2021
THEO CHÚA
03 29 X Thứ Tư Tuần XXXI Thường Niên.
Thứ Tư đầu tháng. Kính Thánh Cả Giuse.
(Tr) Thánh Mac-ti-nô Po-ret, Tu sĩ.
Thánh Phê-rô Phan-xi-cô Nê-rôn Bắc (Pierre Francois Neron), Linh mục (U1860), Tử đạo.
Rm 13,8-10; Lc 14,25-33.
THEO CHÚA
Thánh Mác-ti-nô sinh năm 1579, tại Li-ma, nước Pê-ru, con một hiệp sĩ Tây Ban Nha tên là Gio-an và một phụ nữ da đen được giải phóng tên là An-na Vê-lát-khê. Giữa hàng chư thánh, Mác-ti-nô là một chứng tá của dân da đen bị khinh miệt một cách bi thảm ở Tân Thế Giới. Đang lúc giúp việc một người thợ hớt tóc, Mác-ti-nô xin gia nhập Dòng Thánh Đa Minh và được nhận vào số các anh em trợ sĩ tại tu viện Đức Mẹ Mân Côi ở Li-ma. Cũng tại tu viện này, Mác-ti-nô đã được nhận tuyên khấn trọng thể năm 1603.
Mác-ti-nô có lòng đơn sơ, thanh bạch và đức tin phi thường, được cắt đặt làm những việc thường hèn, nhưng Chúa lại cất nhắc người lên, với nhiều hồng ân và đoàn sủng cao siêu. Người rất nhiệt thành sùng kính mầu nhiệm Thánh Thể và Khổ Nạn của Chúa Cứu Chuộc. Người hiến cả cuộc đời để làm việc bác ái đối với người nghèo, nhất là những người đau yếu, với cả súc vật nữa. Người được tôn phong làm bổn mạng các anh em trợ sĩ quả là xứng đáng. Người quý chuộng việc ăn chay, hãm mình nhiệm nhặt và cầu nguyện, nhất là cầu nguyện ban đêm, theo gương Chúa Giê-su. Từ việc cầu nguyện đó, người đã kín múc được những nguồn sáng soi dẫn người cách lạ lùng trong đường lối dạy giáo lý.
Mác-ti-nô qua đời ngày 3-11-1639 tại Li-ma. Đức Ghê-gô-ri-ô XVI tôn người lên bậc chân phước năm 1837. Thánh Mác-ti-nô được mọi người Bắc Mỹ và Nam Mỹ sùng mộ không những vì đức khiêm tốn phi thường của người, mà còn vì chính người là một dấu chứng. Ngày 6-5-1962, Đức Gio-an XXIII ghi tên người vào số các hiển thánh.
Qua những mẫu gương trong đời sống, thánh Mác-ti-nô chứng tỏ rằng chúng ta có thể đạt tới sự cứu rỗi và thánh thiện bằng con đường mà Đức Giê-su Ki-tô đã vạch ra cho ta, nghĩa là trước tiên chúng ta phải yêu mến Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn, rồi yêu người tha nhân như chính mình.
Thánh nhân đã thâm tín rằng Đức Giê-su Ki-tô đã chịu đau khổ vì ta, và trên thập giá, Người đã mang lấy tội ta trong chính thân xác Người. Vì thế, thánh nhân đã đặc biệt yêu mến Đức Giê-su chịu đóng đinh, và khi chiêm niệm những đau khổ của Chúa, thánh nhân không thể cầm được nước mắt. Người cũng đặc biệt yêu kính Bí tích Thánh Thể. Thông thường, Người kín đáo chầu Thánh Thể trong nhà tạm nhiều giờ liên tiếp, và mong muốn được Thánh Thể nuôi dưỡng càng nhiều càng hay.
Rồi, vâng theo lời Thầy chí thánh, thánh Mác-ti-nô đối xử với anh em bằng tất cả đức ái, một đức ái phát xuát từ trái tim không phai nhoà và một tâm hồn khiêm nhu. Thánh nhân yêu mến người khác, vì Người thật sự coi họ là con cái Thiên Chúa, và là anh em của mình. Hơn thế nữa, Người còn yêu họ hơn mình.
Thánh nhân chữa lỗi cho người khác, và tha thứ những sỉ nhục cay đắng nhất. Người xác tín rằng, do tội đã phạm, mình còn đáng phải chịu những hình phạt nặng nề hơn nữa. Người hăng say cố công dẫn đưa tội nhân về đàng ngay. Người ân cần trợ giúp người đau yếu, cung cấp cho người thiếu thốn của ăn, áo mặc, thuốc men. Với các nông dân và người da đen hoặc người lai, lúc đó bị coi như những nô lệ xấu xa, thánh nhân vỗ về giúp đỡ theo khả năng của mình, và lo lắng cho họ đến độ được quần chúng mệnh danh là “Mác-ti-nô bác ái”.
Quả thật, nhờ lời nói, gương lành và nhân đức, vị thánh này đã lôi kéo được nhiều người theo đạo. Bây giờ người còn có thể lạ lùng hướng tâm trí ta về trời. Tiếc thay không phải mọi người đều hiểu những của cải trên trời cho đúng mức, không phải mọi người đều quý chuộng những của cải ấy. Tệ hơn nữa, mọi người đều bị tật xấu lôi cuốn, coi thường hoặc chán ghét, hoặc hoàn toàn xao lãng những của cải ấy. Ước chi, vì phần rỗi của họ, gương lành của thánh Mác-ti-nô dạy cho nhiều người biết : thật êm ái và hạnh phúc biết bao, nếu họ bước theo vết chân của Đức Giê-su Ki-tô, và vâng theo các giới răn của Người.
