2022
Ơn cứu độ đại đồng
- 2 Thứ Năm Thánh Scholastica, Đt
1 V 11:4-13; Tv 106:3-4,35-3,37,40; Mc 7:24-30
Ơn cứu độ đại đồng
Thánh Scolastica và thánh Bênêđitô là hai anh em sinh đôi. Người là em ruột của thánh Biển Đức (Bênêđitô). Hai anh em thánh Scolastica được sinh ra trong một gia đình thánh thiện, quảng đại và bác ái, giàu sang miền Norcia. Hai anh em vừa mở mắt chào đời được mấy tháng đã vội mồ côi mẹ. Hai anh em chỉ biết sống nương nhờ vào tình thương ấp ủ của người cha hiền từ, đạo đức. Trong cảnh gà trống nuôi con, ông Eurôpiô càng tỏ ra là người cha nhân từ, luôn yêu thương con cái với một tấm lòng rộng mở bao la để bù đắp những thiếu thốn của tình mẫu tử.
Lớn lên, hai anh em thánh Scolastica và Biển Đức được cha yêu thương cho đến trường học . Hai thánh nhân đã hết mực yêu thương nhau, khuyên nhủ nhau học hành đến nơi đến chốn để không phụ lòng người cha đã hết mình yêu thương các ngài. Hai thánh nhân luôn bắt chước gương nhân đức của cha mình, lòng yêu mến Chúa Thánh Thần, Đấng soi sáng tâm trí của các ngài. Khi thành đạt, hai anh em lại chung một chí hướng tận hiến mình cho Chúa để phụng sự Chúa và phục vụ các linh hồn.
Thánh Biển Đức (Bênêđitô) đã lập Dòng, em của Ngài là thánh nữ Scolastica cũng sáng lập Dòng nữ tu ở Ý gần rặng Cassino, thuộc Plombariola, cách tu viện của anh ngài chỉ có năm dặm.
Mỗi năm hai anh em chỉ gặp nhau có một lần, trong một nông trại, vì Scholastica không được phép vào tu viện. Cả hai dành thời giờ để thảo luận về các vấn đề tinh thần.
Theo cuốn Ðối Thoại của thánh Grêgôriô Cả, trong lần sau cùng hai anh em gặp nhau để cầu nguyện và truyện trò, thánh Scholastica cảm thấy cái chết của mình gần kề nên nài xin anh Bênêđitô ở với ngài cho đến ngày hôm sau.
Thánh Bênêđitô từ chối lời yêu cầu ấy vì ngài không muốn ở đêm bên ngoài tu viện, vì như thế chính ngài sẽ phá vỡ quy luật do ngài đặt ra. Thánh Scholastica xin Thiên Chúa cho phép anh mình ở lại, và một trận mưa lớn đổ xuống như thác khiến Bênêđitô và các tu sĩ đi theo ngài không thể trở về tu viện.
Thánh Bênêđitô kêu lên, “Xin Chúa tha tội cho em. Em làm cái gì vậy?” Thánh Scholastica trả lời, “Em xin anh một ơn huệ và anh từ chối. Em xin Chúa, và Chúa nhận lời.”
Ba ngày sau, khi thánh Bênêđitô cầu nguyện trong tu viện thì ngài nhìn thấy linh hồn của em mình bay lên trời trong dạng chim bồ câu trắng. Thánh Bênêđitô sai các tu sĩ đem xác của em mình về dòng và chôn trong chính ngôi mộ mà thánh nhân đã chuẩn bị cho mình.
Thánh Scholastica từ trần vào khoảng năm 543, và sau đó không lâu thánh Bênêđitô cũng từ giã cõi đời.
Thánh Scholastica và Bênêđitô đã hiến mình trọn vẹn cho Thiên Chúa, và coi trọng việc kết giao bằng hữu với Chúa qua sự cầu nguyện. Các ngài đã hy sinh một số cơ hội sẵn có để cùng nhau thực hiện ơn gọi tu trì. Tuy nhiên, khi càng gần gũi với Ðức Kitô bao nhiêu, họ càng cảm thấy gần nhau hơn. Khi gia nhập cộng đồng tu sĩ, họ đã không quên và cũng không bỏ rơi gia đình mà trái lại họ có thêm các anh chị em mới.
