2020
Lương thực trường tồn
LƯƠNG THỰC TRƯỜNG TỒN
Thiên Chúa hằng yêu thương chăm sóc dân Người. Hành trình dân Israel tiến về Đất Hứa là thời gian đầy thử thách nhưng cũng là chuỗi ngày ân phúc. Nơi hoang mạc khắc nghiệt và thiếu thốn, Thiên Chúa quan phòng ban cho dân thức ăn là manna và chim cút; nuôi dân bằng nước từ tảng đá chảy ra (Xh 16-17); cho cột mây dẫn đường ban ngày và cột lửa soi sáng ban đêm (Xh 13, 21).
Tình thương của Thiên Chúa với Dân Ngài đạt đến đỉnh cao nơi Chúa Giêsu – Con Thiên Chúa. Chúa Giêsu chạnh thương đoàn dân đang kiệt sức, đói lả vì đi theo Người. Ngài đã hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê (Ga 6, 1-15). Chúa Giêsu thêm sức cho họ không chỉ về thể xác mà còn tinh thần, khi Ngài khẳng định: Ngài là Bánh Hằng Sống và đem lại sự sống cho thế gian (Ga 6, 33). Hôm nay, Đức Kitô cũng đang yêu thương, săn sóc từng người chúng ta khi trao ban chính Mình Máu Ngài cho nhân loại.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy qua những nhu cầu vật chất đời thường, Chúa Giêsu mời gọi con người tin và đón nhận Ngài như thần lương nuôi sống linh hồn để đạt được sự sống đời đời, sự sống vĩnh cửu không bao giờ hư mất.
Trên thế giới, hàng triệu người vẫn đang sống trong cảnh nghèo khổ. Người ta không chỉ túng thiếu cơm bánh mà còn thiếu thốn tình thương, chân lý. Những đói khát tinh thần nhiều khi còn khắc khoải hơn cơn đói thể lý. Do đó, lời xác quyết của Đức Giêsu: “chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ” (Ga 6, 35) mang lại cho chúng ta niềm an ủi và sự bảo đảm vững chắc. Thánh Thể – Bánh Hằng Sống là món quà vô giá Thiên Chúa ban tặng cho con người.
Chúa Giê-su cho người Do Thái biết không phải ông Môsê cho họ bánh bởi trời mà chính Thiên Chúa ban cho họ; Bánh manna thực sự chỉ là một tiên báo về Chúa Giêsu – bánh đích thực Thiên Chúa sẽ ban cho con người. Con người nhắm vào vật chất, nhưng Chúa Giêsu muốn đưa người ta lên cao hơn, đó là đời sống đức tin. Thánh Phaolô thường khẳng định: “Nhờ tin mà anh em được cứu độ” (Ep 2, 8). Từ lương thực chóng hư, Chúa Giêsu hứa ban lương thực không bao giờ hư nát là chính mình Người (c.35).
Tuy nhiên với đầu óc u mê, cặp mắt thiển cận, người ta chỉ nhìn thấy cái lợi trước mắt mà không nhìn thấy cái lợi trăm vạn lần hơn, đó là được chính Thiên Chúa. Người ta chỉ quan tâm đến nhu cầu của thân xác hay chết mà ít quan tâm đến nhu cầu tinh thần, nhu cầu đem đến sự sống muôn đời cho con người.
Chúa Giêsu chính là bánh hằng sống từ trời xuống, ai tin và đón nhận Ngài sẽ không hề phải đói khát bao giờ (c.35). Đến với Chúa Giêsu, chúng ta sẽ có lương thực nuôi sống linh hồn; Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta Lời của Ngài, như kim chỉ nam dẫn lối và thân thể Ngài như của ăn để chúng ta tiến bước về quê hương đích thật. Có Ngài cùng đồng hành trong cuộc sống chúng ta chẳng còn phải lo lạc lối hay đói khát tinh thần.
