2021
CHỨNG NHÂN PHỤC SINH
CHỨNG NHÂN PHỤC SINH
Việc Chúa Giêsu Phục Sinh đã biến đổi hẳn ý nghĩ và tình cảm của con người (bà Maria Mađalêna chính là đại diện) trước cái chết: nếu không tin việc Phục Sinh, chúng ta đau buồn than khóc trước cái chết của một người thân và tiếc nuối đi tìm thân xác họ, khi đã có niềm tin Phục Sinh, chúng ta sẽ không còn than khóc và sẽ không tìm người sống nơi kẻ chết nữa.
Được thấy và gặp lại người mình yêu mến sau một thời gian xa cách, có thể nói, là nỗi vui mừng ai cũng mong ước. Nếu thế thì được gặp lại Chúa Giêsu, người Thầy kính yêu, vì yêu thương con người, chấp nhận hy sinh chết trên thập giá để đem lại ơn cứu độ, chắc hẳn phải là một niềm hân hoan khôn tả. Quả đúng như vậy! Niềm vui sướng vô bờ đã tràn ngập nơi Maria Mácđala, khi bà được Chúa Giêsu Phục Sinh gọi đúng tên mình, cho bà nhận ra vị Thầy thân thương ngày nào.
Tuy vậy, niềm vui được gặp Chúa Phục Sinh không phải để giữ riêng cho mình, nhưng phải ra đi để loan báo. Maria Mácđala đã vội chạy đi báo cho các môn đệ: “Tôi đã thấy Chúa và Người đã nói với tôi.”
Tin Mừng hôm nay cho thấy sự vui mừng khôn tả của bà Ma-ri-a Mác-đa-la đã thấy Chúa và đã nhận ra Ngài khi Chúa gọi tên bà. Nghe lời Chúa dạy bảo, bà Ma-ri-a vội vã chạy đi gặp các tông đồ và vui mừng báo tin “Tôi đã thấy Chúa” (x. Ga 20,11-18).
Tình cảm của bà Maria Mađalêna đối với Chúa Giêsu rất đậm đà: Khi không thấy xác Chúa Giêsu, bà khóc và cả thế giới này không còn ý nghĩa gì đối với bà nữa: bà không tìm gì khác ngoài xác của Chúa Giêsu, không nhận ra ai khác (các thiên thần, chính Chúa Giêsu mà bà tưởng là người giữ vườn). Khi Chúa gọi tên, bà nhận ra Chúa rồi sau đó vui mừng chạy đi báo cho mọi người. Tóm lại, đối với Maria Mađalêna, Chúa Giêsu là tất cả, mất Chúa Giêsu cả thế giới như sụp đổ, gặp lại Chúa là gặp lại niềm vui.
Dù Maria không còn thấy gì và không còn nhận ra ai nữa cả, nhưng Chúa Giêsu gọi tên bà thì tất cả bừng sáng trở lại. “Ta biết các chiên Ta… các chiên Ta biết Ta…” Chúa cũng biết đích danh mỗi người chúng ta và gọi đúng tên chúng ta. Phần chúng ta có nhận biết Ngài không ?
Chúa Giêsu đã hỏi Maria: “Tại sao con khóc ?” và Ngài đã biến nỗi buồn của bà thành niềm vui. Nỗi buồn nào đang khiến tôi phải khóc thầm ? Hãy dâng cho Chúa và xin Ngài hãy biến nó thành niềm vui.
Vì yêu mến Chúa, đôi khi tôi cũng thấy buồn vì không thấy Chúa: chung quanh tôi hình như không có chỗ cho Chúa ở, trong xã hội, trong những công việc và những con người. Xin cho thêm nhiều người biết Chúa, xin cho người ta biết dành chỗ cho Chúa trong việc làm và trong cuộc sống.
“Chúa Giêsu gọi bà: “Maria” bà quay lại và nói: “Rabboni” nghĩa là lạy Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “thôi đừng giữ Thầy lại… nhưng hãy đi gặp anh em Thầy”.
