2022
Chúa thương thì Chúa chọn
14/5 Thánh Matthia, Tông Đồ
Cv 13:44-52; Tv 98:1,2-3,3-4; Ga 14:7-14
Chúa thương thì Chúa chọn
Thánh Matthia Tông Đồ đã được chọn để thế chỗ cho Giuđa. Theo bài đọc I của Thánh lễ hôm nay thì Matthia hay Giustô là một trong số 120 môn đệ có mặt tại nhà tiệc ly lúc đó. Matthia cùng với Joseph biệt danh là Bácsaba là hai người được đề cử, nhưng khi cầu nguyện và bắt thăm thì Matthia được trúng và được kể là một trong số 12 Tông Đồ. Và theo lời thánh Phêrô thì Matthia đã cùng sống với Chúa Giêsu.
Trang Tin Mừng hôm nay đề cập đến hai vấn đề quan trọng:
Điều răn mới của Chúa Giêsu
Và việc Chúa chọn các Tông Đồ.
Hôm nay, trong bầu khí thân mật của nhóm Thầy trò, Chúa Giêsu tâm sự với các Tông Đồ: như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến anh em như vậy. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy (Ga 15,9).
Có lẽ các Tông Đồ đang rất cảm động trước những lời yêu thương đó và đang lắng nghe với tất cả trái tim rung cảm của mình. Tình yêu này đã nâng các Tông Đồ lên, từ địa vị Thầy trò đến địa vị bạn bè: Anh em là hạn hữu của Thầy(Ga 15,19). Tình yêu đích thực bao giờ cũng khiêm hạ. Tình yêu là một sức mạnh có thể biến đổi một môn đệ yếu đuối thành một người bạn thân yêu.
Trong thế giới loài người cũng vậy. Không phải những lời nói hay, những lý luận sắc bén mà thay đổi được một con người, nhưng là tình yêu. Lịch sử Giáo Hội cho thấy, Giáo Hội được canh tân là nhờ sức mạnh tình yêu của các vị thánh chứ không phải do những lý luận sắc bén của các nhà thần học hay triết gia lỗi lạc.
Vì thế mà Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tình yêu, đến điều răn mới. Trước khi chọn Phêrô đứng đầu Hội Thánh, Chúa cũng đòi hỏi ở Phêrô về lòng mến chứ không phải kiến thức, khả năng hay bằng cấp.
Chính Thầy đã chọn anh em… để anh em ra đi, sinh nhiều hoa trái (Ga 15,16).
Hai vợ chồng nhà báo người Hà Lan tên là Val Der Meer de Walcheren đã cùng xin chịu Bí tích Thánh Tẩy vào năm 1911 để gia nhập Giáo hội Công giáo. Sau đó, ông bà đã lần lượt khuyên các con cùng theo đạo, rồi lại cùng lần lượt theo đuổi ơn gọi Tận Hiến của các dòng tu. Người con trai lớn sau này trở thành một linh mục dòng Biển Đức Nam (Bénêdictin), người con gái kế làm nữ tu trong đan viện Biển Đức Nữ (Bénédictine).
Năm 1933, nhờ lòng khao khát tuyệt đối và ý chí tận hiến cho Chúa, Tòa Thánh đã chấp thuận đơn xin của hai ông bà để họ được phép chia tay nhau trong Lòng Mến Đích Thật. Ông xin được vào dòng Biển Đức Nam, nơi người con trai linh mục vừa sớm lìa đời, còn bà thì xin vào dòng Biển Đức Nữ chung với người con gái .
Trong thời kỳ tập tu, Bề Trên cả hai dòng chỉ định cho ông bà phải tiếp tục thường xuyên thư từ cho nhau. Sau hai năm, cả hai ông bà vẫn đầy thiện chí, sẵn sàng hy sinh dâng mình cho Chúa. Thế nhưng, Bề Trên của hai bên đều nhận thấy mối duyên tình của ông bà còn quá khăng khít, nên đã khuyên cả hai trở về với đời sống gia đình. Ông bà vâng lời trở về, tiếp tục sống hạnh phúc bên nhau, chan hòa lòng yêu thương bác ái đối với tha nhân, nhất là với những người nghèo khổ.
Đến năm 1954 thì bà Val Der Meer de Walcheren qua đời. Nối lại ý hướng từ 20 năm về trước, cụ ông 74 tuổi đã xin trở lại tu viện. Và vào ngày 22.12.1956, cụ được thụ phong linh mục tại nhà nguyện tu viện Đức Mẹ nơi người con gái của cụ vẫn đang sống cuộc đời đan tu gương mẫu đã hơn 40 năm qua .
Qua trang Tin Mừng hôm nay, ta thấy thánh Philipphê, một trong nhóm mười hai đã nói lên ước muốn: “Lạy Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con”. Chúa Giêsu đã phản ứng thế nào? Và trả lời làm sao? Ðó là những vấn đề mà chúng ta sẽ đề cập trong bài Tin Mừng.
