2020
Khiêm nhường
31 15 X Thứ Bảy tuần 30 Mùa TN.
Pl 1,18b-26; Lc 14,7-11
KHIÊM NHƯỜNG
Trang Tin Mừng hôm nay kể lại, Chúa Giêsu được mời đi dự tiệc tại nhà một thủ lãnh Pharisiêu, khi thấy người ta đi dự tiệc cứ chọn chỗ nhất, Chúa Giêsu đã dạy họ phải tìm chỗ cuối hết. Ngài không dạy cho chúng ta một mánh lới, một tiểu xảo để được vinh dự khi chủ nhà mời ta lên cỗ nhất. Trái lại, Ngài muốn nhân cơ hội đó dạy ta về đức khiêm nhường đích thật.
Người Do Thái cũng giống như người Việt Nam chúng ta, thường rất thích sĩ diện. Ngày xưa, các cố ông cố bà chỉ ao ước được một lần vinh dự ăn tiệc giữa làng, nơi chỉ có các chức sắc, vai vế trong hương thôn làng xã mới được mời, nên đã ví von bằng hình ảnh: “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”. Nhưng “miếng giữa làng” chắc gì đã ngon hơn “sàng xó bếp” vì coi chừng bị ngộ độc thực phẩm do làm vội, làm ẩu và làm bẩn; và chắc chắn “miếng giữa làng” sẽ chẳng no bụng như “ sàng xó bếp” vì tiệc xong về nhà lại phải dặm thêm một gói mì tôm.
Thế nhưng tại sao người ta vẫn thích, vẫn muốn và vẫn “mê” miếng giữa làng ấy? Thưa, bởi vì kèm theo “miếng giữa làng” là những ánh mắt thèm thuồng, ước ao, những lời xì xào bàn tán, những câu bình phẩm khen chê vì mình không được vinh dự đó. “Miếng giữa làng” ngày xưa ấy bây giờ đã được biến đổi. Nó không còn chỉ ở trên bình diện miếng ăn nữa mà nó đã trở thành sự háo danh và chen vào mọi sinh hoạt của người Kitô hữu, ngay cả những sinh hoạt đạo đức: muốn được ghi tên trên bảng vàng nhà thờ vì đã dâng cúng cái này cái kia, muốn được mọi người trong xứ biết đến vì mình đã có công với giáo xứ, thậm chí tôi dâng cúng cái ghế đá ở đài Đức Mẹ thì phải có tên gia đình tôi ở sau lưng ghế, đi lễ hằng ngày và đọc kinh to để mọi người thấy tôi là người đạo đức, cho ai cái gì thì tôi phải được mọi người chân nhận là đầy tình bác ái yêu thương…
Tóm lại, nhiều Kitô hữu chúng ta đang đi vào bước chân của những người Pharisiêu, những kẻ đã bị Chúa Giêsu kết án là giả hình. Để tránh cái thói háo danh và giả hình ấy, Chúa mời gọi chúng ta sống khiêm nhường, hãy thấy rằng mình cũng chỉ mang thân phận con người đầy những yếu đuối bất toàn trước mặt Thiên Chúa và vì vậy đừng lên mặt với người khác nhưng hãy biết vị trí thật của mình là gì. Chúa không chỉ dạy chúng ta sống đức khiêm nhường, nhưng chính ngài đã đi bước trước, đã sống trước: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự…” (Pl 2, 6 – 8).
Thánh Phaolô suy niệm và thấy rằng Đức Kitô đã khiêm nhường tự hạ và sự tự hạ sâu thẳm nhất đó là Ngài đã vâng lời thực hiện thánh ý Chúa Cha bằng việc chấp nhận chết đau thương trên thập giá. Điều đó cũng đúng trên Đức Maria, mặc dù được chọn sinh ra Đấng Cứu Độ muôn loài, nhưng Mẹ vẫn khiêm nhường tự nhận mình là tỳ nữ thấp hèn và sẵn sàng tuân hành thánh ý: “Này tôi là nữ tỳ của Chúa, tôi xin vâng như lời Sứ Thần truyền…” (Lc 1, 38).
Thánh Luca đã liên tưởng đến những cộng đoàn phụng vụ, trong đó khi người ta tụ họp lại, những vấn đề về giai cấp, giàu nghèo đã nảy sinh. Chính thánh Giacôbê cũng đã gặp vấn đề đó trong cộng đoàn của mình (Gc 2, 2-3).