Sứ điệp tin mừng Phục sinh là niềm vui khôn tả nhưng luôn khẩn cấp không thể chần chừ trì hoãn vì Ðức Giêsu đã chết, sự chết làm tiêu tan tất cả và Ngài đã Phục sinh thông ban cuộc sống mới cho chúng ta: Cuộc sống được ra khỏi bóng tối của thế gian và những sự ràng buộc của nó, ra khỏi mùa đông lạnh lẽo đầy sự chết của ngôi mồ biểu tượng quyền bính của thần chết và bước vào ánh sáng của mặt trời công chính vừa bừng dậy sau giấc ngủ của đêm dài, bước trong sự ấm áp của nắng xuân Phục sinh.
Chúa Kitô Phục sinh về cùng Cha. Cha của Ngài cũng là Cha của chúng ta. Ngài về để mở đường đón chúng ta cùng về bên Cha.
Tin Mừng thuật rằng bà đang buồn phiền than khóc, thế nhưng nỗi buồn ấy liền tiêu tan khi bà nghe được tiếng Chúa và gặp được Chúa. Gặp Chúa Phục Sinh không chỉ làm bà hết buồn đau mà bà còn có niềm vui hạnh phúc và trở nên người đem niềm vui Phục Sinh đến cho những người khác.
Madalena là một phụ nữ đã được Chúa thương chữa lành và cứu vớt. Hôm nay, bà lại được diễm phúc lớn lao hơn là gặp được Đức Kitô phục sinh hiện ra nhắn bảo và trao nhiệm vụ. Nỗi đau buồn đã biến thành niềm vui, sự thất vọng bỗng chốc chuyển đổi thành niềm hy vọng. Và hơn thế nữa bà đã trở thành chứng nhân cho Tin Mừng phục sinh của Ngài
Qua bàn tiệc Lời Chúa và Thánh Thể, Chúa Giêsu Phục Sinh vẫn đang đến và gặp gỡ mỗi người chúng ta. Niềm vui được gặp Chúa của Maria Mácđala ngày nào, giờ đây cũng đang trào dâng trong con tim mỗi chúng ta khi chúng ta lắng nghe Lời Chúa và đón nhận Thánh Thể Ngài. Tựa như Maria Mácđala, bạn và tôi cũng được mời gọi để ra đi loan báo cho mọi người: “Chúa đã sống lại và tôi đã gặp Ngài.”
Từ những suy nghĩ ấy, chúng ta nhìn về bản thân mình để tự hỏi: khi gặp buồn phiền, đau khổ, thậm chí khóc lóc thì chúng ta đã làm gì? Chắc chắn vào những lúc ấy dưới một hình thức nào đó, Chúa Phục Sinh vẫn gọi ta như gọi Maria ngày xưa, thế nhưng liệu ta có nghe được tiếng Chúa gọi và nhận ra Chúa không? Rồi qua cuộc sống, ta có chiếu toả niềm vui và đem niềm vui đến cho người khác, hay trái lại người ta chỉ nghe thấy những lời than vãn, những thái độ bực dọc, cáu kỉnh của ta?
Và như vậy chúng ta đang trở thành chứng nhân của Tin Mừng hay tin buồn? Tất cả những câu hỏi ấy chỉ nhằm để tra vấn xem chúng ta đã thực sự gặp được Chúa Phục Sinh chưa? Hay chúng ta mới chỉ gặp được người giữ vườn, người giữ mồ Chúa, tức là những ảo ảnh về Chúa mà thôi?
2021
ĐÊM CỦA TIN YÊU VÀ HY VỌNG
ĐÊM CỦA TIN YÊU VÀ HY VỌNG
Hôm nay người tín hữu tụ lại nơi các Thánh Đường để mừng việc Chúa cứu thế sống lại. Qua việc chết đi cho tội lỗi trong mùa Chay, người tin hữu được sống lại trong ơn nghĩa với Chúa phục sinh. Hôm nay ta cũng mừng các anh chị em tân tòng được sống lại về phần hồn trong Bí tích Rửa tội.
