2024
CHUẨN BỊ NGÀY CÁNH CHUNG
19.2Thứ Hai trong tuần thứ Nhất Mùa Chay
Lv 19:1-2,11-18; Tv 19:8,9,10,15; Mt 25:31-46
CHUẨN BỊ NGÀY CÁNH CHUNG
Chúa Giêsu kết thúc những lời giáo huấn về ngày cánh chung bằng một dụ ngôn, mô tả cảnh phán xét chung: Vị Thẩm Phán tối cao ngự đến là chính Chúa Giêsu, Người tuyên án trên người lành kẻ dữ và sau cùng bản án được thi hành.
Tin Mừng đưa chúng ta về viễn cảnh của ngày cánh chung qua giáo huấn của Đức Giêsu.
Hình ảnh mà Đức Giêsu đưa ra chính là một hình ảnh về ngày phán xét, nơi đó, vị thẩm phán công bằng, tối cao ngự đến để xét xử.
Thánh Mát-thêu trình bày cho chúng ta cảnh phán xét ngày tận thế không mấy ngoạn mục : không động đất, không có mặt trời tối tăm, không có những vì sao tắt sáng. Chỉ mình Đức Giê-su trong vinh quang đến ngự trên ngai, dấu chỉ uy quyền phán xét của Người. Uy quyền của Người bao trùm khắp muôn phương : các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước dung nhan Người. Người ta nghĩ đến có việc gì xảy ra quyết liệt lắm, sau đó không còn xảy ra như thế nữa. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người đó ra : bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm Do thái, nhưng theo đời sống luân lý của mỗi người.
Để thưởng cho các người lành bên phải, Đức Giê-su đã phán rằng : “Nào những kẻ Cha Ta chúc phúc hãy đến hưởng nước trời… “. Để phạt kẻ dữ bên trái, Người phán :”Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời. Nước trời trước hết là ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một cuộc sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con Người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa kiên trì tìm kiếm cứu chuộc loài người.
Những lý do xét xử là những nhu cầu trước mắt : đói, khát, trần truồng, tù đầy, đau yếu. Người lành và người dữ đều ngạc nhiên hỏi : “Có bao giờ chúng con đã thấy Chúa đói khát, trần truồng, đau yếu, ngồi tù đâu ? Để đáp lại, Chúa đáp : “Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những kẻ bé mọn nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy”. Vậy được hưởng nước trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Giê-su Ki-tô hiện diện trong một kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người lân cận của mình.
Điều kỳ lạ, đó là vị thẩm phán này không xét xử dựa trên chức nghiệp để thưởng công, mà là ngang qua hành vi về sự cảm thông, lòng nhân ái đối với những người bần cùng của xã hội. Lạ kỳ hơn nữa là khi kết thúc, vị thẩm phán ấy đồng hóa chính mình với những người được giúp đỡ khi tuyên bố: “Mỗi lần các ngươi làm cho những người bé mọn ấy là làm cho chính ta”.
Nhìn ra thế giới hôm nay, chúng ta thấy không ít nếu không muốn nói là nhan nhản những hành vi như: bon chen, lừa lọc, mưu mô quỉ quyệt, chiến tranh, hận thù, khủng bố….
Uy quyền của Đức Kitô bao trùm khắp muôn phương: các thiên thần hầu cận, các dân thiên hạ tập hợp trước tôn nhan Người. Hành động đầu tiên của Con Người là phân tách khối người ra hai bên: bên phải là kẻ lành, bên trái là kẻ dữ, ở giữa là khoảng trống. Hành động phân chia này thiết lập nên sự phán xét. Sau đó là những lời giải thích về việc phán xét. Việc phán xét không theo chủng tộc như quan niệm người Do Thái, cũng chẳng theo bất cứ tiêu chí định tính hay định lượng nào của thế gian, nhưng theo đời sống luân lý mà mỗi người đã sống.
