2023
Tư duy phản biện trong tiến trình hiệp hành
Có người hỏi tôi: “Tư duy phản biện trong cộng đoàn Công giáo tốt hay xấu?” Thoạt nghe chắc ai cũng đồng ý với tôi rằng tư duy phản biện rất cần thiết trong thời đại hôm nay. Nhà trường cũng đang cố gắng đồng hành với học sinh trong lãnh vực này. Một trong những mục tiêu của giáo dục là giúp cho học sinh có cơ hội tập và có khả năng tư duy phản biện. Thiết tưởng điều này cũng cần trong đời sống Giáo hội hiện nay. Nhất là trong bối cảnh hiệp hành mà mọi người đều có quyền và nghĩa vụ đóng góp công việc này, thì tư duy phản biện dường như quan trọng cho mỗi người.
Trong bài này tôi muốn “mổ xẻ” một chút về thuật ngữ này dựa trên những chỉ dẫn của Giáo hội về hiệp hành.
1. Tư duy phản biện theo nghĩa người đời
Theo định nghĩa của Oxford Dictionary: “Tư duy phản biện (Critical Thinking) là quá trình phân tích thông tin để đưa ra quyết định hợp lý ở mức độ bạn tin điều gì đó là đúng hoặc sai.” Hoặc “là khả năng suy nghĩ rõ ràng và hợp lý, nhận biết được mối liên hệ logic giữa các ý tưởng với nhau.”[1] Gọi là quá trình vì người tư duy cần thời gian và dữ liệu để tổng hợp và đưa ra phán đoán hợp với logic của mình. Trong tiến trình này, người tư duy có thể tham khảo nhiều nguồn khác nhau. Càng tham khảo, mức độ phán đoán đúng càng cao. Lập luận phản biện càng rõ ràng, logic, đầy đủ bằng chứng, tỉ mỉ, khách quan và công tâm, người ấy càng chiếm phần ưu thế. Để làm được điều này rõ ràng chúng ta cần tập luyện và tập luyện. Bước đầu tiên rất đáng trân quý đó là tôi muốn tập luyện khả năng tư duy phản biện này.
Lý do xã hội đang mong chờ nhiều người có tư duy này vì những đặc điểm thú vị sau[2]:
Người tư duy phản biện dễ dàng giao lưu với những ai có quan điểm khác mình. Điều này phá vỡ quan niệm của nhiều người cho rằng “kẻ tư duy phản biện thì ít bạn bè.” Không! Càng học hỏi, hy vọng chúng ta càng có khả năng khiêm nhường để tôn trọng những quan niệm phong phú của người khác. Rồi với tâm thế này, người tư duy phản biện có thể tham khảo những tư liệu đa chiều và khách quan trước khi đưa ra phán đoán của riêng mình. Nghĩa là phán đoán của tôi không phụ thuộc vào cảm xúc, nhưng đến từ một tư duy chín chắn.
Người này hẳn nhiên thường có những câu hỏi để chất vấn chủ đề họ đang quan tâm. Một khi thấy hợp lý, họ không ngại thay đổi để phù hợp với những gì là khách quan và giúp ích cho tiến trình xử lý các vấn đề. Tôi cũng từng lầm lẫn điều này: “Người tư duy phản biện ngại thay đổi”. Không! Một khi bị thu hút bởi những cách thức mới, họ dễ thay đổi hơn so với những người hành động theo cảm tính.
Vì suy nghĩ sâu sắc nên người tư duy phản biện có những ý tưởng rất độc đáo. Phải chăng vì điều này mà xã hội đang cần những người trẻ biết cách tư duy theo kiểu này. Tuy tự tin vào những lập luận của mình, nhưng họ cũng biết lắng nghe người khác. Họ tự tin nhưng không đồng nghĩa rằng họ tự kiêu và ngạo mạn.
