2022
Tôn thờ Thiên Chúa
27.9 Thánh Vincentê de Phaolô, Lm
G 3:1-3,11-17,20-23; Tv 88:2-3,4-5,6,7-8; Lc 9:51-56
Tôn thờ Thiên Chúa
Gia đình Phaolô là những nông dân tại Pouy, gần Dax. Vincentê sinh năm 1581 là con thứ ba trong gia đình sáu người con. Trong những ngày còn thơ ấu, Ngài lo chăn cừu cho cha. Giữa miền đồi lộng gió này, Vincentê đã trải qua nhiều giờ trong ngày để chiêm ngắm cảnh đồng quê và hướng lòng lên cùng Chúa. Thời gian này cũng cho Ngài những kinh nghiệm đầu tiên về số phận của người dân quê. Từ đó, lòng bác ái sớm nẩy nở trong tâm hồn Vincentê. Có lần thu góp được 30 xu, số tiền đáng kể đối với Ngài, nhưng Ngài đã tặng tất cả cho những người cùng khốn. Lần khác trên đường tới nhà máy xay Ngài âm thầm lấy một số bột bố thí cho người nghèo.
Thấy con mình có lòng bác ái lại thông minh, ông Gioan đệ Phaolô quyết hy sinh cho Vincentê theo ơn gọi làm giáo sĩ. Vincentê theo học các cha dòng Phanxicô tại Dax. Nhưng để tiếp tục chương trình đại học của Vincentê, cha Ngài đã phải bán bầy cừu lo cho tương lai của con. Dầu vậy, khi học thần học tại Toulouse, Vincentê cũng vừa lo học vừa lo dạy kèm tư gia kiếm tiền bớt gánh nặng cho gia đình.
Sau khi thụ phong linh mục trong hai năm trời Vincentê biến mất. Cho đến ngày nay người ta vẫn không biết rõ trong thời gian này Vincentê ra sao. Người ta kể lại rằng có một góa phụ tại Toulouse đã công đức tất cả tài sản của bà. Trên đường từ Marseille tới Narbonne để nhận gia tài Ngài đã bị bọn cướp bắt bán cho một ngư phủ. Không quên nghề Ngài lại bị bán cho một người hồi giáo làm thợ kim hoàn. Sau cùng Ngài lại bị rơi vào tay một người phản đạo tên là Gautier. Nhờ đời sống thánh thiện cha đã cải hóa được ông. Chính ông đã đưa cha trở lại đất Pháp. Năm sau, ông theo cha đi Roma và vào hội bác ái để đền tội cho đến ngày qua đời.
Từ đây, cha Vincentê bắt đầu thi hành chức vụ linh mục của Ngài. Ngài được chỉ định làm tuyên úy cho nữ hoàng Marguerrite de Valois. Lúc này, cha Vincentê có dịp quen biết cha Phêrô Berulle, Đấng sáng lập dòng giảng thuyết và sau này làm Hồng y. Dưới ảnh hưởng của cha Phêrô Bérulle, cha Vincentê bắt đầu nhiệt tình sống đời hy sinh nhiệt tình. Theo lời khuyên của Ngài, cha Vicente nhận làm tuyên úy cho gia đình Gondi. Hướng dẫn một số một nông dân trong vùng này, Vincentê đã khám phá ra tình trạng phá sản về tôn giáo và luân lý. Chính sự dốt nát và biếng nhác của nhiều giáo sĩ là duyên cớ gây nên tình trạng này. Ngài quyết tâm sửa đổi thực trạng.
