2022
Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu
8.7 Thứ Sáu trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 14:2-10; Tv 51:3-4,8-912-13,14,17; Mt 10:16-23
Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu
Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giê su mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc, Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.
Con rắn rất nhiều ở Palestin. Hình như con rắn nào càng độc thì càng tinh khôn. Chúng thường đi ăn và săn mồi ban đêm, chúng trườn mình rất nghề, chúng đi lại êm đềm như gió, chúng biết cách ẩn nấp trong bóng đêm để rình mồi. Chúng biết cách sợ sệt và trốn lủi tài tình. Chúng leo cây, chui luồn dưới nước đều được hết. Con rắn hay bắt sâu bọ, chuột, ếch nhái là những đồ ăn loại mát tạng. Rắn rất thích nghe nhạc nhất là tiếng đàn violon, sáo, (biết nghe nhạc là một dấu khôn ngoan).
Chúa Giêsu muốn dùng hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ bài học của sự khôn ngoan cẩn trọng trong đời tông đồ. Một sự khôn ngoan không lèo lái thâm độc. Nhưng là sự khôn ngoan đi đôi với lòng chân thành đơn sơ trong trắng như chim bồ câu.
Chim bồ câu ai cũng quen thuộc. Con chim nào cũng dễ thương. Từ bộ lông trắng mượt pha xám, đến đôi mắt ngây thơ, dáng điệu đi lại gật gù, điệu bay là là nhẹ nhàng thật dễ thương. Nói đến bồ câu, làm chúng ta liên tưởng tới ngày tạo dựng vũ trụ, có Thánh Thần Thiên Chúa bay lượn là là trên nước (St 1,2) hay con chim câu đã bay về tàu Noe, sau lụt hồng thủy. Cũng nhắc tới Chúa Thánh Thần lấy hình chim bồ câu đậu xuống trên đầu Chúa Giêsu ở bờ sông Giodan (Mt 3, 16). Tiên tri Isaia đã ví lời cầu nguyện van xin của dân Israel như tiếng rì rầm của chim câu (Is 59, 11). Sách Diễm tình ca diễn tả chim câu là biểu tượng của tình yêu (2,14).
Nói chung, con chim câu là biểu tượng của bình an, trong trắng, đơn sơ. Chúng không biết làm tổ để ở. Chúng sống nương tựa vào người ta. Chúng có một trí nhớ đặc biệt đến nỗi người xưa đã dùng nó để đưa thư cả hàng chục cây số mà chúng vẫn trung thành hoàn tất sứ mệnh, Chúa Giêsu đã mượn hình ảnh chim câu để cầu chúc các tông đồ sống thành thật trung tín và hữu ích.
Tin mừng hôm nay cho chúng ta thấy Chúa Giê su biết trước trong khi thi hành sứ vụ loan báo Tin mừng , các Tông đồ sẽ gặp bách hại, thất bại, ghen ghét và chống đối. Sự chống đối này còn xảy ra ngay trong gia đình nơi thân thương gần gũi với mình. Nên Ngài không những trấn an các ông đừng lo sợ vì có Thiên Chúa ở cùng nâng đỡ mà còn dạy các ông cần phải biết Khôn ngoan như rắn và đơn sơ như Chim câu. Điều này đòi hỏi người môn đẽ phải luon có đời sống cầu nguyện và tín thác vào tình yêu quan phòng của Thiên Chúa.
Có lẽ ai trong chúng ta cũng biết, rắn là loài vật luồn lách rất giỏi, tinh ranh và khôn ngoan, quỷ quyệt (St 3). Nó có thể cắn chết người (rắn lửa trong sa mac) và cứu người (con rắn đồng của Môi sê). Xưa cũng như nay, người ta còn dùng rắn để chữa nhiều bệnh. Chúa Giê su mượn hình ảnh con rắn để dạy các môn đệ cũng như những ai muốn làm môn đệ Ngài khi thi hành sứ vụ phải biết khôn ngoan cẩn trọng nhưng không quỷ quyệt, luồn lách, thâm độc, Sự khôn ngoan này phải xuất phát từ tấm lòng từ bi chân thành, ngay thẳng, đơn sơ như chim bồ câu.