2. Giáo hội nói gì về tư duy phản biện?
Trước giờ Giáo hội luôn theo hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Nếu có tư duy phản biện, chúng ta cũng được mời gọi đi theo con đường này. Vì chỉ có như thế Giáo hội mới vươn đến được sự thật. Và chỉ có tác động của Chúa Thánh Thần, chúng ta, những thành viên của Giáo hội mới có thể hiệp nhất. Vì lý do này mà ngay lời phát biểu đầu tiên, Đức Thánh Cha nhắn với mỗi chúng ta: “Lời Chúa hướng dẫn Thượng Hội Đồng, ngăn không cho nó trở thành một hội nghị của Giáo hội, một cuộc nghiên cứu học hỏi hay một hội nghị chính trị, một quốc hội, nhưng đúng hơn là một sự kiện đầy ân sủng, một tiến trình chữa lành được hướng dẫn bởi Chúa Thánh Thần.”[3]
Với lời hướng dẫn trên, chúng ta có thể nói tư duy phản biện trong Giáo hội có một nội dung sâu sắc hơn. Ngoài khả năng suy nghĩ (thinking), mỗi người cần dành giờ để cầu nguyện và lắng nghe tiếng Chúa nói với mình có thể đóng góp gì cho Giáo hội lúc này. Cần lưu ý rằng Giáo hội chưa bao giờ xem nhẹ khả năng hiểu biết của con người. Lý do là “đức tin luôn tìm kiếm sự hiểu biết” (Fides quaerens intellectum). Hơn nữa, nhà toán học Công giáo nổi tiếng đã đúc kết: “Cogito, ergo sum – Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” (René Descartes). “Vô tri bất mộ” luôn đúng kể cả trong lãnh vực đức tin.
Hơn nữa, “Con đường hiệp hành này chính là con đường Thiên Chúa mong đợi nơi Giáo hội của thiên niên kỷ thứ ba”. Để cùng đi trên con đường này với nhiều tình yêu, Giáo hội mời gọi mỗi người “tư duy phản biện”, nhưng dựa trên Lời Chúa và tác động của Chúa Thánh Thần. Điều này thách đố chúng ta, nhất là những người trẻ. Làm sao để nhận ra Tiếng nói của Chúa? Vì chỉ như thế, chúng ta mới có khả năng làm chứng cho sự thật và có thể dựng xây cộng đoàn một cách vững mạnh. Để làm được điều này, Giáo hội chỉ cho chúng ta vài hướng dẫn nhằm: “có thể mang lại những ý tưởng cụ thể cho những khoảnh khắc cầu nguyện, huấn luyện, suy tư và trao đổi.”
– “Giáo hội của chúng ta”. Tôi thích khẳng định này, vì Giáo hội như thế nào đi nữa, chúng ta cũng có nghĩa vụ và quyền lợi để dựng xây cộng đoàn Giáo hội.
– Vì khẳng định trên, nên lắng nghe luôn được đề cao trong tiến trình hiệp hành này. Trước là lắng nghe tiếng Chúa, sau là lắng nghe những chia sẻ của nhau. Đây là yếu tố rất giống với cách hiểu về tư duy phản biện mà ngoài xã hội đang theo đuổi: “Lắng nghe là bước đầu tiên, đòi hỏi khối óc và con tim rộng mở, không thành kiến.” Giáo hội tin rằng càng lắng nghe nhau, chúng ta càng biết mình nên làm gì và cần phản biện ra sao!
– Nếu như tư duy phản biện cho chúng ta tự tin, thì ở đây, Giáo hội mời gọi mỗi người can đảm và mạnh dạn (parrhesia) lên tiếng; nghĩa là, phải bao gồm cả sự tự do, chân lý và bác ái.
– Để tư duy phản biện tốt trong Giáo hội, một hình ảnh rất đẹp khi cộng đoàn lắng nghe Lời Chúa và cử hành Thánh Thể. Nếu bạn xa nguồn ân sủng, không ai dám chắc bạn sẽ phản biện đúng với tinh thần của Chúa! Ước gì con tim và khối óc của tôi gần Thiên Chúa, lúc ấy tư duy phản biện của tôi càng ngời sáng trước cộng đoàn.
– Ở trên, tư duy phản biện đòi người ta dấn thân, thì ở đây, tư duy trong tiến trình hiệp hành cũng thôi thúc chúng ta dấn bước. Nghĩa là tư duy phản biện trong: hiệp thông, tham gia và sứ vụ.