Trong cuộc sống lắm khi những nỗi vất vả và lo toan làm chúng ta quên Chúa; nhưng Chúa Giêsu, Ngài đã nói: “Hỡi những ai vất vả gồng gánh nặng nề, hãy đến với ta, ta sẽ nâng đỡ và bổ sức cho các ngươi”. Con người đói khát thể lý đã bi thảm, nhưng con người đói khát tinh thần càng vạn lần bi thảm hơn. Hầu hết những đau khổ của con người từ vật chất đến tinh thần đều có nguyên nhân từ việc đói khát tinh thần mà ra. Thế giới ‘vắng bóng’ Thiên Chúa, thì trở thành tranh dành, hận thù, ích kỷ, huynh đệ tương tàn, con người không có Thiên Chúa, trống vắng tâm linh thì dầu cho có lắm của cải vật chất, địa vị, danh vọng… cũng không bao giờ thỏa mãn được.
Chúa Giêsu bảo họ: “Chính tôi là bánh trường sinh, ai đến với tôi, không hề phải đói, ai tin vào tôi chẳng khát bao giờ”. Đôi khi nhóm bạn chúng tôi cảm thấy chán nản vì cuộc sống tẻ nhạt, nhịp điệu đời sống cứ đều đều quay vòng: Học, ăn, ngủ, lo cho túi tiền có đủ xài đến cuối tháng…Sinh viên xa nhà thiếu thốn đủ thứ, thiếu vật chất, thiếu tinh thần, thèm xem phim, đói truyện báo, khát những buổi ca nhạc…tai hại hơn, những bạn là Kitô hữu phần lớn là đói Tin Mừng, khát Lời Chúa vì những lý do không tên, để rồi đức tin mờ nhạt mà không hay biết.
Tưởng nghĩ nếu chúng ta chỉ chăm lo đến cuộc sống tạm bợ, nay còn mai mất mà không quan tâm đến cuộc sống vĩnh cửu thì còn gì ngu dại bằng. Xin Thiên Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta, để trong mọi hoàn cảnh cuộc sống chúng ta biết chạy đến với Ngài, cậy dựa vào Ngài. Xin cho chúng ta biết quí trọng, yêu mến, và năng lãnh nhận Thánh Thể Chúa, để chúng ta có thêm sức mạnh vượt qua những cam go thử thách trong hành trình tiến về quê hương đích thật là nước trời.
Quả thế nhờ Thánh Thể, những khát vọng sâu thẳm nhất, thiêng liêng nhất của con người sẽ được thỏa mãn, bởi Đức Kitô là suối nguồn bình an và hạnh phúc. Nơi Thánh Thể, con người học được bài học yêu thương, phục vụ và sẻ chia. Lúc này, Chúa Giêsu cũng đang mời gọi ta chia sẻ bánh tình yêu Giêsu cho anh chị em kém may mắn hơn; nhờ đó cuộc sống này sẽ ngày một tươi đẹp hơn.
2020
Đừng vì của ăn tạm bợ
Thứ Hai tuần III PS
Ga 6, 22-29
ĐỪNG VÌ CỦA ĂN TẠM BỢ
Trang Tin Mừng về bánh hằng sống trong hội đường Ca-phác-na-um sau ngày phép lạ bánh hóa nhiều có lẽ là một tổng hợp các bài giảng ở nhiều nơi. Dân chúng ngạc nhiên khi thấy các môn đệ và Chúa Giêsu ở Ca-phác-na-um vì họ không thấy Người xuống thuyền đi sang Ca-phác-na-um với các môn đệ, mà bây giờ lại thấy Người ở đây. Còn “Đức Giêsu khi thấy họ sắp bắt mình đem đi tôn làm vua, thì Người lánh mặt, đi lên núi một mình”, mãi tới đêm, biển động vì gió thổi mạnh, các ông thấy Chúa Giêsu đi trên mặt biển hồ đến gần thuyền … Ngay lúc đó thuyền đã tới bờ của miền Ca-phác-na-um.