Chúa Phục Sinh : Đó là niềm vui mừng và hoan lạc không chỉ cho chúng ta là những người có niềm tin, mà còn cho toàn thể nhân loại. Quả vậy, như lời Thánh Phaolô đã nói: “Nếu Chúa Kitô không sống lại, thì niềm tin của chúng ta trở nên vô ích. Và chúng ta là người dại dột hơn ai hết vì chúng ta tin vào một chuyện hão huyền”. Thế nhưng, sự thật là Đức Kitô đã sống lại từ trong kẻ chết.
Chúa Giê-su đã yêu và yêu đến cùng, nên đã hiến mạng sống mình vì chúng ta như Người đã nói: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Trong Đêm thánh vọng Phục Sinh, Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng chịu mai táng vơi Đức Kitô, chôn vùi đi con người cũ tội lỗi với mùi dục vọng sai trái, để được sống lại với Người như lời thánh Phaolô: “Hãy mặc lấy người mới đã được tạo dựng nên theo Thiên Chúa, trong công chính và thánh thiện bắt nguồn trong sự thật” (Ep 4,22-24).
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta nhìn sự kiện Chúa Giêsu phục sinh như một cuộc tạo thành mới. Bài trích sách Sáng Thế kể về trình thuật Thiên Chúa tạo dựng trời đất muôn vật mà trung tâm điểm là con người. Với công trình tạo dựng ấy, Thiên Chúa thấy mọi sự đều tốt đẹp. Thế nhưng, tình trạng tốt đẹp đó đã bị phá hỏng bởi ông bà Nguyên Tổ đã nghe theo lời ma quỷ mà phạm tội bất tuân, chống lại Thiên Chúa.
Tội lỗi ban đầu đó đã khiến cho đau khổ và sự chết tràn vào thế gian. Ảnh hưởng của tội lỗi, không chỉ trên sự sống của con người, mà còn trên muôn loài, muôn vật. Như lời Thánh Phaolô: “Cho đến bây giờ, muôn loài thọ tạo cùng rên siết và quằn quại như sắp sinh nở” (Rm 8, 22).
Nhưng nhờ sự chết và sống lại của Đức Kitô, mà muôn loài được giải thoát khỏi vòng tội lỗi và sự chết. Không chỉ có thế, sự Phục sinh của Đức Kitô, còn mang đến cho nhân loại sự sống mới sung mãn hơn, tràn đầy hơn sự sống mà nhân loại đã có thuở ban đầu. Vậy nên, chúng ta mới hiểu được lý do tại sao trong đêm Vọng Phục Sinh này Giáo Hội lại ca lên: “Ôi ! tội A-dong thật là cần thiết, tội đã được tẩy xóa nhờ cái chết của Chúa Kitô. Ôi! tội hồng phúc, vì đã cho chúng ta Đấng Cứu Chuộc cao sang”. (x.Exsultet)..
Thánh Tông Ðồ Gioan viết: “Thiên Chúa là ánh sáng, và trong Ngài, chẳng hề có tối tăm” (1Ga 1, 5). Thiên Chúa đã không tạo nên bóng tối nhưng là ánh sáng! Và sách Khôn Ngoan, tiết lộ rõ ràng rằng công việc Thiên Chúa luôn có mục đích tích cực, thế nên: “Ngài tạo ra muôn vật để chúng hiện hữu, và các loài trên thế giới loài nào cũng lành mạnh. Và giữa chúng, không thấy loại nào mang nọc độc phá hoại, và dương thế thì tương khắc với cõi âm” (Khôn ngoan 1,14).
Trong đêm đầu tiên, đêm của Tạo Dựng, đâm rễ Mầu Nhiệm Phục Sinh, mầu nhiệm mà theo sau thảm kịch của tội lỗi, tiêu biểu cho sự phục hồi và đăng quang của sự bắt đầu tiên khởi ấy. Ngôi Lời chí thánh tạo ra muôn vật và, trong Chúa Giêsu, đã hóa thành nhục thể cho sự cứu độ chúng ta. Và nếu thân phận của Ađam đầu tiên là trở lại với đất từ nơi đã được tạo thành (x. St 3,19), Ađam cuối cùng đã đến từ trời cao để quay lại đó trong vinh quang, hoa quả đầu mùa của nhân loại mới (x. Ga 3,13; 1Cor 15,47).
