2023
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
11.10 Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
St 4:1-11; Tv 86:3-4,5-6,9-10; Lc 11:1-4
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
Cầu nguyện là một việc quan trọng trong cuộc đời Chúa Giêsu; Ngài vào sa mạc 40 ngày để ăn chay và cầu nguyện trước khi bắt đầu sứ vụ công khai; Ngài đã cầu nguyện suốt đêm trước khi tuyển chọn các Tông đồ; trong ba năm rao giảng Tin mừng, Ngài cũng đã rất nhiều lần tìm đến nơi thanh vắng để sống những giờ phút thân tình với Chúa Cha trong cầu nguyện.
Được nhiều lần chứng kiến Chúa Giêsu chìm sâu trong sự kết hiệp với Chúa Cha, và niềm mong ước được đi vào sự hiệp thông với Chúa Cha, như Chúa Giêsu, các Tông đồ đã đến xin Chúa Giêsu dạy họ cầu nguyện và Ngài đã dạy họ Kinh lạy Cha.
Trong Kinh lạy Cha, Chúa Giêsu dạy các Tông đồ gọi Thiên Chúa là Cha. Thực ra, quan niệm gọi Thiên Chúa là Cha không chỉ phổ thông trong dân tộc Do Thái: Trong Cựu ước, nhờ giáo huấn của các Tiên tri, người Do Thái gọi là Chúa Cha: Ngài là Cha của toàn dân; nhưng cả các dân tộc vùng Tiểu Á ngày xưa cũng gọi các thần minh là Cha. Tuy nhiên, cách xưng hô Cha, tiếng Do Thái là Abba, mà Chúa Giêsu dạy các Tông đồ hoàn toàn khác hẳn với tiếng Cha của người Do Thái trong Cựu ước. Đó là tiếng thông dụng thường ngày nơi miệng trẻ gọi cha mình. Như thế, tiếng Cha trong Kinh lạy Cha là nền tảng mạc khải của Chúa Giêsu và lời tuyên tín của Cộng đoàn Giáo hội do Chúa Giêsu thiết lập, kêu lên với Thiên Chúa.
Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy các môn đệ cách cầu nguyện. Cầu nguyện là chúc tụng Chúa, là xin những ơn cần thiết cho ta và cho mọi người khác, và là xin ơn tha tội. Cầu nguyện cũng chính là dịp để chúng ta gắn kết mật thiết hơn mối tương quan với Chúa, và nhờ đó, sống quảng đại hơn với anh em mình.
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta một cách cầu nguyện trong mối tương quan giữa Thiên Chúa là Cha và chúng ta là những người con của Ngài. Nhờ Chúa Giêsu và tác động của Chúa Thánh Thần, mỗi Kitô hữu có thể kêu Thiên Chúa là Abba, nghĩa là cha ơi. Tiếng xưng hô: cha ơi, thật đẹp làm sao. Những lời thân thưa trong kinh Lạy Cha lại càng ý nhị và thân tình biết mấy.
Chúng ta nhớ đến ý nghĩa kinh Lạy Cha như là một bản tóm kết trọn vẹn cả Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô, bản tóm gọn khoa thần học, một bản giáo lý về đời sống Kitô. Chúng ta cần khám phá kinh Lạy Cha, đây là trường dạy ta cầu nguyện và hãy cầu nguyện kinh Lạy Cha với tâm trí chìm sâu trong chiêm niệm, để mỗi ngày chúng ta được hiểu thêm về mầu nhiệm Thiên Chúa trong cuộc đối thoại Cha con, trong thái độ tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa và với con tim rộng mở để tha thứ cho anh chị em và đón nhận mọi người như anh chị em mình trong cùng một đại gia đình của Thiên Chúa. Ðối với người Do Thái thời Chúa Giêsu, việc đối thoại với Thiên Chúa và gọi Ngài là Cha trong ý nghĩa Chúa Giêsu muốn cho các môn đệ Người hiểu, thì đó là một việc làm táo bạo và xúc phạm đến uy linh Thiên Chúa. Nếu không có lời Chúa Giêsu dạy để cầu nguyện như vậy, có lẽ con người phàm trần chúng ta không dám cất tiếng gọi Thiên Chúa là Cha như vậy.