Vì tình thương nên ta thấy Chúa Giêsu đã làm phép hóa bánh ra nhiều chứ không phải vì muốn nổi danh! Nhưng đối với người Dothái, họ có lối suy nghĩ khác! Thay vì họ tạ ơn Chúa vì lòng thương xót của Ngài, thì ngược lại, họ chỉ nghĩ đến cái bụng và khao khát được thỏa cơm đói. Vì thế, dân chúng nghĩ rằng: có Chúa Giêsu hiện diện ở giữa họ thì có lẽ sẽ không phải đói khát và có khi chẳng cần làm lụng vất vả cũng có ăn! Thế nên, họ tìm cách để tôn vinh Ngài lên làm vua. Thấy vậy, Chúa Giêsu đã lánh đi để sang bờ bên kia trước họ.
Và ta thấy như thói quen, thánh Gio-an sắp nối kết sự kiện phép lạ cụ thể này với ý nghĩa thần học: Họ tìm … họ ngạc nhiên vì không biết Người đến đây bằng cách nào? Người đã đến đây bằng cách lạ lùng là đi trên mặt biển giữa đêm khuya gió to sóng lớn. Cũng thế, Chúa Giêsu đã đến với họ không phải từ làng Na-gia-rét, như người ta biết, nhưng là từ trời mà người ta không biết, cũng như Người từ bờ hồ phía đông nơi bánh hóa nhiều, đi qua biển tới bờ hồ phía tây nơi miền Ca-phác-na-um.
Với cái nhìn thiển cận hay còn gọi là óc ngắn nên người Do Thái cố gắng tìm Chúa Giêsu vì của nuôi xác chứ không tìm đến vì của ăn đời đời.
Khi gặp Ngài, họ cất tiếng hỏi: “Thưa Thầy, Thầy đến đây bao giờ vậy?”, Chúa Giêsu thừa biết mục đích của họ, vì thế Ngài nói ngay: “Thật, tôi bảo thật các ông, các ông đi tìm tôi không phải vì các ông đã thấy dấu lạ, nhưng vì các ông đã được ăn bánh no nê” (Ga 6, 26 ). Khi nói như thế, Chúa Giêsu mời gọi họ hướng tới một cuộc “vượt qua” khác, sâu xa hơn, đó là cuộc vượt qua từ bánh hóa nhiều đến với Đấng ban bánh ấy, vượt qua từ dấu chỉ là bánh đến với Đấng chính là Bánh Trường Sinh (Ga 6, 27 ).
Ta thấy dân chúng vẫn tiếp tục đòi của vật chất, họ chú trọng đến man-na nuôi sống cha ông họ hằng ngày trong sa-mạc và so sánh với phép lạ hóa bánh ra nhiều để cầu mong Chúa Giêsu cho họ được ăn như vậy. Còn Chúa Giêsu, Người nhấn mạnh đến sự đói khát tinh thần, đến của ăn hằng sống cho linh hồn. Đó mới chính là sứ mệnh quan trọng của Người. Người đã hết sức nhẫn nại như đã nhẫn nại giải thích cho ông Ni-cô-đê-mô về sự tái sinh, cho bà ở Sa-ma-ri về nước trường sinh.
Chúa Giêsu không đến thế gian để mang lại một cây đũa thần cho những vấn đề chính trị, kinh tế, xã hội của con người. Ngài đến để cho con người được sống và hạnh phúc thực sự. Sự sống và hạnh phúc ấy chính là nhận biết và yêu mến Ngài trên hết mọi sự. Chỉ có Thiên Chúa mới thoả mãn mọi khát vọng trong tâm hồn con người, chỉ có Ngài mới đem lại cho con người hạnh phúc trọn hảo.
Ta thấy rằng vì mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao: bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời.”
