2023
Giới thiệu Chúa cho người khác
6.9 Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
Cl 1:1-8; Tv 52:10,11; Lc 4:38-44
Giới thiệu Chúa cho người khác
Tin mừng Luca hôm nay tái hiện lại những phép lạ mà Chúa Giêsu đã làm tại nhà mẹ vợ ông Si-môn (Phê-rô). Trình thuật kể rằng, sau khi Chúa Giêsu đã rao giảng ở hội đường, thì các Thầy trò dẫn nhau về thăm nhà mẹ vợ ông Si-môn. Khi đến nơi thì thấy bà mẹ vợ ông đang sốt nặng, tức là đang ở trong một tình trạng nguy kịch, không thể làm gì được. Mọi người đang lo lắng, và họ nài xin Đức Giêsu chữa lành cho bà. Vậy là Chúa Giêsu đã “ra lệnh” cho cơn sốt dứt ngay, và bà trở nên mạnh khỏe để phục vụ mọi người.
Và trình thuật kể tiếp, chiều đến có rất nhiều người “đưa đến” cho Chúa Giêsu những người bệnh tật và bị quỷ ám, và Ngài đã cứu chữa họ hết thảy. Ngài đã nhiệt tình giúp họ, chắc hẵn là rất mệt mỏi, vì tin mừng kể lại có rất đông người đến. Tuy vậy, sáng sớm Chúa Giêsu đã đến nơi hoang vắng cô tích để cầu nguyện, nhưng họ lại tìm đến người và xin Ngài ở lại cùng họ. Chúa Giêsu đã nói với họ: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.”
Trình thuật tin mừng hôm nay, chúng ta chú ý đến 2 điều:
Những phép lạ Chúa Giêsu đã làm cho không phải bởi lời cầu xin của chính đương sự, nhưng bởi lời cầu xin, bởi lòng của những người khác.
Mọi người muốn giữ Chúa Giêsu lại cho riêng họ, khi nhận được ơn phúc, nhưng Chúa Giêsu chỉ cho họ thấy, “Loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa” không chỉ dành riêng cho một nhóm nhỏ, nhưng cho tất cả mọi người.
Quả vậy, khi Chúa Giêsu đến nhà mẹ vợ ông Phê-rô, bà đang sốt nặng và bà không thể cầu xin Đức Giêsu chữa lành cho mình. Trình thuật nói “họ xin Ngài chữa cho bà”, họ ở đây chắc hẵn là những nguời thân của bà, những người hàng xóm láng giềng với bà; chính nhờ lời cầu xin của họ, hay nói đúng hơn nhờ lòng tin của họ mà Chúa Giêsu đã cứu chữa bà. Cũng vậy “Lúc mặt trời lặn, tất cả những ai có người đau yếu mắc đủ thứ bệnh hoạn, đều đưa tới Người. Người đặt tay trên từng bệnh nhân và chữa họ”. Những người được chữa lành này, ta thấy cũng không phải bởi sự cầu xin của chính họ, nhưng là của những người đưa họ đến với Chúa Giêsu.
Chắc hẵn, ở nơi chính những bệnh nhân ấy, họ cũng có lòng tin vào Chúa Giêsu, nhưng chính họ không thể tự mình đến, hoặc có thể họ không dám đến vì những mặc cảm nơi mình, hoặc cũng có thể là chưa đủ tin vào quyền năng Thiên Chúa. Nhưng điều đáng nói ở đây là, những người được chữa lành ở ngôi nhà nhỏ hôm ấy có một sự cộng tác rất tích cực của những người khác, những người biết dẫn người khác đến với Chúa và dẫn Chúa đến với họ. Cuộc sống nơi mỗi người ki-tô hữu chúng ta cũng vậy, luôn được mời gọi để cầu nguyện cho người khác, hướng dẫn người khác đến với Chúa và giúp họ cảm nhận được tình yêu thương của Chúa. Đó cũng chính là sứ mạng ngôn sứ nơi người tín hữu, sứ mạng đã lãnh nhận khi lãnh bí tích thanh tẩy.