Phần thưởng cho những người bên phải, Chúa Giêsu phán rằng: “Nào những kẻ Cha ta chúc phúc hãy đến hưởng Nước Trời…”. Còn hình phạt cho những người bên trái, Người phán: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời”. Theo đó, Nước Trời trước hết là sự ở gần Thiên Chúa. Còn lửa đời đời là sự xa lìa Thiên Chúa. Hai nơi đối nghịch nhau đều là đích cuối cùng sau một hành trình sống lâu dài mà Thiên Chúa hằng kiên nhẫn chờ đợi. Con người chỉ đến phán xét và chấm dứt lịch sử thế giới sau một thời gian Thiên Chúa đã kiên trì thi ân giáng phúc và tìm kiếm cứu độ loài người.
Tùy thuộc vào thái độ sống mà mỗi người định đoạt cho mình chỗ đứng bên Đức Kitô trong ngày phán xét. Chúng ta được hưởng Nước Trời hay bị vào lửa đời đời chính là tiếp đón hay từ chối giúp đỡ Đức Kitô hiện diện trong kẻ khốn cực, chính là làm hay không làm giúp người thân cận của mình.
Mùa Chay thúc bách chúng ta sống Tin Mừng hẳn hoi, nghiêm túc. Sống lời Chúa triệt để giúp chúng ta liên đới với mọi người tốt đẹp ở đời này, nhất là sự liên đới với Chúa Giêsu đồng hóa nơi con người thấp kém, bất hạnh. Đó là cửa vào Nước Trời đời đời trong ngày phán xét.
2024
XIN CHÚA CHỮA CHO TA
9.2Thứ Sáu trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 11:29-32; Tv 81:10-11,12-13,14-15; Mc 7:31-37
XIN CHÚA CHỮA CHO TA
Trên thế giới ngày nay còn nhiều người bị câm điếc. Những người câm thường hay bị điếc. Người bị câm điếc thường phải chịu nhiều thiệt thòi trong cuộc sống, họ bị coi như sống bên lề xã hội nên họ cảm thấy lẻ loi cô đơn. Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Marcô thuật lại việc Đức Giêsu chữa lành cho người bị câm điếc để đem lại đức tin và niềm vui cho anh ta. Sự chữa lành đó thuộc thể lý, nhưng qua đó, Chúa Giêsu muốn nói đến bệnh câm điếc thiêng liêng mà mọi người kẻ ít người nhiều đều mắc phải.
Cuộc chữa bệnh có những cách thực hành quen thuộc trong các truyện phép lạ thời đó. Đức Giêsu đưa anh bệnh ra riêng. Tất cả chuyện này có ý là giữ bí mật cách trị liệu của vị thầy. Các cơ quan có bệnh được chạm đến. Vị thầy ấn ngón tay trên hai tai điếc, rồi bôi nước miếng lên cái lưỡi ngọng. Ngước mắt lên trời là để xin sức mạnh siêu phàm; thở dài hay rên cũng nhắm như vậy. Tiếng epphatha trong bối cảnh phép lạ Hy Lạp là lời phù chú không ai hiểu được; nhưng trong Mc, từ này đã được dịch ra rõ ràng (tương tự 5,41). Đức Giêsu cho người ta biết rõ ràng quyền lực của Người. Đây là lời Người nói với anh bệnh cho đến lúc này vẫn chưa có khả năng nghe được, chứ không phải là nói với các cơ quan bị bệnh. Tức khắc, anh này được lành; sự kiện anh được lành được nêu ra như một điệp khúc đáp lại lời vừa được truyền ra. Rất có thể chi tiết “lưỡi bị buộc” có ý nói đến tên quỷ của bệnh, mà nay anh này đã được giải thoát khỏi.
Đức Giêsu truyền cả anh bệnh đã lành cũng như những người có mặt phải giữ im lặng. Nhưng những người đã đón nhận được mạc khải trong phép lạ này không thể giữ kín được. Tác giả Mc muốn nhắc độc giả vừa phải giữ làm sao để người ta khỏi hiểu sai thân thế và sứ mạng của Đức Giêsu, vừa phải nhận ra và giới thiệu Người là Đấng Cứu Thế. Phản ứng hứng khởi của dân cho ta lời giải nghĩa thần học của phép lạ. Nhờ hoạt động của Đức Giêsu, cuộc tạo thành đã hư hỏng nay được tái thiết (x. St 1,31).
Tin mừng kể lại như sau: “Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giêsu, và xin Người đặt tay trên anh.33 Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh.34 Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha”, nghĩa là: hãy mở ra!35 Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”.
