðể vinh danh Chúa Ba Ngôi, người thời xưa đã thể hiện nhiều cách khác nhau khi phác thảo kiến trúc của cột. Phần trên của bệ đỡ thể hiện hình ảnh hoàng đế Leopold I quỳ xuống cầu nguyện, xin Thiên Chúa đẩy lùi dịch bệnh. Và ở đỉnh cột là biểu tượng của Chúa Ba Ngôi, thể hiện lòng biết ơn của người dân thành Vienna vì sự can thiệp của Chúa trước nạn dịch. Trong khi đó, biểu tượng của dịch hạch được phác họa ở phần đế của cấu trúc, thể hiện qua hình ảnh một nhân vật nữ có bề ngoài hung ác đang bị một thiên thần và một cô gái cầm thánh giá đẩy lui.
Ban đầu, một thợ điêu khắc của thành Vienna tên Johann Frühwirth đã dựng lên một cây cột thô bằng gỗ. Trải qua 11 năm và với sự góp sức từ bàn tay của nhiều thợ điêu khắc và kiến trúc sư, nổi tiếng nhất có lẽ là Johann Bernhard Fischer von Erlach (kiến trúc sư của cung đình Áo -Hung), phiên bản cuối cùng của cây cột chính thức được khánh thành vào năm 1694. Trong quá trình xây dựng, “Plague Column” còn là biểu tượng của chiến thắng quân sự vĩ đại của đế quốc Áo – Hung trước cuộc xâm lăng vào năm 1683 của đế quốc Ottoman hung hãn.
Nơi nương tựa tinh thần
Với độ cao 21m và xây theo kiến trúc Baroque, Plague Column giờ đây trở thành biểu tượng quan trọng của thủ đô Áo. Trong những tuần dịch Covid-19 lan tràn khắp châu Âu và tấn công nhiều nước, trong đó có Áo, tượng đài cổ xưa đã trở thành địa điểm hành hương. Nhiều người dân thành Vienna tìm đến nơi, đặt hoa, thắp nến và cùng cầu nguyện cho đại dịch sớm ngày chấm dứt. “Cầu xin Chúa hãy bảo vệ những người thân yêu của con trước dịch Covid-19”, theo nội dung một thông điệp trên giấy đặt ở tượng đài. Một bức vẽ của trẻ con cũng có dòng chữ “xin bảo vệ chúng con trước dịch bệnh”, theo trang tin euronews.com. Một người dân địa phương cũng chia sẻ bà đã đến đây cầu nguyện “cho một thế giới tốt đẹp hơn và cơn khủng hoảng mang tên Covid-19 nhanh chóng được xử lý”.
Nếu thời xưa, Plague Column tượng trưng cho chiến thắng trước dịch hạch, giờ đây người thời nay một lần nữa khám phá lại thông điệp này trong bối cảnh Áo cũng như phần còn lại của châu Âu chiến đấu trước dịch Covid-19. Sử gia nghệ thuật Elena Holzhausen của Tổng Giáo phận Vienna nhận xét rằng “thật tốt khi có những nơi như thế” để con người có thể trút bớt nỗi lo lắng, muộn phiền, sợ hãi và ngóng nhìn về một tương lai tươi sáng hơn. “Ðó là nơi chốn nhắc nhở cha ông chúng ta từng vượt qua giai đoạn khó khăn”, bà cho biết, và vì vậy, “chúng ta cũng sẽ như thế”.