Và điều thứ hai, trong trình thuật hôm nay muốn nhắc chúng ra rằng: Ơn Cứu Độ nhờ Tin mừng không phải chỉ dành riêng cho cá nhân, hay chỉ dành cho nhóm thân hữu của chúng ta, nhưng cho tất cả mọi người. Những người trong làng của mẹ vợ ông Phê-rô muốn giữ Chúa Giêsu ở lại với họ, bởi họ thấy những phép lạ điềm thiêng mà Chúa Giêsu đã làm trên họ, họ muốn sở hữu những ân huệ ấy cho riêng cộng đồng của họ, cho làng của họ thôi. Con người là vậy, luôn muốn có và khi có thì luôn muốn chiếm hữu cho riêng mình và rất khó cho chia sẻ với ai.
Đó là sự cám dỗ của thế tục, của tính người, tính xác thịt. Chúa Giêsu không lên án vì sự ích kỷ hẹp hòi của họ, bởi Ngài biết thân phận con người là thế và Ngài đã nói: “Tôi còn phải loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho các thành khác nữa, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó.” Đây là một bài học lớn cho mỗi người tín hữu chúng ta, chúng ta sống là cùng và sống với người khác, do vậy, Hội Thánh không mời gọi con cái mình sống thánh thiện để lên Thiên Đàng một mình, nhưng lên cùng người khác. Chúa Giêsu đã nói và nêu gương cho chúng ta trong cách sống “Tôi còn loan báo cho những thành khác, vì tôi được sai đi cốt để làm việc đó”. Đến lượt mình, chúng ta cũng không giữ Chúa cho riêng mình, nhưng biết giới thiệu và đem Chúa đến cho người khác, bởi tôi được “tái sinh” là để làm việc đó “giới thiệu Chúa cho người khác”.
Trong đời sống hằng ngày, chúng ta đang phải chiến đấu, vật lộn với những thứ bệnh, ngay trong bản thân mình, những căn bệnh của thể xác, những căn bệnh về tinh thần như lo âu, đau khổ như Gióp đã đại diện con người nói lên tâm trạng đó (x. G 7,1-4.6-7).
Hơn nữa, do mang thân phận mỏng giòn yếu đuối của kiếp người, chúng ta mang đủ thứ tội lỗi, những tính hư nết xấu, những khuynh hướng xấu, những đam mê, dục vọng mệt mỏi làm chúng ta sống vô vọng như muốn buông xuôi tất cả. Chúng ta lại đang bị hành hạ bởi bệnh sốt của những kẻ không chịu lắng nghe tiếng Chúa và thiếu hay không chăm chú thực hành những điều răn của Người (x. Tl 28,15.22), đó là căn bệnh tâm linh của mọi thời đại… Con người chỉ có thể được chữa lành và được mạnh khỏe khi nhìn nhận bệnh tình của mình và mang thái độ tin vào Đức Kitô, Đấng luôn yêu thương và sẵn sàng cứu chữa chúng ta như Ngài đã chữa lành cho nhạc mẫu của Phêrô và các người bệnh nhân chạy đến xin Người cứu chữa…
Khi chúng ta được chữa lành, chúng ta mau mắn trỗi dậy ra đi phục vụ anh em, đặc biệt những người bé nhỏ, cô thân cô thế, những người neo đơn, ốm đau tật nguyền… những người trong chính gia đình mình.
Ước gì hai giá trị Tin mừng hôm nay “đem người khác đến với Chúa” và “đem Chúa đến với người khác” thẩm thấu vào từng huyết quản của mỗi người chúng ta, để nhờ đó Nước Cha Mau hiển trị, điều mà chúng ta vẫn cầu xin hàng ngày khi đọc kinh Lạy Cha.