Chúa không chọn các Tông Đồ dựa trên tiêu chuẩn của loài người; và khi đã chọn rồi thì Chúa chỉ đòi hỏi một điều nơi những người được chọn: hãy yêu mến nhau. Và khi đã chọn ai thì Chúa liền ra lệnh: hãy ra đi và sinh nhiều hoa trái.
Tâm trạng của Philipphê cũng là tâm trạng của vị vua trên hay của bất cứ ai trong chúng ta, một niềm tin đòi hỏi sự lạ. Bởi thế mà không ít người sẵn sàng hao tốn tiền bạc, thời giờ để tìm đến nơi xảy ra dấu lạ cho bằng được. Một dịp hành hương có ý nghĩa và quan trọng hơn Tam Nhật Thánh của ngày lễ Phục Sinh.
Tuy nhiên, đáp lại yêu cầu của Philipphê, Chúa Giêsu đã dùng một lời khẳng định và một câu hỏi khẳng định đặt trước và một câu hỏi nằm sau. Nếu theo đúng phương pháp sư phạm, câu hỏi phải được đặt trước, vì đặt câu hỏi là giúp khai mở dần của việc đối diện để hướng về sự thật sắp được giãi bày. Chẳng phải Chúa Giêsu không biết đến phương pháp này, nhưng Ngài đã trả lời cách khác, vì Ngài muốn nêu lên một chân lý: “Ai thấy Thầy là thấy Cha, Thầy với Cha là một”. Ðó là một thực tại quá hiển nhiên không còn phải bàn cải.
Câu hỏi tiếp theo có công dụng như một lời nhắc nhở cho Philipphê hãy quay nhìn trở lại cuộc sống thân tình giữa Thầy và các môn đệ. Những lời Thầy nói, những việc Thầy làm không phải là của Thầy, nhưng đều là của Thiên Chúa Cha ở trong Thầy. Sự thân tình quen thuộc đã khiến cho các môn đệ chẳng nhận ra Ngài là Thiên Chúa.
Lời nhắc nhở của Chúa Giêsu đối với tông đồ Philipphê cũng là lời Ngài muốn nhắc nhở chúng ta hôm nay. Ðừng cho các quen thuộc bên ngoài che mất thực tại bên trong. Tìm kiếm Thiên Chúa là một điều tốt, nhưng thật đáng trách khi đứng trước Ngài mà chẳng nhận ra Ngài. Chúng ta nôn nao tìm kiếm dấu lạ, nhưng rồi dấu lạ xảy ra trước mắt mà lại chẳng nhìn thấy.
Hằng ngày qua lời truyền phép của linh mục, Chúa Giêsu hiện diện thực sự trên bàn thờ mà đã mấy lúc chúng ta tỏ ra thái độ cung kính tin nhận Ngài. Và rồi trong cuộc sống, biết bao lời cầu khẩn, xin ơn được dâng lên Thiên Chúa, nhưng đã có lần nào chúng ta biết dừng lại để khám phá ra ơn lành của Ngài đã bị mất giữa chuỗi dài những quen thuộc thường xảy ra.
Chúa Giêsu muốn Kitô hữu chúng ta cũng phản ánh dung mạo của Người cho tất cả mọi anh em còn xa lạ với Chúa để họ được nhận biết Người; nghĩa là: nhìn vào đời sống các con, thiên hạ sẽ nhận biết được sự tốt lành của Thiên Chúa chân thật. Cụ thể: Tình thương được diễn tả bằng những cử chỉ cảm thông, chia sẻ, và phục vụ cách vô vị lợi – “Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau” (x. Ga 13, 35); bên cạnh đó, chúng ta còn phản ánh dung mạo của Đức Kitô bằng đời sống ngay thẳng, thật thà, liêm chính không gian dối, lươn lẹo, lọc lừa, hay tham lam, ích kỷ nơi học đường, trong công sở, chỗ làm việc…
“Ai tin vào Thầy, người ấy sẽ làm được những việc Thầy đã làm; người ấy còn làm được những việc lớn lao hơn.” Nhận biết và tin vào Thiên Chúa, chúng ta được thúc đẩy dấn thân để thực thi trọn vẹn ý muốn của Người. Như Thiên Chúa ở trong Đức Ki-tô và làm mọi việc (c. 10), chúng ta hãy tha thiết gắn bó và cầu xin để Đức Ki-tô làm mọi việc trong chúng ta hầu thi hành thánh ý của Người; và như thế chắc chắn muôn điều kỳ diệu sẽ được thực hiện trong cuộc sống.
15/5 Chúa Nhật thứ Năm Mùa Phục Sinh
Cv 14:21-27; Tv 145:8-9,10-11,12-13; Kh 21:1-5; Ga 13:31-33,34-35
Điều răn mới
Không phải chỉ có Kitô giáo mới giảng dạy về tình yêu thương. Văn hoá Á đông đã từng nhấn mạnh: Tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Cha ông chúng ta thuở trước cũng đã khuyên nhủ: Thương người như thể thương thân, để nói lên tấm lòng yêu thương rộng mở đối với mọi người trong xã hội. Vậy giới luật của Chúa có điều chi mới mẻ?
