2024
ĐỪNG ÁC TÂM
17.1 Thánh Antôn, Ab
1 Sm 17:32-33,37,40-51; Tv 144:1,2,9-10; Mc 3:1-6
ĐỪNG ÁC TÂM
Hôm nay Giáo Hội cho chúng ta mừng lễ kính thánh Antôn. Thánh Antôn hôm nay Giáo Hội mừng kính không phải là thánh Antôn Padua quen thuộc mà mọi người chúng ta kính mến. Antôn thành Padua hoặc Antôn thành Lisboa, sinh ngày 15 tháng 8 năm 1195 và qua đời ngày 13 tháng 6 năm 1231, là một linh mục Công giáo người Bồ Đào Nha và là tu sĩ Dòng Phanxicô. Còn thánh Antôn chúng ta mừng kính hôm nay được gọi là thánh Antôn viện phụ sinh tại Cosma bên Ai Cập vào khoảng năm 250 và qua đời vào ngày 17/1/356.
Nhìn lại cuộc đời của Ngài, chúng ta phải nhận là Ngài có nhiều may mắn. Cha mẹ Ngài là người giầu có, quí phái. Ngài và cô em gái luôn được sống trong sự bao bọc ấm cúng của gia đình.
Lúc ngài được 18 tuổi thì cha mẹ Ngài lần lượt ra đi để lại cho hai anh em một gia tài kếch xù. Hai anh em tiếp tục sống đùm bọc yêu thương nhau. Với số của cải cha mẹ để lại, hai anh em có thể sống một cuộc sống dư dật và thật thoải mái. Thế nhưng ý Chúa nhiệm mầu, Người đã kêu gọi Antôn dâng hiến cuộc đời cho Người.
Hôm đó trong ngôi nhà nguyện nhỏ dâng cúng thánh Augustinô, Lời Chúa vang lên: “Nếu con muốn trở nên trọn lành, hãy về bán hết gia tài, phân phát cho kẻ nghèo khó” (Mt 19,21). Lời Tin Mừng đó đã làm cho Antôn suy nghĩ vì hai anh em đang có thật nhiều tiền của. Nghe những Lời đó Antôn tưởng như Chúa đang nói với chính mình nhưng chưa biết phải làm gì. Và Chúa Nhật sau đó, Lời Chúa lại vang lên như một chỉ dẫn: “Anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.”(Mt 6,34). Thế là con đường đã quá rõ. Antôn nhất định áp dụng đến cùng Lời Chúa dạy, và nhất quyết theo Chúa đến cùng. Ngài về nhà, chia vườn đất cho người nghèo trong làng, bán đồ đạc lấy tiền bố thí cho người nghèo khó. Ban đầu ngài còn để lại chút ít để nuôi mình và cô em gái, nhưng khi suy nghĩ đến Lời Chúa: “Con đừng bận tâm đến ngày mai”, Ngài lại đem bán tất cả những cái còn lại lấy tiền cho người nghèo. Xong việc, ngài gởi cô em vào một cộng đoàn Trinh nữ, rồi quyết tâm bỏ thế gian.
Năm 35 tuổi, Antôn quyết tâm đi vào sa mạc để sống đời khổ tu và kết hợp hoàn toàn mật thiết với Thiên Chúa. Tiếng tăm nhân đức và sự khôn ngoan của Ngài lan tỏa rất xa. Nhiều khách thập phương đã kéo đến xin Ngài chỉ giáo.