2023
Quyền năng
5.9 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
St 5:1-6,9-11; Tv 27:1,4,13-14; Lc 4:31-37
Quyền năng
Sau khi rời bỏ quê nhà Nazareth, Chúa Giêsu tới Capharnaum, là thành phố nằm sát bờ biển hồ Tibêria, hôm nay thánh Luca giới thiệu cho chúng ta sức thu hút và lời uy quyền của Chúa Giêsu. Trước lời giảng dạy của Chúa Giêsu, dân chúng kinh ngạc, lạ lùng về giáo huấn của Người. Cũng chính Lời Người có sức mạnh mà thần ô uế phải khuất phục và ra khỏi bệnh nhân. Vì Chúa Giêsu là Thiên Chúa nên Lời của Người có sức cảm hoá phi thường.
Tin mừng hôm nay, thánh sử Luca đã đề cập tới quyền năng thần linh của Chúa Giêsu tại Ca-phác-na-um. Chúa Giêsu tỏ quyền năng qua lời giảng dạy, qua các phép lạ, qua việc xua trừ tà thần… để minh chứng rằng: không những Thiên Chúa đang ở với Ngài, mà chính Ngài là Đấng được Thiên Chúa sai đến, là Đấng “Thiên Chúa ở cùng” con người. Vì thế, Ngài dùng quyền năng duy chỉ tìm kiếm cho vinh quang Cha Ngài và hoàn tất ý định của Thiên Chúa Cha mà thôi.
“Ngài xuống Ca-phác-na-um, một thành miền Galilê”. Thánh sử Luca giới thiệu về địa điểm hoạt động trong một ngày điển hình của Chúa Giêsu tại thành này như tóm lược hoạt động cứu thế của Ngài. Ở đây, chúng ta không thấy thánh sử nhắc đến các môn đệ, vì ông chưa thuật lại việc kêu gọi các đệ tử. “Ngày sa-bát, Chúa Giêsu giảng dạy dân chúng”, đó là thói quen của Chúa Giêsu khi Ngài đến hội đường trong các dịp lễ hội “Ngài giảng dạy trong các hội đường và được mọi người tôn vinh”(4,15). “Dân chúng sửng sốt về cách Người giảng dạy, vì lời của Ngài có uy quyền”, không như các kinh sư khác, dân chúng nhận ra quyền năng trong chính lời giảng dạy của Chúa Giêsu, khiến họ xầm xì, bàn tán và ngạc nhiên. Lời nói của Ngài có sức mạnh lạ thường. Lời đầy quyền năng và lời trừ quỷ thần ô uế kế tiếp là một trong những biểu hiện của lời quyền năng ấy. Giáo huấn và chữa lành có liên hệ mật thiết với nhau.
“Trong hội đường, có một người bị quỷ thần ô uế nhập”. Người Do Thái ưa dùng từ “thần ô uế” nghĩa là xấu xa. Điều đó chỉ rõ sự đối kháng giữa sức mạnh ác thần và sức mạnh Thánh Thần. Ở đây, thánh sử Luca viết về một người bị quỷ ô uế nhập. Việc chữa lành đầu tiên của Chúa Giêsu sau khi Ngài giảng dạy dân chúng là thực hiện việc trục xuất quỷ ô uế này, giải thoát con người khỏi sự kiềm chế của sự dữ. Quỷ ô uế la to “Ông Giêsu Nagiaret…. ông đến để tiêu diệt chúng tôi sao?…ông là Đấng Thánh của Thiên Chúa”.
Qua lời này, chúng ta thấy tên quỷ nhận ra người trừ tà là ai và biết rõ sứ vụ của Ngài, nên nó chống cự lại. Nó tự hỏi đã đến giờ thế giới của sự ác, của tối tăm, của ma quỷ sụp đổ chưa ? Đức Giêsu có đến tiêu diệt nó sớm quá chăng? có trước thời hạn không? Tên quỷ này còn biết danh xưng của Đức Giêsu “Đấng Thánh của Thiên Chúa”. Ở đây không phải là lời tuyên xưng đức tin, nhưng như một lời cám dỗ về địa vị, về thiên tính của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không muốn quỷ nói ra danh xưng đó vì “giờ” của Ngài chưa đến, nên Ngài quát mắng tên quỷ ” Câm đi! ” và ra lệnh ” Hãy xuất khỏi người này!”.