“Thầy ban cho anh em một điều răn mới, là anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em”.
Người ta cho rằng: yêu thương phát xuất từ con tim. Người ta còn nói: Tình yêu xưa như trái đất, nghĩa là tình yêu có từ khi có trái đất hay trái đất xưa bao nhiêu thì tình yêu lâu đời bấy nhiêu. Như thế, tình yêu cũ kỹ lắm rồi! Ở đấy, Đức Giêsu không nói đến thời gian có tình yêu. Người chỉ nói phải đổi mới tình yêu.
Tình yêu đã bị hủ hoá, tha hóa vì nó chứa quá nhiều các thứ trần tục, nó bị ô nhiễm bởi tội tổ tông, làm mất giá trị cao quý của con người siêu việt là con Thiên Chúa.
Yêu thương anh em, nhiều người trong chúng ta cho rằng, lệnh truyền này có tính cách giáo điều, mang nặng tính chất đạo đức, không còn gây được những ấn tượng mạnh mẽ. Trong khi đó, cuộc sống thì biến đổi từng ngày và từng giờ. Người ta chú trọng đến những vẻ hào nhoáng bên ngoài. Những lời nói tuyên truyền. Tất cả làm thành như một lớp sơn, phết trên thanh gỗ mục. Trong khi đó tinh thần bác ái, tinh thần yêu thương vẫn cứ bị quên lãng, và không có một chỗ đứng quan trọng nào trong sinh hoạt thường ngày.
Dựa vào những lời tâm sự cuối cùng của Chúa, chúng ta có thể tìm thấy được những nét độc đáo của tình thương yêu trong Kitô giáo. Nét độc đáo thứ nhất đó là hãy yêu thương nhau như Chúa Giêsu đã yêu thương chúng ta. Thực vậy, cái khuôn mẫu lý tưởng, cái thước được dùng để đo tình yêu thương của chúng ta, không còn là mối liên hệ máu mủ, cũng không còn là chính bản thân của mình nữa, nhưng là chính tình yêu của Chúa Giêsu, Đấng đã xuống thế và chịu chết trên thập giá để cứu chuộc chúng ta như lời Ngài đã nói: Không ai có tình yêu cao quý hơn người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu. Chỗ khác Ngài cũng bảo: Ta là mục tử tốt lành. Người mục tử tốt lành thì hy sinh mạng sống cho đoàn chiên. Tình yêu ấy không bị giới hạn, không bị ngăn cách nhưng được dành cho hết mọi người.
Bên cạnh thập giá Đức Kitô không ai là không có chỗ của mình, kể cả những kẻ tội lỗi, đĩ điếm và trộm cướp. Ngài không huỷ diệt một khả năng nào để vươn lên. Đứa con hoang đàng cũng có chỗ trong nhà cha mình. Người trộm cắp cũng được mời gọi tham dự tiệc cước và người phụ nữ nhẹ dạ cũng có thể hôn chân Ngài. Ngài đã tỏ cho chúng ta thấy một Thiên Chúa đầy lòng nhân từ và thương xót đối với mọi người, không trừ một ai. Tình yêu thương vô bờ ấy phải trở nên mẫu mực để chúng ta noi theo: Hãy yêu thương như như Thầy đã yêu thương các con.
Nét độc đáo thứ hai đó là tình yêu thương phải trở nên dấu chỉ của những người thuộc về Chúa. Người ta cứ dấu này mà nhận biết các con là môn đệ Thầy là các con yêu thương nhau. Thực vậy, Chúa Giêsu không đòi hỏi các môn đệ của mình phải thông thái như các tiến sĩ luật, cũng không bắt họ phải sống gò bó nhiệm nhặt như nhóm biệt phái. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi nơi các ông đó là tình yêu thương.
Ngay từ đầu các tín hữu đã thực sự sống tình bác ái yêu thương để làm chứng cho Đức Kitô phục sinh và trải qua dòng lịch sử của Giáo Hội, các tâm hồn ở mọi nơi và trong mọi lúc, vẫn nhận ra Thiên Chúa là tình yêu xuyên qua những chứng từ sống động của những người tin Chúa, được biểu lộ bằng hành động bác ái yêu thương.
Yêu thương nhau như Thầy yêu. Thiên Chúa là Tình Yêu. Thiên Chúa đã sai chính Con Một yêu dấu xuống thế để cứu độ nhân loại. Chúa Giêsu đã bày tỏ tình yêu Thiên Chúa một cách cụ thể trong đời sống. Tình yêu của Chúa trải rộng trong mọi khía cạnh của cuộc sống con người. Ngài đã dùng mọi cách gần gũi nhất để tỏ lòng yêu thương. Chúa sinh ra nơi máng cỏ nghèo hèn, chịu chung số phận với những người kiều cư khách lạ, sinh sống nơi làng quê nghèo và hoạt động cách bình dị âm thầm. Chúa Giêsu hoà chung những sinh hoạt hằng ngày với mọi người, đến nỗi người đồng hương chẳng nhận ra Chúa là ai. Họ nghĩ Chúa chỉ là con bác thợ mộc Giuse và mẹ là bà Maria. Thiên Chúa ẩn mình một cách thật khiêm hạ.