Vincentê đã trở nên bạn của người nghèo và dùng mọi phương tiện khả năng có được để hoạt động nhàm tái tạo cuộc sống luân lý và tôn giáo của họ. Một thử nghiệm nhỏ như một linh mục quản sở tại Chatillon les Dober cho Ngài thấy rõ vấn đề còn rộng lớn hơn nhiều. Dầu nỗ lực cải tiến họ đạo, Ngài vẫn ưu tư cho công cuộc được bành trướng rộng rãi hơn. Trở lại Paris với sự trợ giúp của bà Gondi Ngài bắt đầu công cuộc nâng đỡ cảnh khốn cùng bất cứ ở nơi đâu, Ngài tổ chức “hội bác ái” trên khắp đất Pháp cung cấp áo xống thuốc men cho người nghèo khổ hết sức rợ giúp những nô lệ bị bắt chèo thuyền từ Paris tới Marseille. Ngài thành lập một hội dòng Lazarits với mục đích truyền đạo cho dân quê và đào tạo giáo sĩ. Từ hội dòng bác ái ấy còn mọc lên hội nữ tử bác ái mà y phục của họ toàn thế giới biết đến như là biểu tượng của lòng bác ái nối liền với danh hiệu Vincentê.
Một linh mục nhà quê đã trở nên quan trọng đối với toàn quốc từ căn phòng tại xứ thánh Lazane Ngài bành trướng ảnh hưởng ra khắp nước Pháp, tới Balan, Ý, Hebrider Madagascar và nhiều nơi khác nữa. Nữ hoàng Anne d’Austria nhiếp chính cho tới khi vua Luy lên cầm quyền đã hỏi ý Ngài trong việc đặt giám mục chống lại Mazania, Ngài đã không ảnh hưởng được tới đường lối của vị giám mục này lại còn bị khổ vì ông khi nội chiến xảy ra.
Ngài quyên góp để hàn gắn những tàn phá do cuộc chiến xảy ra tại Loraine. Ngài lo chuộc các nô lệ tại Bắc Phi. Các nỗ lực trên cùng với các nhu cầu và việc quản trị hội dòng ngày càng mở rộng đã giam Ngài tại phòng riêng xứ thánh Lazane. Ngày lại ngày bận bịu viết thơ cho các Giám mục lẫn Linh mục nghèo khổ, cho biến cố vị vọng lẫn nhu cầu nghèo khổ trong nước. Các thư tín của Ngài hợp thành một tuyển tập làm say mê người đọc vì trong đó pha trộn những ưu tư cho nước Chúa lẫn đức bác ái ngập tình người.
Các thư tín và các bài giảng thuyết của Vincentê cho thấy Ngài là một trong những nhà phục hưng của Giáo hội Pháp thế kỷ XVI. Những cuộc tĩnh tâm Ngài tổ chức tại St. Lazane cho các tiến chức và những cuộc tĩnh tâm hàng tháng Ngài tổ chức cho các giáo sĩ tại Paris (có cả những khuôn mặt lớn tham dự như De Rotz, Bossuet…) cho thấy ảnh hưởng sâu rộng của Ngài trong cuộc chấn hưng đạo đức .
Năm 1660, cha Vincentê ngã bệnh liệt giường và đau đớn vì bệnh tật Ngài vẫn vui tươi tin tưởng : – Chúa còn phải chịu hơn tôi gấp bội.
Đối diện với cái chết Ngài bình tĩnh : – 18 năm qua, mỗi tối tôi vẫn dọn mình chết. Ngày 27 tháng 9 năm 1660, cha Vincentê từ trần và được tuyên thánh năm 1737.
Khi Chúa phái các sứ giả đi trước vào Samaria, Người đã không chỉ dẫn họ tô điểm nó, thậm chí không cải tạo các tập tục tôn giáo địa phương. Người chỉ đơn giản nói với họ để loan báo Tin Mừng: Chúa Giêsu Đấng là Vua đang đến viếng thăm (Lc 9,6).
Nhưng khi Giacôbê và Gioan gặp phải sự phản đối ở một ngôi làng cụ thể, họ đã nổi nóng. Họ đã quên rằng Chúa Giêsu đã chuẩn bị để bước vào cuộc sống lộn xộn của những người dân làng này với sức mạnh chữa lành họ.
Cũng giống như các sứ giả trong bài Tin Mừng ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang sai bạn tiến lên phía trước khi Người đến. Nhiệm vụ của bạn là giúp chuẩn bị cho những người xung quanh bạn để đón Chúa Giêsu đến. Nó không khó như bạn nghĩ.