Khi cùng nhau tuyên xưng Thiên Chúa là Cha, người con cũng nhận thật, mọi người đều là anh em với nhau. Vì thế, người con khao khát sống hòa thuận với mọi người. Muốn thế, người con xin với Thiên Chúa cho mình biết thứ tha và thông cảm cho nhiều người khác để có thể sống yêu thương hết mọi người. Người con xin cho mình có khả năng tha thứ cho tha nhân để có thể nhận được ơn tha thứ của Thiên Chúa là Cha nhân lành.
Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn qua lời kinh Lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Thói quen chúng ta đọc kinh Lạy Cha quá thường, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ và về đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em. Ðối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Ðối với anh chị em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại để cho sự mới mẻ này đòi hỏi kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào con người chúng ta và hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hàng ngày của người Kitô chúng ta.
Lạy Cha chúng con ở trên trời, chúng con nguyện Danh Cha cả sáng; Nước Cha trị đến.
Xin hãy ban ơn xuống trên chúng con tràn đầy Thánh Thần Chúa để chúng con có thể sống vâng phục thánh ý Cha dưới đất cũng như trên trời, như Chúa Giêsu, Con Cha đã nêu gương cho đến hy sinh mạng sống mình trên thập giá để cứu rỗi nhân loại chúng con. Xin Cha tha thứ những lầm lỗi của chúng con và ban ơn giúp chúng con thật lòng tha thứ cho nhau noi theo mẫu gương nhân từ tha thứ của Cha. Xin Cha gìn giữ chúng con luôn trung thành trong đức tin, ban cho chúng con sức mạnh để đừng sa vào chước cám dỗ, đừng sống nô lệ thần dữ và tội lỗi.
Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn nói về kinh lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Chúng ta đọc kinh Lạy Cha theo thói quen, vì thế mà cảm thấy quá thuờng, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ, về những đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh em. Đối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài dưới đất cũng như trên trời. Đối với anh em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận phải tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại và để cho sự đòi hỏi mới mẻ về kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào tận tâm hồn, hầu cho thánh ý Chúa hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hằng ngày của đời sống Kitô.
Chúng ta cần khám phá ra kinh Lạy Cha như là một trường dạy cầu nguyện và hãy cầu nguyện với kinh Lạy Cha, với tâm trí chìm sâu trong chiêm niệm, để mỗi ngày chúng ta được hiểu thêm về mầu nhiệm Thiên Chúa Cha trong cuộc đối thoại cha – con, trong sự tín thác hoàn toàn vào Thiên Chúa với con tim mở rộng để tha thứ cho anh em, và đón nhận mọi người như là anh em trong đại gia đình của Thiên Chúa “Lạy Cha chúng con ở trên trời …. Ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời”.
2023
Người Samaritanô Nhân Hậu
9.10 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
St 1:1; St 2:1,112; Lc 10:25-37
Người Samaritanô Nhân Hậu
Chúng ta đang đọc Tin Mừng Luca với chủ đề Đức Giêsu lên Giê-ru-sa-lem ở chương 10. Giê-ru-sa-lem là nơi Ngài phải đến và chết ở đó như lời tiên báo: một tiên tri không chết ngoài thành Giê-ru-sa-lem. Và trên đường đi Ngài dạy dỗ các môn đệ nhiều điều. Hôm nay, bài Tin Mừng nói về đề tài “Điều răn lớn” là điều răn quan trọng và là tinh hoa của luật Môsê… và cũng là điều Đức Giêsu muốn truyền đạt cho những ai muốn theo Ngài.