Chúa Giêsu đã kiên nhẫn đợi chờ trong thời gian và không gian để thi hành sứ mệnh. Ngài đã hoàn tất mọi lời tiên tri loan báo về Ngài. Chúa đã chịu mọi khổ nhục và chịu chết treo trên cây Thánh giá. Chúa đã sống lại. Mọi uy quyền trên trời dưới đất được trao ban trong tay Ngài. Mọi tư tưởng, lời nói, hành động của Chúa Giêsu là lời nói hành động của Thiên Chúa làm Người. Lời của Ngài là Tin Mừng cứu độ. Trước khi rời khỏi thế gian, Chúa Giêsu đã ưu ái ban truyền cho các Tông đồ: “Thầy ban cho anh em một điều răn mới là anh em hãy yêu thương nhau; anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13,34). Yêu thương nhau như Thầy yêu chúng con. Một điều răn căn cốt tóm gọm lời dạy của Chúa.
Chính vì hiểu như thế, Thánh Augustinô đã giải thích: “Sau khi lột bỏ con người cũ, nó mặc cho ta con người mới… Kẻ vâng theo giới răn mới này được canh tân, không phải nhờ một thứ tình yêu nào, nhưng chỉ nhờ tình yêu mà Chúa đã phân biệt với tình yêu xác thịt khi Người nói thêm rằng: “Như Thầy đã yêu chúng con”. Tình yêu ấy đổi mới chúng ta, những kẻ hát khúc ca mới. Tình yêu ấy đã canh tân tất cả những người công chính ngày xưa, các thánh tổ phụ, các tiên tri thời trước, cũng như đã đổi mới các dân tộc và toàn thể nhân loại sống rải rác khắp mặt địa cầu. Nó đang kết hợp lại thành một dân mới, làm thành thân thể người bạn trăm năm mới của con Thiên Chúa.
2022
Thầy đi dọn chỗ cho anh em
13/5 Thứ Sáu trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:26-33; Tv 2:6-7,8-9,10-11; Ga 14:1-6
Thầy đi dọn chỗ cho anh em
Tin Mừng hôm nay cho chúng ta thấy tâm trạng của các môn đệ khi các ông biết Chúa Giêsu sắp lìa bỏ các ông mà đi. Mặc dù đã từng được kề vai sát cánh cùng Thầy Giêsu trong nhiều năm trên bước đường đi rao giảng, được Thầy dạy dỗ và bảo ban rất nhiều điều tốt lành và bổ ích, nhưng với thân phận con người, các ông không khỏi bàng hoàng, lo lắng cho cuộc sống của mình khi không có Thầy của mình bên cạnh. Trong bối cảnh như thế, các ông cảm thấy cuộc sống phía trước của mình thật là u sầu, ảm đạm, các ông không biết mình sẽ đi đâu và đi theo ai bây giờ
Lời căn dặn đầu tiên với các môn đệ mà hôm nay ai nghe mà không yên tâm, tin tưởng?: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Được gần bên Chúa ba năm, các ông đã được chứng kiến quyền năng, phép tắc của Người. Nhất là được tận hưởng tình yêu thương của Chúa nữa. Thiết nghĩ nếu Chúa không dặn dò gì nữa thì các ông cũng đã được đầy an vui hy vọng nơi Người rồi. Thế nhưng, các ông lại còn được lời căn dặn ân tình thắm thiết, càng chứng tỏ Chúa yêu thương, lo lắng cho các ông đến mức nào. Người lo lắng cho các ông hôm nay và lo lắng cho cả tương lai.
Trước nhất Chúa chỉ vẽ cho các ông nơi đặt niềm tin tối cần và tối cao trong đời mình: “Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy”. Ở đời ta còn phải tin vào những đối tượng khác nữa như: ông bà, cha mẹ, người thân… Nhưng Thiên Chúa, là Đấng quyền năng tối cao trong thế giới vũ trụ này và trên cuộc đời mỗi người chúng ta, nên ta phải đặt vào Người một niềm tin tuyệt đối.
Chúa tiếp tục dặn dò và hứa với các ông, nếu tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy thì sau này các ông sẽ được về“nhà Cha Thầy”. Chúa như vật chất hóa, cụ thể hóa ngôi nhà của Thiên Chúa trên trời để các ông dễ tin, dễ hiểu, dù chưa được thấy, được đến bao giờ nhưng tin chắc có ngôi nhà ấy: “Trong nhà Cha Thầy có nhiều chỗ ở… Thầy đi để dọn chỗ cho anh em”.
Một điều mà làm cho các môn đệ cũng như cả chúng ta hôm nay vui sướng, yên vui nhất đó là chính lời hứa cũng như cam kết của Chúa với các môn đệ: “Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó”. Ôi! con người mà được ở chung một nhà, một chốn với Đấng Tạo Hóa quyền phép toàn năng, còn ai được hạnh phúc bằng.