Trước hết, mỗi chúng ta hãy tập trung vào việc yêu thương mọi người ngay tại nơi họ đang ở. Đừng chờ đợi họ đổi mới cuộc sống của họ. Và đừng áp lực hoặc cằn nhằn họ. Hãy tin tưởng rằng Chúa Giêsu có thể sử dụng những hành động tốt bụng và tình yêu nhỏ của bạn để chuẩn bị cho họ một mối tương quan sâu sắc hơn với Người.
Thứ hai, chúng ta hãy loan báo Tin Mừng. Khi thời điểm thích hợp, chúng ta hãy chia sẻ về sự khác biệt mà Chúa Giêsu đã tạo ra trong cuộc sống của chúng ta
Cuối cùng, bạn đừng bực mình nếu mọi người không sẵn sàng nghe về Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu đã không giữ mối ác cảm với những người Samari. Thậm chí Người còn chữa lành một người phong hủi Samari (Lc 17, 16)! Sau đó, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ của Người lại đến Samaria để loan báo Tin Mừng (Cv 8, 25).
Vì thế, hãy tiếp tục gieo hạt giống tình yêu nơi những người xung quanh bạn. Và cầu nguyện cho một vụ thu hoạch! Cuối cùng, họ sẽ sẵn sàng đón nhận vị Vua của họ.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta thấy lối suy nghĩ của các môn đệ khi chưa hiểu và thấm nhuần giáo huấn của Chúa. Lối suy nghĩ và lối thích sử dụng quyền lực để răn đe hay trấn áp người khác là cách hành xử hoàn toàn trái với tinh thần Tin Mừng. Nên Chúa Giêsu đã cảnh cáo các ông. Thái độ của các môn đệ ngày xưa cũng chính là thái độ của chúng ta ngày hôm nay. Tôi tôn thờ một Thiên Chúa nào? Phải chăng là một Thiên Chúa tình yêu, nhân từ, quảng đại, hay tha thứ … hay là một Thiên Chúa mà chúng ta cố giải thích méo mó để phục vụ cho ý muốn của riêng ta.
2022
NGƯỜI LỚN NHẤT LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ THA NHÂN
26.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Sáu Mùa Quanh Năm
G 1:6-22; Tv 17:1,2-3,6-7; Lc 9:46-50
NGƯỜI LỚN NHẤT LÀ NGƯỜI PHỤC VỤ THA NHÂN
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Luca cũng ghi lại sức mạnh của Danh Giêsu. Chính nhân danh Ngài mà một số người có thể xua trừ ma quỉ và chữa bệnh. Nhân Danh Chúa là một quyền hạn đã được trao ban cho các môn đệ Chúa Giêsu. Người ta chỉ có thể trừ quỉ và như vậy tiếp tục hoạt động cứu rỗi của Chúa Giêsu nhờ quyền năng Ngài và lòng tin vào Ngài mà thôi. Ðó là lý do tại sao Chúa Giêsu đã không lo ngại với những kẻ lén lút nhân danh Ngài để trừ quỉ, bởi vì khi hành động như thế, họ chỉ hành động với lòng tin vào quyền năng Ngài mà thôi.
Danh Chúa Giêsu không những có sức mạnh chữa lành bệnh và xua trừ ma quỉ, mà còn tạo được mối tương quan giữa con người . Chính nhân danh Ngài mà con người mới có thể tập họp để cầu nguyện; chính nhân danh Ngài mà con người phải tiếp rước những kẻ Ngài sai đi; chính nhân danh Ngài mà con người phải đón rước tha nhân, nhất là những kẻ bé mọn, hèn kém như các trẻ em. Chúa Giêsu nói: “Ai nhân danh Thầy mà đón tiếp trẻ nhỏ này là đón tiếp Thầy, và ai đón tiếp Thầy là đón tiếp Ðấng đã sai Thầy”. Câu nói của Chúa Giêsu cho thấy được bản chất của Giáo Hội: Chúa Giêsu tiếp tục sống trong Giáo Hội Ngài, không như một vĩ nhân sống trong sự nghiệp mình và trong ký ức của dân tộc; Giáo Hội chính là một nối dài của Chúa Giêsu, Giáo Hội sống bằng sức sống của Chúa Giêsu.