Mở đầu bài Tin Mừng là câu hỏi của một vị luật sĩ. Không biết vì lý do nào khiến ngươì hỏi Chúa Giêsu một vấn đề mà lẽ ra ông phải thông suốt : “ Tôi phải làm gì để được sự sống đời đời ?” Chúa Giêsu trả lời bằng hai câu hỏi : “ Luật viết gì ? ông đọc thế nào ?” (c.26) Chúa Giêsu muốn chính ông phải trả lời về câu hỏi ông đặt ra dựa trên luật mà ông đã nắm vững. Ở câu 27, ta thấy ông rất thuộc luật và Chúa Giêsu đã không phải trả lời hoặc sửa đổi, nhấn mạnh ở điểm nào cả :
“Hãy yêu Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết sức lực, hết trí khôn”( 27a) nghĩa là yêu Thiên Chúa với trọn vẹn con người gồm thân xác và linh hồn, tâm tư, trí lực. Nói tóm lại : hãy yêu Ngài với những gì bạn Có và bạn Là. Bên cạnh đó “ hãy yêu người thân cận như chính mình” ( 27b) nghĩa là hãy quí trọng người khác như thân thể mình vậy. Ông luật sĩ trả lời vanh vách, không ngập ngừng hay lúng túng đến nỗi Chúa Giêsu phải khen ông “Ông trả lời đúng lắm, và Ngài thêm một mệnh lệnh “ cứ làm như vậy sẽ được sống” ( c.28).
Tiếp sau đó là dụ ngôn người Samaria nhân hậu. Ta thấy thánh sử Luca giới thiệu bằng một mệnh đề nói lên lý do vì sao Chúa Giêsu lại dùng dụ ngôn : “Ông ấy muốn chứng tỏ là mình có lý… Ai là người thân cận của tôi?” ( c.29). Đây là cách giảng dạy thông thường của Chúa Giêsu khi có một nguyên nhân thúc đẩy để Ngài nói lên một vấn đề, đúng hơn là một bài giáo huấn. Trong luật nói : Người thân cận.
Ở đây ông luật sĩ đựơc Chúa khen, nên ông tưởng minìh đã đi đúng đường. với tính tự cao tự mãn bộc lộ rằng : Mình có lý. Chúa Giêsu muốn ông xác định lại vấn đề ông hỏi và dẫn ông đi vào cái nhìn của Ngài về “ người thân cận” qua dụ ngôn. Ngài mở lời : Có một người từ Giê-ru-sa-lem xuống Giê-ri-khô … rơi vào tay kẻ cướp, bị trọng thương, mất hết của cải. Và kìa có thầy tư tế, thầy Lêvi đi qua đó, nhưng cả 2 ông đều tránh sang một bên. Lý do đơn giản : sợ ô uế. Một hình thức giữ luật vì luật. Họ sợ ô uế đến nỗi : thà để một con người chết đi, hy sinh vì luật. Luật đã khiến họ ra mù quáng ích kỷ, chỉ nghĩ đến bản thân.
Chúa Giêsu đưa ra tiếp một hình ảnh người Samaria. Theo quan niệm Do Thái giáo, người Do Thái không tiếp xúc với người Samaria vì cho họ là dân ngoại. Nhưng ở đây, chính người ngoại này đã dừng lại. Cúi xuống băng bó vết thương và vực người bị thương lên lưng lừa, đưa về quán trọ. Thánh sử nói rõ : ông ta làm vì lòng thương ( x.c 33).
Chẳng những ông ấy băng bó rồi còn trao cho chủ quán tiền chữa chạy, nếu thiếu, trên đường về chính ông là người trả lại số tiền thiếu đó. (X.c.35). Một hành vi cao thượng. Người Samaria này không nghĩ đến bản thân : túi tiền bị hao hụt, mất thời giờ, lỡ cơ hội vì chậm trể hoặc có nguy cơ chính mình sẽ bị cướp lột ngay trên quãng đướng vắng vẻ này. Hình như tình thương che phủ sợ hãi. Ông quên hết những điều đó mà chỉ chuyên chú một điều : chạy chữa cho nạn nhân.
Một dụ ngôn thật ứng dụng cho đời sống. Chúa Giêsu có biệt tài hướng dẫn những người thành tâm thiện chí nhận ra đường lối của Thiên Chúa. Ngài xoay lại câu hỏi của ông luật sĩ : ai là người thân cận của tôi thì nay sẽ là :ai đã tỏ ra là người thân cận ?…( c.36). Thật vậy, nhiều khi chúng ta đòi hỏi người khác phải trở thành “ thân cận” của mình, mà ta quên rằng : chính chúng ta phải là “ người thận cận” cho anh em. Người luật sĩ đã nhận ra vấn đề và trả lời: Người thân cận là người đã thực thi lòng thương xót với anh em đồng loại ( x.c.37). Và Chúa Giêsu lại kết luận bằng cách nhắc lại một lần nữa mệnh lệnh của Ngài “ Hãy đi và làm như vậy” . Ông đã hiểu giờ chỉ còn thực hành mà thôi.