Trong 3 năm rao giảng của Chúa Giêsu, Ngài rất ít đi ra ngoài lãnh thổ của Do-thái. Lý do không phải vì Ngài không muốn Tin Mừng của Ngài được lan rộng đến Dân Ngoại; nhưng vì Ngài đã có kế hoạch rõ ràng. Bổn phận của Ngài là loan báo Tin Mừng cho các chiên lạc của nhà Israel. Tuy nhiên hôm nay Ngài cũng dành một khoảng thời gian đi ra khỏi biên giới để đến vùng đất dân ngoại. Trang Tin mừng kể: “Đức Giê-su đứng dậy, rời nơi đó, đến địa hạt Tia”. Mặc dù Ngài đến cách âm thầm kín đáo, thế nhưng vẫn bị dân ngoại phát hiện. Chi tiết thánh sử Marcô nhấn mạnh: “Bà đó là dân ngoại, dòng giống Syrophenixi”. Vào lúc Marcô biên soạn Tin mừng, thì Rôma, giữa lòng dân ngoại, chi tiết này không kém phần quan trọng. Ông muốn minh chứng rằng, Đức Giêsu thật sự là Đấng sáng lập Công cuộc truyền giáo cho dân ngoại.
Hơn nữa ngang qua cuộc đối thoại: “Phải để cho con cái ăn no trước đã, vì không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con.”28 Bà ấy đáp: “Thưa Ngài, đúng thế, nhưng chó con ở dưới gầm bàn lại được ăn những mảnh vụn của đám trẻ con.” Chúa Giêsu đã chấp nhận chia sớt ân phúc cho dân ngoại, qua việc ban cho bà theo ý thỉnh cầu.
Sứ điệp lời Chúa cho cộng đoàn là: Củng cố cộng đoàn để ra đi truyền giáo, hay củng cố, xây dựng vững mạnh để khoe mầu cờ sắc áo cho hơn các hội đoàn khác?
Chúa Giêsu không bao giờ tỏ ra kỳ thị con người như thế. Tin Mừng hôm nay là một bằng chứng. Cũng như các tác giả Tin Mừng khác, thánh sử Marcô cho thấy phần lớn hoạt động và thời giờ của Chúa Giêsu được dành cho người Do thái; chỉ sau khi sống lại, Ngài mới chính thức sai các Tông đồ truyền giảng Tin Mừng cho mọi người, bất luận là Do thái hay không Do thái.
Thật ra ngay những năm rao giảng Tin Mừng, Chúa Giêsu đã hé mở cho thấy chiều kích phổ quát của giáo lý và của ơn cứu độ mà Ngài mang lại. Ngoài những giáo huấn về tình huynh đệ đại đồng và thái độ không bài ngoại của Chúa Giêsu, Tin Mừng còn thuật lại các chuyến đi của Ngài tới vùng đất ngoại giáo, tại đây, Ngài cũng đã làm nhiều phép lạ, như trừ quỷ cho một thanh niên ở Gêrasa, cho một người câm ở miền Thập tỉnh nói được, và lần này trừ quỷ cho con gái của một phụ nữ Hy lạp gốc Phênixi.
Dựa vào những yếu tố trên, câu nói của Chúa Giêsu: “Không được lấy bánh dành cho con cái mà ném cho chó con” không thể giải thích đó là dấu biểu thi sự khinh miệt của Ngài đối với người khác đạo và khác tổ quốc; đúng hơn, Chúa muốn mọi người đừng quên ưu thế của người Do thái trong việc thừa hưởng ơn cứu độ, bởi vì Thiên Chúa đã chọn cha ông họ và muốn tỏ lòng trung thành với cha ông họ. Người Do thái được ưu tiên, chứ không phải là những người duy nhất được hưởng ơn cứu độ; vì thế, dù quan tâm săn sóc người Do thái nhiều đến đâu, Chúa Giêsu cũng không để trở thành vật sở hữu độc quyền của họ, Ngài vẫn có tự do bày tỏ tình thương đối với người khác.
Chúng ta chấp nhận sự tự do của Thiên Chúa trong việc ban phát ơn huệ và tình thương của Ngài. Dù ý thức mình chẳng là gì, chúng ta hãy tin rằng mình luôn là đối tượng yêu thương của Thiên Chúa. Với một Ðấng vô biên như Thiên Chúa, thì bất cứ hành vi nào của Ngài cũng có chiều kích vô hạn và quà tặng của Ngài cũng tràn trề sung mãn. Xin cho chúng ta cảm nhận được rằng Chúa đang yêu thương chúng ta và như thế là đủ cho chúng ta.
Lòng thương xót của Đức Giêsu không biên giới, không phân biệt, không loại trừ. Người đến để thực hiện sứ mạng quy tụ các con chiên tản mát ở khắp nơi về hợp một đoàn. Người đến không phải để phá hủy nhưng để kiện toàn, không phải để chia cách nhưng để nối lại những tương giao, tìm kiếm những gì đã hư mất, băng bó những vết thương.