Người Kitô hữu không chỉ mang danh hiệu Chúa Giêsu, họ còn sống bằng chính sức sống của Ngài. Ngài tự đồng hóa mình với mỗi tín hữu. Người Kitô hữu nhân danh Ngài để hành động, đến độ họ có thể nói như thánh Phaolô: “Tôi sống, nhưng không phải tôi sống, mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Các môn đệ bộc lộ bản tính trần tục, nặng tính ích kỷ, hẹp hòi của các ông khi băn khoăn tính toán xem ai là người lớn nhất. Trong lòng các ông còn chất chứa những tham vọng, ghen tương, khi thấy những người khác nhân danh Chúa mà làm phép lạ. Ta hãy cùng suy niệm 2 ý tưởng sau:
Chúa muốn xóa tan những suy nghĩ của các môn đệ còn mang nặng tính toán trần thế. Ngài không khiển trách các ông về việc tranh giành ngôi thứ, vì Ngài đã gọi đã chọn các ông với tất cả thực chất những con người đầy tham vọng và yếu đuối, để rồi Ngài sẽ giúp các ông thắng vượt những thái độ tầm thường đó. Ngài nhẹ nhàng dạy các ông biết đâu là giá trị đích thực, đâu là cái làm cho con người trở thành người lớn trong Nước Trời, và cũng là cách sống của Ngài là khiêm tốn và phục vụ: “Kẻ nào bé nhỏ nhất trong tất cả các con, đó là người cao trọng nhất”.
‘Em bé’ là hình ảnh những người người bé mọn, yếu thế, tầm thường, bị người đời khinh rẻ. ‘Em bé’ cần được bao bọc chở che và nâng đỡ, cần được đón tiếp, yêu thương, trân trọng: “Hễ ai đón nhận trẻ nhỏ này vì danh Thầy, tức là đón nhận Thầy: mà hễ ai đón nhận Thầy, tức là đón nhận Ðấng đã sai Thầy.” Như vậy, đối với Chúa, người làm lớn phải là người sống khiêm nhường và biết phục vụ người khác, và đối tượng để phục vụ và yêu thương là những người bé nhỏ, nghèo hèn thấp kém trong xã hội.
Các môn đệ học được bài học “khiêm tốn và phục vụ” nơi Chúa Giêsu, khi Ngài yêu thương những người bé nhỏ, người bị khinh khi, người nghèo khổ, đặc biệt, khi Ngài cúi xuống rửa chân cho các ông và khi Ngài hiến thân mình chịu chết trên thánh giá.
Gioan thưa với Chúa Giêsu: ” Lạy Thầy, chúng con thấy một người kia lấy danh Thầy mà trừ quỷ, và chúng con đã ngăn cản nó, vì nó không theo Thầy cùng với chúng con”.
Thái độ của Gioan là một thái độ tự ái, bảo vệ một độc quyền của mình. Cả các môn đệ cũng có cùng tư tưởng cục bộ như vậy. Họ muốn giữ độc quyền. Họ độc quyền về Thiên Chúa, về Đức Kitô, độc quyền về đạo thật, về chân lý, về bác ái,… Họ muốn bảo vệ quyền lợi và chỗ đứng của nhóm.
Thế nhưng, Chúa Giêsu có quan điểm hoàn toàn khác với các môn đệ: “Các con chớ ngăn cản, vì ai không chống nghịch các con, tức là thuận với các con”. Ngài không chấp nhận thái độ của các ông. Ngài thật bao dung và cởi mở hơn nhiều. Ngài có cái nhìn lạc quan về người đã nhân danh Ngài mà trừ quỷ.