Trong cuộc sống hiện tại, có lẽ mỗi người không ít thì nhiều rất e dè khi giúp đỡ người khác, nhất là người đang lâm nạn, bởi vì “đầu không phải, phải tai” và có khi chính mình phải lãnh hậu quả do người khác gây ra chỉ vì lòng bác ái của mình. Nhưng chúng ta cũng đừng vịn vào cớ đó mà bàng quan trước đau khổ của người anh em, như thầy tư tế và thầy Lêvi xưa. Lòng bác ái không có ranh giới. nó phủ nhận mọi lý do ngay cả lỗi lầm, thiếu sót.
Người Samaritanô nhân hậu được nhắc đến trong Tin Mừng hôm nay là chính Chúa Giêsu. Dĩ nhiên, các tư tế, lêvi có lý do của họ: họ đã sống đúng luật, tuy nhiên luật đã giết chết lòng yêu thương của con người vì trọng mặt chữ mà thôi.
Chúa Giêsu đã vượt qua luật lệ và hướng dẫn tâm hồn con người lên cao, đi vào chiều sâu của bác ái. Ngài đã đến với từng con người, Ngài không đứng xa nhìn con người đương đầu với những khó khăn thử thách trong cuộc sống. Như người Samaritanô nhân hậu, Ngài đến gần bên con người, Ngài nhìn họ với ánh mắt đầy trắc ẩn, cảm thông, Ngài cúi xuống băng bó các vết thương của họ và còn tình nguyện trả nợ cho họ bằng giá máu của Ngài khi chấp nhận chết trên Thập giá để cứu sống và đưa họ về quê trời.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta noi theo gương mẫu của người Samaritanô nhân hậu là hình ảnh của chính Chúa. Chung quanh chúng ta còn biết bao nạn nhân, dưới nhiều hình thức, đang chờ bàn tay nâng đỡ của chúng ta. Nhưng thử hỏi chúng ta đã làm được gì? Có thể chúng ta không có tiền bạc, nhưng một lời nói, một nụ cười, một cử chỉ, một việc làm tốt cũng có sức xoa dịu và cảm thông với những nỗi khổ đau của đồng loại.
2023
Trở nên tá điền tốt
8.10 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Is 5:1-7; Tv 80:9-12,13-14,15-16,19-20; Pl 4:6-9; Mt 21:33-43
Trở nên tá điền tốt
Qua dụ ngôn những người tá điền nổi loạn chúng ta thấy ông chủ tượng trưng cho Thiên Chúa đã rào giậu và chăm sóc cho vườn nho của mình. Còn những tá điền nổi loạn chính là dân Do Thái, dân tộc đã được Thiên Chúa chọn lựa và trao ban cho muôn vàn hồng ân. Còn các đầy tớ được sai đến là các tiên tri. Nhờ các tiên tri mà Thiên Chúa biểu lộ thánh ý của Ngài cho họ, thế nhưng họ đã đối xử dã man và tàn bạo đối với những người được Thiên Chúa sai đến. Nào là đánh đập, nào là giết đi.
Sau cùng ông chủ đã phải sai phái chính người con trai duy nhất của mình đến với họ, để tỏ cho họ thấy lòng nhân từ thương xót vô biên của Ngài, nhất là sau những biến cố đáng buồn đã xảy ra. Người con duy nhất này là hình ảnh tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng đã bị họ giết chết trên thập giá. Cái chết khổ đau này làm cho Ngài liên tưởng tới lời thánh vịnh 118: Phiến đá mà những người thợ xây loại bỏ, đã biến nên tảng đá góc tường, đó là việc Thiên Chúa đã làm và thực lạ lùng dưới mắt chúng ta. Tảng đá góc tường là nơi câu móc những bức tường của toà nhà, nó nắm giữ một vai trò, một vị trí rất quan trọng.