Tin Mừng hôm nay khơi lên trong chúng ta thái độ phải có khi loan báo Tin Mừng. Đừng khép mình trong tháp ngà của sự an toàn tiện nghi nơi gia đình hay giáo xứ. Hãy ra khỏi biên giới của sự hẹp hòi ích kỷ để đến với con người, đặc biệt những ai bé nhỏ nghèo hèn. Hãy chìm sâu trong cầu nguyện để cảm nhận lòng bao dung độ lượng của Thiên Chúa.
Hãy cám ơn Chúa vì qua những thử thách gian nan để chúng ta có cơ hội luyện tập đức kiên nhẫn như lời thánh Giacôbê khẳng định: “… đức tin có vượt qua thử thách mới sinh ra lòng kiên nhẫn. Chớ gì anh em chứng tỏ lòng kiên nhẫn đó ra bằng những việc hoàn hảo để anh em nên hoàn hảo…Phúc thay người biết kiên trì chịu đựng cơn thử thách, vì một khi đã được tôi luyện, họ sẽ lãnh phần thưởng là sự sống Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người” (Gc 1, 3-4.12).
2022
Sạch dơ
9.2.2022
Thứ Tư trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 10:1-10; Tv 37:5-6,30-31,39-40; Mc 7:14-23
Sạch dơ
Sau những tranh luận khá gay gắt với những người Pharisêu và một số kinh sư về vấn đề sạch dơ trong trình thuật Tin Mừng hôm qua. Lời Chúa hôm nay tiếp tục đề cập đến cái sạcha dơ như một nối tiếp của bản văn Tin mừng hôm qua nhưng theo một chiều hướng khác, đó là cái bên trong và cái bên ngoài.
Khi bàn về chế độ ăn uống của các dân tộc và của cá nhân, những nhà văn hóa xã hội phải thú nhận không thể đưa ra một tiêu chuẩn chung để qui định đâu là thức ăn ngon, đâu là thức ăn dở, đâu là thức ăn sạch sẽ bổ dưỡng, đâu là cái bẩn thỉu và độc hại. Bởi vì, đối với dân tộc này, món óc khỉ chẳng hạn là một món ăn bổ dưỡng và sang trọng, nhưng đối với dân tộc khác, đó là một thức ăn của người còn mang nặng thú tính, chưa có nhân tính thuần thục. Người Do thái ngày xưa cũng tự qui định cho mình một số thức ăn được phép và một số thức ăn không được phép. Còn thái độ của Chúa Giêsu đối với vấn đề này như thế nào?
Trước hết, phải nhìn nhận rằng cả Chúa Giêsu lẫn người Do thái đều không đứng trên bình diện sinh học để cứu xét thức ăn sạch hay dơ, tốt hay xấu, nhưng cả hai phê phán giá trị thức ăn theo quan điểm luân lý. Người Do thái qui định một số thức ăn không được phép dùng, ban đầu có thể là do yếu tố vệ sinh, y học, nhưng về sau họ đánh giá theo một góc độ khác. Chẳng hạn người Do thái không ăn máu và những thú vật bị chết ngạt, vì họ cho rằng máu tượng trưng cho sự sống, mà sự sống là độc quyền của Thiên Chúa, do đó con người không được phép đụng tới. Quan niệm này tiếp tục tồn tại trong Giáo Hội Kitô tiên khởi và các tín hữu gốc ngoại giáo được yêu cầu nhượng bộ các Kitô hữu gốc Do thái ở điểm này.
Thắc mắc của các môn đệ và giải đáp của Chúa Giêsu được tác giả Marcô ghi lại ở đây, có lẽ phản ánh bầu khí tranh luận của Giáo Hội tiên khởi lúc ấy và hướng giải quyết vấn đề mà Giáo Hội dần dần phải theo, đó là mọi thức ăn đều thanh sạch; điều quan trọng hơn chính là tâm hồn con người, bởi vì thức ăn sạch, chén đĩa sạch, tay chân sạch có ích gì cho việc mưu cầu ơn cứu độ, nếu con người còn có tâm hồn lừa dối Thiên Chúa và phỉnh gạt người khác.