– Sau cùng, có lẽ từ gần với tư duy phản biện nhất đang được Giáo hội theo đuổi đó là phân định. “Sự phân định thiêng liêng (Discernment) là việc phán đoán dựa trên đức khôn ngoan và sự hướng dẫn của Thần Khí để nhận ra ý Chúa và làm theo sự thúc đẩy của Ngài.”[4] Theo định nghĩa này, chúng ta thấy trong đó có tư duy phản biện (phán đoán khôn ngoan), cộng với ơn Chúa (sức mạnh của Thánh Thần). Nếu tự dựa vào khả năng của riêng mình, chúng ta không khác người đời. Là con Chúa, là thành phần trong cộng đoàn, chúng ta muốn cùng nhau góp ý, kiến tạo Giáo hội, giúp nhau tiến lên trong sự thánh thiện.
- Tư duy phản biện tốt hay xấu?
Trong Giáo hội, lối tư duy này sẽ gây hại nếu chúng ta chỉ dựa vào khả năng của riêng mình. Có rất nhiều phương pháp giúp tư duy phản biện tốt. Tôi muốn áp dụng chúng khi xây dựng cộng đoàn, nhưng tôi không cầu nguyện. Nghĩa là tôi chẳng để ý đến Thiên Chúa, hoặc những rung động nội tâm mình. Tôi cũng không đủ bác ái để đón nhận những giới hạn của anh em mình. Điều này rất dễ dẫn chúng ta đến thói kiêu ngạo, cho mình là hơn người và xem thường những ai không có khả năng tư duy phản biện. Ước gì chúng ta không đi vào con đường này!
Ngược lại, tư duy phản biện sẽ rất tốt nếu chúng ta sử dụng tài năng của mình cộng với ơn của Chúa. Nói cách khác, Giáo hội mời chúng ta sẵn sàng hoán cải và thay đổi. “Thông thường, chúng ta có thể kháng cự những gì Chúa Thánh Thần đang cố gắng thôi thúc chúng ta đón nhận. Chúng ta được kêu gọi từ bỏ những thái độ tự mãn và an phận khiến chúng ta đưa ra những quyết định chỉ dựa vào những cách thức hoạt động xưa cũ.”[5]
Giáo hội đang khuyến khích chúng ta tư duy phản biện trong bối cảnh thiêng liêng. Hoặc nói như Đức Thánh Cha Phanxicô: “Phân định (tư duy phản biện?) phải dựa trên niềm xác tín rằng Thiên Chúa vẫn đang hoạt động trong thế giới và chúng ta được kêu gọi để lắng nghe điều Thần Khí khơi gợi nơi chúng ta”[6].
Để có được tinh thần trên, đúng là thách đố không chỉ cho giáo dân, nhưng cả với hàng giáo phẩm. Làm sao chúng ta, mọi thành phần của Giáo hội, ngồi xuống, gặp gỡ và chia sẻ chân thành mọi vấn đề liên quan? Giáo hội đã chỉ dẫn rất rõ trong Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về tính hiệp hành[7]. Ở đây tôi liệt kê vài điểm có thể giúp chúng ta mạnh dạn tư duy phản biện với rất nhiều tình yêu: Loại bỏ các thành kiến và khuôn mẫu sẵn; Vượt khỏi tai họa giáo sĩ trị; Chữa trị virus tự mãn; Nâng cao niềm hy vọng; Quan điểm mới mẻ; Tinh thần cởi mở; Lắng nghe mọi người và mỗi người; Hiểu biết về việc “cùng nhau cất bước hành trình”, v.v. Khi đó, chúng ta có thể tự tin rằng: “Ôi! Giáo hội vẫn mời gọi tôi tư duy phản biện, mời tôi tham gia đóng góp tài năng của mình để dựng xây cộng đoàn, xây dựng Nước Chúa.”
Cầu chúc mỗi chúng ta can đảm tập lối tư duy phản biện theo nghĩa phân định. Thách đố nhưng cần cho mỗi chúng ta. Đừng quên đây là một tiến trình, nên đòi kiên nhẫn tập tư duy phản biện với Thiên Chúa và với anh chị em trong cộng đoàn.