Năm 327, khi được tin hoàng đế Maximinô Đaia ra chỉ bách hại công giáo, và tại Alexandria sắp có cuộc xử tử một số tín hữu trung kiên, thánh nhân liền nhất định xuống khích lệ anh em đồng đạo và mong được cùng chết vì Chúa Kitô. Vì thế, Ngài cùng với một anh em khác xuôi dòng sông Nil, đáp thuyền vào tận thành phố, rồi Ngài ngang nhiên tiến thẳng vào tòa án, khuyến khích tín hữu giữ vững đức tin; không kể gì đến các quan và dân ngoại. Ngài can đảm sống gần các vị tử đạo cho đến giây phút cuối cùng trên đấu trường. Nhưng ý Chúa không muốn ban cho thánh Antôn triều thiên tử đạo. Chúa muốn Ngài thành một tấm gương can đảm chiến đấu và cầu nguyện, ăn chay cho đại gia đình trụ trì, tuy nhiên thánh nhân vẫn lưu lại đô thị Alexandria cho đến khi ngọn lửa bách hại tắt hẳn mới quay gót về cộng đồng của mình.
Và từ đây cho đến cuối đời, Ngài dựng lều trên sườn núi Gokzin, suốt ngày đón tiếp mọi người: các tu sĩ, các tín hữu và cả lương dân.
Sống được 105 tuổi, thánh Antôn biết mình kiệt sức và giờ về thiên quốc sắp tới, Ngài liền hội các tu sinh lại quanh giường khuyên bảo họ lần sau cùng. Ngài cũng dậy các môn đệ đừng ướp xác và làm ma chay theo kiểu người Ai Cập. Sau cùng thánh nhân giơ tay chúc lành cho tất cả các thày và phó linh hồn trong tình yêu vô biên của Chúa. Hôm ấy là ngày 17.1.365.
Năm 561, xác thánh nhân được cải táng trong nhà thờ kính thánh Gioan Tiền Hô tại Alexandria. Các Giáo Hội Trung Ðông đã sùng kính thánh Antôn đầu tiên, sau đó tràn qua Âu Châu và Giáo Hội đã chính thức tôn phong Ngài lên bậc hiển thánh.
Ngày hưu lễ, Chúa Giêsu vào hội đường. Ở đó có người bị bại một cánh tay. Nhóm biệt phái theo rình mò xem Chúa có chữa cho người bệnh này không. Biết thế, Chúa gọi người bệnh ra đứng giữa họ và hỏi: Ngày hưu lễ nên làm lành hay làm ác, cứu sống hay giết chết ? Họ không trả lời, vì họ ngoan cố không muốn biết sự thật mà chỉ tìm cách tố cáo thôi. Chúa nhìn họ vừa buồn vừa giận vì thái độ ngoan cố của họ. Rồi Chúa bảo người bệnh: Hãy đưa tay ra. Tức thì người ấy khỏi bệnh. Thấy vậy, nhóm biệt phái và liên kết với nhóm của Hêrôđê tìm cách giết Chúa.
Theo truyền thống, người bại tay này làm nghề thợ xây đá. Nghĩa là anh cần có một bàn tay khỏe mạnh sớm hết sức, để có thể nuôi sống bản thân và gia đình. Không lạ gì trước những người Do thái “chẻ sợi tóc làm tư” dò xét, bắt bẻ để lên án. Theo luật Do thái, chỉ được chữa bệnh vào ngày sabát trong trường hợp nguy tử. Trường hợp của anh không phải là nguy tử, nhưng Ngài không thể nào để đến ngày mai. Ngài đã can đảm dám chữa lành anh ngay hôm nay. Ngày sabat là ngày dành cho Chúa, ngày làm điều lành, ngày cứu người. Nhờ đó, bàn tay anh có thể duỗi thẳng, anh có thể cầm lấy bàn tay người khác, cũng như có thể mưu sinh bằng chính bàn tay của mình.
Trong bài Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu có một phản ứng trước sự mù quáng của những người biệt phái. Chúng ta cứ tưởng tượng một bệnh nhân đang quằn quại trong đau khổ cần một bàn tay săn sóc chữa trị, thì người ta lại nại đến luật ngày Hưu lễ để bắt bẻ và cấm chế. Thánh Marcô như muốn tô đậm phản ứng của Chúa trước thái độ mù quáng như thế, khi viết: “Chúa Giêsu giận dữ rảo mắt nhìn họ, buồn khổ vì lòng chai đá của họ”. Chúa Giêsu vốn là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Chúng ta hãy chiêm ngưỡng thái độ của Ngài đối với những người khốn khổ, những người tội lỗi, các bệnh nhân, những người bị đẩy ra bên lề xã hội, Ngài đồng bàn với họ, cảm thông với họ, tha thứ cho họ.