Có một lần Phêrô đã phản ứng như mọi người Do thái. Trong một thị kiến, Phêrô được lệnh phải giết và ăn các thú vật nằm trên tấm khăn lớn từ trời buông xuống, nhưng Phêrô lập tức từ chối vì cho đó là thức ăn dơ. Tuy nhiên, Thiên Chúa đã sửa sai quan niệm của ông: những gì Thiên Chúa tuyên bố là thanh sạch, thì con người chớ gọi là ô uế. Thật ra, thị kiến này chỉ có ý nghĩa tượng trưng: Phêrô được lệnh phải tiếp đón lương dân vào Giáo Hội, những người mà Do thái giáo cho là nhơ uế. Như vậy, khi trả lời cho câu hỏi về vấn đề sạch, dơ ở đây, Chúa Giêsu muốn nói rằng người ta không thể đánh giá người khác dựa trên mầu da, chủng tộc, văn hóa, ngôn ngữ, giai cấp, vì tất cả những điều ấy chỉ là những hình thức phụ thuộc; mỗi người sẽ bị Thiên Chúa đánh giá dựa vào tâm địa tốt hay xấu của mình và những hành vi xuất tự tâm địa ấy.
Trong đời sống thường ngày, chúng ta chỉ quan sát được cái bên ngoài, còn cái bên trong thì ta không thể quan sát hay cảm nhận được bằng các giác quan. Vì vậy, cái bên ngoài và cái bên trong có nhiều điều để nói. Chúa Giêsu nói với đám đông dân chúng: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ trong con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế”. Sau đó Đức Giêsu còn giải thích cho các môn đệ hiểu rõ những lời dạy của Ngài. Thật vậy, cái có thể làm cho con người ra ô uế không phải cái từ bên ngoài mà chính là những cái phát xuất từ bên trong như ghen ghét, lười biếng, trộm cắp, gian dâm, xảo trá, kiêu ngạo… Đó là những cái từ trong lòng xuất phát ra. Nó làm cho con người ta ra dơ bẩn.
Tội lỗi thường phát xuất từ lòng con người, nó làm cho con người mất ân nghĩa với Chúa, mất tương quan tốt đẹp với tha nhân. Bởi vậy, người ta thường nói: “Tư tưởng của bạn thế nào thì hành động của bạn như vậy”, khi chúng ta nghĩ điều gì, ấp ủ điều gì trong lòng chúng ta dễ dàng hành động theo cái chúng ta suy nghĩ. Khi mình yêu mến ai, nghĩ tốt cho ai mình thường đối xử với người đó một cách dễ dãi, xuề xoà hay có một tương quan khá dễ chịu. Ngược lại, khi ta ác cảm với ai ta thường hay bắt bẻ, so đo, tính toán với người đó. Vì vậy, tội lỗi thường xuất phát từ lòng người, đó là cái bên trong làm cho con người ra dơ bẩn. Đó cũng là cái bên trong mà Đức Giêsu muốn nói đến, cái bên trong hay chúng ta còn gọi là “cái tâm”. Cái tâm tốt thì con người tốt và ngược lại cái tâm xấu làm cho con người cũng có những hành động xấu.
Là những người Kitô hữu, chúng ta cần phải “tu tâm dưỡng tính” để ta luôn xuất ra bên ngoài những hành động tốt, đầy tình yêu thương. Cái dơ bẩn bên ngoài thì dễ tẩy rửa, nhưng nếu tâm hồn ta hoen ố vì tội lỗi, vì những đó kỵ, những tị hiềm thì ta khó có thể sửa đổi ngay được. Đôi khi chúng ta chỉ vì những cái lợi nho nhỏ mà làm mất chính mình, làm mất những tương quan tốt đẹp trong đời sống của mình. Sống trong nền kinh tế thị trường hôm nay, người ta thường đặt lợi nhuận lên hang đầu. người ta tìm mọi cách để trục lợi, bất chấp những luân thường đạo lý. Vì thế người ta thường sống trong nghi kỵ, không còn tin vào người khác
Nhóm biệt phái thời Đức Giêsu là nhóm chuyên để ý soi mói, lên án và trách móc người khác. Trong khi chính họ lại không quy hướng cuộc sống mình về Thiên Chúa mà luôn ảo tưởng, tự mãn với cái đạo đức giả hình của mình. Vì vậy họ thường tìm cách bắt bẻ người khác, chú tâm đến những luật lệ bên ngoài còn chính họ, họ lại không “tu tâm” để chính họ được sạch và bình an. Lời Chúa hôm nay cảnh cáo chúng ta về những ảnh hưởng của thế gian. Chúng ta phải làm chứng cho Chúa bằng chính cái tâm trong sáng của mình để tất cả những hành động, lời nói của chúng ta là những điều tích cực, mang lại niềm vui và bình an cho người khác.