Hành trình đáp lại lời mời gọi bước theo Chúa Giê-su để trở nên môn đệ của Người là một hành trình hết sức tự do: Thiên Chúa mời gọi, con người tự do đáp trả và con người có thể nói tiếng không với Người. Tuy nhiên, Đức Giê-su cho biết: nếu chấp nhận bước theo tiếng gọi của Chúa, con người phải từ bỏ cách triệt để, hy hiến tất cả những gì có thể là thân thương, yêu quí nhất của mình, kể cả mạng sống mình để trở nên môn đệ thực thụ của Chúa. (x. c.26). Và dĩ nhiên, phần thưởng của người biết hy sinh từ bỏ để sống cho Chúa thì không gì ở trần gian này có thể sánh được hay mua lấy được (x. Mc 10, 29 – 30).
Trình thuật Tin mừng hôm nay nối tiếp trình thuật về dụ ngôn ‘Những người khách được mời dự tiệc cưới’ (x. Lc 14, 16 – 24). Những người khách này từ chối vinh hạnh được dự tiệc với nhiều lý do: “Tôi mới cưới vợ”, “Tôi mới mua thửa đất phải đi thăm”, “Tôi mới tậu năm cặp bò phải đi thử” – Họ đã coi trọng những lợi ích bản thân, những giá trị vật chất hơn tình thân mà chủ dành cho họ, và do đó họ không bao giờ được dự bữa tiệc trọng đại mà họ đã được mời ấy nữa. Lời Chúa Giêsu dạy là một đòi hỏi triệt để: bước theo Chúa là phải hy sinh, phải từ bỏ! Không một từ bỏ nào mà không có sự lựa chọn. Chúng ta lựa chọn theo Chúa hay theo thế tục? Ở đây không có sự bắt cá hai tay, không có thỏa hiệp giữa thiện và ác, không có sự dung túng cho những thói hư tật xấu và việc bước theo con đường hẹp của Chúa Giêsu.
Chúa mời gọi chúng ta phải cân nhắc cẩn trọng, có những quyết định dứt khoát và khôn ngoan trong việc chọn lựa theo Chúa hay tinh thần thế tục. (x. c 28 – 32); bởi vì trong suốt hành trình cuộc đời, không phải chúng ta chỉ lựa chọn và quyết định một lần để ‘về phe’ với Chúa, làm môn đệ của Người mà hằng ngày, hằng giờ, trong mỗi thời khắc, chúng ta đều có những lựa chọn và quyết định. Có những lựa chọn bình thường, nhẹ nhàng không cần đắn đo suy nghĩ nhiều, nhưng cũng có những lựa chọn và quyết định đòi sự cân nhắc khôn ngoan, hay những lựa chọn đòi ý chí chiến đấu, khiến người ta đớn đau, day dứt….
Theo Chúa phải từ bỏ mọi sự và phải vác Thập giá của mình. Từ bỏ nào cũng là thập giá. Tuy nhiên, có những thập giá ngoài sự chọn lựa: Thập giá của bệnh tật, thập giá của tai họa, thập giá về những khiếm khuyết, những hạn chế của bản thân… là những thập giá dù muốn hay không ta cũng buộc phải vác. Nếu ta vác trong niềm tin, trong tự do và trong tình yêu, thì thập giá sẽ thăng hoa thành thánh giá trui rèn đức tin và nhân đức của chúng ta, giúp ta trưởng thành trong đời sống nhân linh và giúp chúng ta nên giống Chúa Giêsu hơn, trở thành môn đệ thực thụ của Người. Còn nếu chúng ta bất nhẫn, kéo lê thập giá, thập giá sẽ làm ta thất vọng, sẽ trở nên một ách nặng nề và sẽ đè bẹp chúng ta.
Câu kết Đức Giê-su nói: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (c. 33). ‘những gì mình có ở đây có thể là của cải vật chất, nhưng cũng có thể là thì giờ, tài năng, sức khỏe, năng lực….Sự từ bỏ ở đây Đức Giê-su nhắm tới thái độ tinh thần của chúng ta qui phục Thiên Chúa; chúng ta không được để cho bất cứ sự vật gì có thể ngăn cản bước đường chúng ta thực thi thánh ý Chúa; ngăn cản chúng ta làm môn đệ của Người; hay nói như thánh Phao-lô: “Không gì có thể tách tôi ra khỏi lòng mến của Thiên Chúa trong Đức Ki-tô.
2021
Nay người – mai ta
02 28 Tm Thứ Ba Tuần XXXI Thường Niên.
CẦU CHO CÁC TÍN HỮU ĐÃ QUA ĐỜI.
Hôm nay, các tín hữu được viếng nhà thờ lĩnh ân xá. (Enchiridion Indulgentiarum năm 1999, concessio 13).
Theo Tông Hiến ngày 10/08/1915 của Đức Giáo hoàng Bê-nê-đíc-tô XV, hôm nay mọi tư tế được phép cử hành hoặc đồng tế ba Thánh lễ vào những thời điểm khác nhau: có thể chỉ một lễ cho bất cứ ai theo ý mình; ngoài ra phải dành một ý lễ cầu nguyện cho mọi tín hữu đã qua đời và một ý lễ cầu nguyện theo ý Đức Giáo hoàng (Không được áp dụng bổng lễ cho lễ Nhì và lễ Ba).
Các Bài đọc gợi ý:
Lễ Nhất: G 19,1.23-27a; Rm 5,5-11; Ga 6,37-40.
Lễ Nhì: Is 25,6a.7-9; Rm 8,14-23; Lc 23,33.39-42.