Khi biết được tâm trạng và những suy nghĩ lo lắng của các môn đệ, Chúa Giêsu đã nói: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy“. Lời trấn an của Chúa Giêsu đã làm cho các môn đệ cảm thấy an lòng. Chúa Giêsu không chỉ muốn tâm hồn các ông được bình an thư thái, nhưng Ngài còn muốn khích lệ các ông hãy hướng tâm hồn về Nước Trời, hãy tìm cho mình một con đường, mà con đường đó sẽ dẫn đưa họ đến với cuộc sống trường tồn và vĩnh cửu, khi Ngài nói: “Thầy là đường, là sự thật và là sự sống…”
Nói đến đây, các môn đệ tưởng như Chúa Giêsu sẽ chỉ vẽ cho các ông một con đường vật chất, để đi tới ngôi nhà vật chất có không gian, địa lý của Thiên Chúa. Vì vậy khi Chúa nói đến “Thầy đi đâu anh em biết đường rồi”, các ông đã ngơ người. Tôma là người điển hình thưa lại: “Thưa Thầy chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao biết được đường?”. Vậy là cuối cùng Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ con đường để về với Chúa Cha thật mầu nhiệm vừa hữu hình vừa vô hình: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống”.
Chúa là con đường: Ai vâng nghe lời Chúa, thực thi lời Chúa, nên giống Chúa là họ đang đi trên con đường của Chúa bước về nhà Thiên Chúa. Bước trên con đường ấy họ như đã bước vào ngưỡng cửa của ngôi nhà Thiên Chúa, họ đã được nếm thử, ngắm nhìn, dù chưa được hưởng ngoạn tất cả hạnh phúc huy hoàng nơi Nhà Thiên Chúa.
Chúa là sự thật: Tin giữ lời Chúa, ta không còn buồn phiền lo lẵng mà yên vui sống trên dương thế, cho dù gặp muôn nỗi thăng trầm nhưng tin tưởng Lời Chúa sẽ thành hiện thực.
Chúa là sự sống: Chúa là chủ, là nguồn cội sự sống thân xác và sự sống linh hồn mọi người. Tổ tiên ta đã có câu: “Sống chết bởi Trời”. Còn như thánh Phaolô dạy: “Anh em có sống là sống cho Chúa và có chết cũng là chết cho Chúa”. Thật thế Chúa nắm giữ vận mạng tôi, để tôi luôn gắn kết tâm hồn thể và xác tôi trong Người.
Chúa Giêsu ra đi không phải đi tìm hạnh phúc cho riêng mình, nhưng cho các tông đồ và cho cả nhân loại. Ngài ra đi để chúng ta được cứu rỗi, Ngài đi trước để dọn chỗ cho chúng ta được sống đời đời hạnh phúc bên Chúa Cha. Chính qua cái chết và sự phục sinh của Ngài, Ngài đã trở thành con đường duy nhất dẫn chúng ta đến với Chúa Cha.
Khi suy nghĩ về mục đích của cuộc đời hiện tại và về cuộc sống mai sau, chúng ta hãy biết sống tỉnh thức bằng việc giữ tâm hồn trong sạch, luôn tín thác vào Chúa, Ngài sẽ giúp chúng ta đạt tới hạnh phúc muôn đời nơi Nhà Cha của Ngài là Thiên Đàng vinh phúc đã được dọn sẵn cho chúng ta.
2022
ĐÓN TIẾP THẦY
12/5 Thứ Năm trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 13:13-25; Tv 89:2-3,21-22,25,27; Ga 13:16-20
ĐÓN TIẾP THẦY
Trong khung cảnh bữa tiệc ly, sau khi rửa chân cho các môn đệ để dạy các ông bài học yêu thương và phục vụ, Chúa Giêsu dạy tiếp một bài học rất cần cho mọi Kitô hữu: hãy biết đón nhận những kẻ Chúa sai đến với mình: “Ai đón nhận kẻ Thầy sai là đón nhận Thầy; và ai đón nhận Thầy là đón nhận Đấng đã sai Thầy”.
Tin Mừng hôm nay là những lời trăng trối sau cùng của Thầy Giêsu đối với các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc thương khó. Sau khi cúi xuống rửa chân cho từng môn đệ, Đức Giêsu căn dặn các ông chú ý phục vụ lẫn nhau như Người đã phục vụ.
Hơn nữa khi phục vụ người khác là chúng ta đang phục vụ chính Thiên Chúa. Đức Giêsu nhắc lại lời của Đavít “Kẻ đã cùng con chia cơm sẻ bánh lại giơ gót đạp con” (Tv 41,10) như để nhắc nhở trong số các môn đệ, có người sẽ phản bội bán Chúa, nhưng không vì thế mà các ông lãng quên bổn phận phải phục vụ. Chính Thiên Chúa biết trước tất cả những bội phản sẽ xảy ra, nhưng Người vẫn yêu thương và yêu đến cùng.