Quả thật, niềm vui được chữa lành bệnh không chỉ nơi người bị bệnh mà niềm vui đó còn được lan tỏa nơi những người xung quanh. Để cảm nghiệm được niềm vui đó, chúng ta phải đặt mình vào vị trí vừa là người bị bệnh vừa là người trung gian cầu xin Chúa chữa bệnh.
Ở đâu có sự hiện diện của Chúa là ở đó có niềm vui. Niềm vui không chỉ được Chúa chữa lành bệnh tật mà niềm vui đó còn đem lại cho chúng ta sự sống cửu. Vì thế, mỗi ngày sống chúng ta đừng chạy đến với Chúa để xin Chúa điều này điều kia, mà trước hết, chúng ta hãy chạy đến với Chúa với tâm tình là một người con để dâng lên Chúa những tâm tình như người con đối với cha mẹ của mình. Để từ đó, chúng ta mới có một kinh nghiệm sống là sống cho Chúa như lời thánh Phaolô đã dạy: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa”.
Người câm điếc gặp khó khăn khi muốn trình bày hay diễn đạt một lời nói cho người khác hiểu ý mình, nhưng họ lại cảm thấy ngại ngùng giống như có một sợi dây vô hình trói buộc, làm cho họ không thể nói ra. Tình trạng bất hạnh ấy dễ làm người ta mặc cảm, không nói được mà cũng chẳng nghe được, tự thân đã khiến người bị tật khó hiểu thế giới bên ngoài, và thế giới bên ngoài càng khó hiểu người bị tật ấy.
Do đó, người bị tật tự nhiên cảm thấy mình lẻ loi như đứng bên lề xã hội, họ có khuynh hướng muốn rút lui và sống trong cô đơn. Vì thế, những người bị tật ấy cần những người lành mạnh có thái độ thông cảm, tôn trọng và yêu thương thành thật.
Hôm nay chúng ta thấy Đức Giêsu không chữa bệnh đơn giản như mọi khi, nghĩa là chỉ đặt tay hay dùng một lời nói để chữa bệnh: Ta muốn ngươi được khỏi bệnh! Đức Giêsu lại đưa anh chàng ra khỏi đám đông, xỏ ngón tay vào tai người câm điếc, bôi bọt vào lưỡi anh ta và ngước mắt lên trời rên lên: “Epphata”: Hãy mở ra.
Về cử chỉ xỏ tay vào tai, bôi nước bọt vào lưỡi là cốt để khêu gợi đức tin là điều rất cần để Chúa ban ơn, mà bệnh nhân còn thiếu. Anh này điếc nên không nghe được, chỉ còn làm thế nào cho anh ta hiểu. Xỏ tay vào tai và đụng vào lưỡi để cho anh ta hiểu rằng: đó là những kết quả anh ta mong đợi.
Cử chỉ Chúa Giêsu trong phép lạ chữa lành người câm điếc, đã có một thời được Giáo hội lặp lại khi cử hành Bí tích Rửa tội. Thật thế, Bí tích Rửa tội cũng là một phép lạ trong đó chúng ta được chữa lành và tái sinh trong đời sống mới. Trong phép lạ này, Chúa Giêsu cũng nói với mỗi người chúng ta: Epphata, Hãy mở ra. Hãy mở lớn đôi tai để nghe được tiếng Ngài trong từng biến cố, từng giây phút của cuộc sống. Hãy mở rộng con tim và đôi tay để cảm thông và chia sẻ với người khác. Hãy mở miệng để cảm tạ, chúc tụng và loan báo tình thương Chúa, để nói những lời của yêu thương và hòa bình, của cảm thông và tha thứ.
Qua trang Tin mừng này, có lẽ tạo cho mỗi người cảm nhận được niềm vui từ người bệnh cũng như những người cộng tác đem người bệnh đến để xin Chúa Giêsu chữa trị.
Chúng ta phải phá bỏ bức tường câm điếc đã làm cho chúng ta xa cách tha nhân, không còn hiểu nhau, không còn thông cảm và thương yêu nhau, coi nhau như kẻ thù. Trái lại, phải xây lại nhịp cầu thông cảm và yêu thương mà chính Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta khi chịu phép Rửa tội. Trong ngày đó, chúng ta được cởi mở khỏi xiềng xích tội lỗi và được đàm đạo với Chúa như với người bạn chí thiết.