Nói đến chim câu là nói đến sự trung thành (St 8, 8-12), hiền lành, trong trắng , đơn sơ là biểu tượng của Chúa Thánh Thần, của hòa bình, an lành. Chúa Giê su dùng hình ảnh này không những để khuyến khích các tông đồ mà cả chúng ta nữa, những người muốn theo Chúa, làm môn đệ Chúa phải luôn thành thưc, tín trung và phó thác vào tình yêu Chúa trong bất kỳ mọi hoàn cảnh của cuộc sông.
Thật vậy, thời nào cũng có những cuộc bách hại gây khó khăn cho người môn đệ. Nhất là trong thời đại ngày nay, thời đại đầy dẫy những bất công, con người chỉ muốn sống tự do, hưởng thụ an nhàn tự tại cho riêng mình. Thời đại mà người công chính, lương thiện, người bênh vực chân lý thì mất dần tiếng nói trong xã hội, trong các công sở. Nếu không khôn ngoan như con rắn để phân định sự kiện. Nếu không đơn sơ như chim câu mở rộng tâm hồn đón nhận sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần và trung thành, tín thác vào tình yêu của Chúa. Người môn đệ dễ bị chán nãn thất vọng trước nhựng thất bại, chống đối ghét ghen, phản bội, kết án của xã hôi, bạn bè và ngay cả chính những người thân trong gia đình..
Tin Mừng hôm nay một lần nữa cho chúng ta hiểu được thế nào là ơn gọi và số phận của người Kitô hữu. Chúa Giêsu đã được cụ già Simêon gọi là dấu chỉ gợi lên chống đối. Cái chết của Ngài trên Thập giá là cao điểm của những chống đối mà con người dành cho Ngài. Tiếp tục sứ mệnh của Ngài, Giáo Hội ở mọi nơi và mọi thời, không thể thoát khỏi số phận bị chống đối ấy. Hình thức và mức độ của những cuộc bách hại có khác nhau, nhưng tựu trung ở đâu và lúc nào Giáo Hội cũng bị bách hại.
Ý thức về sự bách hại không phải là một mặc cảm; lên tiếng về những bách hại cũng không hề là một ý đồ chính trị. Giáo Hội tự bản chất luôn bị đặt vào thế bị chống đối. Chấp nhận đi theo Chúa Kitô, sẵn sàng chiến đấu chống lại tội lỗi, lên tiếng chống lại bất công và can đảm lội ngược dòng, sống như thế tức là đã bị bách hại rồi. Một Giáo Hội phục vụ có thể được thương mến, nhưng một Giáo Hội bị bách hại lại càng là Giáo Hội trung thành với Chúa Kitô hơn. Trong một chuyến viếng thăm tại Braxin, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã nói: “Tôi thà thấy muôn ngàn lần một Giáo Hội bị bách hại, hơn là một Giáo Hội thỏa hiệp”.
Các tông đồ đã được loan báo cho biết trước để cảnh giác: họ sẽ như chiên hiền lành bị trao nộp vào vòng tay hung tợn của địch thù, chẳng khác chi bầày sói dữ. Nước Thiên Chúa được tỏ hiện trong sự hèn yếu của các sứ giả của Đức Giêsu. Lịch sử Giáo Hội cũng đầy dẫy những sự thật này: chính những con người bé mọn khiêm tốn lại là những tác nhân Chúa dùng để thực hiện những công trình vĩ đại.
Cuối cùng lời khuyên “anh em phải khôn như rắn và đơn sơ như bồ câu”, có nghĩa là hãy khôn ngoan và đơn sơ như Thầy Giê-su, luôn sống và hành động dưới tác động của Thần Khí (x. Gl 5, 25).
