2022
Hiệu lực của Kinh Mân Côi
7/10 Thứ Sáu
Đức Mẹ Mân Côi
Gl 3:7-14; Tv 111:1-2,3-4,5-6; Lc 11:15-26
Hiệu lực của Kinh Mân Côi
Mỗi năm tháng 10 về, Giáo Hội dành riêng để tôn kính và làm các việc lành phước đức để dâng kính Đức Mẹ. Tháng 10 là tháng, Giáo Hội khuyên nhủ con cái Mẹ hãy siêng năng lần hạt Mân Côi và mau mắn đến với Mẹ. Hôm nay, Giáo Hội mừng kính lễ Mẹ Mân Côi. Chúng ta hãy nhìn lên Mẹ, noi gương bắt chước Đức Mẹ và qua Mẹ chúng ta đến với Chúa. Chúng ta càng ngày càng yêu mến Mẹ, càng ngày càng làm cho nhiều người hiểu biết Mẹ và tôn kính Mẹ.
Lễ Đức Mẹ Mân Côi mà chúng ta mừng hôm nay liên hệ đến một biến cố trong lịch sử Giáo Hội. Ngày 7-10-1571, vua Hồi Giáo mang đại quân hướng về La Mã và thề hứa sẽ biến đền thờ Thánh Phêrô thành một “chuồng ngựa”. Đạo binh Công giáo đã ra nghênh chiến trong khi ở hậu phương giáo dân lần chuỗi Mân Côi cầu xin với Đức Mẹ . Người Công giáo đã chiến thắng tại vịnh Lepant, chặn được sức tiến vũ bão của Hồi giáo. Để ghi ơn Đức Mẹ, Đức Giáo Hoàng Piô V đã thiết lập lễ kính Đức Mẹ Mân Côi.
Năm 1571, trước cơn đe doạ đạo Chúa bị tàn phá, Đức Thánh Cha Piô V, đã truyền cho Hội Thánh cầu nguyện bằng chuỗi Mân côi, với hy vọng Chúa sẽ cứu. Khấn cầu đó đã được Chúa chấp nhận. Chiến thắng ở vịnh Lepante ngày 7 tháng 10 năm 1571 đã là cơ sở để Đức Thánh Cha thiết lập lễ Đức Mẹ Mân côi. Hằng năm cứ đến ngày 7 tháng 10, Hội Thánh đề cao chuỗi Mân côi như một nguồn hy vọng.
Năm 1629, trước cơn dịch tả nguy hiểm lan rộng trên nước Ý, tu sĩ Timoteo Ricci đã lập ra chuỗi Mân côi liên tiếp. Thầy tính rằng: Mỗi năm có 8.760 giờ. Căn cứ vào đó, thầy làm ra 8.760 tấm vé. Mỗi vé ghi tháng, ngày, giờ. Rồi cho rút thăm. Ai được vé nào thì cam kết đọc chuỗi Mân côi tháng ngày giờ đó. Mục đích có ý xin ơn chết lành cho những người hấp hối, xin ơn trở lại cho những người tội lỗi, xin ơn bình an cho các dân tộc.
Từ sáng kiến đó, phong trào kinh Mân côi liên tiếp được thành lập và lan rộng. Năm 1657, Đức Giáo Hoàng Alexandre VII chấp nhận phong trào đạo đức này, và ban cho nhiều ân xá.
Năm 1826, trước nhu cầu truyền giáo cho các vùng xa xôi, bà Pauline Jaricot, thành Lyon, đã có sáng kiến lập ra phong trào “Kinh Mân côi sống”. Cứ 10 nguời thì thành một nhóm nhỏ. Mỗi người trong nhóm cam kết đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Hơn nữa, mỗi người trong nhóm sẽ tìm thêm 5 người. Năm người này cũng hứa đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Và cứ thế nhân lên số người đọc kinh Kính Mừng.
Mỗi tháng, bà Pauline phổ biến cho các nhóm một bản suy gẫm Lời Chúa, hướng về truyền giáo.