Ở đây có một sự kết nối rất chặt chẽ, khi thực thi bác ái, đón tiếp tha nhân là chúng ta đón tiếp chính Thiên Chúa. Tương quan của chúng ta với Thiên Chúa chỉ triển nở và bền lâu nếu chúng ta duy trì tương quan với tha nhân. Ngược lại, khi từ chối tha nhân là chúng ta từ chối chính Thiên Chúa. Không phải chúng ta đến với Chúa, nhưng chính Thiên Chúa đã đến với chúng ta trước. Người đã đến và tự nguyện ở lại, mang vác mọi gánh nặng khổ đau và tội lỗi của kiếp người. Đức Giêsu đã trao hiến để lấp đầy mọi khiếm khuyết nơi chúng ta, đã chết để chúng ta được sống và sống dồi dào.
Trong cuộc sống, giữa dòng đời ngược xuôi, biết bao lần chúng ta đã bước qua nhau mà không quan tâm để ý đến những nhu cầu cần thiết của người khác, không biết có một người đang cần chúng ta giúp đỡ. Trong đời sống thiêng liêng, biết bao lần chúng ta cũng bỏ qua lời mời gọi của Thiên Chúa, khi từ chối thực thi tình bác ái đối với tha nhân, khi từ chối trở nên chứng nhân của tình yêu thương. Biết bao lần Chúa mời gọi chúng ta tham dự vào mầu nhiệm Cứu Chuộc của Thiên Chúa nhưng chúng ta lại từ chối mải mê chạy theo những cám dỗ mời mọc ngọt ngào của thế gian vật chất, của đam mê xác thịt.
Chúng ta ngồi hàng giờ bên ly cà phê để nói chuyện phiếm, hàng giờ lang thang trên internet nhưng lại tiếc với Chúa một giờ cầu nguyện hay tham dự thánh lễ. Thiên Chúa quảng đại yêu thương ban cho chúng ta một ngày hai mươi bốn giờ, nhưng chúng ta lại tiếc với Chúa, so đo tính toán trả giá từng phút, ta quá bận rộn đến nỗi không có thời gian dành cho Chúa.
Đến với Chúa, con người không bao giờ thiệt thòi, trái lại chúng ta được chăm sóc yêu thương, được nâng đỡ, ủi an. Chúa đến với ta ân cần khiêm tốn, ta đến với Chúa khoe khoang, kể lể và tính toán. Chúa đến với ta tinh tế độ lượng, tín trung, đùm bọc chở che, ta đến với Chúa hẹp hòi vị kỷ. “Chúa đến với ta như cơn mưa đầm đìa mát mẻ trên cánh đồng khô hạn cằn trơ. Mưa không to tát nặng hạt để rồi vội ướt vội khô nhưng triền miên nhẹ nhàng thẫm đẫm vào mọi ngóc ngách của lòng ta. Những cơn mưa hồng ân, mưa cứu rỗi. Chúa cũng đến với ta như ánh trăng rằm mùa thu. Ánh trăng sáng tỏa muôn nơi, rọi chiếu tâm can. Ánh trăng soi tỏ lý trí, ánh trăng của tình yêu săn sóc. Ánh trăng của cảm thông an ủi, của bao dung tha thứ. Chúa là sự đợi chờ yêu thương không mệt mỏi, tha thứ không giới hạn…
Giữa dòng đời ngược xuôi Chúa vẫn đứng đó đợi chờ ta mặc dù phải chịu đựng sự băng giá, sự thờ ơ của lòng người. Chúa phải chịu đựng những cơn mưa dối trá, những ngông cuồng kiêu căng. Chúa ở lại với ta, trong ta để thuộc về ta mọi đàng nhưng ta lại tìm mọi cách để tránh né Chúa, vượt ra khỏi vòng tay yêu thương của Chúa. Chúa thân thiện và gần gũi, ta lạnh nhạt thờ ơ. Chúa đong đầy những đấu đã dằn đã lắc, ta gạt lọc cắt xén chê bai. Chúa thân hành đến với ta, còn ta thì ngại ngùng xa cách.
Ta thấy thánh Gioan dùng từ “Ta là Ðấng Ta Là”, từ dùng để chỉ chính Giavê Thiên Chúa. Trong ánh sáng của mầu nhiệm Phục Sinh của Chúa Giêsu, các tông đồ và mỗi người chúng ta được mời gọi suy niệm những lời Chúa Giêsu có liên quan đến vận mệnh tương lai của những ai làm đồ đệ Chúa. Trước hết là hồng ân được Chúa sai đi, được đại diện cho Ngài “Ai đón rước kẻ Ta sai là đón rước Ta và ai đón rước Ta là đón rước Ðấng đã sai Ta”.
Ðó là chiều dọc từ con người lên cùng Thiên Chúa Cha qua Chúa Giêsu Kitô. Mọi đồ đệ của Chúa cần phải duy trì trọn vẹn chiều dọc này. Ðây là hồng ân Chúa ban cho những con người Chúa chọn làm kẻ đại diện của Ngài, mang sứ điệp của Ngài đến cho anh chị em khác và hồng ân này có thể bị mất đi do chính quyết định tự do của con người như trường hợp của Giuđa ngày xưa, người môn đệ phản Thầy, “Ta biết những kẻ Ta đã chọn, kẻ ăn bánh cùng Ta đã giơ gót chân đạp Ta”.