Những người biệt phái đang dùng luật để ngăn cản Chúa Giêsu chữa một người bệnh và để hại Chúa Giêsu. Thái độ đó đụng chạm đến lòng của Ngài rất mạnh, đến nỗi Ngài phải “giận dữ rảo mắt nhìn họ và buồn khổ”.
“Ngày Sabbat được phép làm điều lành hay điều dữ”. Câu hỏi này Chúa đặt ra cho những người biệt phái. Họ làm thinh không trả lời cho nên chính Chúa Giêsu tự trả lời bằng hành động chữa người bại tay. Câu trả lời của Ngài là: Cứu giúp người đau khổ là điều lành, từ chối giúp đỡ là điều dữ.
Hai cái nhìn:
Điều Chúa Giêsu thấy rõ hơn hết trong hội đường ngày hôm ấy là có một người bị khô bại một tay. Ngài thấy và rất thương anh nên muốn cứu anh.
Còn những người biệt phái thì chỉ thấy những khoản luật về ngày Sabbat. Những khoản luật ấy che khuất tầm mắt của họ nên họ chẳng thấy nỗi khổ của bệnh nhân mà chỉ coi đây là cơ hội để họ bắt bẻ Chúa. Khi Chúa Giêsu chữa cho anh này thì họ không vui mừng mà còn tức giận và “tìm cách hại Ngài”. Cái nhìn của Chúa Giêsu xuất phát từ một tấm lòng nhân hậu, còn cái nhìn của Biệt phái phát xuất từ “cõi lòng chai đá”. Xin ban cho con một quả tim bằng thịt thay vì quả tim bằn đá.
“Những người Biệt phái đi ra bàn tính với những kẻ thuộc phái Hêrôđê chống đối Ngài và tìm cách hại Ngài” Trước đây Biệt phái không thích những người phái Hêrôdê vì biết những người ấy xấu. Nhưng hôm nay sự thù ghét Chúa Giêsu đã đưa họ đền hợp tác với những kẻ xấu ấy để cùng nhau làm thêm một việc xấu to lớn hơn nữa là hại Chúa Giêsu.
Chúa biết rõ mọi sự. Và những gì xuất phát từ Chúa đều là tốt lành. Chúa Giêsu gắn bó với Hội đường và coi đó như là nơi Người thi hành sứ vụ cứu thế của Người. Vậy chúng ta hãy tôn trọng và quý mến nhà thờ là nơi gặp gỡ mọi người, cùng nhau thờ phượng Thiên Chúa. Chúa đã cứu chữa con người khi đến Hội đường trong ngày Sabát, qua đó Chúa muốn nhắn nhủ chúng ta hãy trân trọng ngày Chúa Nhật là Ngày Của Chúa, ngày đem lại niềm vui và sự sống, ngày biểu lộ cho tinh thần hiệp thông. Vì thế ngày Chúa Nhật cũng là ngày làm việc từ thiện bác ái, ngày cứu giúp và làm sự lành cho tha nhân.
Chúa Giêsu thấu rõ ác tâm của nhóm biệt phái, nhưng Ngài không chống đối bằng lời nói mà lấy việc làm, lấy việc cứu giúp người bệnh để sửa dạy họ. Ngài nêu gương cho chúng ta, thay vì ra mặt công khai chống đối kẻ làm hại mình hay người tội lỗi, chúng ta lấy việc lành, lời cầu nguyện, sự hy sinh của chúng ta để dẫn đưa họ về nẻo chính đường ngay.