2024
XIN VỚI LÒNG KHIÊM TỐN
8.2Thứ Năm trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 11:4-13; Tv 106:3-4,35-3,37,40; Mc 7:24-30
XIN VỚI LÒNG KHIÊM TỐN
Tin mừng hôm nay nói về việc Chúa Giêsu chữa trừ quỷ cho người đàn bà xứ Phênixi. Qua phép lạ này chúng ta thấy người đàn bà ngoại giáo này được Chúa chữa bệnh cho con bà nhờ bà có những đặc tính này:
Bà là một người ngoại, nên lẽ ra theo kế hoạch hành động của Chúa Giêsu, bà không được hưởng những ơn phúc của Chúa Giêsu, bởi vì theo kế hoạch ấy, Ngài đến ban ơn cho người Do thái trước. Vì thế, ban đầu Ngài đã từ chối bằng những lời rất nặng: “Phải để cho con cái ăn no trước đã. Không nên lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”.
Nhưng lòng tin kiên trì cùng với lòng khiêm nhường của bà đã biến bà thành “con cái trong nhà”, nên Chúa Giêsu đã ban ơn theo lời bà xin.
Người đàn bà dân ngoại trong câu chuyện hôm nay có nhiều đức tính đáng chúng ta chú ý và bắt chước:
Chúng ta thấy bà là người rất khiêm tốn, dám chịu nhận mình là “chó con”: “Thưa Ngài đúng thế, nhưng lũ chó con lại được ăn những mảnh vụn trên bàn rơi xuống”.
Bà có một đức tin kiên trì: dù bị khước từ ngay từ lúc đầu bằng những lời rất nặng nề, nhưng bà vẫn không nản lòng. Lòng tin của bà không hề lay chuyển.
Bà có một lòng phó thác mạnh mẽ nơi Chúa: Chúa Giêsu bảo bà “Cứ về đi, quỷ đã xuất khỏi con gái bà rồi” (Mc 7,29). Dù chưa thấy hiệu quả trước mắt, nhưng vì tin lời Chúa nên bà ra về trong tin tưởng.
Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do thái giáo), lời trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn của lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
Tại sao một số người có đức tin mạnh mẽ đang khi số khác đức tin lại yếu kém? Tại sao một số người thấy đức tin là điều dễ dàng, đang khi số khác lại thấy đó là điều khó khăn? Người đàn bà ngoại giáo này biết mình là người ngoại, không hy vọng được Chúa đoái nghe vì người Do thái không ưa người Canaan, nếu không muốn nói là ghét và khinh bỉ họ. Thái độ lãnh đạm khó chịu và muốn xua đuổi của các Tông đồ đối với bà? Nhưng bà tin rằng thế nào Chúa cũng phải thương bà. Bà có lòng tin như một người ngoại khác là viên bách quan kia: “Thưa Thầy, tôi chẳng đáng Thầy vào nhà tôi, song xin Thầy chỉ phán một lời” (Mt 8,8). Nghe vậy, Chúa Giêsu bỡ ngỡ nói với các kẻ theo Ngài: “Quả thật, Ta bảo các ngươi, Ta chưa hề gặp được lòng tin như thế nơi một người nào trong Israel” (Mt 8,10).
Trước sự cầu xin của người đàn bà ngoại giáo (không thuộc Do Thái giáo), câu trả lời đầu tiên của Chúa Giêsu nghe có vẻ nặng nề và miệt thị, nhưng cũng qua đó cho thấy niềm tin của người đàn bà rất mạnh, vượt lên trên mọi ngăn cách tôn giáo, sự kỳ thị và có thể cả sự khinh khi.
“Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con”. Câu nói này có vẻ mang dáng dấp của một sự khinh miệt và xúc phạm danh dự, nhưng thật không ngờ người đàn bà không nao núng theo tính tự ái mà còn thân thưa: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con”. Trước đức tin cao độ như thế, Chúa Giêsu đành chào thua mà ban cho bà điều bà xin. Bà tin lòng thương xót của Chúa bao la, chắc chắn cũng vượt ra bên ngoài dân Do Thái, nên bà có thể hưởng được những mảnh vụn lòng thương xót của Thiên Chúa. Thiên Chúa thương yêu mọi người, muốn cứu rỗi mọi người. Lòng tin khiêm tốn bền vững của con người càng chiếm được tình yêu và ơn cứu rỗi của Chúa.