Thái độ cởi mở của Chúa Giêsu cảnh báo người Kitô hữu hôm nay cần nhìn lại sự khép kín và độc đoán của mình.
Không nên tách biệt những người theo Chúa và những kẻ không theo, Kitô hữu và dân ngoại. Vì, đâu chỉ người có đạo Chúa mới sống bác ái, làm từ thiện,…
Thái độ khép kín và độc quyền thường bắt nguồn từ lòng ích kỷ chứ không phải từ lòng đạo đức chân thật. Cần loại bỏ thái độ ích kỷ, ghen tương để cùng nhau chung xây thế giới và xã hội loài người tốt đẹp hơn.
Lời Chúa hôm nay mời gọi người Kitô hữu hãy đi theo con đường của Chúa. Con đường của Chúa khác hẳn cách sống của người đời; đó là sống khiêm tốn và phục vụ tha nhân; đó là cởi mở, quảng đại và cộng tác, đối thoại với mọi người để xây dựng thế giới ngập tràn ánh sáng văn minh của tình thương, đề cao nhân phẩm của con người, đặc biệt quan tâm giúp đỡ những người bị đối xử bất công, những người nghèo khổ, yếu đuối.
2022
Chịu đau khổ
24.9 Thứ Bảy trong tuần thứ Hai Mươi-Năm Mùa Quanh Năm
Gv 11:9-12; Tv 90:3-4,5-6,12-13,14,17; Lc 9:43-45
Chịu đau khổ
Ta thấy với niềm tin Ki-tô của chúng ta, đau khổ luôn có một giá trị trong việc tìm kiếm và thi hành thánh ý Chúa – thánh ý đã muốn cho con người được hạnh phúc nhờ sống yêu thương như chính Thiên Chúa là tình yêu. “Đang lúc mọi người còn bỡ ngỡ về tất cả các việc Chúa Giêsu làm, thì Người phán cùng các mộn đệ rằng: “Phần các con, các con hãy ghi vào lòng những lời này là: Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời”” (c. 43b – 44).
Chúa mới tỏ lộ cho các ông biết chén đắng đau khổ – thập giá mà Ngài sẽ lãnh nhận vì phần rỗi nhân loại. Ngài bảo các ông trong bài Tin mừng hôm nay: “Phần anh em, hãy lắng tai nghe cho kỹ những lời sau đây: Con Người sắp bị nộp vào tay người đời!” Sau câu nói này của Chúa, các tông đồ đang như từ trên trời rơi xuống đất. Các ông im lặng và sợ hãi, không dám nói năng điều gì cả.
Sợ hãi khi nghe nói đến thập giá, nhưng các tông đồ không bỏ cuộc. Dẫu biết rằng hành trình lên Giêrusalem của thầy trò lần này sẽ lành ít dữ nhiều, nhưng các ông vẫn trung thành đi theo Chúa. Khi phải chứng kiến thập giá và cái chết của Chúa, với bản tính tự nhiên, các ông không khỏi khiếp đảm và chạy trốn, nhưng ngay sau đó, bình tâm trở lại và được gặp Chúa phục sinh, các ông không còn nhát đảm nữa. Kinh nghiệm được trọn vẹn con đường cứu độ thế gian của thầy mình, các ông một lòng một dạ theo thầy đến cùng và sẵn sàng lấy mạng sống mình để mình chứng cho giá trị cứu độ của thầy mình đã thực hiện ngang qua mầu nhiệm khổ đau – thập giá.
Người ta bỡ ngỡ, kinh ngạc về điều gì? Chúng ta hãy đọc lại những trình thuật bên trên của cùng chương 9: Sau lời tuyên tín của thánh Phê-rô: “Ngài là Đấng Ki-tô của Thiên Chúa” (Lc 9, 20b), Đức Ki-tô “tiên báo cuộc thương khó lần nhất”; Khoảng tám ngày sau, Ngài hiển dung trên núi cao (Ta-bo) (Lc 9, 28 – 36); rồi hôm sau, Chúa Giêsu chữa lành bệnh đứa trẻ bị bệnh kinh phong khiến mọi người đều kinh ngạc trước quyền năng cao cả của Thiên Chúa (Lc 9, 37 – 43) – và chính lúc này đây, Chúa Giêsu “tiên báo cuộc thương khó lần hai” cho các môn đệ, nhưng “các ông vẫn không hiểu.” Tin mừng nói “các ông không hiểu, vì nó còn bị che khuất” (mắt các ông còn bị ngăn cản).