2022
Chỉ Thị Truyền Giáo
7.7. Thứ Năm trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 11:1,3-4,8-9; Tv 80:2,3,15-16; Mt 10:7-15
Chỉ Thị Truyền Giáo
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đưa ra cho các môn đệ một số chỉ thị cụ thể liên quan đến việc thi hành sứ mệnh đã lãnh nhận. Trước hết, về chính việc rao giảng Tin Mừng: Hãy đi rao giảng Nước Thiên Chúa đã đến gần. Hãy chữa lành người đau yếu, làm cho kẻ chết sống lại, cho người phong cùi được khỏi bệnh và khử trừ ma quỉ. Vì là người được Chúa ủy thác, nên phải thi hành đúng chỉ thị của Ngài: rao giảng Nước Trời, cứu vớt những người nghèo khổ, bị bỏ rơi bên lề xã hội.
“Nước Trời đã đến gần” (c.7) là sứ điệp quan trọng Đức Giêsu mang đến cho nhân loại. Nước Trời còn được biểu hiện nơi chính con người Đức Giêsu, vì Ngài là hiện thân của Chúa Cha, đến trần gian để minh chứng tình yêu Cha dành cho nhân loại. Vâng, sứ điệp ấy đã được Chúa Giêsu thông truyền lại cho các môn đệ, để các ngài tiếp nối công trình cứu độ của Ngài nơi trần gian qua Giáo hội. Khi được chuyển trao sứ điệp quan trọng này, các môn đệ cũng được Chúa Giêsu ban cho những năng quyền để khắc phục sự dữ (c.8), đồng thời Ngài cũng đòi hỏi người môn đệ phải thật nghèo khó, thanh thoát (c. 9-11), để hết mình phục vụ Nước Trời (c.12-13). “Nước Trời đã đến gần” còn là sứ điệp quan trọng cho con người thời đại hôm nay không?
Khi mà trong thực tế, nhiều người như cảm thấy Thiên Chúa rất xa lạ, mơ hồ đối với họ, vì những cảm thức duy thực dụng đã lún sâu trong tâm khảm của họ. Đứng trước thảm trạng đau buồn ấy, người môn đệ Chúa Giêsu phải làm gì để “Nước Trời” thực sự được hiện diện giữa trần gian hôm nay! Phải chăng đây là sứ mệnh quan trọng và cấp bách, đang hối thúc mỗi chúng ta hãy can đảm mạnh dạn lên đường, để tung gieo Tin Mừng Nước Trời cho mọi người.
Dẫu có những khó khăn và thử thách đang chờ đón phía trước, nhưng chúng ta hãy vững tin vào quyền năng Chúa Giêsu, Ngài luôn đồng hành bên chúng ta để thi thố những việc kỳ diệu cho vinh danh Ngài. Điều quan trọng là mỗi chúng ta hãy ý thức “chúng ta đã được cho không, thì cũng phải cho không như vậy” (c.8b). Con người hôm nay đang dần giàu lên về nhiều mặt: vật chất, sự hiểu biết, sự hưởng thụ, danh vọng . . . nhưng lại vô cùng nghèo về tình yêu, sự thật và công lý. Thế nên, từ sâu thẳm nội tâm, con người vẫn thật sự khao khát một chiều kích tâm linh đích thực, có thể lấp đầy sự trống vắng của cõi lòng họ. Thế nhưng, người môn đệ Đức Kitô không chỉ giới thiệu về Nước Trời bằng những chân lý mặc khải, nhưng chính một nếp sống đơn sơ, nghèo khó, thanh thoát của người môn đệ sẽ có sức thuyết phục rất mạnh mẽ, vì con người hôm nay “cần chứng nhân hơn thầy dạy”.