2024
NGÀY SA BÁT LẬP RA VÌ CON NGƯỜI
16.1 Thứ Ba trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 16:1-13; Tv 89:20,21-22,27-28; Mc 2:23-28
NGÀY SA BÁT LẬP RA VÌ CON NGƯỜI
Nhiều người giáo dân hiểu lầm rằng đức tin là những sinh hoạt bên ngoài như thổi tham gia hội kèn, hội trống, những buổi ca nhạc, dâng hoa, và hội hè… Họ tin rằng bao lâu còn tham gia tích cực những hoạt động này, bấy lâu đức tin của họ còn vững mạnh.
Họ thực sự an tâm với đời sống đức tin của mình, dựa trên những sinh hoạt bề ngoài ấy, mà không quan tâm đến việc đào sâu mối tương quan cá vị của họ với Thiên Chúa. Cám dỗ giới hạn đời sống đức tin vào những thực hành bên ngoài cũng được tìm thấy nơi những người Biệt Phái mà chúng ta vừa nghe ở trong Tin mừng hôm nay.
Nhóm Biệt Phái bao gồm những người giữ luật cách nghiêm ngặt. Họ thậm chí còn chia nhỏ luật thành những điều khoản nhỏ hơn để đảm bảo không bỏ sót bất kỳ chi tiết nào của lề luật. Chính vì thế, khi thấy các môn đệ của đức Giêsu vì đói mà bứt lúa ăn trong ngày Sabat, những người Biệt Phái đã lập tức kết án các ông đã vi phạm luật ngày Sabat.
Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ : Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không ? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.
Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabat) được ghi trong Xh 20,8-11), Linh mục Carolô đã giải thích như sau : Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái : họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đến là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ : trong ngày đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nên văn hóa chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dầy 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại : một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển
Theo tinh thần, Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”: Ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat; Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
Đối với nhóm Biệt Phái, không có một lý do nào, dù khẩn cấp hay không khẩn cấp, có thể biện minh cho việc phạm luật ngày Sabat. Luật là luật. Không có ngoại trừ. Nhìn vào thực tế xung quanh, lối sống đạo khô cứng này cũng đang phổ biến nơi nhiều người giáo dân. Như đã đề cập ở trên, mối nguy của những người an tâm với việc giữ luật hay lễ nghi bên ngoài là một lúc nào đó họ đánh mất phương hướng trong đời sống đức tin.
Họ chỉ còn chạy theo và tôn thờ chính mình qua việc tuân giữ lề luật tỉ mỉ, hơn là đi tìm Thiên Chúa. Càng tuân giữ luật lệ cách tỉ mỉ, người ta càng nghĩ mình thánh thiện và dần dần họ chở nên chúa của chính họ.
Lối sống này lâu dần cũng khiến người ta trở nên vô cảm và bất nhân với người khác. Không cần quan tâm đến lý do, họ chỉ tập trung vào việc giữ luật cách máy móc mà thôi.Chúa Giê-su đã nhiều lần lên án lối sống này. Đối với ngài, tình yêu và lòng thành tín chúng ta dành cho Thiên Chúa mới là đích điểm. Chính bản thân ngài đã tập trung vào mối tương quan cá vị của ngài với Chúa Cha hơn là chú tâm cách thái quá vào việc tuân giữ luật lệ.
Những luật lệ hay sinh hoạt bên ngoài chỉ là phương tiện giúp chúng ta đào sâu hay diễn tả mối tương quan cá vị mà chúng ta dành cho Thiên Chúa. Một khi chúng ta quên đi đích điểm này để tập trung vào những hoạt động hay luật lệ bên ngoài, chúng ta đang đi sai đường và cần phải trở lại. Nên nhớ rằng Thiên Chúa làm chủ ngày Sabat và tình con thảo của chúng ta dành cho ngài mới là điều quan trọng nhất.