Lm. Giuse Phạm Đình Ngọc SJ
[2] Đọc thêm: https://www.pace.edu.vn/tin-kho-tri-thuc/tu-duy-phan-bien
[3] https://tgpsaigon.net/bai-viet/hiep-hanh-la-loi-song-cua-hoi-thanh-64898
[4] Từ điển Công Giáo, Mục từ Phân Định Thiêng Liêng.
[5] X. Cẩm nang cho Thượng Hội đồng về tính hiệp hành, mục 2.3, https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941
[6] Như trên
[7] https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/cam-nang-cho-thuong-hoi-dong-giam-muc-ve-tinh-hiep-hanh-42941
2023
Bốn Giám mục Trung Quốc thăm Châu Âu để nối lại hợp tác huynh đệ giữa các Giáo hội
Bốn Giám mục Trung Quốc thăm Châu Âu để nối lại hợp tác huynh đệ giữa các Giáo hội
Bốn Giám mục Trung Quốc là Đc. Giuse Quách Kim Tài, Giám mục giáo phận Thừa Đức và tân giám đốc Chủng viện Quốc gia Bắc Kinh; Đc. Phaolô Bùi Quân Miên, Giám mục giáo phận Thẩm Dương; Đc. Giuse Lưu Tân Hồng, Giám mục tỉnh An Huy và Đc. Giuse Thôi Thanh Kỳ, Giám mục của Vũ Hán. Trong đoàn cũng có linh mục Đỗ Đinh Dương của giáo phận Trùng Khánh.
Đầu tiên, phái đoàn đi hành hương và cử hành Thánh lễ tại nhà thờ Thánh Damiano. Trong thời gian thăm viếng, các ngài đã tổ chức một lớp đào tạo bằng tiếng Trung Quốc cho các linh mục, tu sĩ và giáo dân Công giáo từ Trung Quốc. Các ngài cũng tham gia các cuộc họp tại Tổ chức Verbiest và tại Chủng viện Trung Quốc để khám phá những cách thức mới nhằm khởi động lại các khóa trao đổi và đào tạo với sự cộng tác của các giáo phận Trung Quốc.
Các Giám mục Trung Quốc cũng gặp gỡ Đức Hồng Y Jozef De Kesel, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Bỉ và nguyên Tổng Giám mục của Tổng Giáo phận Malines-Brussels cũng như Chủ tịch của Tổ chức, và đã trình bày với ngài các đề xuất hợp tác đã được đồng ý với Tổ chức Verbiest.
Sau khi viếng thăm Tu viện Parc của các Cha dòng Norbertine ở Heverlee, một trong những tu viện lâu đời nhất ở Bỉ, và Tournai, một trong những giáo phận lâu đời nhất ở Bỉ, các giám mục Trung Quốc đã thăm nhà mẹ của dòng Ngôi Lời ở Steyl, Hà Lan.
Các ngài cũng đã gặp Đức cha Jan Hendriks, giám mục của Haarlem-Amsterdam và thảo luận với ngài về Hội nghị Quốc tế Verbiest lần thứ 15, sẽ được tổ chức vào năm 2024 và các học giả Công giáo Trung Quốc cũng sẽ được mời tham dự.
Từ ngày 12-15/9, các giám mục Trung Quốc tiếp tục chuyến thăm Pháp, gặp gỡ các nhà truyền giáo của Hội Thừa sai Paris (MEP).
Nghiên cứu học thuật, trao đổi văn hóa, đối thoại và hợp tác giữa các Giáo hội là bốn trụ cột trong sứ mạng của Tổ chức Ferdinand Verbiest nhằm thúc đẩy đối thoại và trao đổi văn hóa với Trung Quốc và với Giáo hội Công giáo ở Trung Quốc. Tổ chức đang tham gia nghiên cứu học thuật chung với các viện nghiên cứu ở Trung Quốc và Bỉ. Tổ chức cộng tác với Giáo hội tại Trung Quốc trong tinh thần huynh đệ Kitô giáo và sự hiệp thông giữa các Giáo hội địa phương. Hơn nữa, phối hợp với Giáo hội tại Trung Quốc, tổ chức này cung cấp việc đào tạo các thừa tác viên của Giáo hội thông qua việc giảng dạy trong các chủng viện, cung cấp học bổng và dấn thân mục vụ và xã hội.