Lễ Ba: 2Mcb 12,43-45; Kh 21,1-5a.6b-7; Ga 11,17-27.
Hoặc chọn trong sách Bài Đọc các Thánh Lễ Chung lễ cầu cho các tín hữu đã qua đời, (1973, tr.225-249); Sách Nghi lễ an táng và Thánh Lễ Cầu Hồn, (1974, tr.61-106).
Cấm cử hành lễ nào khác, trừ lễ an táng.
Sau lễ Các Linh Hồn, các cha nhớ dâng lễ cầu cho các Đức Giám mục và Linh mục đã qua đời.
Nay người – mai ta
Sự thanh luyện thuộc về “cánh chung trung thời” bởi vì nó sẽ không tồn tại sau ngày tận thệ thế nữa. Luyện ngục chỉ là thời gian tạm trú. Không ai có hộ khẩu thường trú ở đó cả. Luyện ngục chỉ là một chuyến đò ngang. Thiên Chúa mới là bến bờ. Đời sống vĩnh cửu mới là cùng đích, là phần thưởng Thiên Chúa hứa ban. Đạo lý về sự thanh luyện thúc giục chúng ta cầu nguyện cho các linh hồn đã qua đời. Tập tục này đã có từ cuối thời Cựu ước và trong suốt lịch sử Giáo hội (x. GLCG số 1032; 958; 1371; 1689). Ngoài những hình thức cầu nguyện riêng tư, phụng vụ Giáo hội khuyến khích tục lệ này. Khởi đầu từ Thánh lễ, nơi đó Giáo hội hiệp thông với Các Thánh trên trời cũng như với các linh hồn còn đang chịu thanh luyện. Hằng năm, ngày 2 tháng 11 được dành để cầu nguyện cho tất cả các linh hồn đã qua đời tiếp sau lễ kính Các Thánh. Giáo hội còn dành cả tháng 11 nhớ đến các linh hồn và mời gọi con cái mình cầu nguyện, hy sinh hãm mình, làm việc bác ái như là nghĩa cử biểu lộ lòng yêu thương đối với họ cũng như tình hiệp thông trong nhiệm thể Chúa Kitô.
Công đồng Vatican II bàn đến tình trạng thanh luyện sau khi chết ở chương VII của hiên chế Lumen Gentium. Số 49, Công đồng nhìn nhận rằng “có những tín hữu đã qua đời và đang được thanh luyện”. Số 50, đạo lý về sự thông hiệp giữa hết mọi phần tử Giáo hội được dựa trên thói tục bắt nguồn từ thưở ban đầu Kitô giáo về sự tưởng niệm người chết và cầu nguyện cho họ. Phần kết chương VII trình bày về đường hướng mục vụ, Công đồng tái khẳng định đạo lý cổ truyền của Giáo hội : “ Thánh Công Đồng kính cẩn đón nhận niềm tin cao trọng của tiền nhân chúng ta trong việc hiệp thông sống động với các anh em được vinh hiển trên trời hay còn phải thanh luyện sau khi chết, và lấy lại các sắc lệnh của thánh Công đồng Nicêa II, Firence, Trento ( số 51 a)”
Con người sống được với nhau là nhờ ân nghĩa. Tình nghĩa càng thắm thiết càng thương nhớ đến nhau và muốn sống mãi bên nhau, nhất là đối với những người thân quen đã qua đời. Hơn nữa, khi biết sống tình nghĩa với nhau cách đằm thắm hay nhạt nhẽo thì mới rõ ai tốt hay xấu, ai thật lòng ai gian dối. Do đó, tình nghĩa không những là một nhu cầu cần thiết cho đời sống mà còn là một bổn phận, trách nhiệm phải đền đáp, chu toàn hết khả năng sẵn có.
Nếu thế thì chúng ta, những người còn sống tại dương thế, đang có tự do hành động theo ý muốn của mình lại càng sống thật tình nghĩa với những người đã khuất vì giờ đây họ chẳng khác gì những tù nhân chỉ còn trông mong sự cứu giúp của chúng ta mà thôi. Nhưng sống tình nghĩa với những người đã chết không có nghĩa là nhớ lại những kỷ niệm, những hình ảnh, dáng điệu, lời nói của họ để mà thương tiếc, nhớ nhung, trái lại điều quan trọng là hãy biến những tình cảm đó thành những hành động thương yêu thật cụ thể và có giá trị đời đời.
Đó là lý do chính yếu của ngày lễ hôm nay và trong tháng 11 này mà Giáo hội đề xướng ra để kêu gọi toàn thể mọi người hãy hướng lòng về những người thân quen cũng như xa lạ đã qua đời, nhất là ra sức tìm kiếm những tặng phẩm thiêng liêng để gởi làm quà cho họ. Và một khi đã biết rõ cách thức gởi, gởi những gì và gởi nhờ ai thì sẽ đến tay các linh hồn. Chỉ còn lại khâu cuối cùng là chúng ta có hăng say kiếm quà mà gởi hay không mà thôi.
Và nếu những người thân quen ở bên kia thế giới đang quằn quại đau khổ trăm chiều, từng giây từng phút đợi chờ sự cứu giúp của chúng ta, được chóng giải thoát cực hình hay phải giam phạt thêm là hoàn toàn do chúng ta có thương xót hay thờ ơ mà thôi, chẳng lẽ chúng ta cứ thờ ơ, lãng quên họ mãi hay sao? Vậy hãy mau cố gắng hết sức, tìm đủ mọi cách để giải thoát cho họ như siêng năng xưng tội rước lễ, làm việc lành phúc đức, ăn chay hãm mình, xin lễ cầu nguyện… Và nếu chúng ta cứu được các Đẳng, chắc chắn các Ngài sẽ không bao giờ quên ơn chúng ta.