2024
Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
Thứ Hai
15/1
Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
1 Sm 15:16-23; Tv 50:8-9,16-17,21,23; Mc 2:18-22
CHAY THEO CÁI NHÌN CỦA CHÚA
Ăn chay, cầu nguyện, làm phúc bố thí là ba việc cần làm trong Mùa Chay đối với chúng ta hôm nay, cũng là sinh hoạt chính trong đời sống đạo đức của Do Thái giáo. Họ làm ba việc trên với ba ý nghĩa chính là để tỏ lòng sám hối và xin ơn, chờ đợi Đấng Cứu Thế đến giải phóng dân khỏi ách đô hộ ngoại bang và thể hiện lòng đạo đức nhiệt thành.
Đã rất nhiều lần người Pharisêu dùng biện pháp “nhất tiễn diệt song điêu” để gài bẫy Đức Giêsu. Hôm nay, cũng chiêu thức ấy, họ tìm cách đưa cả thầy lẫn trò vào chòng khi cất tiếng hỏi Đức Giêsu: “Tại sao môn đệ của ông Gioan và người Pharisêu ăn chay, trong khi đó muôn đệ của ông lại không ăn chay?”.
Họ hỏi Đức Giêsu về lý do tại sao các môn đệ của Ngài không ăn chay, nhưng thực ra họ đang tìm cách trách móc Đức Giêsu! Nếu Đức Giêsu trả lời các môn đệ không cần ăn chay, thì vô hình chung Ngài chống luật Môsê; còn nếu Đức Giêsu thuận theo và yêu cầu các môn đệ ăn chay theo ý của những người Pharisêu, thì quả thực, Ngài đang phủ nhận sự hiện diện của mình, bởi tất cả mọi điều mà dân Israel mong đợi, thì nay Ngài đến, Ngài đang là hiện thân của niềm hy vọng đó. Vậy ăn chay là để mong đợi, nay điều mong đợi đó đã đến, thì không có lý do gì phải ăn chay nữa!
Biết được ý đồ thâm độc của họ, nên Đức Giêsu đã lấy một ví dụ qua hình ảnh vải mới vá vào áo cũ và rượu mới đổ bầu da cũ để thấy được điều nghịch lý nơi câu hỏi của nhóm người Pharisêu. Đây cũng chính là câu trả lời gián tiếp đầy khôn khéo, khiến họ không thể bắt bẻ được Ngài điều gì!
Các môn đệ của Đức Giêsu bị chê trách là không ăn chay như các môn đệ của Gioan và người biệt phái. Đức Giêsu đã bênh vực các ông và cho người ta thấy rằng việc thiện cũng phải biết làm đúng lúc, đúng nơi. Vì thế, đừng vội phê bình người khác khi chưa nắm vững hoàn cảnh sự kiện. Điều quan trọng là Đức Giêsu chính là Tin Mừng, Ngài đã đến đem niềm vui ơn cứu độ nên chúng ta phải biết sống vui tươi, tin tưởng, ủ rũ âu sầu là không hợp thời, không đúng lúc nữa.
Người Do thái rất coi trọng việc ăn chay. Mục đích của ăn chay là chuẩn bị gặp Chúa, hoặc gặp Đấng Messia sắp đến. Vào đầu thế kỷ I, người ta nghĩ rằng Đấng Messia sắp đến, cho nên càng ăn chay nhiệm nhặt hơn, nhất là nhóm biệt phái và nhóm môn đệ Gioan Tẩy Giả.
Theo Do thái giáo thời Đức Giêsu, việc ăn chay liên kết với việc mong Đấng Thiên Sai. Người ta bất mãn với thời thế và nóng lòng chờ đợi thời kỳ thiên sai. Nhưng các môn đệ của Gioan và các người biệt phái chỉ biết giữ chay mà không để ý đến ý nghĩa của việc ăn chay. Nên khi thấy các môn đệ Chúa không ăn chay thì trách Chúa.