Lời cảnh tỉnh của Chúa thôi thúc mỗi người chúng ta xét lại cuộc sống làm đồ đệ theo Chúa của mình đang ở mức độ nào. Chúng ta sẽ làm đại diện cho Chúa một cách hữu hiệu hơn nếu chúng ta trở nên giống Chúa hơn và chia sẻ vận mệnh của Chúa: “Tôi tớ không hơn chủ; kẻ bị sai đi không trọng hơn người sai họ”. Chúa đã đi qua con đường thập giá, thì đồ đệ của Ngài chắc chắn cũng sẽ đi qua con đường này. Hơn nữa, cám dỗ phản bội Chúa như Giuđa ngày xưa luôn là cám dỗ thường hằng của mọi môn đệ Chúa cả ngày hôm nay. Chúng ta hãy tỉnh thức đề phòng.
Đón tiếp hay đón nhận đòi tôi phải hy sinh thời giờ, công việc và có khi của cải tiền bạc nữa. Không muốn hy sinh những thứ đó thì không phải là đón tiếp và đón nhận, hoặc chỉ là đón tiếp cách thờ ơ lãnh đạm.
Chúa đã phục sinh gần hai ngàn năm, nhưng con người vẫn cứ ngụp lặn trong thế giới cũ mèm của hận thù, đố kỵ. Thế giới này sẽ đẹp hơn, nếu như mọi người biết bao dung và khoan dung cho nhau, yêu thương và phục vụ lẫn nhau.
2022
Tin Con Là Tin Cha
11/5 Thứ Tư trong tuần thứ Tư Mùa Phục Sinh
Cv 12:2413; Tv 67:2-3,5,6,8; Ga 12:44-50
Tin Con Là Tin Cha
Tin mừng theo thánh Gio-an được viết ra sau một thời gian dài cầu nguyện đến lúc chín mùi. Trước khi cho chúng ta những lời chứng, thánh nhân đã dầy kinh nghiệm sống với sức sống của Thiên Chúa, Cha, Con và Thánh Thần. Tin mừng này bày tỏ về Thiên Chúa Ba ngôi, qua con tim của một người, một người xác tín, một người tông đồ yêu dấu.
Chúa Giêsu tự định nghĩa mình là người được sai đi của Cha. Thánh Gio-an không giới thiệu Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa, nhưng là Con Cha. Hầu như bất cứ điều quan trọng nào đều chỉ về Cha và không chỉ về Con. Tất cả đều tương quan với Cha. Chúa Giêsu thực hiện sứ mệnh do Cha ban, Người làm cho họ nhận biết sứ điệp của Cha. Chúa Giêsu chính là sứ điệp của Cha.
Thái độ của Đức Kitô luôn luôn bày tỏ sự hoàn toàn tùy thuộc, hoàn toàn vâng lời lúc nào cũng sẵn sàng đối với Cha. Nếu Người cho lời Người là quan trọng vì đó là lời của Cha: “Chính lời Tôi nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết, thật vậy, không phải Tôi tự mình nói ra, nhưng là chính Chúa Cha, Đấng đã sai Tôi, truyền lệnh cho Tôi phải nói gì và tuyên bố gì”.
Tin Mừng hôm nay có thể tóm lược cách tổng quát về những lời rao giảng công khai của Chúa. Chúa Giêsu đã nhắc đến hai điểm chính yếu là: “Tin Ngài là tin Chúa Cha và thấy Ngài là thấy Chúa Cha”.
Tin Mừng trình bày cho chúng ta phần cuối của Sách các Dấu Lạ (từ chướng đến chương 12), trong đó Thánh Sử Phúc Âm đưa ra một sự quân bằng. Nhiều người tin vào Chúa Giêsu và đã có can đảm bày tỏ đức tin của họ cách công khai. Họ lo sợ bị trục xuất khỏi Hội Đường. Và nhiều kẻ không tin: “Dù Người đã làm ngần ấy dấu lạ trước mặt họ, thế mà họ vẫn không tin vào Người. Như vậy là ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia: “Lạy Đức Chúa, ai đã tin lời chúng tôi rao giảng? Và quyền lực của Đức Chúa đã được tỏ cho ai?” (Ga 12-37-38).
Tin Chúa thì sẽ mang lại ánh sáng cho cuộc đời, vì đức tin là ánh sáng, không tin thì sống trong tối tăm. Từ chối không tin Con Người thì tự kết án mình, mặc dù Chúa Giêsu không đến để kết án mà để cứu rỗi. Không ai có thể thoát ra khỏi sự xét xử cuối cùng này, và sự xét xử ấy là bởi thái độ do con người tin nhận hay từ chối từ Thiên Chúa: “Ai nghe lời Ta mà không tin giữ thì không phải Ta kết án kẻ đó, nhưng chính Lời Ta sẽ xét xử nó” (Ga 12,47-48), không ai có thể thoát khỏi sự xét xử này, nhưng sự xét xử đó sẽ đến trong ngày sau hết.