Tại sao mắt các ông lại bị ngăn cản? Thưa, vì những vinh quang đã làm mờ mắt các ông. Dù gì khi theo Chúa Giêsu, các môn đệ hiển nhiên vẫn có những tính toán; như Phê-rô đã có lần thưa với Chúa Giêsu: “Thưa thầy, chúng con đã bỏ tất cả mọi sự mà theo thầy, chúng con sẽ được gì?” (Mt 19, 27). Cũng thế, khi tuyên xưng Chúa Giêsu là “Đấng Ki-tô của Thiên Chúa”, trong lòng các môn đệ vẫn mơ đến một Đấng Ki-tô – Messia của trần thế ‘đầy quyền lực và vinh quang’ sẽ khôi phục và làm cho Israel trở thành tiếng tăm lẫy lừng; và điều hiển nhiên là các ông sẽ có một tương lai huy hoàng với chức tước và bổng lộc vì lý do đó mà “Mắt các ông bị ngăn cản!” Và điều Chúa Giêsu nói: “Con Người sẽ phải bị nộp vào tay người đời” (c.44b) khiến các ông không thể hiểu được, “không thể lĩnh hội được”. Không chỉ với các môn đệ, ngày nay đối với chúng ta, đau khổ, thập giá vẫn luôn là điều khó hiểu. Nhất là chúng ta không thể hiểu nổi tại sao người công chính cứ gặp gian nan, khốn khó, thất bại và bị bách hại, còn phường gian ác lại cứ nhởn nhơ sung sướng.
Hơn nữa, trước mặt người đời, Thập giá luôn là điều khờ dại; vì con người sự thường ai mà không thích thảnh thơi, dễ dãi, ai mà không thích được thành đạt, ca ngợi, tôn vinh, ai mà không thích sung sướng, vui vẻ…. Nhưng Chúa Giêsu đã cho thấy một chân lý khác – chân lý của “một hạt lúa mì không thể sinh hoa kết trái nếu không phải chịu mục nát và thối rữa đi” và có “gieo trong lệ sầu mới gặt trong hân hoan vui sướng”.
Chính vì vậy mà khi các môn đệ đang phơi phới hân hoan, và mơ tưởng những ‘vinh quang phù phiếm’ thì Chúa Giêsu tuyên bố: “Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời”; Đồng thời người cho biết ai muốn làm môn đệ bước theo dấu chân Người không thể không ôm ẵm, vác thập giá hằng ngày mà đi theo Người. (Lc 9, 23). Các môn đệ đã không hiểu không dám hỏi và cũng chẳng muốn đối diện với điều xem ra ‘ngược đời’ ấy. Và chỉ Thần khí của Đấng phục sinh – Thánh Thần của Thiên Chúa mới làm cho các môn đệ hiểu để rồi như Chúa Giêsu các ngài đã giơ tay ôm ẵm Thập giá để loan truyền Tin mừng tình yêu của Thiên Chúa.
Như các môn đệ sau biến cố ‘vượt qua và Phục sinh’, chúng ta hãy cầu xin Chúa Thánh Thần mở trí, mở mắt tâm hồn để hiểu được con đường thập giá tình yêu mà Đức Giê-su đã chọn để làm giá cứu chuộc muôn người;
Đồng thời xin Chúa Thánh Thần ban cho chúng ta đủ tình yêu và sức mạnh để đi trọn con đường thử thách gian nan; Bởi vì như thánh Phao-lô, người đã coi cuộc đời này là một trận chiến, một thao trường mà chúng ta phải chiến đấu để dành cho được ngành lá thiên tuế – ngành lá chiến thắng; Do đó mà không có sự dễ dãi, thoải mái hay hưởng thụ ích kỷ cho người môn đệ. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ có cho người biết gieo rắc tình yêu thương, Mà đường yêu thương là con đường hy sinh và dâng hiến.