Phần Đức Giêsu thì tự biết mình là Messia đến khai mở một kỷ nguyên vui mừng. Ngài so sánh thời gian Ngài sống ở trần gian là một tiệc cưới và bản thân Ngài là chàng rể. Bởi đó Ngài ăn uống tự nhiên bình thường và để cho các môn đệ Ngài cũng ăn uống như thế.
Vì thế, khi người ta tra vấn Ngài: ”Tại sao các môn đệ ông không ăn chay”? Ngài trả lời: ”Chẳng lẽ khách dự tiệc lại có thể ăn chay trong khi chàng rể còn ở với họ”? Ngài lại cho biết trước rằng tình hình sẽ thay đổi khi Ngài chịu nạn và chịu chết. Khi đó các môn đệ Ngài sẽ ăn chay để chuẩn bị đón ngày Ngài quang lâm (x. Cv 13,1-3).
Như vậy, vấn đề quan trọng không phải là ăn chay hay không ăn chay, mà là ý thức ý nghĩa của việc ăn chay. Sống trong giai đoạn nào thì phải theo tinh thần của giai đoạn ấy. Nói cách cụ thể hơn, giai đoạn đang sống với Chúa Giêsu là thời kỳ mới cho nên phải sống theo tinh thần mới, tức là tinh thần vui mừng: ”Rượu mới thì bình cũng phải mới”.
Khi nói thế, Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy rằng Ngài chính là Đấng Cứu Thế, do đó các môn đệ không cần giữ chay, bởi vì họ không cần trông đợi nữa. “Rượu mới thì đổ vào bầu da mới” là thế.
Chúa Giêsu đến khai mở một thời kỳ mới, một hiến chương mới của Nước Trời. Xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết thay đổi cách sống sao cho phủ hợp với Tin Mừng của Chúa Giêsu.
Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy chú tâm đến nội dung bên trong hơn là những chuyện bề ngoài. Đừng vì những điều phụ thuộc mà đánh mất đi giá trị của nội dung.
2024
Đồng cảm
Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
1 Sm 9:1-4,17-19; Tv 21:2-3,4-5,6-7; Mc 2:13-17
Đồng cảm
Chúa Giêsu đi dọc bờ biển giảng dạy dân chúng. Người thấy ông Lêvi (Mátthêu) đang ngồi thu thuế. Người gọi ông, ông liền theo Người, và dọn tiệc thiết đãi Người với các kẻ thu thuế và nhiều người tội lỗi. Thấy vậy, nhóm luật sĩ và biệt phái hỏi môn đệ Chúa: Sao Thầy các ông ăn uống với phường thu thuế và kẻ tội lỗi ? Chúa nghe thấy vậy thì đáp: Thầy thuốc không cần cho người khỏe mạnh mà chỉ cần cho kẻ yếu đau. Cũng thế, Ta không đến để kêu gọi người lành thánh mà đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn thống hối.
Theo tục lệ đế quốc La Mã thời bấy giờ, chính phủ cho người ta đứng ra thầu thu thuế. Nộp tiền thầu cho chính phủ xong, những người thu thuế được độc quyền đánh thuế nặng nhẹ tuỳ ý. Làm một nghề dễ kiếm ăn như thế, mấy ai kiêng giữ được những sự tham lam nhũng nhiễu dân chúng ? Vì thế, người Do thái có ác cảm với bọn thu thuế không chỉ vì tội tham lam, mà còn vì họ là tay sai cho đế quốc La Mã nữa.