Cuối cùng Thiên Chúa đã phải bỏ rơi dân Do Thái, để chọn cho mình một dân riêng mới, đó là Giáo Hội, để đem lại cho Ngài nhiều hoa trái.
Câu chuyện trên cũng làm cho chúng ta nhớ tới hinh ảnh vườn nho của tiên tri Isaia. Vườn nho này được chủ hết sức chăm sóc với hy vọng sẽ có được những trái nho đặc biệt, thế nhưng kết quả lại hoàn toàn trái ngược, khiến cho chủ phải nổi giận: Còn việc gì nữa mà Ta đã không làm cho vườn nho của Ta. Ta mong ước có được những trái ngon trái ngọt, vậy tại sao nó chỉ cho toàn những trái chua trái dại?
Còn chúng ta thì sao? Phải chăng tâm hồn chúng ta chỉ là một cây nho cằn cỗi? Thiên Chúa cũng đã đổ xuống cho chúng ta biết bao nhiêu ơn lành hồn xác, thế mà con người chúng ta vẫn không thể đâm bông kết trái. Có lẽ chúng ta cần phải dừng lại, để hồi tâm xét mình, kiểm điểm lại cuộc sống, trước khi nó đã quá muộn.
Chúa trao cho nhân loại vườn nho của Ngài, vườn nho đã được Ngài chu đáo tạo mọi điều kiện để trổ sinh hoa lợi: Ngài đã rào giậu, xây bồn đạp nho, xây cả tháp canh… Ngài cho nhân loại canh tác, nhưng thay vì nộp hoa lợi cho chủ, chúng ta lại muốn chiếm đoạt cả vườn nho. Tất cả phải quy về Chúa, là nguồn gốc và là chủ mọi sự, chúng ta lại tự tiện sử dụng cho riêng mình, không nghĩ đến Chúa.
Chúng ta tưởng rằng chỉ có dân Do thái mới giết Chúa, còn chúng ta thì tốt. Nhưng không, chúng ta cũng phản bội, tiếp sức cho những người vô đạo, ủng hộ những hành động bạo lực, vô luân của thế gian. Nhiều người trong chúng ta đã sống như thánh Phao-lô đã nói: “như kẻ thù của thập giá”; chúng ta tôn thờ thân xác và nhục dục, chạy theo tiền của, chà đạp lương tâm. Phải chăng chúng ta cũng là những tá điền sát nhân?
Chúng ta đang ở vào một thời điểm quan trọng của một thời mới. Thời con người tiến bộ về khoa học, và muốn chiếm đoạt vương quyền của Thiên Chúa. Con người của thế kỷ hai mươi mốt này, đa số muốn loại trừ Thiên Chúa, làm như Thiên Chúa cản bước tiến của họ. Họ muốn trở thành “siêu nhân” và muốn giết chết Thiên Chúa. Người chủ trương mạnh mẽ nhất là một triết gia người Đức, Ông Frederic Nietzsche. Ông đã tuyên bố: “Thiên Chúa đã chết rồi!” Lạ thay! Thiên chúa vẫn sống, còn ông đã gởi thân vào ba tấc đất và chỉ còn là một bộ xương. Ảnh hưởng của phong trào này vẫn còn là một thách thức đối với chúng ta là những người tin Chúa.
Qua dụ ngôn ông chủ và các tá điền trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn chúng ta cộng tác với Người tuỳ theo những nén bạc Chúa trao vì vậy mỗi người phải ra công làm việc để để sinh lời cho Nước Chúa là Giáo hôi, gia đình hay xã hội chúng ta. Noi gương Chúa Giêsu, Đấng làm việc liên liên lỉ theo thánh ý Chúa Cha (Ga 5,17), đem lại ơn cứu độ cho con người, chúng ta, những người Kitô hữu, cũng ra công làm việc để mưu cầu hạnh phúc, giúp đỡ chia sẻ với người khác và thực thi thánh ý Thiên Chúa.