Đọc Tin mừng chúng ta thấy, Chúa Giêsu là người không thích phô trương, cũng không thích người ta theo Ngài vì những phép lạ. Ngài chỉ muốn âm thầm kín đáo gieo đức tin vào trong lòng người ta, và khi người ta đã tin thì người ta sẽ theo Ngài cách trung thành hơn. “Ngài vào nhà nọ, không muốn cho ai biết” (Mc 7,24).
Chúa Giêsu hiền lành, luôn chạnh lòng trước nỗi khổ của người dân (x. Mc 6,30-34) và sẵn sàng đáp trả… Thế nhưng Ngài có vẻ dửng dưng, thoái thác trước nỗi khổ tâm của người đàn bà đau khổ này. Thái độ của Chúa Giêsu đáp lại làm cho chúng ta bị “sốc”: “Hãy để con cái ăn no trước đã, vì không nên lấy bánh của con cái mà ném cho chó” (Mc 7,27). Nhưng bà càng tỏ ra cương quyết và đặt trọn niềm phó thác vào tình thương cùng với quyền năng của Ðức Giêsu: “Thưa Thầy, đúng thế, nhưng các chó con cũng được ăn những mụn rơi dưới bàn ăn của con cái” (Mc 7,28).
Với cách đối xử có vẻ phân biệt chủng tộc, giai cấp… và dường như dửng dưng khinh miệt, nhưng trước niềm tin mạnh của bà, Ngài vẫn ban cho bà điều mà bà kêu xin. Ngài muốn dạy cho bà và qua đó cũng dạy cho chúng ta sự kiên nhẫn và khiêm nhường trong một đức tin vững mạnh trải qua gian nan thử thách.
Xin Chúa cho chúng ta một đức tin kiên trung, đức cậy trông vững vàng, để không khó khăn thử thách nào có thể tách chúng ta ra khỏi đức tin vào Ngài.
Chúng ta cũng thế, trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn, đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm; càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.
Trong cầu nguyện, nhiều lần chúng ta cũng cảm nhận như Chúa từ chối, nên rất cần sự kiên trì tin tưởng và tu luyện đức tin mình được vững chắc. Càng gặp khó khăn, đức tin của chúng ta càng lớn lên, càng sâu sắc và giàu kinh nghiệm; càng gặp khó khăn trong đời sống, đức tin của chúng ta càng có giá trị khi ta một mực trung thành với Chúa, đức tin của chúng ta sẽ rạng rỡ trước mặt mọi người, và trước mặt Thiên Chúa.
2024
Ý HƯỚNG TỐT LÀNH
7.2Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 10:1-10; Tv 37:5-6,30-31,39-40; Mc 7:14-23
Ý HƯỚNG TỐT LÀNH
Nói đến sự thanh sạch hay cái ô uế của con người không phải là về mặt vệ sinh, nhưng là nói về phương tiện luân lý. Có thứ luân lý theo hoàn cảnh, có thứ theo phong tục do con người đặt ra. Vì thế mà Chúa Giêsu tuyên bố sự thật là: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”.
Sau khi nói về tính cách vụ hình thức, bây giờ Chúa nói về sự thanh sạch và ô uế. Chúa Giêsu dạy cho dân chúng biết không có gì bên ngoài nhập vào mà làm cho người ta nhơ bẩn, nhưng chính cái bên trong con người mới làm cho họ ra nhơ bẩn. Các môn đệ không hiểu lời Chúa nói, nên khi về đến nhà, các ông xin Chúa giải thích điều đó. Người bảo: mọi vật bên ngoài nhập vào con người không thể làm cho họ nhơ bẩn, vì nó không vào trong lòng họ được chỉ vào trong bụng rồi tống ra ngoài. Chính lòng con người mới làm cho họ nhơ bẩn, vì từ đáy lòng họ phát xuất ra những ý tưởng xấu xa, như trộm cướp, gian dâm, độc ác…
Các luật sĩ và biệt phái nhấn mạnh đến sự thanh tẩy phần xác hơn là thanh sạch phần hồn; họ đặt nghi thức bên ngoài lên trên nhiệm vụ bác ái và công bằng xã hội.