Sống giữa thế gian, nhưng không thuộc về thế gian đó là chỗ đứng của người tín hữu trong trần thế này. Mưu cầu cuộc sống tạm bợ nhưng người tín hữu luôn hướng về trời cao; bôn ba về của cải vật chất, nhưng không quên gắn bó với những giá trị Nước Trời như công lý, hoà bình, tình huynh đệ, lòng bác ái. Trong mọi sự, họ phải luôn nhớ lời khuyên của thánh Phaolô: “Anh em hãy tưởng nghĩ đến những sự trên trời”. Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình anh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không cha đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Một cách cụ thể, người tín hữu tìm kiếm và xây dựng Nước Trời ngay giữa những thực tại trần thế, bằng cách không bán rẻ lương tâm vì một chút lợi lộc chóng qua, không chối bỏ hình ảnh cao quí của Thiên Chúa nơi bản thân, không chà đạp nhân phẩm của người anh em. Trong mọi sự họ tìm kiếm Chúa như gia nghiệp duy nhất của cuộc đời.
Tìm đến bên Chúa, tin vào Chúa, Chúa không bảo người tin là biếng nhác làm việc, là ngồi chờ sung rụng, là chi trông chờ phép lạ… Ngài mời gọi người tin, làm việc không ngừng, làm việc hết mình để có thể tìm kiếm sự bền vững trong đời: “Hãy ra công làm việc không phải vì lương thực mau hư nát, nhưng để có lương thực trường tồn đem lại phúc trường sinh” (Ga 6, 27).
Thật thế, khi tìm Chúa và tin theo Lời Chúa là dẫn bước đi tìm nước Trời, không chỉ được hạnh phúc vĩnh cửu đời sau mà còn được lòng yêu thương chăm sóc của Thiên Chúa cưu mang ngay ở đời này như Ngài đã nói: “Các ngươi hãy tìm kiếm Nước Đức Chúa Trời, rồi mọi sự đó sẽ được cho thêm” (Lc 12,31).
Ngày nay, trong đời sống đạo, nhiều người vẫn còn thói quen tin Chúa như những người Dothái. Tức là tin Chúa khi vui, lúc thành công, nhất là tin khi được lợi. Vì thế, chúng ta vẫn thấy có chuyện như: thích thì đi lễ, đi chầu, đọc kinh… không thích thì thôi! Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để chúng ta đừng tìm Chúa vì của ăn hay hư nát mà tìm Chúa vì là Bánh hằng sống và sự sống trường tồn.
2020
Khiêm nhường và dũng cảm như Thánh Maccô
25.4 Lễ Thánh Marcô
KHIÊM NHƯỜNG VÀ DŨNG CẢM NHƯ THÁNH MÁCCÔ
Chúa Giêsu khi muốn chọn ai, Ngài đã cầu nguyện lâu giờ vì việc tuyển chọn con người là một công việc hết sức quan trọng. Chúa chọn ai là do quyết địnnh hoàn toàn tự do của Ngài. Ơn gọi của một con người nói lên tình thương và sự nhưng không của Chúa Giêsu. Vì yêu con người, Chúa đến trần gian và cũng vì yêu con người, Ngài tuyển chọn, cất nhắc con người với tất cả sự tự do của Ngài. Thánh Máccô là người Do Thái, thuộc dòng họ Lêvi. Sau khi Chúa lên trời, thámh nhân theo thánh Phêrô, vị tông đồ trưởng sang La mã.
Thánh nhân được thánh Phêrô trìu mến và yêu thương, nâng đỡ cách đặc biệt. Thánh Máccô hăng say giảng đạo và nhờ lòng nhiệt thành, hăng say loan báo Tin Mừng cho Chúa Giêsu, nhiều người đã quay trở về với Chúa và Giáo Hội. Số người trở lại càng ngày càng đông, nhưng không có một tài liệu nào để giúp giáo dân học hỏi và tham khảo. Nhiều người ao ước có một bản viết về cuộc đời của Chúa Cứu Thế.