Liên hệ đến tâm thức và cách sống của nhà truyền giáo, Chúa Giêsu nói đến tính cách nhưng không của việc hiến thân, tinh thần vị tha, giao tiếp hiền hòa với những ai đón nghe lời rao giảng cũng như với những ai từ chối. Ðã lãnh nhận nhưng không thì hãy cho nhưng không. Ðừng mang vàng bạc, đừng mang bao bị, đừng mặc hai áo, đừng đi giầy hay cầm gậy. Vì thợ thì có quyền được nuôi ăn. Khi vào nhà nào thì hãy chào thăm và chúc lành cho nhà đó.
Chúa Giêsu không những ủy thác việc rao giảng Tin Mừng cho các môn đệ, Ngài còn muốn đời sống các ông phù hợp với lời giảng dạy. Nội dung cốt yếu của sứ điệp không do quyết định tự do hoặc sáng kiến của người rao giảng, mà là do chính Chúa Giêsu ấn định, đó là Nước Trời. Người được sai đi với tư cách là thừa tác viên phải thi hành đúng như Chúa đã truyền. Ngài mời gọi họ dấn thân sống đầy đủ mỗi ngày lý tưởng truyền giáo và lý tưởng của người môn đệ. Ðiều quan trọng phải nhớ là hành trang của nhà truyền giáo khi theo Chúa Giêsu là lời của Ngài và đời sống nghèo khó của Ngài. Tất cả những sự khác phải được coi là dư thừa, nhiều khi còn là ngăn trở cho việc truyền giáo. Kinh nghiệm cho thấy rằng những ai dấn thân sống nghèo khó và hy sinh cho người khác, sẽ được Chúa cho lại gấp trăm.
Xin cho chúng ta một trái tim đủ lớn để tự do yêu thương tất cả mà không bám víu, không lệ thuộc vào bất cứ điều gì hay người nào. Xin cho chúng con một tâm hồn tràn ngập bình an của Chúa, để có thể mang niềm vui an bình và hạnh phúc đích thực cho những người chúng con gặp gỡ. Xin Chúa hãy hành động trong con cho Danh Ngài rạng sáng nơi mọi tâm hồn thành tâm thiện chí. Xin cho mỗi chúng con cũng biết dừng chân lại bên Thánh Thể, để được nghỉ ngơi và tiếp sức sau những lần miệt mài trên hành trình truyền giáo. Xin Chúa hãy giữ chúng con luôn luôn được ở trong Chúa.
Ngày nay Chúa cũng sai chúng ta đi vào thế giới với tư cách người tông đồ. Chúa biết rõ chúng ta ngại ngùng nhưng Chúa không rút lại lệnh truyền. Chúa biết chúng ta do dự nhưng Chúa vẫn đòi hỏi gắt gao. Hành trang Chúa cho mang theo chỉ là hai bàn tay trắng, cùng với lòng tin tưởng, phó thác tuyệt đối vào quyền năng Chúa. Và nếu ra đi với hai bàn tay trắng, nhưng khi trở về nặng trĩu những hoa trái thành công, ta cũng không dám tự mãn kể công, vì tất cả đều là ân huệ Chúa ban. Ngay cả khi ra đi với hai bàn tay trắng và trở về vẫn với bàn tay không, ta cũng không mặc cảm buồn sầu, nhưng phó thác tất cả nơi Chúa. Vì thế, lạy Chúa, chúng oon không còn bận tâm đến thành công hay thất bại, nhưng chỉ quan tâm một điều duy nhất là: thực hiện điều Chúa muốn với tất cả tấm lòng nhiệt tình mến yêu.
2022
GỌI ĐỂ RA ĐI
6.7 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 10:1-3,7-8,12; Tv 105:2-3,4-5,6-7; Mt 10:1-7
GỌI ĐỂ RA ĐI
Tin mừng hôm nay kể về việc Chúa Giêsu gọi các môn đệ. Họ không có của cải, không có học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm kiếm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường. Sứ điệp của việc chọn gọi ở chỗ. Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, nhưng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Không ai nên nghĩ rằng mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để sử dụng trong việc trọng đại.