Đức Kitô sống lại, mang đến cho chúng ta niềm hy vọng cùng được sống lại với Người: Khi sống lại Đức Ki-tô đã mở đường cho chúng ta từ cõi chết vào trong cõi sống muôn đời. Từ nay, thập giá không còn là sự nhục nhã, nhưng là dấu hiệu của phục sinh vinh quang. Ánh sáng của Đức Ki-tô đã bừng lên trong đêm tối, và niềm hy vọng thân xác loài người sau này sẽ sống lại không phải là sự hão huyền. Đến ngày tận thế Đức Ki-tô sẽ lại đến phán xét chung nhân loại. Người sẽ cho những ai tin vào Người, thể hiện qua việc yêu thương phục vụ Người hiện thân nơi những người nghèo đói bất hạnh, cũng sẽ được vào trong vinh quang phục sinh với Người.
Ai trong chúng ta cũng thấy có sự giống nhau giữa câu chuyện lột xác của con cánh quýt, với sự Phục Sinh của Chúa Giêsu: Như con cánh quýt đã bị chết khô trên mạn thuyền, thì Đức Giê-su cũng bị chết treo trên cây thập giá. Như con cánh quýt được biến hóa trở thành con chuồn chuồn nước trong thời gian 3 giờ đồng hồ, thì Chúa Giêsu cũng được biến đổi từ tình trạng bị chết rồi sống lại trong thời gian chưa đầy 3 ngày.
Như con cánh quýt đã hóa thành con chuồn chuồn nước, khiến các con cánh quýt bạn nó không nhận ra, thì Chúa Giêsu cũng trở nên một người mới, đến nỗi nhiều môn đệ thân tín cũng không nhận ra Người sau khi phục sinh và đã hiện ra gặp gỡ nói chuyện với họ. Như con cánh quýt sau khi lột xác thành chuồn chuồn nước, đã có khả năng bay lượn trong không khí, thì thân xác của Chúa Giêsu sau khi sống lại cũng có những năng lực mới, trổi vượt hơn thân xác của Người trước đó..
Chết với Chúa Ki-tô là loại trừ con người cũ của chúng ta đang nằm dưới ách thống trị của các thói hư như tham lam, ích kỷ, kiêu căng, ghen ghét, hận thù…. để con người mới được tái sinh trong Chúa Ki-tô được lớn lên.
Sống lại với Chúa Ki-tô là mặc lấy Chúa Ki-tô như lời thánh Phao-lô: “Như giữa ban ngày, anh em hãy sống đoan trang tiết độ, không ăn uống say sưa, không chơi bời dâm đãng, không kình địch ghen tương; nhưng hãy mặc lấy Đức Giê-su Ki-tô và đừng lo tìm thoả mãn những đam mê xác thịt” (Rm 13, 13-14).
Mặc lấy Chúa Ki-tô là có những tâm tình cao đẹp, cư xử ôn hoà nhân ái như Chúa Ki-tô, biết thứ tha, yêu thương và chân thành phục vụ tha nhân như Chúa Ki-tô.
Làm được như thế, chắc chắn chúng ta sau này sẽ được khải hoàn vinh thắng với Chúa Phục Sinh.
Mừng lễ Chúa Kitô Phục sinh hôm nay, một lần nữa, Giáo Hội mời gọi chúng ta cũng biết chết đi cho con người cũ là những tính mê nết xấu; là sự ghen ghét, đố kị; là sự gian tham, lọc lừa… để sống lại cho con người mới trong Chúa Kitô là tình yêu thương, bao dung; là sự trung thực, ngay thẳng… Chỉ có như vậy, việc chúng ta mừng lễ Phục Sinh mới thực sự có ý nghĩa và mang lại cho chúng ta niềm hy vọng được Phục Sinh với Chúa.