Đó là một thực tế không chỉ xảy ra trong xã hội Do Thái, thời Chúa Giêsu, trong cộng đoàn tín hữu sơ khai, mà còn xảy ra trong xã hội và trong cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta không phủ nhận giá trị của những cách tổ chức, sắp đặt sao cho đúng người, đúng chỗ; nhưng điều quan trọng là mỗi người hãy biết cư xử đúng danh phận, nhất là biết khiêm nhường. Hơn nữa, danh phận, phẩm giá của một người không thể do thái độ chủ quan định đoạt mà là do thái độ trân trọng của cộng đoàn, đặc biệt là sự thẩm định của người chủ tiệc.
Chính thái độ trịch thượng, vượt trên danh phận, ngồi sai vị trí, mới làm cho người ta phải bẽ mặt khi có người danh phận cao hơn xuất hiện.
Khiêm nhường, tự hạ không chỉ là cách sống, là lời giảng dạy thường xuyên của Chúa Giêsu và còn là giáo huấn được các Tông đồ, môn đệ Chúa, thường xuyên nhắn nhủ. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê, tóm tắt cuộc đời khiêm nhường, tự hạ của Chúa Giêsu như sau: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ” (Pl 2, 6-8).
Với đời sống khiêm nhường như thế, Chính Ngài được Chúa Cha tôn vinh: “Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 9).
Thế nhưng Thiên Chúa đã dùng Ngài như khí cụ để thực hiện những phép lạ phi thường. Đến lượt chúng ta, các Kitô hữu, con đường mà chúng ta phải đi cũng là con đường đó: bắt chước Chúa Giêsu, Mẹ Maria và các Thánh để nỗ lực thực hiện đức khiêm nhường, để sẵn sàng vâng theo thánh ý Chúa, ý Giáo Hội và cả ý bề trên.
Ta xin Chúa cho mỗi người chúng ta biết nhìn lên gương Chúa, sống khiêm nhường, tự hạ để mỗi người đều được tôn trọng đúng phẩm giá và được Chúa Cha là Chủ tiệc cất nhắc lên như chính Ngài đã được Chúa Cha tôn vinh.
2020
Vụ luật làm chi ?
30 14 X Thứ Sáu tuần 30 Mùa TN.
Pl 1,1-11; Lc 14,1-6
VỤ LUẬT LÀM CHI ?
Hôm nay Chúa Giêsu cho thấy con người là ưu tiên tối thượng của lề luật. Luật lệ, ngay cả luật ngày Sabát, cũng sẽ thành vô nghĩa nếu không vì lợi ích của con người. Đối với Ngài, chỉ có một luật lệ gồm tóm và là nền tảng của mọi luật lệ, đó là yêu thương. Nhưng để có yêu thương, trước tiên phải có sự nhìn nhận và tôn trọng phẩm giá mỗi người.
Và ta thấy ngang qua việc người đàn bà mắc bệnh phù thũng đến với Chúa Giêsu đúng vào ngày Sabát, và các người Luật Sĩ tỏ ra khó chịu! Nhân cơ hội này, Chúa Giêsu dạy cho những người Luật Sĩ bài học tình thương phải phát xuất từ tấm lòng chân thật chứ không phải vì giả bộ bề ngoài.
Đây không phải là lần đầu Chúa Giêsu và các người biệt phái bất đồng ý kiến với nhau về việc giữ luật ngày sabát. Và đây cũng không phải lần đầu Chúa Giêsu đưa ra lời giải thích về luật một cách rất hợp lý khiến họ không thể nào cãi lại được. Thế nhưng họ vẫn chứng nào tật ấy, vẫn tiếp tục rình mò và bắt bẻ Chúa. Những người tưởng mình biết, tưởng mình đạo đức có thể mù quáng đến ngoan ố như vậy đó.
Chuyện xảy ra là Chúa Giêsu đến nhà một thủ lãnh nhóm Pharisiêu dùng bữa. Khi ấy có một người bị phù thũng đến trước mặt Ngài. Ngài không thể thờ ơ trước nỗi khốn khổ của anh ta, nên Ngài đã quay sang hỏi những người Pharisiêu: “Có được phép chữa bệnh ngày sa bát hay không?” Chúa hỏi như vậy không phải để xin phép họ cho chữa bệnh ngày sabát, nhưng là chất vấn lương tâm họ. Và thái độ của họ khi đó là im lặng. Họ im lặng không có nghĩa là họ tỏ dấu đồng thuận với việc Chúa sẽ chữa lành cho người bệnh này trong ngày sabát. Họ vẫn biết là Chúa có quyền năng chữa lành cho người bệnh, nhưng luật là luật: Không thể chữa bệnh ngày sa bát đươc! Chính vì vậy họ im lặng.