Trong niềm hiệp thông, chúng ta hãy giúp đỡ các ngài bài những hy sinh, những lời kinh và những thánh lễ chúng ta dâng lên, bởi vì đó mới chính là những điều các ngày đang cần đến, đỗng thời đó cũng là cách thức chúng ta báo hiếu, đền đáp công ơn của các ngài một cách sâu xa và có ý nghĩa nhất.
Mang trong mình dòng máu linh thiêng của tổ tiên, dù là người công giáo, phật giáo hay bất cứ ai cũng đều thể hiện lòng biết ơn một cách trân trọng đối với các bậc sinh thành. Trở về cội nguồn tổ tiên, chúng ta một lần nữa nói lên lòng biết ơn sâu sắc, đối với cácbậc tiền nhân.
Vì thế, chúng ta cùng nhau thắp lên một nén nhang để cùng nhớ ơn, ca ngợi công ơn tổ tiên và cầu nguyện cho tất cả những ai đã từng một lần chắp cánh cho chúng ta buớc vào cuộc đời và sống trọn vẹn ý nghĩa của con người.
2021
NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA
NÀY LÀ DÒNG DÕI NHỮNG NGƯỜI TÌM CHÚA
Các Thánh là những người đói và khát sự công chính, theo ngôn ngữ Kinh Thánh là khát khao sự thánh thiện. Vì khao khát, nên Thiên Chúa đã cho các ngài thỏa chí toại lòng đúng như Chúa Giêsu công bố : “Phúc cho những ai đói khát điều công chính, vì họ sẽ được no thoả” (Mt 5, 6).
Trong sổ bộ các thánh, ta thấy nhiều đấng nhiều bậc và nhiều kiểu cách nên thánh. Ta thấy có thánh tông đồ, thánh tử đạo, thánh hiển tu, thánh đông trinh, thánh ẩn tu … và chung chung là các thánh nam và các thánh nữ.
Như câu Thánh Vịnh đáp ca trong Thánh Lễ các Thánh : ” Này là dòng dõi những người tim Chúa, đây là những người mong bệ kiến Người. Một đời lòng ngay không hề gian dối. Giữa bao hận thù luôn sống mến yêu”.
Các Thánh là những người sống lòng mến trong mọi hoàn cảnh của cuộc đời. Các thánh là những người sống trọn vẹn lòng mến mà Chúa đòi hỏi hay mời gọi : “Cứ dấu này mà người ta nhận ra anh em là môn đệ của Thầy đó là anh em yêu thương nhau”.
“Anh em yêu thương nhau như Thầy !” chứ không phải yêu thương như kiểu của người đời. Như Thầy nghĩa là yêu với một tình yêu nhưng không, cho đi vô vị lợi , không tính toán. Cho đi đến độ hủy mình ra không như Thầy đã hủy mình ra không vậy.
Con đường nên Thánh không gì khác là con đường ước ao nên công chính, nên trọn lành trong tình yêu thương của Chúa.
Ta thấy không phải nhất thiết phải ở trong 4 bức tường của tu viện hay phải đổ máu đào nhưng đơn giản là khát khao sống công chính và yêu thương có lẽ là đủ.
Ngày 18 tháng 10 năm 2015, cha mẹ thánh Têrêsa Hài Đồng Giêsu là đôi vợ chồng tiên khởi được phong thánh cùng nhau. Đó là hồng ân cao cả mà Thiên Chúa dành cho các ngài. Từ đây danh xưng của ông-Louis Martin và bà-Zélie Guérin sẽ được nhiều gia đình biết đến như “chứng tá ngoại thường của linh đạo vợ chồng và gia đình!” Là người con trong một gia đình có cha mẹ thánh thiện như thế, Têrêsa dĩ nhiên hạnh phúc biết chừng nào! Nhờ vậy mà thánh nữ mới có được cảm thức yêu mến và nguyện trót đời dâng mình cho Thiên Chúa từ rất sớm.
Cuộc sống của cha mẹ Têrêsa dưới thế trần luôn được tình yêu Thiên Chúa tỏa bóng mát. Trong đời lứa đôi, đúng là Thiên Chúa an bài se duyên cho hai người thành hôn (13-7-1858) nên nghĩa vợ chồng. Nhân kỷ niệm 150 năm ngày thành hôn của các ngài, ngày 19 tháng 10 năm 2008, Đức Giáo Hoàng Bênêđictô XVI tuyên phong Chân Phước cho các ngài tại Vương Cung Thánh Đường Têrêsa vào Chúa Nhật Truyền Giáo. Dịp ấy người ta nhắc nhiều đến đời sống gia đình của các ngài! Louis ước mơ là linh mục tốt lành, Zélie cũng khát khao là ma-sơ thánh thiện; nhưng Thiên Chúa lại muốn kết hợp các ngài trong một tổ ấm uyên ương để sinh được chín bông hoa trắng ngần. Bốn bông hoa vừa nở thì Thiên Đàng đã ngắt ngay lấy, còn năm bông sau lần lượt dâng cho Dòng Kín và Dòng Thăm Viếng.
Têrêsa hằng cảm ơn cha mẹ đã hướng dẫn con cái biết cách yêu mến Chúa Giêsu và rất hạnh phúc trong mái ấm gia đình của mình.