Chúng ta thường đánh giá con người qua những gì quan sát được bên ngoài. Đôi khi cái bên ngoài trông rất tầm thường nhưng bên trong lại chứa đựng cả một kho tàng vô giá ta không thấy được bằng quan sát bên ngoài mà ta chỉ có thể thấy được bằng cái tâm của mình. Do đó chúng ta cần phải điều chỉnh lại bằng cách xin Chúa giúp cho chúng ta có được cái nhìn thiện cảm về tha nhân để chúng ta biết nhìn sự thật nơi chính mình và luôn thể hiện những điều tốt đẹp qua cuộc sống của mình như những gì Chúa muốn dạy chúng ta.
Từ chỗ không kỳ thị về các sự vật, Kitô giáo tiến tới chỗ không kỳ thị về con người. Bằng chứng là trong giáo lý Công giáo hiện nay, không hề có dị ứng trước các thực tế của nhân loại, cũng không đặt bảng phân loại con người để tiếp nhận và Giáo Hội hay lập thang giá trị để đáng giá các phần tử trong Giáo Hội. Trái lại Kitô giáo mang tinh thần đại đồng và phổ quát, xứng đáng được gọi là đạo Công Giáo.
2022
MÔI MIỆNG
8.2 Thứ Ba trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 8:22-23,27-30; Tv 84:3-4,5,10,11; Mc 7:1-13
MÔI MIỆNG
“Phép Vua – thua lệ làng !” – rất có thể đây là sự liên tưởng hoặc cảm xúc của nhiều độc giả khi đọc xong trình thuật Tin Mừng hôm nay. Sự liên tưởng hoặc cảm xúc này hẳn có lý do của nó, ấy là vì câu trả lời quá xác đáng của Chúa Giêsu trước lời trách cứ của các Pharisêu và kinh sư về việc môn đệ Ngài không rửa tay trước khi dùng bữa.
Tin mừng hôm nay kể lại cuộc đối chất giữa Chúa Giêsu và những người biệt phái về vấn đề tập tục của tiền nhân. Đối với người Do thái, việc rửa tay, rửa chén đĩa, không chỉ là một biện pháp vệ sinh nhằm phòng bệnh, mà còn là một nghi thức tôn giáo nói lên ước nguyện trở nên thanh sạch, để có thể hiệp thông với Thiên Chúa là Đấng Thánh.
Quả thật đây là điều tốt, nhưng người biệt phái đã quá vụ hình thức mà bỏ quên điều thiết yếu, họ phán đoán một người tốt hay xấu dựa trên những hình thức bên ngoài. Điều quan trọng là sự thanh sạch của tâm hồn, chứ không phải việc rửa tay, rửa vật dụng bên ngoài; đừng lẫn lộn tập tục của truyền thống với lề luật do chính Thiên Chúa ban bố.
Nhưng thật ra, sứ điệp quan thiết nhất cho bạn, cho tôi, cho anh chị và cho chúng ta hôm nay lại nằm ở câu trích sách Isaia mà Chúa Giêsu dùng lại: dân này tôn kính Ta bằng môi miệng. Lời này vừa như để tố cáo cách khôn ngoan mà thẳng thắn những kẻ tự cho mình là công chính qua việc giữ luật thật tỉ mỉ ; mà cũng vừa như thể trách móc dân chúng và những ai đã nhẹ dạ cả tin đi theo thói đạo đức giả của những người lãnh đạo thiếu hẳn một tấm chân tình và lòng kính sợ Thiên Chúa thật sự.
Thành ra, dù muốn dù không, cho đến lúc này Lời Chúa Giêsu vẫn âm vọng đâu đó trong tâm trong trí ta, thư thể Ngài đang thì thầm trong ta: con tôn kính Ta bằng môi miệng ; con bỏ giới răn của Ta để giữ truyền thống của các con; …
Một trong những đặc trưng của kỹ thuật hiện đại là kỹ thuật làm đồ giả. Nếu như trước đây chỉ mới có chân giả, da giả … thì ngày nay có hàng loạt những thứ giả khác như tóc giả, lông mi giả, hoa giả, trái cây giả….Những thứ ấy đi vào cả những sinh hoạt thiêng liêng như mân, quả, hoa, nến, nhang, đèn giả…mức độ “giả” còn tinh vi nên lắm khi cái giả xem ra còn đẹp hơn cái thật, khó mà phân biệt được thực hư, tốt xấu: trông thật hóa “dỏm”; trông xịn hoá “xoàng”. Vì thế mới có kẻ dở khóc dở cưòi.