Chúa Giê-su nói với các Tông đồ rằng: “Anh em hãy đi rao giảng: Nước Trời đã gần đến…” Chúng ta loan báo Tin Mừng như thế nào trong thời đại văn minh khoa học, Lời Chúa yêu cầu các môn đệ lên đường làm việc cho Chúa không mang theo gì cả vì chính Chúa làm gương trước trong niềm tin tưởng và phó thác nơi Thiên Chúa Cha. Công cuộc loan báo Tin Mừng được tiếp diễn cả ngàn năm, mỗi thời đại là mỗi hình thức khác nhau không ngừng mời gọi tha nhân nhận biết về Chúa.
Nước Chúa luôn mở rộng để ơn Cứu độ lan truyền rộng rãi không giới hạn trên khắp vũ trụ là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu, theo Giáo Hoàng Phanxicô 2014: “Sứ mệnh của Giáo Hội không thể thực hiện được mà không có giáo dân. Họ là những người kín múc sức mạnh từ Lời Chúa, từ các Bí tích, và từ lời cầu nguyện. Họ phải sống đức tin giữa lòng gia đình, trường học, công ăn việc làm, phong trào quần chúng, các đoàn thể, các đảng chính trị và chính phủ, bằng cách làm chứng cho niềm vui của Tin Mừng.”
Đối tượng được mời gọi ngày nay gồm nhiều thành phần trong xã hội, việc truyền giáo thực hiện trong mọi hoàn cảnh, lúc thuận tiện khi cùng làm chung nhiệm vụ, khi chờ đợi ở các trạm xe… Trích thư thứ 2 của thánh Phaolô tông đồ gửi tín hữu Cô-rin-tô: “Rõ ràng anh em là bức thư của Đức Kitô …, không phải viết bằng mực đen, nhưng bằng Thần Khí của Thiên Chúa hằng sống, không phải ghi trên những tấm bia bằng đá, nhưng trên những tấm bia bằng thịt, tức là lòng người.” (2 Cr 3,3).
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta trở về cội nguồn của Giáo Hội. Giáo Hội là Thân Thể của Chúa Kitô, Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh cứu rỗi của Chúa Kitô. Ðể thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa Giêsu đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng Tin Mừng. Trong số các môn đệ ấy, Ngài đã chọn mười hai người làm Tông Ðồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Nếu Giáo Hội tiếp tục sứ mệnh của Chúa Kitô, thì Giám mục đoàn mà đứng đầu là Ðấng kế vị thánh Phêrô cũng chính là những người tiếp tục làm cột trụ của Giáo Hội.
Chúa Kitô quả thật đã thành lập một Giáo Hội hữu hình có phẩm trật, phẩm trật ấy hiện hữu không ngoài mục đích tiếp tục sứ mệnh Ngài đã ủy thác cho các Tông Ðồ. Do đó, tiếp nhận quyền bính trong Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các Tông Ðồ. Trong Kinh Tin Kính, chúng ta tuyên xưng Giáo Hội tông truyền, điều đó không chỉ có nghĩa là Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng các Tông Ðồ, mà còn có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận quyền bính mà các Tông Ðồ đã truyền lại cho các đấng kế vị, tức Giám mục đoàn mà thủ lãnh là Ðức Giáo Hoàng, đấng kế vị thánh Phêrô.
Ðây chính là nền tảng sự hiệp thông trong Giáo Hội. Không thể nói đến hiệp thông khi một Giám mục đứng riêng rẽ bên ngoài Giám mục đoàn để truyền dạy những điều nghịch đức tin và luân lý của Giáo Hội, và cũng không còn là hiệp thông khi một tín hữu không tuân giữ quyền giáo huấn của Giám mục đoàn và của thủ lãnh Giám mục đoàn là Ðức Giáo Hoàng.