Một chiều hoàng hôn nọ Têrêsa theo cha đi dạo, rồi vào nhà thờ viếng Mình Thánh. Viếng xong cha chỉ cho Têrêsa xem bên trong song sắt kia, hằng có các ma-sơ thánh thiện cầu nguyện cả ngày. Rồi ở tư gia, Têrêsa vẫn được ngồi bên cha trong giờ kinh nguyện của gia đình. Têrêsa chỉ cần nhìn cha cũng đủ biết được cách mà các thánh cầu nguyện. Cứ thế ngày qua ngày, Têrêsa và các chị là những cây hoa hồng được cha mẹ gieo trồng, chăm sóc và chính Thiên Chúa làm cho những đóa hồng nở tươi sắc thắm, ngập tràn hương thơm!
Gia đình hạnh phúc là vậy, vui mừng là thế, nhưng Têrêsa phải mất đi người mẹ dịu hiền khi tuổi mới lên bốn. Ôi! Căn bệnh ung thư kéo dài khiến bà đau mệt, chỉ đợi mong Thiên Đàng. Ngày 28 tháng 8 năm 1877, mẹ Têrêsa đã lìa đời ở tuổi 46. Cha bế Têrêsa vào phòng để hôn mẹ lần cuối. “Vậy là mẹ về với Chúa trước con!” Têrêsa nhớ hoài những lần mẹ khiển trách một cách nhẹ nhàng nhưng không kém phần nghiêm khắc trước những lỗi lầm của con cái. Mẹ dạy dỗ và hướng dẫn mấy chị em Têrêsa cầu nguyện. Từ thuở còn thơ, Têrêsa được mẹ tập làm những việc hy sinh bé nhỏ để dâng lên Chúa, làm đẹp lòng Người. Và hàng tỷ tỷ gương lành, lời sáng của bà luôn đọng lại trong trái tim của Têrêsa. Cảm ơn mẫu gương một người mẹ dịu dàng thánh thiện!
Theo lời khuyên của bà trước lúc lâm chung, ông Louis đem gia đình mình về thành Lisieux. Louis dành trọn thời gian chăm lo và giáo dục con cái. Ước mong cho các con thành những người yêu mến Chúa Giêsu nồng cháy luôn là động lực để ông hăng say nguyện cầu và ra sức hướng dẫn các con. Sau khi lần lượt các con theo nhau vào Dòng, Louis ở một mình sống âm thầm cầu nguyện. Năm 1887, ông bị đột quỵ và chấn thương thần kinh. Suốt 7 năm chia sẻ thập giá với Chúa Giêsu, Louis đã từ trần ngày 29 tháng 7 năm 1894. Thế là hai ông bà phấn khởi trùng phùng trên Thiên Quốc!
Lễ tuyên thánh cho các ngài diễn ra trong dịp Thượng Hội đồng Giám mục về gia đình vào tháng 10 cách đây 3 năm. Điều ấy cho thấy Giáo hội muốn đặt các ngài làm mẫu gương sáng ngời cho các gia đình trong thời đại hôm nay. Chắc hẳn lối sống của các ngài xứng đáng là con đường cho bậc làm cha mẹ trong các gia đình Công Giáo. Xứng đáng vì các ngài đã chu toàn sứ mạng trong ơn gọi gia đình như lòng Chúa ước mong. Để hôm nay, Giáo hội luôn tạ ơn Thiên Chúa về mối tình và cung cách sống đời gia đình của cha mẹ! Bởi, các ngài được những ơn riêng cho bậc sống của mình trong Dân Chúa (x. LG 11). “Ân sủng đặc biệt của bí tích Hôn Phối kiện toàn tình yêu vợ chồng của các ngài, củng cố sự hiệp nhất bất khả phân ly của họ. Nhờ ân sủng này, “các ngài giúp nhau nên thánh trong đời sống hôn nhân, trong việc đón nhận và giáo dục con cái”. (GLHTCG, 1641).
Nếu người ta nhận xét về thánh Têrêsa: “Đằng sau những việc nhỏ bé của con người thấp hèn ấy lại ẩn chứa một tình yêu cao cả”, thì chính tình yêu ấy cha mẹ Têrêsa đã vun xới cho ngài. Cách duy nhất để Têrêsa chứng tỏ tình yêu của mình là gieo rắc muôn đóa hồng xuống trần gian; mỗi hoa hồng là những hy sinh bé nhỏ, mỗi cái nhìn, mỗi lời nói và thực hiện mọi việc làm bé nhỏ với tình yêu lớn. Và chúng ta tin rằng hôm nay đây hai thánh nhân cũng tỏa ngát hương hoa hồng xuống từng gia đình dưới thế. Chúng ta xin cả nhà của thánh Têrêsa cho mỗi gia đình trở nên thiên đường hạnh phúc, nên mái nhà yêu thương và nên gia đình thánh thiện!
Và ta còn nhớ Chân phước Carlo Acutis, bổn mạng của các lập trình viên.