Tin vào Chúa Giêsu là tin vào Đấng đã sai Người. Câu này là bản tóm tắt sách Tin Mừng của ông Gioan. Đó là chủ đề xuất hiện và tái xuất hiện theo nhiều cách. Chúa Giêsu hiệp nhất với Chúa Cha đến nỗi mà Người không nhân danh mình mà nói, mà luôn nhân danh Chúa Cha. Ai thấy Chúa Giêsu là thấy Chúa Cha. Nếu bạn muốn biết về Thiên Chúa, hãy nhìn vào Chúa Giêsu. Thiên Chúa là Chúa Giêsu!
Chúa Giêsu là sự sáng đã đến thế gian. Tại đây, ông Gioan trở lại với những gì ông đã nói trong Lời Tựa: “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người” (Ga 1:9). “Ánh sáng chiếu soi trong bóng tối, và bóng tối đã không diệt được ánh sáng” (Ga 1:5). Tại đây, ông lặp lại: “Ta là sự sáng đã đến thế gian, để bất cứ ai tin Ta, người ấy sẽ không còn ở trong sự tối tăm nữa.” Chúa Giêsu là câu trả lời sống động cho những khúc mắc lớn tác động và truyền cảm hứng cho việc tìm kiếm của nhân loại. Đó là ánh sáng chiếu rọi ở chân trời. Nó khiến cho người ta khám phá ra mặt chiếu sáng của bóng tối đức tin.
Ta đã đến không phải để xét xử thế gian. Về ngày sau hết, một câu hỏi được đặt ra: Việc luận phạt sẽ như thế nào? Trong hai câu này, Thánh Sử làm sáng tỏ chủ đề ngày phán xét. Việc luận phạt không được thực hiện theo như lời đe dọa, với sự nguyền rủa. Chúa Giêsu nói rằng: “Nếu ai nghe lời Ta nói mà không tuân giữ, thì không phải chính Ta xét xử người ấy, vì Ta đã đến không phải để xét xử thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian. Ai khinh dể Ta, và không chấp nhận lời Ta, thì đã có người xét xử: Lời Ta đã nói sẽ xét xử người ấy trong ngày sau hết.” Việc luận phạt bao gồm cách mà người đó tự xác định mình trước lương tâm của chính mình.
Chúa Cha ra lệnh cho Ta phải nói gì. Những lời cuối cùng của Sách các Dấu Lạ là một bản tóm tắt tất cả những điều Chúa Giêsu đã nói và làm cho đến bây giờ. Người tái khẳng định những điều mà Người đã khẳng định ngay từ đầu: “Bởi vì Ta đã không tự mình nói ra, nhưng Cha là Đấng sai Ta, chính Người đã ra lệnh cho Ta phải nói gì và phải công bố gì.
Và Ta biết rằng lệnh của Người là sự sống đời đời. Những điều Ta nói, thì Ta nói theo như Cha đã dạy.” Chúa Giêsu là sự phản chiếu trung thực của Chúa Cha. Vì lý do này, Người đã không trưng ra bằng chứng hay luận cứ cho những kẻ khiêu khích Người để hợp thức hóa sự khả tín của Người. Chính Chúa Cha là Đấng hợp thức hóa Người qua các công việc Người làm.
Và nói về việc làm, Người không nói đến những phép lạ to tát, mà tất cả những điều Người nói và làm, ngay cả những điều nhỏ nhặt nhất. Chính Chúa Giêsu là Dấu Lạ của Chúa Cha. Người là phép lạ biết đi, sự minh bạch hoàn toàn. Người không thuộc về mình, mà hoàn toàn thuộc về Chúa Cha. Sự khả tín của một Sứ Giả không đến từ người ấy, mà đến từ Đấng mà người ấy đại diện. Sự khả tín đến từ Chúa Cha.
Bước theo Đức Kitô, người kitô hữu chúng ta không những được mời gọi tiến vào miền ánh sáng, mà còn có bổn phận trở thành ánh sáng. Ngài không cần chúng ta phải chiếu ánh sáng quyền năng của Ngài bằng những việc phi thường, nhưng là sẵn sàng tiêu hao chính mình để ánh sáng Đức Kitô được chiếu tỏa, và nhờ đó chính chúng ta cũng được đổi mới và nhận được vinh quang Phục Sinh của Ngài.
Trong cuộc sống, Thiên Chúa luôn kêu mời con người trở về với Ngài sau những lần sa ngã hay lúc họ chối từ Ngài, thời giờ chúng ta đang sống là thời giờ của lòng nhân từ thương xót Chúa. Ước gì mỗi người chúng ta đừng lạm dụng lòng nhân từ Chúa, đừng khinh dể bỏ qua ơn soi sáng của Ngài. Qua đoạn Phúc Âm trên, thánh sử cho thấy rõ ý Chúa muốn nói với mỗi người, đó là Ngài muốn chúng ta lắng nghe lời Ngài và sống kết hợp với Ngài “biết giới răn Cha Ta là sống đời đời” (Ga 12,50).