Hồng Thủy – Vatican News
2023
Đức Thánh Cha tham dự hội nghị của “Sáng kiến toàn cầu Clinton 2023”
Mở đầu bài phát biểu tại cuộc gặp gỡ “Tiếp tục tiến bước” của Sáng kiến Toàn cầu Clinton qua cuộc gọi video trực tiếp, Đức Thánh Cha kêu gọi một nền văn hóa gặp gỡ và đối thoại, đồng thời khẳng định tầm quan trọng của trách nhiệm chung trong việc giải quyết những thách đố toàn cầu ngày nay.
Đức Thánh Cha nhấn mạnh sự cần thiết không để ai bị bỏ lại phía sau, đặc biệt những trẻ em dễ bị tổn thương. Ngài đặt câu hỏi liệu nhân loại có thể cùng nhau vượt qua những thách thức này một cách mạnh mẽ hơn hay không, và than phiền về “sự thờ ơ mang tính toàn cầu”.
Đức Thánh Cha cám ơn cựu Tổng thống Hoa Kỳ Bill Clinton vì đã đề cập đến các vấn đề cấp bách như biến đổi khí hậu, khủng hoảng nhân đạo và mối đe dọa chiến tranh, đồng thời khích lệ mọi người hoán cải cá nhân và tìm hiểu để biết rằng tất cả chúng ta đều có mối liên hệ với nhau, vì thế cần phải cùng nhau vượt qua thử thách.
Với suy nghĩ này, Đức Thánh Cha kêu gọi chấm dứt chiến tranh, ủng hộ con đường ngoại giao và đối thoại, cùng nhau làm việc để ngăn chặn thảm họa sinh thái và giải quyết các trường hợp khẩn cấp về di cư.
Tiếp đến Đức Thánh Cha nhấn mạnh hoạt động của Bệnh viện Nhi đồng Bambino Gesù của Toà Thánh và ca ngợi cam kết của trung tâm y tế này trong việc kết hợp nghiên cứu khoa học với lòng hiếu khách để điều trị cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Ngài nhận xét bệnh viện không thể giải quyết các vấn đề của tất cả trẻ em trên thế giới, nhưng luôn tìm cách cho thấy rằng mặc dù có nhiều khó khăn, nhưng có thể tập hợp các nghiên cứu khoa học quan trọng hướng tới việc chăm sóc trẻ em và đón tiếp những ai cần giúp đỡ.
2023
“Giáo hội có thể ngăn chặn chiến tranh không?”
Công lý, tình liên đới, việc chăm sóc trái đất, sự bao gồm, hay tình huynh đệ nói chung, là thông điệp hòa bình của Giáo hội, được thực hiện với sự kiên quyết mạnh mẽ bởi ĐTC Phanxicô và những vị tiền nhiệm của ngài. Một sự dấn thân đặc biệt đã khiến nhà báo Piero Damosso đặt câu hỏi: Liệu Giáo hội có thể ngăn chặn chiến tranh không?
Nội dung “cuốn sách đối thoại” này gồm hơn 50 cuộc phỏng vấn, là một cuộc điều tra của nhà báo Piero Damosso, được thực hiện sau sáu mươi năm thông điệp Pacem in terris – Hòa bình dưới thế.
Đặc biệt tập trung vào cuộc chiến đang diễn ra ở Ucraina, tác giả đặt câu hỏi cho hơn 50 người đối thoại và đi đến nhận thức rằng “điều đó là có thể”, được viện dẫn bởi rất nhiều lý do, trong đó đi từ chính cuộc đối thoại đến thẩm quyền của các bên tham gia, đặc biệt là Đức Thánh Cha Phanxicô, người có vai trò được nhiều nhà lãnh đạo tôn giáo và chính trị công nhận.
Trong một cuộc phỏng vấn với Radio Vatican – Vatican News, nhà báo Damosso khẳng định: “Ngày nay, Giáo hội là ảnh hưởng duy nhất trên thế giới thực sự có khả năng ngăn chặn cuộc xung đột ở Ucraina. Đối mặt với sự bế tắc của cuộc chiến này, Giáo hội có thể kiến tạo các mối quan hệ ngoại giao, có thể biến nó thành một điểm quy chiếu thực sự, cũng bởi vì đây là cuộc chiến giữa các Kitô hữu”.