2022
LÒNG TIN MẠNH MẼ
12.9 Thứ Hai trong tuần thứ Hai Mươi-Tư Mùa Quanh Năm
1 Cr 11:17-26,33; Tv 40:7-8,8-9,10,17; Lc 7:1-10
LÒNG TIN MẠNH MẼ
“Đức tin là tin điều ta không thấy; và phần thưởng cho niềm tin này là thấy điều ta tin” (Th. Âutinh). Các sách Tin Mừng và Công Vụ Tông Đồ luôn nói đến các đại đội trưởng Roma với nhiều thiện cảm. Nơi viên đại đội trưởng này, ngoài đức tính can đảm, khôn ngoan của các đại đội trưởng Roma, ông còn là người yêu thương đầy tớ, đang khi thời ấy đầy tớ bị coi như một đồ vật! Với Chúa Giêsu, ông tỏ ra rất khiêm tốn: xin Ngài đừng đến nhà mình vì biết người Do Thái không được phép đến nhà người ngoại giáo. Ông còn chứng tỏ một niềm tin mạnh mẽ: là sĩ quan, ông hiểu rằng mệnh lệnh của ông phải được thi hành ngay tức khắc, huống chi lệnh truyền của Chúa Giêsu! Rốt cuộc, ông đã nhìn thấy kết quả điều mình tin: người đầy tớ được chữa lành.
Trong đoạn Tin Mừng hôm nay, chúng ta chứng kiến một lòng tin mạnh mẽ của viên đại đội trưởng ngoại giáo. Biết Chúa Giêsu là người đầy quyền năng, ông đại đội trưởng đã đến xin Người chữa cho người đầy tớ của ông bị chứng tê bại nặng. Trước thái độ tin tưởng của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu hết sức thán phục và khẳng định với đám đông dân chúng: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israen, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế”. Theo nguyên tắc của Do Thái giáo, đại đội trưởng là một người ngoại đạo sẽ bị loại ra khỏi Vương quốc; và nếu một người Do Thái vào nhà một kẻ ngoại đạo sẽ bị coi là kẻ ô uế.
Khi Đức Giêsu còn cách nhà viên đại đội trưởng không bao xa, thì ông nhờ phái đoàn thứ hai là các bạn hữu ra chuyển lời nói trực tiếp của ông xin Chúa Giêsu không cần vào nhà (c. 6b), nhưng xin Ngài “cứ nói một lời, thì đầy tớ của tôi được khỏi bệnh” (c. 7). Một điều thắc mắc là tại sao viên đại đội trưởng không dám để Chúa Giêsu vào nhà ông? Có lẽ ông hiểu biết luật lệ Do thái cấm người Do thái vào nhà dân ngoại để tránh ô uế chăng? (Cv 10,28). Thật vậy, viên đại đội trưởng khiêm nhường nhận mình là người bất xứng không đáng được Chúa Giêsu đến nhà, không đáng được gặp Ngài. Mặc dầu vậy, ông ao ước Chúa Giêsu cứu sống người nô lệ của ông mà không cần sự hiện diện thể lý của Ngài, nhưng chỉ cần lệnh truyền bằng Lời của Ngài vẫn có thể đưa lại kết quả mong muốn, như chính kinh nghiệm bản thân ông: “Tôi đây tuy dưới quyền kẻ khác, tôi cũng có lính tráng dưới quyền tôi. Tôi bảo người này đi là nó đi; bảo người kia đến là nó đến” (c. 8). Điều này cho thấy viên đại đội trưởng có một lòng tin vững mạnh vào Đức Giêsu.