Đầu thế kỷ XX, trước tình hình suy giảm đức tin tại Pháp, cha Joseph Eyquem lập ra những hội Mân côi. Sinh hoạt của những người theo hội này cũng là đọc 10 kinh Kính Mừng mỗi ngày. Ngoài ra, họ họp nhau mỗi tháng một lần. Cuộc họp không tổ chức ở nhà thờ, nhưng ở nhà tư, lúc ở nhà này, khi ở nhà khác. Cuộc họp gồm đủ mọi thành phần. Những tín hữu bình thường, những người ly dị, những người rối vợ rối chồng, những người xa tránh các bí tích. Họ cầu nguyện, trao đổi, chia sẻ và giúp đỡ nhau vượt qua các thử thách.
Nói chung, khi gặp những khó khăn nguy hiểm, cả trong đạo lẫn ngoài đời, người ta đã chạy lại với Đức Mẹ. Họ khẩn cầu Mẹ bằng chuỗi Mân côi. Và thực sự chuỗi Mân côi đã đem lại cho các tâm hồn những hy vọng lành thánh.
Kinh Mân Côi giúp ta gắn bó với Chúa. Hai mươi mầu nhiệm diễn tả cuộc đời của Chúa Cứu thế, đồng thời cũng phác họa đời sống chúng ta. Cuộc đời được dệt nên bằng một chuỗi những vui buồn. Những ai kiên trung cậy trông vào Chúa trong mọi biến có vui buồn ấy, sẽ trở thành môn đệ chân chính của Đức Giêsu. Đức Mẹ đã thực hiện điều ấy và Mẹ đang mời gọi chúng ta tiến bước theo Chúa Giêsu, Con của Mẹ.
Tràng hạt Mân Côi cũng tượng trưng cho tình liên đới giữa con người với nhau. Là những đóa hoa trong vườn hoa cuộc đời, chúng ta liên kết với nhau làm thành một chuỗi hoa hồng. Những đóa-hoa-cuộc-đời được gắn liền với nhau bằng tình mến Chúa yêu người, làm cho cuộc sống này thêm tươi đẹp và thi vị hơn.
Khi ước mong trở thành những đóa hồng dâng kính Đức Mẹ, mỗi người chúng ta cũng cần phải là một đóa hoa để trao tặng cho nhau. Những nghĩa cử thân thiện, những lời động viên khích lệ hoặc sự chia sẻ tinh thần vật chất mà chúng ta thực hiện xuất phát từ tình mến, đó chính là những đóa hoa lòng mà chúng ta trao tặng cho nhau. Những đóa hoa ấy không tàn phai theo thời gian, nhưng mãi mãi thắm sắc ngát hương, làm nên một cuộc sống an bình. Đó là ý nghĩa của Kinh Mân Côi mà chúng ta đọc hằng ngày.
Tràng chuỗi mân côi được xem là phương thuốc thần diệu để diệt trừ tận gốc căn bệnh trầm kha nầy vì chuỗi mân côi dạy ta biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa như Mẹ Maria và Chúa Giê-su.
2022
Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
6/10 Thứ Năm
Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Gl 3:1-5; Lc 1:69-70,71-72,73-75; Lc 11:5-13
Hiệu Lực Của Lời Cầu Nguyện
Cầu nguyện và xin ơn là một nhu cầu thiết yếu của người Ki-tô hữu, vì khi cầu nguyện sẽ liên kết mỗi chúng ta với Thiên Chúa là nguồn sự sống, giúp chúng ta biết được ý Chúa muốn ta làm gì, cầu nguyện nói lên một tâm hồn đơn sơ, khiêm tốn của người môn đệ Chúa Giêsu.
Hơn nữa, cầu nguyện còn xác tín niềm tin tưởng và sự phó thác hoàn toàn của mình vào Thiên Chúa, đồng thời kêu xin Chúa ban cho ta những ơn cần thiết. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã khuyến khích và thúc giục chúng ta hãy cầu xin: “ Cứ xin sẽ được, cứ tìm sẽ thấy, cứ gõ cửa sẽ mở cho” (Lc 11, 9).