Họ tỉ mỉ giữ luật rửa tay, lau chén trước khi ăn, vì cho rằng tay bẩn, chén bẩn làm cho người ta ra ô uế, trong khi lại coi nhẹ chính cõi lòng, nơi chất chứa bao tâm tình ghen tuông, thù ghét đối với tha nhân và đủ thứ toan tính phạm tội.
Chúa Giêsu đặt sự thanh sạch tâm hồn lên trên sự thanh sạch thân xác. Vì chính từ cõi lòng, con người xây dựng cuộc sống luân lý mình. Tâm hồn trong sạch hay không, không phải vì do những hoàn cảnh phụ thuộc bên ngoài, nhưng do những quyết định trong thâm tâm mình.
Chúa Giêsu giải thích cho các môn đệ về dụ ngôn những cái thanh sạch và những cái ô uế: không phải từ cái bên ngoài vào trong con người, nhưng cái từ trong con người mà ra, mới làm cho con người ra ô uế. Chúa dựa vào hình ảnh của việc ăn uống và tiêu hoá để diễn tả: mọi sự Chúa tạo dựng cho con người đều tốt đẹp, nhưng do những tư tưởng, ý định và tâm tình bất chính của con người, làm biến đổi thành những cái xấu.
Chúa Giê-su cho các Tông Đồ hiểu rằng khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hóa, rất khác biệt với môi trường Do Thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do Thái, không thể nào gia nhập Giáo Hội Chúa được.
Luật sạch và ô uế của các kinh sư và biệt phái làm cho người ta bị rơi vào đời sống giả hình, vụ hình thức bên ngoài. Bởi vì điều Thiên Chúa đòi hỏi không phải là sự trong sạch có tính cách nghi thức bên ngoài, nhưng là sự trong sạch của tâm hồn, sự trong sạch của con tim.
Qua bài Tin mừng hôm nay Chúa Giêsu cho các Tông đồ hiểu rằng: khuôn khổ hẹp hòi của tôn giáo cũ không còn thích hợp với những đòi hỏi của một tôn giáo mới mà Người sẽ thiết lập. Bởi vì các ông sẽ được sai đi đến với mọi dân tộc, thuộc mọi nền văn hoá, rất khác biệt với môi trường Do thái. Khi đó các ông phải chú ý đến điều chính yếu, đừng lúng túng vì những cổ lệ là những cái làm cho người ngoại giáo thành tâm thiện chí, là những người không có tục lệ ăn uống giống như người Do thái, không thể nào gia nhập Giáo hội Chúa được.
Chúa Giêsu đã nói: không phải cái từ bên ngoài có thể làm cho người ta ra ô uế, mà chính là những cái phát xuất từ bên trong, từ lòng của con người như tham lam, tà dân, giết người, trộm cắp, độc ác, xảo trá, ganh tị… Chính những cái đó mới làm cho người ta ra xấu xa ô uế.
Lời Chúa hôm nay cho biết đó là Thiên Chúa tạo dựng nên vũ trụ này rất tốt đẹp, và Thiên Chúa ưu ái dựng nên cho con người để con người cai quản mặt đất này… Mọi thức ăn đều sạch, nhưng vì những tư tưởng, ý định và tâm ý bất chính của con người, làm cho con người xấu xa ô uế. Mười hai thứ tội được Kinh Thánh kể ra coi là khởi đi từ trong tâm hồn con người: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loàn, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Một hành vi tốt hay xấu không chỉ do hoàn cảnh, phong tục của xã hội, mà trước tiên là do lòng người. Ý hướng tốt thì hành động sẽ tốt, ý hướng xấu thì hành động sẽ xấu. Hiểu được như thế, chúng ta cũng được mời gọi đào luyện ý hướng tốt lành và nhân đức từ cõi lòng con người mình để có thể phát sinh sự từ bi nhân ái, bao dung, độ lượng, yêu thương, tha thứ…
Cần có một lương tâm chân chính, một tâm hồn trong sạch, một trái tim rộng mở : chúng ta sẽ có lòng mến Chúa đích thực và yêu thương tha nhân cách chân thành vì yêu là chu toàn mọi lề luật.