Đây là một lời hăm dọa và cũng là lệnh truyền. Lời Ngài có uy quyền khiến ma quỷ phải tuân lệnh. Quỷ vật người ấy ngã xuống, nhưng không làm hại người bệnh và xuất ra. Quỷ xuất ra cách công khai. Mọi người đều thấy và nhận ra quyền năng trong lời nói của Chúa Giêsu “Lời ấy là thế nào? Ông ấy lấy uy quyền và thế lực mà ra lệnh cho các thần ô uế và chúng phải xuất”. Dân chúng đã nhận ra sức mạnh của Lời phát xuất từ con người Đức Giêsu. Lời chữa lành. Lời xua trừ tà thần. Lời giải phóng con người khỏi sự khống chế của sự dữ. Lời đem lại sự sống. Và họ đồn thổi danh tiếng Ngài ra khắp vùng đó.
Trong cuộc sống ngày nay, giữa một xã hội thực dụng và tội lỗi, tà thần lan tràn và len lỏi vào từng ngóc nghách của cuộc sống, tâm hồn của con người. Càng ngày càng có nhiều người tâm thần không ổn định, nội tâm bị cưỡng bức. Họ tìm đến y học, pháp thuật, ma thuật… mà quên đi Đấng có quyền xua trừ ma quỷ và chữa lành nội tâm họ. Họ tìm đến con người để được chữa lành thể xác nhưng lại quên đi một vị thần linh, một vị Thiên Chúa uy quyền, toàn năng trên mọi người, mọi vật, có quyền sinh tử cả xác và hồn. Con người ngày càng bị lệ thuộc, bị khống chế bởi tà thần khác nhau như : danh vọng, địa vị, tiền bạc, hưởng thụ… đến khi không được đáp ứng theo nhu cầu hoặc cuộc sống không có lối thoát, họ tìm cách kết liễu cuộc đời.
Như Tin Mừng ghi nhận lại, Lời Ngài uy quyền so với lời giảng dạy của các bậc thông thái trong dân, thánh Bède le Vénérable giải thích các bậc thông thái trong dân dựa trên luật và các ngôn sứ còn Ngài từ uy quyền của chính Ngài: “Những người biệt phái hay những vị tiến sĩ luật giảng dạy những gì đã được Môisê và các ngôn sứ ghi chép trong luật. Nhưng Chúa Giêsu giảng dạy như là một người thầy của Môisê và như là vị Thiên Chúa uy quyền, Đấng có thể thêm hay thay đổi luật nếu các điều đó tỏ hiện sự tốt lành”. Ngài uy quyền vì Ngài làm chủ Lề Luật, tạo Lề Luật để con người được hưởng về sự tốt lành, hướng về Cha trên trời.
Ngày hôm nay vẫn còn những thần ô uế và sự dữ. Chúng ta đến bên Ngài, không chỉ để chiêm ngưỡng, ngạc nhiên và ngưỡng mộ Đấng Quyền năng như dân Do Thái xưa nghe Ngài giảng và thấy uy quyền trên thần ô uế, nhưng mở lòng đón nhận Lời quyền uy. Để Lời tác động xua đuổi mọi thần ô uế ra khỏi tâm hồn của chúng ta…
2023
Bụt Nhà Không Thiêng
4.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Hai Mùa Quanh Năm
St 4:13-18; Tv 96:1,3,4-5,11-12,13; Lc 4:16-30
Bụt Nhà Không Thiêng
Đoạn Tin Mừng Chúa Giêsu thuật lại, khi Ngài trở về thăm quê hương là Na-da-rét. Ngày ấy dân Na-da-rét họ đón tiếp Người chẳng ra gì. Đó cũng là điềm báo Người bị dân Người chối bỏ. Và Chúa Giêsu là người thật sự đến để giúp họ, thoát khỏi luật tâm lý muôn đời “bụt nhà không thiêng”. Thế nên chúng ta cũng nhận ra câu nói bất hủ của Chúa Giêsu: “không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình”. Người cũng cảm nhận được cái đớn đau, khó khăn, đã từng bị bạn bè, xóm giềng ruồng rẫy, khi hy sinh lãnh nhận sứ mệnh làm ngôn sứ tại xứ sở mình.