2021
TÌNH YÊU TỰ HIẾN
LỄ TIỆC LY (Ga 13, 1 – 15)
TÌNH YÊU TỰ HIẾN
Tình yêu không chỉ bằng lời nói mà tình yêu còn phải thể hiện bằng việc làm cụ thể. Hôm nay, trong bữa ăn Chúa Giêsu đã làm một việc khiến các môn đệ hết sức ngạc nhiên. Người “đứng dậy,rời bàn ăn, cởi áo, lấy khăn, đổ nước vào chậu đi đến từng người rửa chân cho các môn đệ” (x. Ga 13, 4-5). Người đã làm công việc của một đầy tớ đối với ông chủ, của một đệ tử đồi với một người thầy. Tình yêu của Người không còn khoảng cách, Người đã đi ra khỏi vị trí của một vị Thiên Chúa để trở thành người phục vụ mọi người. Một tình yêu khiêm hạ mà Chúa Giêsu đã dành cho từng người chúng ta.
Hôm nay, Chúa Giêsu quy tụ các Tông đồ là những người thân tín với Ngài trong suốt chặng đường rong ruổi loan báo Tin Mừng. Ngài quy tụ họ, để trao lại cho họ một tặng phẩm thần linh là Bí tích Thánh Thể và truyền cho các ông hãy làm việc này mà tưởng nhớ đến Ngài. Qua đó, như một sự hiện hữu sau khi chết, để khi còn sống, Đức Giêsu ở cùng với các ông thế nào, thì ít ngày nữa thôi, Ngài cũng hiện diện và ở lại với các ông cách vô hình nhưng trọn vẹn nơi Bí tích cao trọng là chính Thánh Thể Ngài. Mặt khác, qua bữa tiệc này, phần cuối cùng của bữa tiệc, Đức Giêsu hành động và trăn trối những lời tâm huyết để xây dựng cộng đoàn Giáo Hội đó là: “Luật yêu thương”.
Chúa Giêsu đã yêu thương họ đến cùng”, nên làm môn đệ Chúa, chúng ta không thể đi ngược lại. Thứ Năm Tuần Thánh không phải là dịp diễn lại cho vui,mà là dịp để suy niệm, để sống “ mầu nhiệm yêu thương”. Chúng ta không phải sống để yêu thương cụ thể một cá nhân nào đó, mà là vì “ Ai “ mà chúng ta yêu thương họ, như Người đã yêu thương chúng ta đến cùng.
Ta không có dịp áp dụng nghĩa cử “rửa chân “ theo nghĩa đen, nhưng, ta luôn áp dụng theo nghĩa bóng đối với tất cả những người chúng ta gặp, từ trong gia đình ra đến xã hội. Vì, nghĩa cử Chúa dạy áp dụng theo tình thần thì hạnh phúc hơn. Nếu chúng ta chỉ “ rửa chân “ cho nhau theo nghĩa đen , có nghĩa là theo hình thức, thì điều ấy chỉ có tác dụng nhất thời, nhưng, nếu chúng ta thực thi theo ý nghĩa tình thần thì tuyệt vời !
Lễ Tiệc Ly hôm nay, mỗi người chúng ta được một lần nữa đón nhận chính “quà tặng tuyệt vời nhất”( ) để nhờ đó kết hợp với đời mình và toàn thể dân Chúa làm nên “Lễ Tạ Ơn” trọn hảo như đúng tên gọi của bí tích Thánh Thể : EUCHARISTIA : Lễ tạ ơn ; và một lần nữa được gọi mời sống chính cái “Giờ” đặc biệt của Chúa Giêsu, Giờ yêu thương tự hiến.
Trong bữa ăn cuối cùng này, Chúa Giêsu thiết lập mối tương giao của tình yêu Thiên Chúa với con người. Người đã lập Bí Tích Thánh Thể để chúng ta được Người nuôi dưỡng bằng chính Mình và Máu Thánh của Người. Người cũng lập Bí Tích Truyền Chức Linh Mục để Linh Mục là hiện thân của Người phục vụ anh em. Tình yêu của Thiên Chúa là thế đó. Người chấp nhận làm Tấm Bánh nhỏ được bẻ ra nuôi sống chúng ta, chấp nhận là một con người sống giữa thế gian nhưng không thuộc về thế gian, chấp nhận trở thành tôi tớ phục vụ tất cả chỉ vì yêu chúng ta.