Dựa vào bút pháp của Máccô, chúng ta cố gắng tìm hiểu tính khí của ngài. Tính chất sống động của Phúc âm thứ II biểu lộ rõ chứng tích mục kiến của Phêrô, chứ không phải của Marcô, dầu có thể là Marcô đã chứng kiến việc bắt bớ Chúa Giêsu vì các nhà chú giải đồng hóa ngài với người thanh niên vô danh bỏ chạy mình trần (Mc 14,50-52). Dầu vậy, thánh Máccô không phải là một máy ghi âm diễn lại lời của Phêrô, ngài là tác giả ghi lại ký ức của Phêrô với bút pháp riêng. Ngài là người ít lời (673 câu so với 1068 câu nơi Matthêu) và có giọng văn không chải chuốt.
Với những yêu cầu và khao khát của nhiều người. Thánh Máccô đã viết lại cuộc đời của Chúa Giêsu một cách mạch lạc và rõ ràng theo chương mục dựa theo lời giảng dạy của thánh Phêrô. Thánh Phêrô đã cho phép phổ biến và dùng trong giáo đoàn. Thánh Mác-cô sau đó đã được thánh Phêrô, vị Giáo Hoàng tiên khởi sai đi truyền giáo ở Ai Cập. Với lòng nhiệt thành, đạo đức, tài hùng biện và lợi khẩu, thánh nhân đã đưa rất nhiều linh hồn về với Chúa. Thánh Máccô là vị sáng lập và là Giám Mục đầu tiên của giáo đoàn Alexandria.
Được Chúa mời gọi, thánh Máccô đã đáp trả lại lời gọi mời yêu thương của Chúa. Với lòng đạo đức, trí thông minh, sự khôn ngoan của Chúa Thánh Thần, thánh Mác-cô đã đem muôn vàn người trở về với Chúa. Vì ghen tức, ích kỷ, những lương dân đã quyết tâm hãm hại Người. Họ đã bắt thánh nhân với mục đích lăng mạ, bêu xấu Ngài và lôi kéo Ngài trên đường đá ghồ ghề, lởm chởm cho tới khi Ngài trút hơi thở cuối cùng vào ngày 25 tháng 4 năm 67.
Với những công đức to lớn, với cuốn Tin Mừng thánh Máccô để lại, danh của thánh nhân mãi mãi ngời sáng trong Giáo Hội và triều thiên vinh hiển Thiên Chúa trao cho Ngài muôn đời sẽ rực sáng trên nước trời. Mãi mãi nhân loại và đặc biệt Giáo Hội sẽ tôn vinh thánh nhân vì lòng nhiệt thành, sự thánh thiện và gương sáng thánh nhân để lại cho dân Chúa.
Hãy đi khắp thế gian và rao giảng Tin Mừng cho mọi thụ tạo.
Hôm nay, chúng ta đọc những lời này trong Ca Nhập Lễ. Đây là sứ vụ tông đồ Chúa đã ban và thánh Máccô đã ghi lại. Về sau, được ơn Chúa Thánh Thần thúc đẩy, thánh nhân đã minh chứng lệnh truyền ấy đã được thực hiện khi ngài chép Tin Mừng: Các tông đồ ra đi và rao giảng khắp nơi, có Chúa cùng hoạt động với các ông, và củng cố tin mừng bằng những phép lạ kèm theo. Đó là những lời thánh Máccô kết thúc Tin Mừng của ngài.
Thánh Máccô đã trung thành với sứ vụ tông đồ mà ngài đã nghe qua lời giảng của thánh Phêrô : Hãy đi khắp thế gian. Chính thánh Máccô và Tin Mừng của Ngài đã là một thứ men hiệu quả cho thời đại ngài. Chúng ta cũng phải trở nên một thứ men tốt cho thời đại chúng ta. Nếu sau lần nhát đảm, thánh nhân đã không khiêm nhượng và dũng cảm làm lại, có lẽ giờ đây chúng ta không có những kho tàng lời giảng và việc làm của Chúa Giêsu để thường xuyên suy gẫm, và nhiều người, nếu không nhờ ngài, chắc cũng chẳng bao giờ biết được Chúa Giêsu là Đấng Cứu Độ của nhân loại.