“Ngài vào hội đường Nagiarét” ( c.16). Hội đường là nơi hội họp của người Do Thái ở Palestine cũng như ở các nơi khác tụ về. Trong ngày Sabát họ đọc sách luật, sách ngôn sứ và sau đó là cắt nghĩa giảng giải. Người Do Thái nào đã đến tuổi trưởng thành đều có quyền đọc sách, nhưng người ta thường chọn vị nào có hiểu biết về kinh thánh để giảng giải cho dân. Chúa Giêsu đã đến tuổi trưởng thành và Ngài đã được ông trưởng hội đường trao nhiệm vụ đọc sách cho Ngài trong ngày hôm ấy. Đó là sách ngôn sứ Isaia. Ngài không chọn lựa nhưng mở ra và bắt gặp một đoạn nói về việc khởi đầu cho công cuộc rao giảng của Ngài. Hiện tượng này không thể xem là ngẫu nhiên, nhưng có lẽ Thiên Chúa đã sắp xếp khi giới thiệu Con Ngài vào trần gian trong sứ vụ Đấng Mêsia: “Thần khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi” ( c. 18) ý nói về hoạt động của Chúa Giêsu là do Chúa Cha xức dầu và do Thánh Thần hướng dẫn. Đây là hoạt động của cả Ba Ngôi trong công trình cứu độ.
Công việc của Chúa Giêsu là : “đem Tin Mừng cho người nghèo, loan báo cho kẻ giam cầm biết họ được phóng thích, ban cho người mù được thấy ánh sáng, kẻ bị áp bức được tha bổng, tự do, công bố năm hồng ân của Chúa” (18-19). Với vỏn vẹn trong 2 câu, Thánh sử Luca đã mượn lời ngôn sứ Isaia để nói về thân phận và sứ vụ của Chúa Giêsu. Ngài đến đem bình an, sự tự do và hạnh phúc cho những người nghèo khổ. Ngài chính là Đấng Mêsia mà dân Do Thái mong đợi. Ngài cởi bỏ xiềng xích, tháo gỡ gông cùm cho những người tù tội, nô lệ. Ngài công bố năm hồng ân của Chúa mà đối với người Do Thái phải 50 năm mới được hưởng một lần. Trong năm hồng ân, mọi của cải mất mát sẽ trở về, ruộng đồng được nghỉ ngơi. Đó là năm ân xá cho toàn thể dân chúng ( x. Lc 25, 10-13). Chúa Giêsu đến, Ngài công bố năm hống ân sẽ được thực hiện, phúc lành Thiên Chúa sẽ ban dư tràn trên dân, trên những ai biết mở lòng ra đón nhận.
Sau khi đọc sách xong, Chúa Giêsu cuộn sách trả lại và ngồi xuống giảng giải. Ngài khẳng định: “ Hôm nay lời kinh thánh mà các ông vừa nghe đã ứng nghiệm” ( c.20). Như thế là một cách Chúa Giêsu giới thiệu mình chính là Đấng Mêsia, Đấng đến từ Thiên Chúa mang phúc lành cho toàn dân và hôm nay ơn cứu độ đã đến. Mọi người đều tán thành những lời ấy ( c.22). Họ tỏ ra hiểu được sứ điệp của lời Người vừa đọc và như sẵn sàng chuẩn bị đón chào con người của Ngài, là người vừa thốt ra lời hay ý đẹp.
Đến đây, chúng ta tưởng rằng việc rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu đã thành công ngay bước khởi đầu, ngay ngày “ ra quân”, thế mà họ lại xầm xì “Ông này không phải là con ông Giuse đó sao?”. Một câu hỏi như muốn lột trần Chúa Giêsu bằng con mắt tự nhiên ghen tỵ của họ. Họ thức tỉnh chính họ rằng: con người bằng xương bằng thịt đang đứng trước họ chỉ là con người bình thường trong một gia đình lao động mà họ biết rất rõ veà thân thế và sự nghiệp. ChúavGiêsu đã đọc được điều đó trong lòng họ, trong thái độ của họ nên Ngài vạch trần tỏ tường ghen tỵ ấy bằng một lời khẳng định : “ Không một ngôn sứ nào được chấp nhận tại quê hương mình” ( c. 24). “ Ngài đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” ( Ga,11).