Chúa Giêsu đã làm một việc, mà các tông đồ không thể chấp nhận được. Simon Phêrô đã phản ứng quyết liệt: Thưa Thầy, không thể như thế được, Thầy không thể rửa chân cho con như thế được. Thánh Gioan kể lại: Chúa Giêsu chỗi dậy, rời khỏi bàn ăn, cởi áo ngoài ra, lấy khăn thắt lưng, đổ nước vào chậu và cúi xuống rửa chân cho các môn đệ. Từng động tác của Chúa Giêsu được tác giả Tin Mừng cảm nhận và ghi lại chi tiết. Ngài đã chỗi dậy, không chỉ rời khỏi bàn ăn, mà còn rời bỏ địa vì là Thầy, là chủ và là Chúa, để bước đến với những con người thấp hèn bé nhỏ. Ngài cởi áo choàng ra, lấy khăn thắt lưng: Đây là một sự cởi bỏ khỏi sự tự ái khỏi cái tôi, giũ bỏ cả địa vị cao trọng để lấy khăn thắt lưng, chấp nhận biến mình trở thành một người hầu, người phục vụ, kẻ nô lệ cho học trò của mình.
Hành động rửa chân mà Chúa Giêsu đã làm trước khi thiết lập Thiên Chức Linh Mục, mang một ý nghĩa hết sức đặc biệt nói lên mục đích cao cả của Bí Tích. Không ai xứng đáng với chức linh mục, nhưng linh mục lại chính là người phục vụ, người phải quí gối xuống để rửa chân cho anh chị em mình. Với Phêrô cũng như tất cả các linh mục sau này, rửa chân còn là một dấu chỉ tích cực của đức ái mà Chúa Giêsu mong muốn các linh mục phải thực hành mỗi ngày khi nhân danh Chúa để đem Ngài đến cho mọi người: “Thầy đã làm gương cho các con để các con cũng bắt chước mà làm như Thầy đã làm cho các con” (Gioan 13, 15).
Ðối với Chúa vì yêu thương nhân loại, Ngài đã xuống thế, chịu khổ nhục và chịu chết. Ngài đã để lại Thánh Thể và Thiên Chức Linh Mục. Ðối với các linh mục, như Chúa Giêsu đã nói với Phêrô, là nếu không thông hiệp với Ðức Ái tức là Tình Yêu của Ngài, và riêng ông, nếu không sống đức ái ấy, thì “không được dự phần với Ngài”. Có thể nói, bí tích truyền chức gắn bó với bí tích Thánh Thể qua Ðức Ái trọn hảo.
Sau khi bài học về phục được được dạy bằng việc làm cụ thể cho các môn đệ, Chúa Giêsu trở về với vị trí của một người thầy, Ngài mặc áo lại, trở về chỗ và giải thích cho các môn đệ: Anh em gọi Thầy là Thầy, là Chúa. Nếu Thầy là Chúa, là Thầy mà còn rửa chân cho anh em, thì anh em cũng phải rửa chân cho nhau… Anh em hãy làm như Thầy đã làm cho anh em. Trăm nghe không bằng một thấy; Lời nói mau qua, gương lành lôi kéo. Chúa Giêsu đã dạy cho các môn đệ bài học yêu thương phục vụ một cách hết sức cụ thể. Để có thể phục vụ anh em giống như Chúa, đòi mỗi người cũng phải dám từ bỏ địa vị hiện tại của mình là ông nọ bà kia, dù mình là ai…, để có thể cúi xuống rửa chân cho anh em. Rửa chân cho anh em, là dám chấp nhận gạt bỏ mọi sự tự ái, cái tôi, kể cả danh dự, để cúi xuống phục vụ, không so bì tính toán thiệt hơn và không vì một mục đích nào khác là yêu thương và muốn người mình yêu được hạnh phúc.
Qua Bí tích này, mỗi người được hiệp thông trọn vẹn với Thiên Chúa thông qua bản thể Đức Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, đồng thời cũng được liên kết chặt chẽ với nhau trong cùng một thân thể. Vậy tình yêu của mỗi người chúng ta dành cho Chúa, cho tha nhân như thế nào? Nếu tình yêu của ta đang nồng nàn thì hãy làm cho nó được tỏa hương. Còn nếu tình yêu của chúng ta đã nhạt phai thì hãy mau hâm nóng lại bằng cách kết hiệp mật thiết với Chúa và anh chị em chúng ta hơn.