Chân phước Carlo Acutis sinh ngày 3 tháng 5 năm 1991 tại thành phố Milan của nước Ý. Cậu là con trai duy nhất của ông bà Antonio và Andrea Acutis. Từ nhỏ, cậu đã tỏ ra là một cậu bé thông minh và nhanh nhẹn. Cậu bập bẹ học nói chỉ sau 3 tháng chào đời, và khi mới 5 tháng tuổi, cậu đã có thể nói những câu thoại ngắn. Khi vừa mới chập chững biết đi, cậu đã tỏ ra rất năng động và luôn chào hỏi mọi người trên đường. Chỉ mới bốn tuổi, cậu đã cho thấy lòng yêu mến Chúa Giêsu và Mẹ Maria cách đặc biệt nơi mình. Hằng ngày khi được mẹ cho đi dạo, Carlo thường nài nỉ mẹ dắt cậu vào nhà thờ để thăm Chúa Giêsu và hôn tượng chịu nạn. Cậu thường hái hoa và đặt dưới chân tượng Đức Mẹ trong khuôn viên giáo xứ. Ba mẹ rất ngạc nhiên trước lòng sùng kính của cậu con trai mình, bởi vì từ lâu họ đã không còn thực hành đời sống Kitô hữu nữa. Khi ấy, được đánh động bởi lòng sốt mến của cậu bé, mẹ Carlo đã quyết định quay lại với đời sống đức tin và trở thành một giáo lý viên. Khi mới lên sáu, Carlo thường theo mẹ đến các lớp giáo lý của bà. Mọi người trong lớp rất cảm mến tâm hồn vui tươi và quảng đại của cậu. Họ nói với mẹ cậu rằng, Carlo quả là một người đặc biệt; chắc chắn Thiên Chúa phải có một kế hoạch quan trọng cho cậu bé. Linh mục chánh xứ, sau khi gặp gỡ Carlo, đã quyết định cho cậu chịu rước lễ lần đầu khi cậu vừa tròn bảy tuổi. Từ đó trở đi, Carlo thường xuyên tham dự thánh lễ và cầu nguyện hằng ngày với chuỗi mân côi. Carlo được nhận vào học tại một trường Dòng Tên. Mặc dù rất thông minh, nhưng cậu không bao giờ để bạn bè phải ghanh tị, vì cậu có lối suy nghĩ tích cực và hài hước; đồng thời luôn cố gắng giúp đỡ mọi người. Từ nhỏ, cậu bé Carlo đã rất say mê công nghệ. Khi ấy, mẹ cậu đã mua những cuốn sách của bậc đại học và bắt đầu dạy cậu lập trình. Chỉ mới 9 tuổi, cậu bé đã có thể viết những ứng dụng đơn giản trên máy tính. Sau đó, cậu còn học thêm về thiết kế và dàn dựng phim hoạt hình.
Carlo đã sống một cuộc đời bình thường như bao thiếu niên khác ở thế kỉ 21. Cậu luôn mỉm cười và khôi hài với bạn bè, thậm chí còn làm những thước phim ngắn về họ, hoặc cùng nhau chơi những trò chơi điện tử. Đôi khi cậu nói nhiều trong lớp, và đôi lúc cũng còn say mê ăn uống. Tuy nhiên cậu nhận thức được những điểm yếu của mình và luôn nỗ lực khắc phục chúng. Cậu thường xuyên đi xưng tội, ghi nhật ký hằng ngày để phản tỉnh về những hành vi của mình và để cải thiện bản thân. Cậu đã từng nói, bạn có thể thắng hàng ngàn trận chiến thì tại sao bạn không thể chiến thắng những đam mê hư hỏng của mình. Cuộc chiến thực sự nằm trong chính mỗi người. Carlo luôn ý thức về nỗi thống khổ của tha nhân. Bằng tài ăn nói tế nhị và chân thành, cậu thường an ủi bạn bè và khích lệ họ phấn đấu để sống tốt hơn. Cậu chia sẻ rằng, bản thân luôn cố gắng sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Chúa Giê-su là ưu tiên hàng đầu của cậu, và nhờ đó, cậu có một tâm hồn trong sáng và đầy yêu thương. Tất cả những ai tiếp xúc với cậu đều cảm nhận được điều này; và rất nhiều người trong số đó đã được biến đổi nhờ lối sống và nhân đức của cậu. Ngoài đời sống cầu nguyện, Carlo và mẹ còn tình nguyện mang đồ ăn và chăn màn cho những người vô gia cư trên các đường phố của Milan. Cùng với bạn bè, cậu luôn tích cực tham gia các hoạt động và chương trình của giáo xứ. Carlo lãnh nhận bí tích thêm sức năm 11 tuổi, và sau đó bắt đầu dạy giáo lý trong giáo xứ của mình. Cậu nhận thấy nhiều trẻ em khó tiếp thu giáo lý chỉ vì cha mẹ chúng chưa bao giờ đưa chúng tới nhà thờ.
Carlo từng nói, “Bí tích Thánh Thể là con đường đưa tôi về thiên đàng.” Cậu tin rằng nếu mọi người ý thức sự hiện diện thực sự của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể, cùng những ơn huệ cao quý mà họ lãnh nhận từ đó, cuộc sống của họ rồi sẽ được biến đổi. Ngay sau đó, cậu đã bắt đầu một dự án lớn trong đời mình, đó là tạo ra một trang web để trình bày tất cả các phép lạ Thánh Thể trên thế giới. Cậu đã đi đến nhiều địa điểm xảy ra phép lạ, chụp ảnh và lấy tư liệu để đăng lên website. Cậu tạo ra những bài trình bày về phép lạ, và cho phép tải xuống từ trang web của mình. Cậu chia sẻ rằng, chúng ta càng lãnh nhận nhiều Mình Thánh Chúa thì chúng ta càng trở nên giống Chúa Giê-su, để rồi được cảm nếm thiên đàng ngay tại thế này. Cậu tin rằng các bí tích là nguồn mạch thương xót giúp chúng ta có đủ sức để mang lấy những đau khổ của đời mình. Carlo luôn ý thức về việc không lãng phí thời gian. Mọi người xung quanh thường hỏi cậu muốn làm gì khi lớn lên. Cậu thường trả lời rằng, ai có thể biết được ngoài Chúa… hoặc…. gần gũi với Chúa Giê-su, đó là kế hoạch của đời tôi. Gần như cậu có một linh cảm rằng cậu sẽ không sống lâu trên cõi thế này. Carlo thường nói, “mọi người được sinh ra là bản gốc, nhưng nhiều người chết như bản sao.” Có thể nói, Carlo hướng tới mục tiêu sống trọn vẹn cho tha nhân thay vì chỉ lo cho bản thân mình.