Mỗi người, tuỳ theo hoàn cảnh, địa vị và ơn ban riêng Chúa ban, phải làm việc và sinh ích lợi cho mọi người. Bậc làm cha mẹ thì lo làm tròn bổn phận của người làm cha làm mẹ, giữ gìn gia đình hạnh phúc. Kẻ làm con cái lo sao chữ đạo hiếu cho tròn. Người sống đời dâng hiến làm việc bằng cách tuân giữ kỷ luật tu trì và rao giảng Tin Mừng cứu độ hầu mưu ích cho các linh hồn và sáng danh Chúa.
Vậy ước gì qua Lời Chúa hôm nay, xin Chúa ban cho chúng ta được thấm nhuần tinh thần Kitô giáo, để công ăn việc làm của chúng ta trong đời sống thường ngày dù’ nhỏ hay lớn đều nêu cao tinh thần tương thân tương ái, và góp phần vào sự nghiệp chung là hoàn thành chương trình sáng tạo của Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng làm việc để chu toàn bổn phận sinh lợi cho Nước Chúa là làm sao cho Tin Mừng được mọi người biết đến, yêu thích và sống theo để mọi người cùng nhau xây dựng đức tin và hạnh phúc ngay đời này và đời sau.
2023
Giá trị của lời kinh Mân Côi
7.10 Đức Mẹ Mân Côi
Br 4:5-12,27-29; Tv 69:33-35,36-37; Lc 10:17-24
Giá trị của lời kinh Mân Côi
Trong lịch phụng vụ, tháng 10 có tên là tháng Mân côi. Suốt tháng này, Hội Thánh khắp nơi hướng về Đức Mẹ một cách đặc biệt. Lòng sùng kính của dân Chúa đối với Đức Mẹ trong thời gian này mang một đặc điểm riêng. Đó là cầu nguyện bằng chuỗi Mân Côi.
Mân côi chính là hoa hồng. Như thể, bằng chuỗi Mân côi, Hội Thánh trở thành một vườn hồng mênh mông, hương thơm sắc đẹp, dâng lên Mẹ hiền.
Lịch sử chuỗi Mân côi là một hành trình dài. Hành trình đó mang nhiều gợi ý. Những gợi ý này có thể giúp chúng ta cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi một cách sốt sắng, vừa hợp với truyền thống, vừa sát với thời sự.
Lịch sử cho thấy kinh Mân côi được thành hình do động lực sùng kính Đức Mẹ. Người được nhắc tới nhiều trong lịch sử kinh Mân côi là thánh Đaminh, đấng sáng lập Dòng Giảng thuyết. Ngài qua đời năm 1221. Một số tài liệu quả quyết rằng chính Đức Mẹ đã trao cho thánh Đaminh chuỗi Mân côi. Xung quanh thánh Đaminh còn một số tu sĩ nhiệt thành, như tu sĩ Dominique dòng Chartreux thành Trèves, tu sĩ Alain de la Roche dòng Đaminh thành Lille.
Các vị này đã có những đóng góp quan trọng. Tất cả các ngài đều là những tông đồ của Đức Mẹ. Với lòng xác tín, hăng hái, nhiệt thành, các ngài rao giảng, truyền bá kinh Mân côi. Trước hết là trong các cơ sở Dòng, sau là tại các giáo xứ của nhiều giáo phận Âu Châu.
Phong trào đọc kinh Mân côi sau đó được tổ chức thành các hiệp hội. Các người trong hiệp hội liên đới với nhau bằng chia sẻ đời sống thiêng liêng. Nhận thấy phong trào kinh Mân côi đem lại nhiều kết quả lớn lao và mau lẹ cho đời sống đức tin, Toà Thánh đã công nhận, khuyến khích và ban nhiều ân xá.
Năm 1475, tại Cologne, chính hoàng đế nước Đức là Fredéric III, hoàng hậu và hoàng tử đã xin ghi tên vào hội kinh Mân côi. Nhờ vậy, chuỗi Mân côi có thêm uy tín.
Uy tín đó không phải là lý do để phong trào kinh Mân côi lan rộng. Lý do lan rộng chính là tính cách Kinh Thánh và bình dân của chuỗi Mân côi.