Nhân danh lề luật, những người Biệt phái thời Chúa Giêsu không ngừng dòm ngó rình mò để bắt bẻ Ngài, nhất là những gì có liên quan đến việc tuân giữ ngày Hưu lễ như được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay. Nhưng đối với Chúa Giêsu, linh hồn của lề luật chính là tình yêu thương. Tất cả vụ án của Chúa Giêsu đều bắt nguồn và xoay quanh những cuộc đối đầu về lề luật. Ðối đầu với những người Biệt phái cho đến cùng bằng cái chết trên Thập giá, Chúa Giêsu muốn chứng tỏ cho con người thấy rằng chỉ có một lề luật duy nhất để tuân giữ, đó là luật yêu thương, và chỉ có một giá trị cao cả nhất để sống và chết cho, đó là tình yêu.
Quả thật, vì quá câu nệ vào luật mà những người Pharisiêu đã bóp nghẹt lòng trắc ẩn, chạnh thương của mình trước nỗi thống khổ của con người. Không những vậy, vì chỉ biết khư khư bảo vệ tập tục, luật lệ mà họ tìm cách dò xét và lập mưu để bắt lỗi Đức Giêsu – người mà theo nhận định của họ là kẻ hay phá luật.
Khởi đi từ câu hỏi: “Trong ngày Sabát, có được phép chữa bệnh không?”, tiếp theo sau đó, Ngài lại đặt ra một tình huống và yêu cầu họ trả lời: “Trong ngày Sabát, ai trong các ông có con lừa hay con bò rơi xuống giếng mà không lập tức kéo nó lên sao?”. Tuy nhiên, họ đã cứng họng và không thể trả lời được bất cứ câu hỏi nào của Chúa Giêsu.
Lý do những Luật Sĩ không thể trả lời được các câu hỏi của Chúa Giêsu chỉ vì họ sống vụ luật, hình thức, giả tạo. Nên gặp phải Đấng là nguồn gốc của chân lý, tình thương thì đương nhiên họ phải câm miệng, bởi vì họ thuộc hạng người: luôn lừa gạt, hình thức và chất những gánh nặng không thể vác nổi lên vai người ta, còn họ, họ không đụng một ngón ta mà lay thử.
Thật vậy, nếu luật mà không có tình thương thực sự thì hẳn sẽ chỉ là trò bịp bợm, dối lừa và lợi dụng mà thôi. Câu chuyện trên cho thấy rõ bản chất của chàng trai kia: hắn giữ luật là bảo vệ người thấp cổ bé họng, chân yếu tay mền trước sự tấn công của kẻ mạnh, nhưng những hành vi, nghĩa cử đó của hắn đâu phải vì tình thương, mà là một chiêu thức tinh vi, một trò bỉ ổi để lừa gạt mà thôi.
Đối với Chúa Giêsu, chỉ có một luật mà người ta phải giữ đó là luật của tình thương. Ngài vẫn biết rằng giới lãnh đạo Do thái đang tìm mọi cơ hội để dò xét và bắt lỗi Ngài, nhưng vì lòng chạnh thương trước những người nghèo khổ, bệnh tật, Ngài bất chấp tất cả mọi hiểm nguy, bất chấp mọi mưu mô, tính toán của người ta.
Đối với Chúa Giêsu, chỉ có một luật mà người ta phải giữ đó là luật của tình thương. Ngài vẫn biết rằng giới lãnh đạo Do thái đang tìm mọi cơ hội để dò xét và bắt lỗi Ngài, nhưng vì lòng chạnh thương trước những người nghèo khổ, bệnh tật, Ngài bất chấp tất cả mọi hiểm nguy, bất chấp mọi mưu mô, tính toán của người ta.
Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi chúng ta hãy tránh cho xa thói chuyên nghề bịt bợm, lưu manh nhân danh đạo đức, nhân danh công lý như những người luật sĩ khi xưa. Đừng vì cái mác đạo đức bên ngoài mà bất nhân đến độ loại bỏ tiếng Lương Tâm để đi đến hành vi vu oan cho người khác, chỉ vì người ta dám nói lên sự thật, hay vì người ta dễ thương khi sống cốt lõi của Tin Mừng là tình thương….