Dân chủ vốn là một phạm trù dễ bị lạm dụng. Ngay tại những nước có dân chủ thực sự, thì hai chữ “dân chủ” cũng bị lạm dụng không kém. Khi một luật pháp bất công như luật cho phép phá thai chẳng hạn được số đông bỏ phiếu tán thành, phải chăng đây không phải là một lạm dụng của trò chơi dân chủ. Giáo Hội luôn đề cao tinh thần dân chủ đích thực, nhưng Giáo Hội không hề là một chế độ dân chủ, trong đó các thành phần có thể bỏ phiếu chọn người lãnh đạo hoặc tán thành một khoản luật.
Giáo Hội cũng chẳng là một tổ chức mà người ta có thể xếp vào bất cứ chế độ nào. Giáo Hội là Giáo Hội của Chúa Kitô, chân lý chúng ta phải tuyên xưng là do Chúa Kitô mạc khải và ủy thác cho các Tông Ðồ, và truyền lại cho các đấng kế vị các ngài. Luật phải giữ cũng chính là luật của Chúa Kitô đã ủy thác cho các Tông Ðồ và các đấng kế vị các ngài. Tiêu chuẩn cho biết một thành phần Giáo Hội có hiệp thông với Giáo Hội hay không, là tinh thần tuân phục đối với quyền bính của những đấng kế vị các Tông Ðồ.
Con người thường hay chọn những người cùng một sở thích hay tính tình giống nhau. Chúa Giêsu chọn các Tông-đồ có tính tình khác nhau, nhiều khi đến chỗ xung khắc: Matthêu người thu thuế. Tất cả mọi người đều coi Matthêu là người phản quốc (làm việc cho ngoại bang), như một người làm tay sai cho những chủ nhân chiếm xứ mình để cầu lợi. Trái ngược với Matthêu, một người ái quốc thương dân là Simon (người nhiệt thành). Nếu Simon người cuồng tín đó gặp Matthêu tại một nơi nào khác ngoài tập thể của Chúa Giêsu, thì chắc chắn giữa hai ông sẽ xảy ra án mạng.
Rồi một Phêrô nhanh nhẩu nói năng phải ở với Gioan thâm trầm, ít nói. Và một Thomas từ chối không tin tất cả lời chứng Chúa đã sống lại và hiện ra của tất cả Tông-đồ khác. Thế mà Thiên Chúa có thể làm cho các ông dẹp khác biệt cá nhân, để sống chung và cùng nhau thi hành sứ vụ Ngài trao. Tại dây có một chân lý trọng đại là những người thù ghét lẫn nhau lại có thể thương yêu nhau, khi cả hai đều mang sứ điệp Tin Mừng. Trái lại trong bài đọc một gia đình tổ phụ Giacob chúng ta thấy: Anh em trong nhà lại ám hại nhau.
Sự chọn gọi các môn đệ của Chúa Giêsu là có chủ đích: Đó là để sai đi, công bố Tin Mừng Nước Trời, cùng với sứ mạng, các môn đệ được trao cho quyền trên các thần ô uế, để các ông trừ chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đây là dấu chỉ của thời đại Nước Trời đã đến, Tin Mừng thắng được sự dữ, Tin Mừng đến để phục vụ, để cứu chữa.
Lệnh sai đi của Chúa Giêsu năm xưa vẫn còn hiệu lực cho Giáo Hội hôm nay, người kitô hữu có bổn phận đến với muôn dân, mang Tin Mừng của Chúa đến bằng sự phục vụ, yêu thương và cứu chữa. Như trong bài đọc một. Giuse nhận ra kẻ thù là anh em, sẵn sàng chia sẻ khi anh em gặp khốn khó, cấp dưỡng khi anh em bị bỏ rơi.