Sứ mạng của thánh Máccô – cũng như của các Tông Đồ, của các nhà truyền giáo, của các tín hữu tốt lành luôn ra sức sống đúng với ơn gọi của mình – chắc chắn không phải là một sứ mạng dễ dàng. Chúng ta biết ngài đã chịu tử đạo. Ắt hẳn thánh nhân đã trải qua kinh nghiệm chịu bách hại, mệt mỏi, và hiểm nguy trong việc theo bước Chúa.
Chúng ta hãy cảm tạ Thiên Chúa, cũng như các tín hữu thời các Tông Đồ, vì sức mạnh và niềm vui Chúa Kitô đã được truyền lại đến ngày nay cho chúng ta. Mọi thế hệ Kitô hữu, mọi cá nhân đều được mời gọi lãnh nhận sứ điệp Phúc Âm và truyền thụ lại cho người khác. Ơn Chúa không bao giờ thiếu: Cánh tay Chúa không bị thu ngắn. Người tín hữu biết Chúa đã thực hiện các phép lạ từ nhiều thế kỷ trước kia, và hiện nay Người vẫn đang thực hiện. Với ơn Chúa giúp, mỗi người chúng ta cũng sẽ thực hiện những phép lạ nơi tâm hồn thân nhân, bạn bè, và những người quen biết, nếu chúng ta sống trong mối kết hợp với Chúa Kitô qua lời cầu nguyện.
Giáo Hội hôm nay nêu lên mẫu gương thánh Máccô. Thật là một hy vọng và ủi an khi chiêm ngưỡng đời sống vị sử gia thánh thiện này. Mặc dù có những yếu đuối, nhưng chúng ta vẫn có thể như ngài, tin tưởng vào ơn Chúa và sự phù trợ của Mẹ Giáo Hội. Những thất bại và những hành vi nhát đảm của chúng ta, dù lớn hoặc nhỏ, phải làm chúng ta khiêm tốn hơn, liên kết chúng ta mật thiết hơn với Chúa Giêsu, và kín múc từ nơi Chúa nguồn sức mạnh mà chúng ta đang thiếu thốn.
Tin Mừng là của Thánh Máccô, một Tin Mừng có một có một sức mạnh rất cụ thể sống động chống lại sức mạnh của quỉ dữ muốn làm hại Chúa Giêsu. Ngày nay người ta khá coi thường một thứ Tin Mừng có nhiều phép lạ, nó lôi kéo chú ý về những kỳ lạ hơn về sứ điệp thứ tha và giải tháot của Tin Mừng; may thay bản văn vẫn ưu tiên dành cho lời Chúa. Hãy suy nghĩ đến sức mạnh tâm hồn của các vị truyền giáo, đến những ân huệ các Ngài đã mang đến cho một thế giới trong lầm than được nghe loan báo về Đấng Cứu Thế đã toàn thắng, đã đoạt được vinh quang của ngai tòa Thiên Chúa. Như Máccô, khiêm tốn nhưng hăng say, chính Ngài đã tiếp tục theo chân những người nghèo khó nói những lời định mệnh cho đến tận thế để nối đất của chúng ta với trời.
Và ta thấy Thánh Máccô thực hiện mệnh lệnh ra đi loan báo Tin Mừng của Chúa bằng cách đi truyền giáo với Thánh Phaolô. Ngài đi truyền giáo với Banaba. Ngài đi theo và làm phụ tá cho Thánh Phêrô. Ngài làm giám mục phục vụ cộng đoàn Alexadre. Cuối cùng, Ngài đã viết và lưu truyền cho hậu thế cuốn Tin Mừng mang tên Ngài, Tin mừng theo Thánh Máccô.
Mỗi người chúng ta mừng lễ Thánh Máccô hôm nay, hãy noi gương bắt chước Ngài, bằng cách đóng góp phần mình cho việc loan báo Tin mừng. Bởi vì, loan báo Tin mừng là lệnh truyền của Chúa, là bổn phận của Giáo hội và của mỗi người kitô hữu chúng ta.