Năm 15 tuổi, rất nhiều bạn học của cậu bị mắc bệnh cúm. Cậu cũng cảm thấy đau yếu trong người, nhưng chỉ nghĩ rằng mình cũng bị giống như các bạn. Tuy nhiên khi bệnh tình của Carlo không thuyên giảm, bố mẹ đã đưa cậu đến bệnh viện để thăm khám. Cậu được chẩn đoán mắc bệnh bạch cầu. Trong thời gian điều trị, dù rất đau đớn và mệt mỏi nhưng Carlo vẫn luôn nghĩ đến những người đang chăm sóc cho mình: các bác sĩ, y tá, và cả cha mẹ cậu. Cậu cũng sẵn sàng đón nhận cái chết đang đến rất gần. Cậu nói với mẹ: “Mẹ ơi ! Con muốn rời khỏi bệnh viện này nhưng con biết mình sẽ không làm được như vậy khi con còn đang sống đây. Mẹ thấy không, dầu sao con cũng đang ở với Chúa. Con được chết trong hạnh phúc bởi vì con đã không lãng phí đời mình, lãng phí thời gian vào những điều không đẹp lòng Chúa.” Cậu tiếp tục mỉm cười và cố gắng không phàn nàn về những cơn đau đang hành hạ bản thân. Cậu đã dâng những đau khổ của mình để cầu nguyện cho Đức Thánh Cha và Giáo Hội. Một tuần sau khi được chẩn đoán bệnh, vào ngày 12 tháng 10 năm 2006, vị thánh trẻ Carlo đã nhắm mắt chào cuộc đời để trở về nhà Cha trên trời.
Rất nhiều người tham dự đám tang của cậu, cả người thân quen lẫn người xa lạ. Họ đứng kín cả trong và ngoài nhà thờ, xúc động khi lắng nghe câu chuyện cuộc đời của Carlo. Đời sống nhân đức của cậu đã được nhiều người chú ý, và họ bắt đầu cầu xin lời chuyển cầu của cậu. Mẹ Carlo đã nhận được rất nhiều lời chứng của những người được ơn hoán cải qua Carlo. Khi còn sống, Carlo đã từng nói, mục tiêu của chúng ta là cõi vĩnh hằng chứ không phải đời tạm này; mà thiên đàng mới là quê hương sau cùng của chúng ta. Chúng ta luôn được chờ đón trên nước trời. Bốn năm sau, vào đúng ngày mất của cậu, mẹ cậu đã sinh ra một cặp song sinh ở tuổi 44, như dấu hiệu báo trước rằng cậu đã về tới quê hương trên trời. Carlo Acutis được đức thánh cha Phanxico phong chân phước vào ngày 10 tháng 10 năm 2020.
Chúng ta hôm nay mừng kính trọng thể Các Thánh Nam Nữ ở trên Trời. Có thể nói, hôm nay là ngày hội lớn, ngày vui mừng của mọi thành phần con cái trong đại gia đình Hội Thánh. Mừng kính Các Thánh, là mừng kính những người đang sống sự sống của Thiên Chúa, những vị đang hưởng phúc vinh quang tràn đầy trước tòa cao sang của Chúa Ba Ngôi trên thiên đàng.
2021
Khiêm nhường
30 25 X Thứ Bảy Tuần XXX Thường Niên.
(Tr) Lễ Đức Mẹ ngày thứ Bảy.
Rm 11,1-2a.11-12.25-29; Lc 14,1.7-11.
Khiêm nhường
Trang Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca thuật lại việc Chúa Giêsu nhân dịp dự bữa tiệc tại nhà một người biệt phái và quan sát thấy người ta tranh dành nhau chỗ nhất- đã dùng dụ ngôn để dạy bài học về sự khiêm nhường.
Khi kể dụ ngôn như thế, Chúa Giêsu không có ý đưa ra bài học về phép lịch sự, nhưng Ngài chỉ muốn nhân cơ hội này lập lại bài học khiêm nhường mà Ngài thường xuyên giảng dạy: “những kẻ bé mọn sẽ trở nên cao trọng”, “nếu anh em không trở nên như trẻ nhỏ, anh em sẽ không được vào Nước Trời”…
Chắc hẳn khi viết đoạn Tin Mừng này, Luca đã liên tưởng đến những cộng đoàn phụng vụ, trong đó khi người ta tụ họp lại, những vấn đề về giai cấp, giàu nghèo đã nảy sinh. Chính thánh Giacôbê cũng đã gặp vấn đề đó trong cộng đoàn của mình (Gc 2, 2-3).
Đó là một thực tế không chỉ xảy ra trong xã hội Do Thái, thời Chúa Giêsu, trong cộng đoàn tín hữu sơ khai, mà còn xảy ra trong xã hội và trong cộng đoàn Kitô hữu hôm nay.
Chúng ta không phủ nhận giá trị của những cách tổ chức, sắp đặt sao cho đúng người, đúng chỗ; nhưng điều quan trọng là mỗi người hãy biết cư xử đúng danh phận, nhất là biết khiêm nhường. Hơn nữa, danh phận, phẩm giá của một người không thể do thái độ chủ quan định đoạt mà là do thái độ trân trọng của cộng đoàn, đặc biệt là sự thẩm định của người chủ tiệc.