Nhưng tệ nhất vẫn là thứ “Giả nhân giả nghĩa”, thứ “giả hình” mà Chúa đã nặng lời khiển trách (Mt 23,13-29). Và thánh Gioan đã lật tẩy:
“Ai nói rằng mình biết Thiên Chúa mà không tuân giữ các điều răn của Người, đó là kẻ nói dối” (1 Gioan 2,4);
“Ai bảo mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, ngưòi ấy là kẻ nói dối. Vì ai không yêu ngưòi anh em mà mình trông thấy, thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ trông thấy” (1 Ga 4,20)
Âm vọng đó có thể khiến ta tránh né hoặc dừng lại để biện hộ. Tránh né bởi chuyện lòng ta xa Chúa đã quá rõ ràng. Nếu ta đã từng rất siêng đi lễ, đọc kinh sốt sắng nhưng không thể tha thứ cho người anh chị em xúc phạm đến ta ; đã từng cảm thấy vô cùng xấu hổ và mất mặt vì người con gái trong gia đình ta lỡ mang thai ngoài hôn nhân nên đã phá thai để che chắn; đã từng hy sinh thời gian và công sức để giảng dạy rất hay về giáo lý, về Lời Chúa, nhưng đời sống ta lại không làm chứng nổi cho những lời ấy ; ….
Biện hộ vì dường như ta đã dễ dàng để ma quỷ hạ gục, dễ dàng để ma quỷ điều khiển với những lý lẽ quá ỷ lại vào lòng xót thương và quyền năng của Chúa như: Chúa biết hoàn cảnh của con, xin Chúa thông cảm cho con ; Chúa khoan dung vô cùng, Chúa sẽ tha thứ cho con; … nhằm xoa dịu lương tâm rồi cứ vô tư làm điều mình muốn, bất chấp những giới răn của Chúa.
Càng thành tâm để Lời Chúa soi chiếu vào mọi ngõ ngách đời mình, ta sẽ nhận ra mình đã ít nhiều thiếu hẳn một tấm lòng dành cho Chúa trong mọi chọn lựa sống đạo, trong các nỗ lực thi hành giới răn Chúa, trong những giờ dành cho Chúa, … Sự thiếu vắng ngày khiến cho các việc ta làm thiếu đi ý nghĩa của nó. Dĩ nhiên là chỉ khi nào ta dành cho Chúa trọn cả tấm lòng, trọn cả mối tình, thì các hành động của ta mới mang chở đầy đủ ý nghĩa của nó, nhờ thế, ta mới có thể lớn lên trong ơn thánh, mới có thể dấn bước mà chạm đến ơn cứu độ Chúa đã dành sẵn cho mỗi người. Tắt một lời, khi nào sống với Chúa trọn tình, ta mới đạt vẹn nghĩa làm con.
Ngày nay thật đáng lo ngại là cho sự khủng hoảng đạo lý nơi nhiều gia đình. Có những người con chỉ dừng trên nghĩa vụ, bổn phận lo lắng cho cha mẹ của cải vật chất, mà quên đi cha mẹ còn phải được kính trọng và yêu mến. Vật chất chỉ là giá trị bề ngoài nhưng chính giá trị tinh thần, giá trị đạo đức mới quan trọng cho đời sống cha mẹ. Giá trị đạo đức bị đảo lộn bởi có những đứa con coi vật chất là trên hết, đặt tiền tài trên nghĩa vụ làm con, sẵn sàng gửi cha mẹ vào các nhà dưỡng lão mà quên rằng bổn phận của con cái là nuôi dưỡng, thăm hỏi khi cha mẹ còn sống, và cầu nguyện xin lễ cho các ngài khi đã qua đời.