Đó là số phận của các ngôn sứ trong thời Cựu Ước và cũng là điềm báo cho số phận sau này của Chúa Giêsu. Ngài bị chính dân Ngài chối bỏ, giết chết bằng cách đóng đinh trên Thập Giá. Sống ngôn sứ là dám chết cho lời chứng của mình và cái chết là lối chứng hương hồn và sống động nhất. Như các ngôn sứ trong Cựu ước, như Gioan Tẩy Giả và nhất là như Chúa Giêsu Đấng đã gióng lên tiếng yêu bằng cây Thập giá vinh quang. Đó là lối đường yêu thương của Thiên Chúa: Yêu đến cùng ( x. Ga 13,1).
Từ câu 25-27, Chúa Giêsu đưa ra dẫn chứng : Trong Cựu ước, những ai thuộc đoàn dân Chúa mà từ chối ơn lành, thì Thiên Chúa sẽ ban ơn cứu độ ấy cho dân ngoại như Êlia đã giúp bà goá Xa-rep-ta, như Êlisa đã chữa Naaman xứ Xyria. Những ví dụ này đánh động lòng chai cứng của người Do Thái, nhưng họ cứ chai lì trong sự bướng bỉnh, cố chấp nên thay vì họ thay đổi, sám hối, ăn năn thì họ lại tỏ ra phẩn nộ, điên cuồng. Họ đồng phản ứng bằng cách: dứng dậy và lôi Chúa Giêsu ra khỏi thành, đưa lên đỉnh núi để tiêu diệt một con người dám nói lên sự thật, như gai nhọn đâm vào lòng họ. Họ muốn dập tắt tiếng nói lương tâm bằng hành vi giết chết một con người tiên tri. Nhưng họ không làm được vì giờ của Ngài chưa đến, vì con dường cứu độ của Ngài chỉ kết thúc ở Giêrusalem chứ không ở Nagiar
Quả thật, trong cuộc sống chúng ta cũng vậy, thành kiến luôn là căn bệnh chung của nhiều người, thành kiến đôi khi là một tâm trạng thiên lệch rất tai hại, từ sự yên trí, phán đoán, nhất là những tư tưởng suy đoán không hay cho người khác. Thích mới lạ, nhiều lý luận ngược chiều cho là hay, dựa theo dư luận số đông của mọi người.
Tại quê hương, khi chúng ta gặp người ấy quá quen, thân cận quá, thì chúng ta khó có thể chấp nhận tài năng của họ, hoặc họ có một địa vị cao trọng, danh giá, về thăm quê hương, chúng ta luôn có cái nhìn tò mò, soi mói tìm hiểu, hơn là kính nể khi họ về quê nhà hay xứ sở của mình, nếu người đó có tài nhưng gia đình nghèo khó, thì họ coi rẻ rúng, cũng như Chúa Giêsu khi trở về quê nhà cũng bị dân làng nhìn theo kiểu “Ông không không phải là con bác thợ mộc sao? Mẹ của ông không phải là bà Maria , anh em của ông không phải là các ông Gia-cô-bê, Gio-xép, Si-mon và Giu-đa sao? Bởi đâu ông được như thế?” (Mt 13, 55-56). Cũng vậy, Chúa hiểu rõ tâm lý của họ.