2020
Bền đỗ đến cùng
29 13 X Thứ Năm tuần 30 Mùa TN.
Ep 6,10-20; Lc 13,31-35
BỀN ĐỖ ĐẾN CÙNG
Hôm nay, qua bài Tin Mừng, Chúa Giêsu làm toát lên hình ảnh của một Vị Thiên Chúa yêu thương con người như: “Gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Quả thật, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che chúng ta dưới bóng cánh của Người, lúc mưa, lúc nắng, khi bão tố, hay khi bị kẻ thù tấn công. Người yêu thương ta bằng một tình yêu trọn vẹn. Người đã cho đi tất cả, kể cả người Con Một duy nhất chính là Đức Giêsu. Khi Đức Giêsu đến, Ngài đã thi hành sứ vụ của Chúa Cha trong tình yêu. Ngài đã yêu thương họ đến cùng và đã chết vì yêu.
Cái chết luôn là một đe dọa đối với con người. Lo sợ càng tăng khi cái chết là một cực hình. Là con người như chúng ta, Chúa Giêsu cũng không tránh khỏi những lo âu sợ hãi trước cái chết như Ngài đã cho thấy điều đó trong cơn hấp hối tại vườn Giêtsimani.
Tuy nhiên, trong Tin mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã tỏ ra bình thản trước việc Hêrôđê đang tìm cách sát hại Ngài, Chúa Giêsu bình thản đến độ dững dưng với thách đố ấy. Tại sao?thưa tại bởi Ngài luôn trung thành tuyệt đối với ý định của Thiên Chúa. Thật vậy, cả cuộc đời Ngài là một tiếng xin vâng đối với thánh ý của Chúa Cha. Do đó một khi biết rằng có một hiến lễ phải hoàn tất và hiến lễ ấy nằm trong chương trình của Thiên Chúa, thì không gì phải làm Ngài bận tâm, ngoài việc chu toàn công việc được giao phó.
Còn chúng ta thì sao? Trước những khổ đau và nghịch cảnh của cuộc sống, chúng ta đã xác tín vào Thiên Chúa chưa? Hay chúng ta đã quá lo lắng, sợ hãi đến nỗi phải đi coi bói, hoặc tin tưởng vào một điều dị đoan nhảm nhí nào đó. Tệ hơn nữa, vì hiềm khích, tham lam và kiêu ngạo, ta đã đắm chìm trong tội, nên không thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Ta đã bị một lớp mây mù dày đặc của tội lỗi làm cho mắt mình không còn phân biệt được tốt – xấu. Hay đôi khi nhận ra, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì danh dự, vì chức quyền, ta đã nhắm mắt trước tình yêu của Ngài, và đã đi ngược lại với tiếng Lương Tâm.
Tuy nhiên, vì hiềm khích, tham lam và kiêu ngạo, con người vẫn đắm chìm trong tội, nên không thể nhận ra tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình. Họ đã bị một lớp mây mù dày đặc của tội lỗi làm cho mắt họ không còn phân biệt được tốt – xấu. Hay đôi khi nhận ra, nhưng vì miếng cơm, manh áo, vì danh dự, vì chức quyền, họ đã nhắm mắt trước tình yêu của Ngài, và đã đi ngược lại với tiếng Lương Tâm.
Bản chất Thiên Chúa là tình yêu, vì thế, nhiều lần và nhiều cách, Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu của Người cho nhân loại ngang qua sự chăm sóc, quan phòng của Người dành cho ta.
Có những lúc, Thiên Chúa được ví như người cha răn dạy con cái; như người mẹ yêu thương, an ủi, vỗ về; như người chồng yêu thương vợ; như người bạn luôn đồng hành…
Chúa Giêsu làm toát lên hình ảnh của một Vị Thiên Chúa yêu thương con người như: “Gà mẹ ấp ủ gà con dưới cánh”. Quả thật, Thiên Chúa luôn bao bọc chở che chúng ta dưới bóng cánh của Người lúc mưa, lúc nắng, khi bão tố, hay khi bị kẻ thù tấn công. Người yêu thương ta bằng một tình yêu trọn vẹn. Người đã cho đi tất cả, kể cả người Con Một duy nhất chính là Chúa Giêsu. Khi Chúa Giêsu đến, Ngài đã thi hành sứ vụ của Chúa Cha trong tình yêu. Ngài đã yêu thương họ đến cùng và đã chết vì yêu.