Đã hẳn chẳng ai trong chúng ta muốn thất nghĩa hoặc bất hiếu với Chúa. Vì thế, đây là lúc thuận tiện để tôi, bạn và anh chị, ta cùng mời Chúa Giêsu đến và ngoan ngoãn để Người vẽ bày cho ta cách sống trọn tình vẹn nghĩa với Người
2022
Chạm vào Chúa Giê-su
7.2 Thứ Hai trong tuần thứ Năm Mùa Quanh Năm
1 V 8:1-7,9-13; Tv 132:6-7,8-10; Mc 6:53-56
Chạm vào Chúa Giê-su
Tin Mừng hôm nay thuật lại Chúa Giêsu đã thi hành sứ vụ rao giảng rất hoàn hảo. Người rao giảng Tin Mừng bằng lời nói việc làm, Đấng đã đến để loại trừ cảnh lầm than, nghèo đói, xua đuổi bóng tối tội lỗi, mang lại cho mọi người ơn che chở và phúc lành. Ngài chính là Đấng đã ban cho chúng ta sự sống và giúp mọi người chiến thắng tử thần. Đối tượng phục vụ của Chúa là đủ mọi loại người trong cuộc sống, từ những người nghèo, người đau khổ đến người bệnh tật…
Chỉ với 4 câu vắn vỏi mà thánh Marcô dễ dàng giúp độc giả hình dung chuỗi hoạt động của Chúa Giêsu trong khung cảnh nhộn nhịp và sống động: Người ra khỏi thuyền, lên đất liền rồi đi vào các làng mạc, thành thị và thôn xóm. Hẳn nhiên đây không phải là sự nhộn nhịp và sống động của phố chợ hoặc bán buôn. Bầu khí sống động được kiến tạo bởi rất đông người ta và những kẻ ốm đau. Sự nhộn nhịp được tôn tạo nhờ vẻ đẹp của những nét mặt căng tràn tươi vui và hy vọng, của những tiếng cười nói động viên nhau chờ đợi và cố tìm cách đến với Chúa Giêsu, của những lời trầm trồ và kinh ngạc vì hồng ân khỏi bệnh quá lớn và quá bất ngờ, nhất là của chính con người Chúa Giêsu: ân cần, tận tụy, dịu hiền, nhanh nhẹn và đầy quyền năng; sẵn sàng để cho con người quấy rầy, réo gọi và đụng chạm.
Khi Chúa Giêsu vừa lên bờ đến miền dân ngoại là Ghenêxaret, người ta đã nô nức kéo nhau đến với Chúa. Khi người đi đến đâu thì người ta cũng khiêng những người bệnh tật đến đấy, xin cho chạm vào áo Người. Tất cả những ai được chạm vào áo Người đều được khỏi bệnh. Chúa Giêsu luôn tỏ ra yêu thương và quan tâm đến con người, nhất là những người đau khổ và yếu đuối. Không ai đến với Người mà phải thất vọng.
Bệnh tật cho người ta kinh nghiệm về sự yếu đuối, sự bất lực của con người đối với người đau ốm. Những phù phép và mê tín dị đoan không làm cho người ta khỏi bệnh. Tình yêu thương mới có thể chữa lành khi người ta có khả năng tin tưởng vào tình yêu ấy. Chính vì thế mà Chúa Giêsu chỉ dùng lời nói và sự hiện diện thể lý của Người mà chữa bệnh cho người ta. Người cầm tay hay chạm đến kẻ chết, kẻ chết sống lại. Chỉ cần biết rằng Người đang ở đó. Ngay cả hôm nay, Đức Kitô phục sinh vẫn đang ở giữa chúng ta, Người vẫn là ánh sáng duy nhất, là sự sống vĩnh hằng. Người quan tâm đến chúng ta, Người yêu thương chúng ta… Ta hãy đến với Người cùng với những tầm thường, yếu đuối thể xác và tâm hồn của ta, giống như một đứa trẻ nương tựa vào cha mình, quẳng đi mọi lo âu để chỉ biết rằng cha đang ở đó.
Nếu ta tiếc rẻ không được sống vào thời đó để có thể chạm đến tua áo choàng của Người hầu được khỏi bệnh, là bởi ta thiếu lòng tin. Trong mỗi Thánh lễ, chúng ta đọc lời: “Lạy Chúa, con chẳng đáng Chúa ngự vào nhà con, nhưng xin Chúa phán một lời, thì linh hồn con sẽ lành mạnh. ” Hoặc là chúng ta không biết mình mắc bệnh gì cần được chữa khỏi. Hoặc là chúng ta không tin vào sự hiện diện và quyền năng của Chúa Giêsu .
Dẫu sao, hôm nay cũng như trong những ngày còn rao giảng Phúc âm, Chúa Giêsu đều nói với chúng ta rằng Cha chúng ta vẫn chăm sóc ta trong mọi giây phút cuộc đời, rằng phép lạ vẫn xảy ra thường ngày để chữa lành những tật bệnh của ta nếu ta biết chú ý đến tình yêu của Người. Đó là tình yêu khiến ta được an bình thanh thản, mang lại cho ta ơn lành mạnh tâm hồn, hơn là sức khỏe phần xác.