2021
CÓ PHẢI TA LÀ GIUĐA THỜI ĐẠI KHÔNG ?
31THỨ TƯ TUẦN THÁNH
– Kinh Tiền Tụng Thương Khó II.
– Tối ngắm 15 Sự Thương Khó Chúa Giê-su.
– Không cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
– Các bài đọc Lời Chúa: Is 50,4-9a; Mt 26,14-25.
CÓ PHẢI TA LÀ GIUĐA THỜI ĐẠI KHÔNG ?
Tin Mừng hôm nay dẫn ta đến đỉnh cao công trình cứu chuộc của Đức Kitô. Người sẽ phải “ra đi” vì tội lỗi nhân loại và để chịu chết chuộc tội cho họ.
Bối cảnh của bài Tin Mừng hôm nay là Lễ Vượt Qua cuối cùng Chúa Giêsu cử hành với các môn đệ. Mỗi năm người Do Thái thời Chúa Giêsu long trọng mừng lễ Vượt Qua để tưởng niệm biến cố Thiên thần Chúa vượt qua cửa nhà người Do Thái có bôi máu chiên để không giết con đầu lòng của họ, khởi đầu cho cuộc giải phóng họ khỏi ách nô lệ, để dẫn đưa họ vào cuộc xuất hành tiến về Đất Hứa. Chúa Giêsu đã có ý định dùng môi trường và ý nghĩa của lễ Vượt Qua này để thiết lập Thánh Thể, nói lên ý nghĩa Ngài là Con Chiên mới sẽ hiến thân chịu chết và đổ máu trên Thập giá để giải phóng và cứu rỗi không những dân Do Thái, mà cho toàn thể nhân loại.
Mở đầu ta thấy một con người tội lỗi đã nổi tiếng xưa nay, Giuđa Itcariôt. Ông theo Chúa cùng anh em đã mấy năm nay. Vậy mà hôm nay đã rắp tâm chỉ điểm cho người Pharisêu bắt Chúa, mà lấy 30 đồng bạc. Thật tiền bạc nó có sức cám dỗ lạ lùng, mà giờ đây chúng ta ai cũng phải cảnh giác với chúng. Cũng thương thay những con người yếu đuối, đớn hèn đã phải làm tôi cái đồng tiền nhỏ bé ấy: “Giuđa Itcariôt đi gặp các thượng tế mà nói: Tôi nộp ông ấy cho quý vị thì quý vị muốn cho tôi bao nhiêu. Họ quyết định cho hắn ba mươi đồng bạc. Từ lúc đó hắn cố tìm dịp thuận tiện để nộp Chúa Giêsu”. Tiếp tục Tin Mừng dẫn ta vào một biến cố đặc biệt, Chúa Giêsu và các môn đệ chuẩn bị ăn lễ Vượt Qua: “Các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu: Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.
Chúa Giêsu, là người chủ, người điều hành từ xa việc chuẩn bị mừng lễ ấy. Là Thiên Chúa, Người thấy trước mọi sự, nên công việc đã xảy đến đúng như lời Người báo trước. Lễ Vượt Qua, lễ tạ ơn trọng thể của người Do Thái. Họ cảm tạ và nhớ lại tình yêu thương đặc biệt Thiên Chúa đã dành riêng cho dân tộc họ, trước đó khoảng 1300 năm. Chúa đã cho họ đi qua Biển Đỏ để trốn thoát khỏi cảnh nô lệ Ai Cập một cách lạ lùng. Ngày ấy trước khi vượt qua Biển Đỏ, Chúa dạy họ giết chiên ăn thịt và “lấy máu bôi lên khung cửa” nhà mình. Nhà nào có máu chiên bôi lên, nhà ấy sẽ khỏi phải “tai ương tiêu diệt”. (Xh 12).