Chúa mời gọi chúng ta hãy sống trong tâm tình của những người con đã được Thiên Chúa yêu thương. Nhận ra tình yêu của Người và chia sẻ tình yêu đó cho người khác. Khi đã lựa chọn Chúa là mục đích, lẽ sống, thì cũng đón nhận những lời giáo huấn dạy dỗ của Ngài như khuôn vàng thước ngọc, thi hành luật Chúa trong lòng mến. Tránh tình trạng như Hêrôđê luôn tìm cách loại trừ Chúa Giêsu chỉ vì những điều tốt đẹp Ngài đã làm, hay như những người Pharisêu, vì sợ phiền hà, liên lụy, hay vì không chấp nhận chân lý của tình thương mà đã mượn gió bẻ măng, tiếp tay cho sự gian ác để đồng lõa loại bỏ Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay giúp mỗi người chúng ta có được một xác tín: Thiên Chúa là người Cha đầy yêu thương, nhờ đó, chúng ta sẽ có được sự tin tưởng phó thác trước tương lai và bình an trong mọi thử thách, mọi nghịch cảnh ở đời vì biết rằng tương lai không hoàn toàn thuộc về mình và mọi nghịch cảnh có xảy đến cho ta cũng không nằm ngoài ý định yêu thương của người Cha. Đồng thời còn biết sẵn sàng chấp nhận số phận thương đau với Chúa bằng một sự kiên trì nhẫn nại vì: “Ai bền đỗ đến cùng sẽ được cứu rỗi”.
2020
Ý thức ơn gọi
THÁNH SIMON VÀ GIUĐA TÔNG ĐỒ. Lễ kính.
Ep 2,19-22; Lc 6,12-19
Ý THỨC ƠN GỌI
Ta cần nhớ thánh Simon mà ta mừng Lễ hôm nay khác với Simon được Chúa Giêsu đặt tên là Phêrô và thánh Giuđa này khác với Giuđa Iscariốt. Phụng vụ trong ngày lễ mừng hai thánh Simon và Giuđa hôm nay, Chúa muốn cho chúng ta chứng kiến lại việc chọn các tông đồ.
Simon nhiệt thành và Giuđa mà chúng ta mừng kính hôm nay, không có những nét nổi bật như Simon Phêrô, Giacôbê và Gioan, và ngay cả Philipphê hay Batôlômêô mà cũng còn được nhắc đến thêm đôi ba lần nữa trong sách Tin Mừng, nhưng hai vị này thì chỉ nhìn thấy trong Nhóm Mười Hai, được Chúa Giêsu chọn sau khi Ngài đã trải qua một đêm cầu nguyện với Chúa Cha.
Tuy nhiên cuộc sống và cái chết chứng tá của thánh Simon và thánh Giuđa sau này đủ để nói lên rằng các ngài đã sống trọn vẹn trong cung cách tông đồ của mình và xứng đáng với sự lựa chọn của Chúa.
Tất cả những chọn lựa của Thiên Chúa đều bất ngờ, nghĩa là vượt lên trên những tiêu chuẩn chọn lựa thông thường của con người. Từ Abraham qua Môsê, đến các ngôn sứ và Ðavít, tất cả đều được chọn lựa không phải vì tài năng đức độ riêng của họ: Môsê chỉ là một người ăn nói ngọng nghịu; Ðavít là cậu bé kém cỏi nhất trong số anh em mình, Yêrêmia, Isaia đều nhận ra nỗi bất lực yếu hèn của mình khi được Thiên Chúa chọn làm ngôn sứ.
Tiếp tục đường lối của Thiên Chúa, Chúa Giêsu cũng đã chọn các môn đệ của Ngài theo những tiêu chuẩn bất ngờ nhất. Mười hai Tông đồ được Ngài chọn làm cộng sự viên thân tín nhất và đặt làm cột trụ Giáo Hội, không phải là bậc tài ba xuất sắc, cũng không phải là thành phần ưu tú thuộc giai cấp thượng lưu trong xã hội; trái lại họ chỉ là những dân chài quê mùa dốt nát miền Galilê; có người xuất thân từ hàng ngũ thu thuế tức là hạng người thường bị khinh bỉ.