Quả là Chúa Giêsu có sức thu hút mãnh liệt đối với dân chúng. Họ tin tưởng vào quyền năng và tình yêu thương của Ngài. Họ không mong gì hơn là được chạm vào tua áo của Ngài. Chắc chắn sự đụng chạm này không chỉ sơ sài nơi tua áo, mà là cái đụng chạm của lòng tin, của Trái Tim với trái tim ; mà là sự gặp gỡ giữa Thiên Chúa và loài người, giữa Đấng Chữa Lành và phận người toang vỡ vì đau khổ, bệnh tật và tội lỗi. Sự đụng chạm ấy, cuộc gặp gỡ ấy đẹp đẽ và xúc động làm sao. Đẹp vì Con Thiên Chúa làm người đã sẵn sàng hiện diện, sẵn sàng ở ngay bên để con người có thể chạm vào bất cứ lúc nào. Xúc động vì con người đã tìm gặp được Đấng đáng cậy tin để họ hân hoan mở cửa lòng mình và vui nhận hồng ân được tái sinh, được chữa lành. Họ hạnh phúc biết bao ! Hạnh phúc vì phận người mỏng dòn yếu đuối nay được tiếp sức bằng Sự Sống của Đấng ba lần Thánh. Hạnh phúc vì kiếp tục trần nay được chạm vào thánh thiêng.
Chuyện đụng chạm, chuyện gặp gỡ, chuyện mở cửa lòng, chuyện chữa lành hôm xưa vẫn tiếp diễn hôm qua, hôm nay và mãi mãi. Thiên Chúa vẫn có đó, trong mọi biến cố đời thường, trong Thánh Kinh, trong giáo huấn của giáo hội, trong kinh nguyện và nhất là trong mỗi Thánh Lễ. Người vẫn đi giữa nhân loại, vẫn rảo bước khắp làng mạc thôn xóm, vẫn ở đó với con người trong mọi phút buồn vui cuộc đời, vẫn sẵn sàng cho những quấy rầy và đụng chạm của con người. Liệu ta có muốn chạm vào Người và mở lòng cho những cuộc gặp gỡ thần diệu ấy chăng ? Liệu ta có muốn Người chữa lành những tật bệnh tinh thần và thiêng liêng cho ta chăng ?
Hơn thế, tôi, bạn và anh chị, ta còn mang trong mình phận vụ quan trọng và cấp thiết hơn bao giờ hết, là trở thành những Giêsu khác giữa dòng đời hôm nay, là nhân danh Người mà phục vụ các nhu cầu của tha nhân, nhất là của những người nghèo đói tật bệnh. Ta có dám sống với người nghèo và sẵn lòng để cho họ quấy rầy ta chăng ? Ta có dám học cách phục vụ người nghèo như Chúa Giêsu, là mau mắn trong những hành động cụ thể chứ không phải chỉ nhanh nhạy trong ý tưởng và nói rất hay nơi bàn giấy chăng ?
Nếu dám nghĩ, dám làm những gợi ý trên nơi bản thân, trong gia đình mình và tại thôn xóm mình thôi, là ta đang trở thành những tác viên tin mừng, những chứng nhân của tân phúc âm hóa đời sống gia đình và là những Giêsu khác như giáo hội thiết mong.
Chúng ta vẫn thường hát: “Đâu có tình yêu thương, ở đấy có Đức Chúa Trời, đâu có lòng từ bi, ở đấy có ân sủng Người…” Phải, nơi nào có Chúa, nơi đó có niềm vui, bình an, trông cậy và chữa lành. Cụ thể là như bài Tin mừng hôm nay nói tới, Chúa Giêsu có mặt ở đâu, thì người ta chen nhau tới với Người để được ân sủng Người chữa lành. Sự hiện diện của Chúa Giêsu là sự hiện diện của tình yêu và lòng bác ái. Ngài gần gũi và quan tâm đến con người, đặc biệt những người đau khổ và yếu đuối.
Thế nên, Chúa Giêsu mời gọi mọi người chúng ta sống chiều kích hiện diện đầy yêu thương, đem đến bình an và thực thi đức bác ái, hầu xoa dịu sự đau khổ của kiếp người. Chính sự hiện diện đó làm cho mọi người cảm kích mà chạy đến với Chúa, tựa như bông hoa tỏa hương thu hút muôn loài đến với nó.
Chúa Giêsu quan tâm đến con người và yêu thương con người. Vì thế, chúng ta hãy đến với Người, bằng chính con người mình với sự tầm thường, yếu đuối thể xác và tâm hồn, giống như một trẻ nhỏ luôn nương tựa vào cha mẹ của mình. Chúng ta đặt trọn tình yêu và niềm tin vào Chúa, chắc chắn Chúa sẽ chữa lành và cho chúng ta được hồn an xác mạnh.