Lêvi là người tội lỗi công khai (làm nghề thu thuế). Trong khi mọi người khinh dể ông, khai trừ ông và tránh xa ông, coi như đồ ghê tởm, thì Chúa Giêsu không chê ông mà còn chọn ông làm môn đệ Ngài.
thánh Marcô thuật lại việc Chúa Giêsu mời gọi Matthêu, một người thu thuế đi theo và làm môn đệ của Người. Xét cả về khía cạnh khách quan lẫm chủ quan, Matthêu đều rất khó, nếu không muốn nói là không thể làm môn đệ của Chúa Giêsu. Về khía cạnh khách quan, Matthêu – một kẻ được liệt vào hàng tội lỗi công khai – đáng khinh ghét thì làm sao có thể làm môn đệ được Chúa Giêsu được. Còn xét về khía cạnh chủ quan, Matthêu cũng rất khó để có thể từ bỏ công ăn việc làm thuận lợi, đem về cho ông những lợi tức cao. Làm sao ông có thể từ bỏ sự an toàn thoải mái để phiêu lưu đi theo làm môn đệ của Chúa Giêsu. Làm môn đệ Chúa Giêsu chắc chắn ông sẽ nghèo hơn, cuộc sống sẽ bấp bênh hơn.
Nhìn vào Matthêu, chúng ta thấy làm môn đệ của Chúa Giêsu phải từ bỏ, phải hy sinh nhiều quá. Chính cái ý nghĩ đi theo Chúa phải từ bỏ, phải hy sinh nên nhiều người sợ không dám theo Chúa, không dám làm môn đệ của Chúa.
Trang Tin Mừng hôm nay cho thấy, ơn gọi theo Chúa trước tiên và trên hết là một ân huệ của Thiên Chúa dành cho chúng ta. Thật vậy, trở nên môn đệ của Chúa là để cho Chúa chữa lành những thương tổn nơi mình. Vì thế, chúng ta chỉ bắt đầu hành trình theo Chúa khi nhận ra con người bất toàn tội lỗi của mình. Chúng ta cần được Chúa chữa lành. Khi nhận ra con người tội lỗi bất toàn của mình, nhận ra mình cần được Chúa chữa lành thì việc phải từ bỏ, phải hy sinh trên hành trình theo Chúa, trên hành trình được Chúa chữa lành là điều hết sức tự nhiên phải làm. Khi một người nhận ra mình có bệnh và cần được chữa lành thì việc anh ta phải theo hướng dẫn của bác sỹ trong việc từ bỏ những thói quen ăn uống, những thói quen giải trí không tốt cho sức khỏe là điều hết sức tự nhiên phải làm.
Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui sướng chẳng những cho chính Lêvi, mà còn cho những người thu thuế khác. Vì thế họ dọn một bữa tiệc để ăn mừng. Xưa nay họ chỉ thấy mới có một mình Chúa Giêsu không chê họ, mà còn chọn một người trong bọn họ làm môn đệ.
Bữa ăn hay bữa tiệc thường được diễn tả sự gần gũi thân tình. Ở đây Đức Giêsu và các môn đệ đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi cùng với nhiều người thu thuế và các người tội lỗi, chứng tỏ Chúa bày tỏ tình thương đối với những người tội lỗi. Chính tinh thần này lôi kéo những người tội lỗi đến với Người.
Việc Chúa Giêsu gọi Lêvi là người thu thuế đi theo Người lại là cớ gây ra sự phê bình và chỉ trích của người Do thái, nhất là các luật sĩ và biệt phải.
Họ vốn có quan niệm chật hẹp, khép kín và khinh rẻ đối với những người tội lỗi, nên khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp xúc thân tình với những người tội lỗi, thì họ đã tỏ ra khó chịu nên họ đã phê bình và chỉ trích Chúa. Họ đã hỏi các môn đệ: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi ?” (Mc 2,16)
Để sửa lại quan niệm hẹp hòi của luật sĩ, Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2,17). Chính vì Lêvi ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình cho nên anh rất mừng khi được Chúa gọi, và quảng đại bỏ tất cả để theo Người.
Chúa Giêsu có một cái nhìn đặc biệt về Lêvi mà những người khác không có. Chúa đã nhìn thấy trong Lêvi có một thiện chí. Ngài đã gọi ông và quả thực Ngài đã không lầm. Cuộc đời sau này của Lêvi – Mátthêu cho chúng ta thấy rõ điều này.