Tin Mừng hôm nay cũng gợi lại cho chúng ta tấm thảm kịch bi thương khi họa lại khung cảnh của một bữa tiệc cuối cùng của Thầy Giêsu với các môn sinh của mình, để rồi chính trong bữa ăn thân tình và huynh đệ này lại diễn ra một sự phản bội trắng trợn của môn đệ Giuđa, kẻ đã được tin tưởng trao cho trách vụ quản lý. Tệ hơn nữa, âm mưu này lại bị hắn che lấp bằng câu hỏi: “Rápbi, (thưa Thầy) chẳng lẽ con sao?” Ngay sau lời loan báo về sự phản bội của Chúa Giêsu: “Thầy nói thật với các con, có một người trong các con sẽ nộp Thầy”
Với giá ấn định, ông cố tìm dịp thuận tiện để nộp bằng được mà không bàn bạc với anh em. Có lẽ ba năm sống sát nách Thầy, thấy Thầy quyền uy xuất chúng như vậy mà cứ hiền lành chịu khổ, nên ông liều một phen, để ép Thầy vùng lên thống trị bằng quyền lực, đem chiến lợi về cho dân và các ông chăng? Thầy sẽ dùng sức mạnh mà tự giải thoát? Nếu vậy thì ông đã lầm.
Bởi vì “Con Người đến không để được người ta phục vụ, nhưng để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Điều này sau khi Thầy phục sinh, khi Thánh Thần đến các ông mới hiểu được, mới thay đổi cái nhìn và trở nên nhân chứng như Thầy đã sống. Còn Giuđa thì… đã muộn không thể lấy lại..
Tin Mừng giờ đây sắp làm ứng nghiệm sự kiện “Vượt Qua” ấy. Chỉ ngày mai thôi, Chúa Giêsu là “Con Chiên” thật của Thiên Chúa sẽ nên của ăn duy nhất trong bữa tiệc mừng lễ “Vượt Qua”. Rồi Con Chiên ấy sẽ chịu chết, sẽ đổ máu ra không phải để “bôi lên khung cửa”, mà đổ trên thập giá tẩy rửa tội lỗi cho người Do Thái và cho toàn thể nhân loại để họ khỏi bị“ tiêu diệt” muôn đời. Trước giờ phút đón nhận sự phản bội, đau khổ biệt ly oan nghiệt ấy, Chúa Giêsu vẫn hiền hòa yêu thương: “Thầy bảo thật anh em, một người trong anh em sẽ nộp Thầy”. Cũng chẳng thấy nơi Người sự oán trách, hay loại trừ ai dù là với người phản bội. Chúa chỉ thương cho họ, vì họ đã tự chọn con đường xa rời Chúa, bán Chúa thì họ sẽ phải khổ đau: “Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người, thà họ đừng sinh ra thì hơn”.
Giờ đây chắc chẳng còn ai ủng hộ việc làm của người bán Chúa như Giuđa xưa. Nhưng có mấy ai dám quả quyết rằng tôi không còn phạm tội nữa. Vậy mỗi khi phạm một tội trọng là ta đã bán Chúa một lần nữa.
Thiên Chúa ban cho con người có lý trí và được tự do. Nhưng con người đã sử dụng tự do của mình ra sao? “Đồng bạc đâm toạc tờ giấy”, vì lòng người mau đổi trắng thay đen, vì một chút lợi lộc thấp hèn, người ta có thể bán đứng lương tâm mà thỏa hiệp với sự dữ. Giu-đa cũng bỏ mọi sự theo Thầy ba năm, cùng ăn cùng ở với Thầy, chứng kiến bao nhiêu phép lạ, quyền năng của một Thiên Chúa nơi Thầy mình. Vậy mà đến giờ chót, ông lại thua lý trí của mình, hay vì tiền bạc làm mờ con mắt, mà đi hợp đồng bán Thầy mình với giá rẻ mạt ba mươi đồng bạc, (giá một người nô lệ).
Trong thinh lặng, mỗi người chúng ta nhìn đến Giuđa để thử xem chúng ta có hành xử như Giuđa ngày xưa không ? Chúng ta tự do đáp trả với Chúa quyết định của mỗi chúng ta.