2022
Nhu Cầu Truyền Giáo
5.7 Thứ Ba trong tuần thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Hs 8:4-7,11-13; Tv 115:3-4,5-6,7-8,9-10; Mt 9:32-38
Nhu Cầu Truyền Giáo
Tin Mừng theo thánh Mát-thêu hôm nay, cùng với việc giảng dạy để loan báo Tin Mừng Nước Trời, Chúa Giê-su còn “chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”; không chỉ bệnh hoạn tật nguyện gây ra do thân phận của con người, nhưng còn do bởi ma quỉ, vốn luôn phá hoại tương quan tin tưởng và tình yêu giữa con người với Thiên Chúa và giữa con người với nhau. Bởi vì, con người không chỉ sống bằng sức khỏe thể lí, nhưng còn bằng tương quan nữa, tương quan với mình, với người khác và với Chúa; con người không thể sống bình an và hạnh phúc, nếu những tương quan này bị tổn thương.
Ngoài ra, để cho sự sống này có ý nghĩa, con người còn cần có hướng đi và niềm hi vọng hướng tới cùng đích đáng ước ao và mong chờ; chính vì thế, Chúa Giê-su còn quan tâm đến sứ mạng chăn dắt đối với con người nữa, vì dưới mắt Ngài, loài người chúng ta “lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”.
Như thế, Tin Mừng Nước Trời gắn liền với dấu chỉ phục vụ cho sự sống: ở đâu có Nước Trời, ở đó có sự phục vụ cho sự sống; và ở đâu có sự phục vụ cho sự sống, ở đó Nước Trời hiện diện. Đức Ki-tô đã phục vụ cho sự sống của loài người và từng người chúng ta “cho đến cùng”, nghĩa là trở thành “Bánh” nuôi dưỡng chúng ta, trở thành hiện thân của tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa cho chúng ta; và Ngài mời gọi mỗi chúng ta đích thân đón nhận sự phục vụ của Ngài, để có thể phục vụ như Ngài. Đó chính là cách thức Đức Ki-tô loan báo Tin Mừng và làm cho Nước của Thiên Chúa Cha trị đến.
Các Pharisiêu nhìn Đức Giêsu và bảo Ngài liên minh với quyền lực của ma quỷ. Họ không chống đối được quyền năng lạ lùng của Ngài, nhưng họ cho rằng sở dĩ Chúa Giêsu có được nó là do liên minh với quỷ vương. Chắc rằng, một khi họ phán đoán như vậy thì chính là do tâm trí họ chưa thoát được cái bóng của bản thân mình. Họ bị cột chặt vào một lối tư duy cũ kĩ, chật hẹp và không thể thay đổi. Như chúng ta đã thấy, họ luôn luôn cho rằng, không được thêm hoặc bớt đi bất kì một chữ nào trong Lề Luật.
Đối với họ, mọi việc trong đời đều đã thuộc về quá khứ, thay đổi một truyền thống hay một quy ước là đáng tội chết. Bất cứ điều gì mới đều sai, đều có vấn đề. Khi Chúa Giêsu đến với những giải thích mới mẻ về tôn giáo thật thì họ ghét Ngài như họ đã từng ghét các ngôn sứ xưa kia.
Họ quá hãnh diện trong sự tự mãn nên không thể thuần phục. Nếu Chúa Giêsu đúng thì họ sai. Chúa Giêsu không thể làm gì cho một ai đó bao lâu người ấy chưa tuân phục Ngài, cả trong ý chí lẫn trong hành động. Người Pharisiêu tự mãn đến nỗi họ thấy không cần thay đổi, và họ ghét người nào muốn cảm hóa họ, muốn sửa lưng họ. Sự hoán cải là vé vào cửa Nước Trời. Nó có nghĩa là thừa nhận con đường chúng ta đi là sai, chỉ có sự sống trong Chúa và chỉ có tuân phục Ngài, tuân phục chân lý và quyền năng Ngài, chúng ta mới được thay đổi và cứu thoát.