2020
Câu hỏi của Chúa – Đáp án của ta
CÂU HỎI CỦA CHÚA – ĐÁP ÁN CỦA TA
“Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây ?” phải chăng là mấu chốt, là đỉnh cao của Lời Chúa ngày hôm nay với chúng ta.
Đọc và suy niệm Tin Mừng, ta thấy truyền thống Tin Mừng rõ ràng đã gán một tầm quan trọng đặc biệt cho phép lạ hóa bánh ra nhiều, bởi vì đây là phép lạ duy nhất được cả bốn Tin Mừng ghi lại. Đàng khác, bài tường thuật về biến cố này chiếm một vị trí đặc biệt quan trọng trong mỗi Tin Mừng: có thể nói bài này là một đỉnh cao trong chương trình của Chúa Giêsu nhằm bày tỏ quyền năng thiên sai của Người và cũng là khoảnh khắc các thính giả phải quyết định tin vào Người. Riêng trong Tin mừng thứ 4, chương 6 là một tổng hợp sứ vụ của Chúa Giêsu tại Galilê, là một trong những mạc khải sâu sắc nhất về Chúa Giêsu và cho thấy cách rõ nét nhất chọn lựa đức tin mà con người phải thực hiện là như thế nào.
Thế nhưng rồi khi nhìn vào chi tiết, ta thấy bản văn của Thánh Gioan khác với các bản văn Nhất Lãm ở nhiều điểm.
Trong các Tin mừng Nhất Lãm, ta thấy các tông đồ lưu ý Chúa Giêsu rằng đám đông không có gì ăn cả. Còn ở đây sáng kiến lại phát xuất từ Chúa Giêsu: “Người đã biết mình sắp làm gì rồi” (c. 6).
Trong các Tin mừng Nhất Lãm, các tông đồ chỉ được nhắc đến như một nhóm; ở đây, ta có Philípphê, rồi Anrê. Chúa Giêsu hỏi Philípphê một câu đơn giản: “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” (Ga 6,5).
Rồi trong một lời bình luận riêng (c. 6), Thánh Gioan giải thích rằng Chúa Giêsu hỏi vậy không phải là ngẫu nhiên. Câu hỏi được nêu ra là để thử Philípphê về đức tin của ông, còn Người thì Người biết Người sắp làm gì. Động từ này khiến ta nhớ tới biến cố Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa “thử” dân Ngài: Rõ ràng tác giả giải thích truyền thống Chúa Giêsu nuôi đám đông dưới ánh sáng của truyền thống Kinh Thánh nói về Đức Chúa ban man-na cho dân Ngài ăn trong thời Xuất Hành (Ga 6, 25-40).
Mẩu đối thoại với Philípphê cho thấy thật rõ là con người không có khả năng hiểu được và giải quyết được vấn đề. Riêng Chúa Giêsu thì đang làm chủ tình thế (như ở các dịp khác: 10,18; 11,6-15; 13,1; 18,4; 19,28). Nếu câu hỏi được đặt ra cho Philípphê thì chắc là vì các sự việc đã xảy ra như thế. Còn nếu Philípphê và Anrê được nhắc tới đích danh ở đây hẳn là vì các ông là người Bétxaiđa, tức thuộc vùng Biển Hồ, nơi Chúa Giêsu đang hiện diện, nên các ông biết rõ là vào lúc này, khó mong tìm được lương thực ở vùng này.
Sự can thiệp của Anrê cũng cho ta thấy rằng hoàn cảnh này không có lối thoát về phương diện con người; như vậy, ơn cứu độ đến từ Thiên Chúa. Ngoài ra, có nhiều chi tiết nhắc lại Cựu Ước: từ ngữ “em bé” và cụm từ “năm chiếc bánh lúa mạch” đưa ta trở về với 2 V 4,42-44: Êlisa hóa bánh ra nhiều; “cá nhỏ”nhắc đến Ds 11,22: nêu bật sự yếu đuối của loài người và quyền năng của Thiên Chúa.