Thánh Luca đã ghi lại một chi tiết rất ý nghĩa trong việc lựa chọn của Chúa Giêsu: Ngài đã cầu nguyện suốt đêm. Không ai biết rõ nội dung, nhưng sự liên kết với Thiên Chúa trong cầu nguyện và việc chọn lựa cho thấy tính cách nhưng không của ơn gọi: Thiên Chúa muốn gọi ai tùy Ngài và sự lựa chọn đúng không dựa vào tài đức của con người. Chúa Giêsu đã cầu nguyện, bởi vì Ngài biết rằng tự sức riêng, con người không thể làm được gì. Phêrô đã cảm nghiệm thế nào là sức riêng của con người khi ông chối Chúa ba lần; sự đào thoát của các môn đệ trong những giờ phút nguy ngập nhất của cuộc đời Chúa, và nhất là sự phản bội của Yuđa, là bằng chứng hùng hồn nhất của sức riêng con người. Bỏ mặc một mình, con người chỉ chìm sâu trong vũng lầy của yếu đuối và phản bội.
Từ mười hai người dân chài thất học, Chúa Giêsu đã xây dựng Giáo Hội của Ngài. Nền tảng của một Giáo Hội không phải là sức riêng của con người, mà là sức mạnh của Ðấng đã hứa: “Thầy sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế”. Chính sự hiện diện sinh động và ơn thánh của Ngài mới có thể làm cho Giáo Hội ấy đứng vững đến độ sức mạnh của hỏa ngục không làm lay chuyển nổi.
Thánh Phaolô, người đã từng là kẻ thù số một của Giáo Hội cũng đã bất thần được Chúa Giêsu chọn làm Tông đồ cho dân ngoại. Ngài luôn luôn cảm nhận được sức mạnh của ơn Chúa: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”, hoặc “Nếu phải vinh quang, thì tôi chỉ vinh quang về những yếu đuối của tôi mà thôi, vì khi tôi yếu, chính là lúc tôi mạnh”.
Suy niệm về việc Chúa Giêsu tuyển chọn mười hai Tông đồ của Ngài, chúng ta được mời gọi nhận ra thân phận yếu đuối bất toàn của chúng ta, đồng thời nói lên niềm tín thác của chúng ta vào tình yêu của Ngài. Chỉ có một sức mạnh duy nhất để chúng ta nương tựa vào, đó là sức mạnh của ơn Chúa. Với niềm xác tín đó, thì dù phải trải qua lao đao thử thách, chúng ta vẫn luôn hy vọng rằng tình yêu của Chúa sẽ mang lại những điều thiện hảo cho chúng ta.
Các Tông Đồ được chọn ở trên núi, nhưng chính là để theo Chúa Giêsu xuống núi, vì cả một nhân loại đông đúc đang mong chờ để nghe lời Chúa Giêsu và để được chữa lành. Nhưng các ông chưa phải làm gì cả, chỉ lắng nghe Chúa Giêsu giảng và nhìn ngắm Ngài chữa lành bệnh tật, nhất là nhìn ngắm sự kiện: Tất cả đám đông tìm cách đụng vào Ngài, vì có một năng lực tự nơi Ngài phát ra, chữa lành hết mọi người. (c. 19)
Các Tông Đồ và cả chúng ta nữa, sẽ được Chúa Giêsu tin tưởng trao ban sứ mạng thực hiện cùng những gì mà Ngài đã làm, nghĩa là rao giảng Lời Chúa và phục vụ sự sống của nhiều người.
Nhưng dù chúng ta làm việc gì, có chức vụ gì, sứ mạng của chúng ta vẫn là giúp người ta “đụng chạm” cho được Đức Kitô.
Hai thánh tông đồ Simon và Giuđa đã hiên ngang làm chứng cho Chúa phục sinh. Các Ngài đã lãnh triều thiên vinh quang Chúa dành cho những kẻ trung tín với Ngài.
Mừng kính thánh Simon và Giuđa Tông Đồ hôm nay, ước gì mỗi người chúng ta cũng ý thức mình được gọi và chọn làm môn đệ của Chúa Giêsu. Chúng ta cùng đi trên hành trình với Chúa. Chúng ta luôn “nói với Chúa” khi lên núi cầu nguyện mỗi ngày ; và chúng ta luôn “nói về Chúa” trong tiến trình hoạt động ngày sống của chúng ta. Ước gì chúng ta cũng biết ngưỡng mộ từ tâm của Chúa, cứu giúp những ai khổ đau đang cần được cứu chữa. Ước gì chúng ta cũng biết đi theo con đường kỷ luật Chúa đã đi là “luôn nói với Chúa và nói về Chúa”.