Họ quá thành kiến nên không thấy, mắt họ đui mù bởi thành kiến và những ý riêng đến nỗi không thể thấy chân lý và quyền năng của Thiên Chúa. Một người biết mình thiếu thốn bao giờ cũng thấy sự kỳ diệu trong Chúa Giêsu. Người cố chấp không chịu đổi thay, người kiêu ngạo trong sự công chính riêng đến nỗi không tuân phục, người bị thành kiến làm đui mù đến nỗi không thấy, thì bao giờ cũng phản đối, ghen ghét và tìm cách loại trừ Chúa Giêsu.
Hình ảnh về mùa gặt hái đã được các Tiên Tri dùng để chỉ Nước Chúa Cứu Thế sau này. Thời kỳ sau cùng là thời kỳ gặt hái thu lượm, nghĩa là lúc Thiên Chúa đến phán xét trong ngày tận thế. Chính Chúa Giêsu đã dùng hình ảnh này trong dụ ngôn cỏ lùng và lúa. Giai đoạn sau cùng của lịch sử đã bắt đầu với việc Nước Thiên Chúa đến; tất cả đều sẵn sàng, nhưng thiếu thợ gặt. Thế giới ngày nay như một cánh đồng mênh mông, nơi có rất nhiều linh hồn sẵn sàng đón nhận Nước Trời nhưng phải có người chỉ đường cho họ. Chúa muốn cứu thế gian và Ngài kêu gọi sự cộng tác của con người. Lời kêu gọi của Ngài vẫn có giá trị và khẩn cấp trong mọi thời đại.
Chúa Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc giảng dạy trong các hội đường. Là người tông đồ, chúng ta phải biết thích nghi với mọi hoàn cảnh, mọi môi trường và tiếp xúc với mọi hạng người để phục vụ và rao giảng về Chúa cho họ. Chúa thấy đám đông và chạnh lòng thương xót: Chúa nhạy cảm trong việc biểu lộ tình thương trong tâm tư, lời nói và việc làm. Người tông đồ cũng phải đến với anh em với cả tâm hồn để nhận biết và bày tỏ tình thương cách hợp tình, hợp lý và hợp cách.
Trích đoạn Tin mừng hôm nay còn cho thấy, Chúa Giêsu không chỉ trao cho Giáo hội sứ mạng truyền giáo mà Ngài còn là mẫu gương truyền giáo đối với hết thảy chúng ta. Thật thế, người truyền giáo, trước hết, phải là người có bản lãnh, không bao giờ đầu hàng trước bất cứ khó khăn nào. Chúa Giêsu trong suốt hành trình rao giảng của mình đã không lùi bước cho dù bị con người chối bỏ, bị những người biệt phái giải thích một cách ác ý, bị khinh thị và thậm chí muốn loại trừ Ngài. Trong hoạt động tông đồ của chúng ta cũng vậy, chúng ta có thể sẽ gặp những thất bại khi những nỗ lực sống yêu thương của chúng ta không được người khác đón nhận; thế nhưng, không vì thế mà chúng ta bỏ cuộc, đầu hàng hay khoanh tay chờ đón thất bại.
Kế đến, người truyền giáo phải là người biết ra đi để đến với tha nhân. Chúa Giêsu là một người lữ hành rày đây mai đó. Ngài không ngừng đi khắp nơi để rao giảng Tin mừng. Ngài không ngừng đi đến với mọi người, để yêu thương và phục vụ họ. Chúng ta cũng vậy, nếu chúng ta không ra khỏi con người ích kỷ của mình để đến với tha nhân; nếu chúng ta không chấp nhận hy sinh thời giờ, sức khỏe, tiền của, để đến với anh chị em của mình, nhất là những người bất hạnh, chúng ta sẽ không thể chu toàn nhiệm vụ truyền giáo mà Chúa và Giáo hội giao phó.