Trong các Tin Mừng Nhất Lãm, các môn đệ phân phát bánh và cá; ở đây, chính Chúa Giêsu phân phát (c. 11).
Có nhiều chi tiết khiến bài tường thuật có một màu sắc Thánh Thể. Trước tiên, cử chỉ Chúa Giêsu cầm lấy bánh và phân phát (c. 11) dường như gợi nhắc đến bữa tối cuối cùng.
Dừng lại một chút, ở đây ta thấy Thánh Gioan muốn gợi lại phép lạ man-na trong sa mạc cho đoàn dân bước đi dưới sự lãnh đạo của Môsê. Nhưng Chúa Giêsu không chỉ là Môsê tái hiện, Người là Môsê chân chính cao trọng hơn Môsê ngày xưa. Trong sa mạc, người ta chỉ có thể lượm được lượng man-na cần thiết (Xh 16,4.16-18). Ở đây, lượng bánh được ban dồi dào: thu lại được mười hai thúng cũng dồi dào như lượng rượu tại Cana, nhằm chứng tỏ Chúa Giêsu là đích điểm của nỗi niềm chờ mong của Israel. Mười hai là con số hoàn hảo: phép lạ bánh nuôi no nê đám đông, có thể làm no thỏa các thế hệ sẽ đến.
Phép lạ bánh này còn nhắc nhớ đến việc Êlisa cho một đám đông ăn no, vì ở hai nơi đều có các bánh lúa mạch, em bé trai, vấn nạn về số lương thực quá ít so với nhu cầu, sự no nê lạ lùng. Như thế là sự nối tiếp từ Cựu Ước sang Tân Ước, từ Êlisa sang Chúa Giêsu, như từ hành trình đến đích điểm.
Lượt qua một số điểm then chốt của trang Tin Mừng, ta thấy rõ được 2 cung cách giữa 2 bên là Thiên Chúa và con người. Chúa Giêsu như thử hỏi khả năng của con người khi nói “Ta mua đâu ra bánh cho họ ăn đây?” nhưng Chúa biết việc Chúa sẽ làm. Còn phần ông Philípphê đáp : “Thưa, có mua đến hai trăm quan tiền bánh cũng chẳng đủ cho mỗi người một chút.” Phải chăng lời Philipphê nói khả năng thật của con người.
Ngày hôm qua cũng thế mà ngày hôm nay cũng vậy, khi nhìn vào thế giới, nhìn vào con người, có khi ta cảm thấy buông xuôi vì khả năng con người hạn hẹp. Không chỉ hạn hẹp mà thôi mà con người lại gặp một số người vô cảm.
Trước nạn dịch, mạnh người nào vun vén được thì người đó vun vén, người nào chia sẻ thì chia sẻ.
Hình ảnh những bao gạo và những thùng mì gói chở đến cây ATM gạo và ATM mì đối lập với băng nhóm người trục lợi dụng cụ y khoa vừa bị bắt. Còn đó chưa nói đến những người làm khẩu trang giả, nước giả và thuốc giả.
Những hình ảnh đó làm cho chúng ta nao lòng vì lẽ chúng ta cũng là con người, chúng ta bị giằng co trước lối hành xử của những con người như thế trong cuộc đời. Thế nhưng rồi, chúng ta được mời gọi có niềm tin và sống niềm tin vào Chúa nhất là sống chia sẻ với anh chị em đồng loại.
Mỗi người chúng ta, hãy như là em nhỏ kia, hãy chia sẻ một chút bánh và một chút cá của chúng ta cho anh chị em đồng loại.
Bây giờ phải chăng là lúc thật cần và rất cần tấm lòng của chúng ta. Câu hỏi của Chúa dường như vẫn vang vọng bên tai của mỗi người chúng ta. Phần chúng ta, chúng ta đáp trả như thế nào đó lại là phần của chúng ta.