Khi nghe những lời đầy xác tín của viên đại đội trưởng, Chúa Giêsu đã khen: “Tôi nói cho các ông hay: ngay cả trong dân Israel, tôi cũng chưa thấy một người nào có lòng tin mạnh như thế” (c. 9). Nhận định của Đức Giêsu về đức tin của viên đại đội trưởng lại trở thành một lời phê bình lòng tin của Israel đối với chính Ngài. Đây chính là phán quyết của Chúa Giêsu tuyên bố trên chúng ta, để mời gọi chúng ta đáp trả bằng một đức tin như thế. Như vậy, viên sĩ quan đã trở thành biểu tượng lòng tin của dân ngoại đối lại với sự phản đối của Israel.
Khi chữa lành cho người bệnh, cả Đức Giêsu và viên đại đội trưởng đều vượt qua những ranh giới của luật Do Thái. Điều đó cho thấy Chúa Giêsu đã làm tất cả vì lòng thương xót, còn viên đại đội trưởng thể hiện niềm tin mãnh liệt vào quyền năng và tình thương Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã chữa bệnh từ xa, Ngài biểu hiện tình thương có khả vượt qua khoảng cách của địa lý, của không gian và thời gian. Vì thế ông đại đội trưởng chưa về đến nhà thì nghe tin báo người đầy tớ đã khỏi hẳn bệnh.
Thái độ tin tưởng của ông đại đội trưởng khác hẳn với thái độ cứng tin của những người Do Thái. Phép lạ này là lời hứa cho tất cả chúng ta, những ai có lòng tin đều được Chúa chữa lành. Thiên Chúa luôn yêu thương chăm sóc hết mọi người không phân biệt dân tộc, ngôn ngữ hoặc tôn giáo. Điều quan trọng là chúng ta phải thực sự khát khao được Chúa chữa lành.
Trên hành trình thiêng liêng chúng ta sẽ không tránh khỏi những lúc bị thử thách, không thể trốn chạy những đau đớn bệnh tật. Như Chúa Giêsu luôn tỏ lòng thương cảm với những yếu đuối của con người, chúng ta cũng hãy mở lòng ra đón nhận tất cả trong sự tin tưởng phó thác. Chúa Giêsu ôm lấy cuộc đời, mang vác lấy gánh nặng của con người mà giương cao lên thập giá. Tình yêu thương con người dạy chúng ta chấp nhận những phiền hà rắc rối của người bên cạnh, dám chịu thương tích vì người khác, dám chấp nhận thất bại để tôi luyện và trưởng thành trong đức tin.
Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta suy niệm về lời quyền năng của Chúa. Thông thường, Chúa Giêsu chữa trị bằng cách đặt tay hoặc sờ đến bệnh nhân. Cũng có trường hợp Ngài làm một cử chỉ hay chỉ nói một lời, như được ghi lại trong trình thuật chữa bệnh cho người đầy tớ của viên bách quản.
“Xin Ngài chỉ nói một lời”. Lời thỉnh cầu của viên bách quản gợi lại câu Thánh vịnh 106: “Thiên Chúa sai lời của Ngài đi chữa trị”. Qua lời thỉnh cầu này, viên bách quản mặc nhiên nhìn nhận Chúa Giêsu thực sự đến từ Thiên Chúa và lời của Ngài là lời quyền năng và hữu hiệu. Lời thỉnh cầu của viên bách quản thể hiện một niềm tin sâu sắc, đến độ đã được Giáo Hội lặp lại mỗi ngày trong Thánh lễ, để nhắc nhở chúng ta về sức mạnh của lời Chúa, cũng như bổn phận rao truyền lời Chúa trong cuộc sống chúng ta.
“Đức tin làm cho mọi sự có thể, còn tình yêu làm mọi sự trở nên dễ dàng.” Sở dĩ viên đại đội trưởng Roma ấy hạ mình đến với một thầy rápbi Do Thái vì ông thương mến người đầy tớ. Sở dĩ người đầy tớ được lành bệnh vì chủ của anh có một niềm tin mãnh liệt. Với lòng tin và lòng mến Chúa, mọi sự sẽ trở nên có thể và dễ dàng với chúng ta.