Chúng ta là người Kitô hữu là chấp nhận ra đi làm ngôn sứ, biết rao giảng và thực hành sống lời Chúa, loan báo Tin Mừng đến cho tha nhân, dẫu cho mọi người không chấp nhận chân lý và sự thật, đổi sang thái độ nghi ngờ hay chống đối. Ngay cả Chúa Giêsu cũng đóng vai trò ngôn sứ bởi từ Chúa Cha mà đến, nhưng cũng cùng chung một số phận như bao ngôn sứ khác. Vậy chúng ta tham dự vào vai trò ngôn sứ của Chúa Giêsu ngay trong mọi hoàn cảnh, hãy cảm thông hay chấp nhận với mọi người bằng sự thương yêu chân thành, đây không phải là thái độ lẩn tránh, mà bình tĩnh và cầu nguyện để tiếp tục chương trình, không để cho những người hay chống đối, có thể cản trở công việc thi hành sứ vụ, Thiên Chúa trao phó.
Lời Chúa luôn là kim chỉ nam, hướng dẫn, và chữa lành cho tâm hồn mỗi người, để tìm được sự thanh thảnh, bình an trong tâm hồn, giúp chúng ta vững tin ra đi loan truyền Lời Chúa đến tận cùng trái đất.
2023
Cho và nhận
2.9
Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Nhất Mùa Quanh Năm
St 4:9-12; Tv 98:1,7-8,9; Mt 25:14-30
Cho và nhận
Với trang Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã mượn hình ảnh của người làm kinh tế để nói về việc sinh lời nén bạc tinh thần. Nếu ông chủ trao cho đầy tớ những nén bạc và nhủ hãy đi sinh lời thêm, thì Thiên Chúa cũng vậy. Ngài trao ban cho chúng ta những nén bạc là Lời Chúa, là những “ơn ban…” và không ngừng mời gọi chúng ta sinh lời ra nhiều, để làm vinh danh Chúa và giúp ích cho anh chị em chung quanh mình nhiều hơn.
Thật vậy, mỗi người đều được Chúa trao cho những nén bạc khác nhau tùy vào khả năng. Điều quan trọng là chúng ta có biết sử dụng nó cho đúng mục đích cách trung tín và khôn ngoan hay không mà thôi.
Người khôn ngoan là người biết đón nhận thánh ý Chúa và mau mắn thi hành. Người quản lý trung tín là người biết nhận ra sự hiện diện của Chúa trong từng biến cố vui buồn của cuộc sống. Biết đón nhận đau khổ và sẵn sàng hy sinh vì mối lợi đời sau. Biết nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa nơi tha nhân, nhất là những người nghèo khổ đói khát…
Thiên Chúa cho ta nhiều hơn những gì ta xin. Ngài cho một cách quảng đại, không xẻn so tính toán. Và Chúa cũng dạy ta hãy cho đi như vậy. Dụ ngôn ông chủ và những nén bạc một lần nữa minh chứng cho lòng quảng đại của Thiên Chúa.
Trước khi có việc đi xa, ông chủ gọi các đầy tớ đến và trao cho họ những nén bạc. Người năm nén, người hai nén, người một nén. Với số vốn ban đầu, mỗi người đều có cách riêng làm cho nén bạc đó sinh lời. Thế nhưng trong số họ, có người không biết sinh lời đã đem chôn nén bạc xuống đất và còn phiền trách ông chủ hà khắc. Ông chủ phán xử bằng cách “ai đã có, thì được cho thêm và sẽ có dư thừa; còn ai không có, thì ngay cái đang có, cũng sẽ bị lấy đi”. Mới nghe qua câu chuyện, ta sẽ cho rằng ông chủ này thật bất công, nhưng có lẽ đó mới là ông chủ nghiêm minh và công bình.
Có một chàng trai nọ trồng mấy chậu hoa ở ban công trong khu chung cư. Sau một thời gian, những chậu hoa buông nhành xống tầng lầu bên dưới. Lúc đầu, chàng trai định kéo chúng lên rồi buộc chặt lại. Nhưng sau đó anh cảm thấy làm như thế là quá ích kỷ nên thôi. Thế là chậu hoa của anh nhanh chóng tạo thành chiếc rèm buông xuống lầu dưới trông rất đẹp mắt.