Chính thái độ trịnh thượng, vượt trên danh phận, ngồi sai vị trí, mới làm cho người ta phải bẽ mặt khi có người danh phận cao hơn xuất hiện.
Chúa Giêsu liền nói với họ về hành vi này qua dụ ngôn “ Khi anh được mời đi ăn cưới, đừng ngồi vào cỗ nhất”. Ngài nói rõ lý do “Kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời” (8). Ở đây chúng ta đừng lầm tưởng Ngài dạy bài học khiêm tốn, nhưng nói đúng hơn là bài học phải nhận ra thân phận của mình và đáng giá mình cho đúng mức. Đừng ảo tưởng cho rằng : mình là người lớn nhất, được trọng vọng nhất ở đây mà vội ngồi vào chỗ nhất, nhưng vẫn có người sáng giá hơn, cao trọng hơn, bề thế hơn được mời, mà họ chưa đến thì sao?
Không những anh ta đã chọn chỗ nhất khi chẳng suy tính kỹ càng, mà lại cứ ngồi ỳ ra đó, đến nỗi chủ nhà phải đến nói với anh ta rằng “Xin nhường chỗ cho vị này” và Chúa nói thẳng hậu quả sau đó là “Anh sẽ phải xấu hổ mà ngồi vào chỗ cuối” (9). Đầu thế kỷ II, có một kinh sư đã đưa ra qui luật hành xử về vấn đề này như vầy : Bạn hãy ngồi thấp hơn chỗ xứng hợp với bạn hai hoặc ba ghế và đợi người ta nói với bạn “ Xin mời lên trên”, chứ đừng ngồi chỗ trên ngay, vì khi ấy có thể người ta nói với bạn “Xin mời xuống”. Vậy tốt hơn hãy để người ta nói với bạn “Mời lên trên” hơn là “Mời xuống!”. Có lẽ vị kinh sư này đã thấm nhuần bài học của Chúa Giê-su hôm nay “Khi được mời thì hãy ngồi vào chỗ cuối, để người đã mời anh đến nói với anh rằng: xin mời ông bạn lên trên cho. Thế là anh được vinh dự trước mặt mọi ngừơi đồng bàn (10).
Nhận xét của Chúa Giêsu được rút ra từ một thực tế dễ hiểu : những cử chỉ tôn kính có giá trị là những cử chỉ người khác làm cho ta, chứ không do ta tự làm cho mình. Tốt hơn là nên đề phòng những việc bất ngờ xảy ra, nếu không ta sẽ phải chuốc lấy hậu quả là sự nhục nhã ê chề do bởi tính tự phụ.
“Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai tự hạ mình xuống sẽ được tôn lên”(11). Với hai động từ thụ động: “bị hạ xuống”, “được tôn lên”, ý nói rằng chính Thiên Chúa mới là tác giả của việc hạ xuống và nâng lên này. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới ban vinh quang đích thực, danh dự chân chính cho những ai thành tâm, khiêm tốn tìm kiếm và mong được vào vương quốc của Ngài.
Khiêm nhường, tự hạ không chỉ là cách sống, là lời giảng dạy thường xuyên của Chúa Giêsu và còn là giáo huấn được các Tông đồ, môn đệ Chúa, thường xuyên nhắn nhủ. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê, tóm tắt cuộc đời khiêm nhường, tự hạ của Chúa Giêsu như sau: “Đức Giêsu Kitô, vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự ” (Pl 2, 6-8).
Trong cuộc đời người ki-tô hữu, kể cả những người sống trong đời thánh hiến, tất cả đều mang tâm trạng tốt lành ban đầu là: phục vụ Thiên Chúa và con người trong khiêm tốn. Nhưng theo giòng thời gian, tư tưởng ấy bị mai một. Chúng ta tìm mọi cách để tôn cái tôi của mình, muốn người khác biết đến công trạng của mình đã hy sinh cho việc chung hoặc qui về lợi nhuận cho bản thân, cho gia đình, cho tổ chức của mình, như : gắn bảng tên tại chỗ quả chuông hay tượng đài Đức Mẹ vì đã bỏ tiền dâng cúng; tự hào và kể công khi phục vụ trong chức vụ Ban Hành Giáo hai, ba nhiệm kỳ và đòi hỏi phải được giáo xứ, cha xứ ưu ái hay đền ơn đáp nghĩa. Hội đoàn của tôi phải cờ quạt, rước sách, tổ chức lễ thật to, mời cha này, sơ kia… để nở mặt nở mày. Với các linh mục tu sĩ: tôi đã rửa tội cho hàng trăm người, xây được vài nhà thờ, đền đài, thậm chí là nghĩa trang…
Hơn nữa là việc tổ chức các cuộc lễ hội thật hoành tráng, tiêu phí thật nhiều, thậm chí nhà thờ này phải to hơn, cao hơn nhà thờ nọ, mà quên mất tinh thần loan báo Tin Mừng đã chẳng đi vào lòng người được bao nhiêu? …Hay những dịp lễ truyền chức, tạ ơn, khấn dòng phải đưa lên Internet hay You tube để rao giảng Tin Mừng hay để “cái tôi” của nhóm tôi, của dòng tu tôi, của giáo xứ, giáo phận tôi được biết tới? Vì thế, chúng ta luôn tự hào và tìm kiếm sự kính trọng, lòng biết ơn và sự tán thưởng của người đời mà quên rằng: mình đã được thưởng công rồi và Thiên Chúa sẽ chẳng còn chỗ để thưởng công cho tâm hồn và cho cuộc đời chúng ta.
Với đời sống khiêm nhường như thế, Chính Ngài được Chúa Cha tôn vinh: “Chính vì thế Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2, 9).