Đối thoại và đại kết
Tác giả nhấn mạnh rằng con đường đối thoại giữa các tôn giáo và phong trào đại kết đã được Đức Gioan XXIII đón nhận trước, được bắt đầu bởi Công đồng Vatican II, được Đức Phaolô VI đón nhận (hãy nghĩ đến cuộc gặp gỡ với Đức Thượng phụ Athenagoras) và được mở rộng bởi Đức Gioan Phaolô II và từ tinh thần của Assisi, được Đức Biển Đức XVI tiếp tục và được Đức Phanxicô phát triển hơn nữa. Đại kết khi đó trở thành “ngoại giao kiến tạo hòa bình” và đối thoại là mấu chốt của nó.
Ký giả Damosso nói: “Đối thoại là tiền đề cơ bản và bắt đầu từ sự công nhận lẫn nhau. Chúng ta phải có khả năng hoán cải, nếu chúng ta muốn cứu nhân loại, trước một câu hỏi rất đơn giản: người kia có phải là một người anh em hay không? Đây là sự cấp bách mà Đức Phanxicô thúc giục chúng ta với thông điệp Fratelli tutti”, và ông cảnh báo trước thực tế rằng “chúng ta đang quên đi nỗi kinh hoàng của chiến tranh”.
Cầu nguyện cũng đóng một vai trò trung tâm. Nhà báo Damosso nói: “Tôi nhắc lại, đây là cuộc chiến giữa các Kitô hữu. Đối với tất cả các Kitô hữu, việc cầu nguyện là rất quan trọng, nó thay đổi cuộc sống. Chúng ta có một truyền thống yêu kính Đức Mẹ cách đặc biệt, cả ở Nga và Ucraina. Nếu chúng ta tin tưởng hướng về Mẹ Maria, Nữ vương Hòa bình, tôi tin rằng chúng ta sẽ tìm kiếm những con đường hòa bình với quyết tâm cao hơn.
Tính hiện thực của Thông điệp Pacem in terris
Chương đầu tiên của cuốn sách của nhà báo Damosso nói về thông điệp Pacem in terris – Hòa bình dưới thế -, được Đức Gioan XXIII ban hành cách đây 60 năm. Nó được định nghĩa là “Sao Bắc Đẩu” vì tính chất trỗi vượt của các chủ đề được đề cập, trong một văn bản được viết không chỉ cho các tín hữu mà còn cho tất cả những người có thiện chí. Một khái niệm, trong số nhiều khái niệm được nêu bật, mang tính thời sự cao, đó là giải trừ quân bị toàn diện. “Thông điệp kỳ diệu này làm cho chúng ta hiểu rằng chúng ta không thể ở trong thế giới mà không có những giới hạn, và quan điểm giải trừ quân bị toàn diện này là cụ thể, đã dẫn đến sự tiến bộ trong nhiều thập kỷ. Tuy nhiên, ngày nay – tác giả thừa nhận – có vẻ như chúng ta đang đầu hàng khi đối mặt với thực tế khủng khiếp của chiến tranh. ĐTC Phanxicô đang chỉ cho chúng ta thấy Thông điệp Pacem in terris và cách đây 8 năm, khi phát biểu tại Đại hội đồng Liên Hiệp quốc vào năm 2015, ngài đã cảnh báo nhân loại về việc không thể tôn trọng những giới hạn nhất định. Ngài đã phát biểu trong dịp đó về những giới hạn của quyền lực như một ý tưởng hàm chứa khái niệm về quyền”.
Đề án hòa bình và tinh thần của Helsinki
Sau khi nhấn mạnh tầm quan trọng vai trò của châu Âu đối với một tương lai hòa bình ở mức độ toàn cầu, bằng cách phân tích chủ nghĩa dân tộc hiếu chiến của Putin và công việc cần thiết để đạt được một nền hòa bình công bằng và lâu dài, chương thứ tư nói về việc quản trị thế giới, bắt đầu từ tinh thần Helsinki. Tài liệu tham khảo là các thỏa thuận Helsinki năm 1975, giữa cuộc Chiến tranh Lạnh, sau hai năm hoạt động nỗ lực ngoại giao, Vatican được nhìn thấy là một trong những nhân vật chính và mở ra cánh cửa cho kỷ nguyên tan băng trên khắp lục địa châu Âu giữa Tây và Đông. Từ đó Tổ chức An ninh và Hòa bình ở Châu Âu (OSCE) ra đời. Ngày nay OSCE có 57 quốc gia thành viên và liên quan đến hơn một tỷ công dân.