Thời gian trôi qua và rồi mùa xuân đến, chàng trai hết sức ngạc nhiên thấy có một dây nho bò lên ban công nhà mình. Anh nhoài người nhìn xuống thì thấy có một cô gái xinh đẹp đang ngẩng lên mỉm cười với anh. Thì ra cô gái ở lầu dưới cảm kích trước món quà thiên nhiên của anh nên đã trồng một dây nho và cho nó vươn lên trên như một sự đền đáp. Thế rồi họ làm quen với nhau, khi giàn nho cho mùa trái ngọt thứ hai cũng là lúc chàng trai và cô gái đón nhận tình yêu ngọt ngào của nhau.
Cho và nhận là quy luật trong cuộc sống. Sống ở đời, người ta “có qua có lại mới toại lòng nhau”. Nhưng con người tự nhiên thường thích nhận nhiều hơn là cho đi, không ai chịu cho không để bị thiệt thòi mất mát.
Hàng ngày chúng ta nhận lãnh từ thiên nhiên vũ trụ, từ cuộc sống nhiều hơn những gì chúng ta cho đi. Mặt trời cho ta ánh nắng ban mai ấm áp, bầu trời cho ta làn gió mát. Cỏ cây hoa lá đem đến cho ta sự tươi mới. Thời tiết tuần hoàn, vũ trụ nhịp nhàng chyển dịch đó chẳng phải là món quà vô giá mà ta nhận lãnh hàng ngày sao. Cha mẹ, gia đình, bạn hữu cho ta mối tương giao đằm thắm gần gũi. Mỗi phút giây ta sống trên đời đều gửi đến cho ta một lời nhắn nhủ thiết thân. Mỗi sớm mai thức dậy, ta có biết cám ơn cuộc đời cho ta có thêm một ngày sống để yêu thương không? Với ý nghĩa đó, hóa ra chúng ta là người rất giàu có, rất nhiều cái để cho, nhiều điều để sẻ chia với tha nhân.
Trong sách Công vụ tông đồ, thánh Phaolô viết “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). “Cho” với một xác quyết rằng chúng ta đã lãnh nhận rất nhiều ân sủng từ Thiên Chúa. Những ân sủng ấy dành để phục vụ mọi người chứ không phải để ích kỷ cho riêng mình. Chúng ta đã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Cho như thế không làm chúng ta nghèo nàn mất mát nhưng càng được giàu sang, được lớn lên trong tương giao với người khác. Cho và nhận đều mang tính tuần hoàn. Điều ta cho sẽ không mất đi nhưng trở lại với những dạng thức khác mới mẻ hơn, vì rằng “trong cái mất luôn có cái được”.
Thánh Phanxicô Assisi, vị thánh của sự nghèo khó nhưng lại rất giàu có. Gia tài của Ngài là Thiên Chúa, bạn hữu của Ngài là thiên nhiên vũ trụ, tinh tú trăng sao…Ngài đã nên thánh bằng cuộc sống nghèo nhưng vẫn tự do bát ngát, nên thánh với niềm xác tín rằng “chính lúc cho đi là khi được nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc gặp lại bản thân”. Như thế, cái chúng ta cho không chỉ là của cải vật chất mà là chính con người chúng ta. Chúng ta có thể trao cho nhau những điều rất đơn giản, sự chăm sóc yêu thương, một lời nói động viên, một cái nhìn thông cảm hay một lời cám ơn, xin lỗi…
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta tự đặt mình trước mặt Chúa để cật vấn mình rằng: Chúa đã đầu tư cho tôi những nén bạc như sức khỏe, tài năng và nhiều ơn ban khác…, nhưng tôi có thực sự sinh lời ra thêm bằng việc tạ ơn Chúa, sẵn sàng giúp đỡ anh chị em mình và có biết dâng những hy sinh đau khổ, thất bại trong cuộc đời lên Chúa để xin Chúa thánh hóa, hầu sinh ích cho mình và tha nhân hay không?
Nói chung, tôi đã dùng của cải tài năng và ân huệ Chúa ban như thế nào? Tôi có tích cực phát triển “vốn đầu tư” mà Chúa đã trao cho tôi không? Hay tôi lo chôn giấu cho thật kỹ trong sự ích kỷ, kiêu ngạo, bất nhân và hận thù?