Các lời kinh của chuỗi Mân côi đều được đúc kết từ Kinh Thánh. Các mầu nhiệm suy gẫm trong chuỗi Mân côi cũng được rút ra từ Kinh Thánh. Số 150 kinh Kính Mừng cũng là để nhớ lại số 150 thánh vịnh của Cựu Ước.
Tuy nền tảng là Kinh Thánh, nhưng chuỗi Mân côi được sắp xếp một cách bình dị, dễ đọc, dễ hiểu, hợp với bình dân. Miệng đọc kinh, lòng suy gẫm, tay lần chuỗi hạt, đó là một hình thức đạo đức bình dân thấy có ở nhiều tôn giáo truyền thống như Phật giáo, Hồi giáo.
Với hình thức đạo đức này, kinh Mân côi đã đốt lên lửa mến trong các tâm hồn. Nhiều tâm hồn trước kia nguội lạnh đã được ơn trở về.
Tràng hạt mân côi là con đường dễ đi dành cho mọi người để đến với Đức Kitô. Nhìn vào tràng hạt mân côi, chúng ta thấy một vòng tròn mầu nhiệm : khởi đi từ cây thánh giá, lần bước qua các biến cố kỳ diệu, sau đó trở về với cây thánh giá. Như thế, kinh mân côi dẫn đưa chúng ta vào một cuộc hành trình đức tin. Cuộc hành trình đó có khởi điểm từ Đức Kitô và trở về với Đức Kitô. Cũng vậy, khi chúng ta lần chuỗi mân côi, chúng ta được Đức Mẹ dẫn đưa chúng ta đi vào con đường huyền nhiệm để gặp gỡ Chúa Kitô và sống với Ngài. Vì thế, kinh mân côi là lối đi nhỏ bé đơn sơ trong cuộc sống dẫn đến con đường lớn của ơn cứu độ.
Trong cuộc sống thường ngày của chúng ta với những gian nan và thử thách, đau khổ và thất vọng, kinh mân côi gieo vào lòng ta những hạt giống của niềm hy vọng. Từng hạt kinh là từng hạt giống Lời Chúa ươm trồng vào mảnh đất đời sống, để rồi sinh hoa kết trái ân sủng thiêng liêng.
Điều quan trọng hơn nữa, kinh mân côi còn là “sợi dây êm ái nối kết chúng ta với Thiên Chúa” (Chân phước Bartolo Longo). Khi chúng ta đọc kinh mân côi, chúng ta được kết hợp mật thiết với Chúa qua Mẹ Maria. Nhờ kết hợp với Chúa, chúng ta được liên kết với anh em mình. Kinh mân côi chính là sợi dây liên đới tạo nên sự hiệp nhất trong gia đình, giáo xứ và Giáo Hội.
Giới thanh niên Nhật Bản ngày nay đang có phong trào đeo tràng hạt trên cổ để trang sức. Mốt trang sức này hoàn toàn không liên hệ gì đến tôn giáo mà chỉ vì các tài tử Nhật Bản đeo tràng hạt chụp hình quảng cáo nên thanh niên Nhật bắt chước làm theo. Hiện nay, tại các cửa hàng ở Nhật, tràng hạt trang sức được nhiều người ưa chuộng và người mua thường là thanh thiếu niên dưới 20 tuổi. Nhiều cô gái cũng mua tràng hạt nhưng để tặng các bạn trai của mình.
Tràng hạt mân côi không phải là vật trang sức, nhưng đó chính là phương thế hữu hiệu để giúp chúng ta cầu nguyện với Chúa qua Mẹ Maria. Những hạt kinh mân côi hòa quyện với cuộc sống đời thường làm vơi đi những nhọc nhằn lo lắng của chúng ta. Những hạt kinh mân côi trộn lẫn với những giọt mồ hôi, nước mắt và cả những giọt máu trong những lao nhọc vất vả hàng ngày sẽ làm nên những hạt ngọc quí giá trong đời sống đức tin hôm nay.
Suy niệm và sống Kinh Mân Côi là cơ hội để mỗi người chúng ta đạt được sự bình an chân chính. Một sự bình an không phải không dựa vào tiền tài, danh vọng, quyền thế, nhưng là sự bình an vì có Chúa ở cùng.