Nhà báo Damosso kết luận: “Ngày nay, châu Âu có thể nói cùng một tiếng nói và hàng trăm ngàn người trẻ châu Âu tại Đại hội Giới trẻ Thế giới ở Lisbon cho chúng ta thấy một trong những gương mặt đẹp nhất của lục địa, của những người làm việc vì một tương lai hòa bình”. Trong cuốn sách, tác giả nói rằng các kế hoạch hòa bình “là một vấn đề cấp bách”.
Ba người phụ nữ đối thoại
Cuốn sách cũng trình bày về ba đóng góp của những người nữ: Paola Severino, cựu bộ trưởng Cộng hòa Ý; Edith Bruck, nhà văn, người sống sót trong các trại tập trung của Đức Quốc xã và Dacia Maraini, nhà văn. Piero Damosso đã thực hiện ba cuộc phỏng vấn sâu rộng, đặt nhiều câu hỏi khác nhau, bao gồm cả câu hỏi đặt tên cho cuốn sách. “Ba người phụ nữ trong cuộc đối thoại” là tiêu đề của chương cuối.
Bà Severino nói: “Tôi nghĩ rằng Giáo hội của Giáo hoàng Phanxicô có thể làm rất nhiều để ngăn chặn chiến tranh” và nhấn mạnh cách “Giáo hoàng thể hiện lòng dũng cảm phi thường” và “chúng ta phải lấy cảm hứng từ ý chí mạnh mẽ thúc đẩy hòa bình của ngài”. Đối với bà Bruck, “Đức Thánh Cha Phanxicô đang làm những gì tốt nhất có thể, ngài đang cử người đến để tạo hòa bình”, nhưng “chúng ta thấy rằng một Giáo hoàng không đủ để tạo hòa bình”. Cuối cùng, đối với bà Maraini, “Giáo hội của Đức Thánh Cha Phanxicô đang cố gắng, nhưng phải đối mặt với sức nặng của một số quốc gia” nên sự thành công của nỗ lực này “sẽ rất khó khăn”.
Hòa bình và các thỏa thuận có thể
Trong số rất nhiều nhân vật được phỏng vấn còn có nhà kinh tế học Stefano Zamagni, người đề xuất một thỏa thuận 7 điểm có thể có giữa Nga và Ucraina, hy vọng có một sự huy động của xã hội để thành lập “Liên minh vì hòa bình”, và nhà tâm lý học Franco Vaccari, chủ tịch của tổ chức quốc tế Rondine-Cittadella della pace, người có phương pháp làm việc dựa trên xác tín rằng để xây dựng các mối quan hệ, người ta không thể bỏ qua những căng thảng, là điều không bao giờ đồng nghĩa với chiến tranh. Ông Vaccari nói: “Những căng thẳng thể hiện sự khác biệt, từ đó nảy sinh sự gặp gỡ để lắng nghe và hiểu nhau, giống như các sinh viên làm ở Rondine”, một ngôi làng ở tỉnh Arezzo, nơi ngày nay có cả người trẻ Ucraina và Nga, Israel và Palestin sống cùng nhau. Đại sứ Pasquale Ferrara cũng đang đề xuất một thỏa thuận hòa bình, kêu gọi phương Tây, châu Âu xây dựng “một hệ thống cùng tồn tại mới giữa các quốc gia”. Ông Andrea Riccardi, người sáng lập Cộng đồng Sant’Egidio, nhận định: “Từ ngữ ‘hòa bình’ đã bị xóa khỏi từ vựng nhưng không bị xoá khỏi mong đợi của con người”. Ông nói thêm: “Hòa bình là mục tiêu của mọi chính sách và mọi xung đột, nhưng ngày nay chúng ta có nguy cơ đánh mất chân trời này”.