Một lời kêu mời tha thiết “ cứ xin”, “cứ tìm”, “cứ gõ”, qua đó cũng nói lên rằng phải rất kiên trì. Để chứng minh Chúa Giêsu đã đưa ra một ví dụ dạy chúng ta phải biết kiên trì với Thiên Chúa trước những nhu cầu cần thiết. Gương người bạn đến gõ cửa nhà bạn mình để xin được giúp đỡ. Người đời dù quen hành động theo lý do ích kỷ, thế mà cũng phải chịu thua sự kiên trì của người xin. “ Huống chi” Thiên Chúa vốn là người Cha nhân lành, luôn đối xử với chúng ta theo tình thương, Ngài mang trong mình bản chất nhân hậu và giàu ân sủng, Ngài rất vui thích ban mọi ơn lành và nhưng không cho con người. Bởi thế, nếu chúng ta kiên trì cầu xin với Thiên Chúa, thì chắc chắn sẽ được nhận lời.
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy chúng ta: “Cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở cho”. Ngài đưa ra hai dụ ngôn để nhắc nhở chúng ta kiên tâm trong lời cầu nguyện và siêng năng cầu nguyện cùng Chúa. Ngài đoan hứa Thiên Chúa là người Cha tốt lành sẽ ban cho chúng ta những gì chúng ta cầu xin, đặc biệt Ngài sẽ ban cho chúng ta món quà tuyệt hảo là Thánh Thần, nhờ đó chúng ta sẽ tìm được hạnh phúc đích thực.
Chúa Giêsu kể cho ta dụ ngôn về một người nài nỉ hàng xóm thức dậy lấy bánh cho anh ta về đãi khách lúc nửa đêm. Theo luật về lòng hiếu khách của người Do thái, việc tiếp đãi khách bộ hành lúc nửa đêm thì không chỉ là bổn phận của một cá nhân mà là bổn phận của cả cộng đoàn. Điều này có nghĩa là khi có một vị khách vãng lai ghé tới một thôn làng lúc nửa đêm, thì tất cả các gia đình đều phải có trách nhiệm tiếp đãi tử tế vị khách này.
Dĩ nhiên trong một thôn làng nhỏ bé, các gia đình đều có thể biết rõ về nhau. Vì lẽ đó, người đi xin bánh để về tiếp khách lúc nửa đêm biết rõ nhà hàng xóm còn bánh nên anh cố nài nỉ cho bằng được người hàng xóm thức dậy mà lấy bánh cho anh ta. Nếu người hàng xóm không chịu dậy lấy bánh thì ông ta sẽ phải xấu hổ với dân làng!
Chúa Giêsu dùng hình ảnh nói trên để dạy ta biết liên lỉ cầu xin Thiên Chúa ban những điều tốt lành cho ta. Nếu người hàng xóm còn biết sợ bị làm phiền hay sợ phải xấu hổ với dân làng mà phải thức dậy lấy bánh cho người đến gõ cửa lúc nửa đêm, thì huống chi Thiên Chúa, Đấng vốn đầy yêu thương, lại là cha của mỗi người chúng ta và cũng là Đấng mà thánh Augustinô bảo rằng chẳng ngủ bao giờ, nhưng luôn tỉnh thức để đáp ứng những nhu cầu của ta, thì chắc chắn Ngài sẽ đáp ứng những điều ta cầu xin.
Trong thực tế, có lẽ chúng ta đã cầu xin rất nhiều, thế mà nhiều khi chúng ta chẳng nhận được. Tại sao thế? Thánh Giacôbê trả lời: “Anh em không có, là vì anh em không xin; anh em xin mà không được là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc”. Do đó, khi cầu nguyện, chúng ta hãy ý thức điều chính yếu chúng ta phải nhắm tới trước hết, đó là “Xin cho Ý Cha được thể hiện dưới đất cũng như trên trời”. Thiên Chúa là Cha, Ngài khôn ngoan thấu suốt những nhu cầu của chúng ta và sẽ ban cho những gì lợi ích cho phần rỗi chúng ta. Ðiều cần thiết là phải kiên trì trong niềm tin và xác tín Thiên Chúa yêu thương và ban cho những điều vượt quá sự mong ước của chúng ta.
Lời cầu xin hằng ngày cũng là một thách đố lớn cho mỗi người chúng ta, không phải lúc nào chúng ta cũng đón nhận một kết quả mau lẹ như ý muốn. Thế nên, lại một lần nữa Chúa mời gọi chúng ta hãy kiên trì trong cầu nguyện. Thực vậy, trong bất cứ lãnh vực nào của cuộc sống con người, ai tập được tính kiên trì người đó kể như đã thành công.
Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, và còn hơn thế nữa, bởi suốt đời người Kitô hữu phải kiên trì cầu nguyện và tập luyện nhân đức mới mong sống gắn bó mật thiết được với Thiên Chúa. Cũng như thân xác không thể sống và phát triển được nếu con người không ăn uống, thì cũng thế, linh hồn con người không thể sống nếu không có cầu nguyện. Đặc biệt khi cầu nguyện phải xác tín rằng: Thiên Chúa là Cha nhân từ luôn yêu thương chúng ta, Ngài có làm cho chúng ta được toại nguyện hay không, hoặc Ngài nhận lời chúng ta theo cách nào thì cũng đều là vì lợi ích cho linh hồn chúng ta mà thôi.
Nên khi cầu nguyện chúng ta hãy đến với Chúa với tấm lòng khiêm nhường hạ mình. Hãy trình bày cho Chúa tất cả những ưu tư, gánh nặng của mỗi người chúng ta như người con nhỏ bé đến với cha mình, và tin tưởng đón nhận những gì Thiên Chúa cho là tốt đối với chúng ta nhất.
Thật vậy, cuộc đời ta càng gian truân, vật vả, khổ đau, thì ta càng khao khát được bình an, hạnh phúc, mà không có hạnh phúc đích thực nào ở trần gian này có thể so sánh được cái hạnh phúc vĩnh cửu là sự sống đời đời mai sau. Bởi vậy, điều Chúa muốn ta làm ấy là liên lỉ cầu xin cho được biết trung kiên khao khát món quà ân sủng của Ngài là Nước Trời mai hậu.
Nguyện xin Chúa củng cố chúng ta trong đời sống và tâm tình cầu nguyện, cho chúng ta biết xin những gì đẹp lòng Chúa và phó thác tất cả cho tình yêu thương quan phòng của Chúa.
2022
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
5/10 Thứ Tư trong tuần thứ Hai Mươi-Bảy Mùa Quanh Năm
Gl 2:1-2,7-14; Tv 117:1,2; Lc 11:1-4
Ý Nghĩa Của Kinh Lạy Cha
Trước mắt các môn đệ, hẳn là Đức Giêsu xuất hiện ra như là vị thầy về cầu nguyện. Còn trước mặt Người, các ông quả là những người đang chập chững tập cầu nguyện. Do đó, các ông đã xin Người dạy cầu nguyện. Đàng khác, vào thời Chúa Giê-su, các nhóm tôn giáo được phân biệt nhờ có một kiểu cầu nguyện riêng. Lời xin của các môn đệ Chúa Giê-su cho thấy các ông ý thức mình là một cộng đoàn.
Cầu nguyện với Thiên Chúa là Cha theo ý Chúa Giêsu muốn qua lời kinh Lạy Cha là một việc làm hết sức mới mẻ và đồng thời cũng hết sức đòi hỏi. Thói quen chúng ta đọc kinh Lạy Cha quá thường, làm cho chúng ta mất đi ý thức về sự mới mẻ và về đòi hỏi quan trọng đối với Thiên Chúa cũng như đối với anh chị em. Ðối với Thiên Chúa, mọi đồ đệ cần phải tôn vinh Ngài và vâng phục thánh ý Ngài. Ðối với anh chị em, người đồ đệ Chúa không thể nào tránh né bổn phận tha thứ như Chúa đã tha thứ. Chúng ta hãy ý thức lại để cho sự mới mẻ này đòi hỏi kinh Lạy Cha thấm nhập sâu vào con người chúng ta và hướng dẫn mọi hoạt động lớn nhỏ hàng ngày của người Kitô chúng ta.
Khi cầu nguyện, Chúa Giêsu muốn chúng ta đặt mình trong mối tương quan với Thiên Chúa là Cha và mọi người là anh em với nhau. Trong tương quan này, chúng ta đến với Thiên Chúa không như đầy tớ kêu xin chủ, mà là những người con cùng chia sẻ trách nhiệm với Cha; nếu không thì cần gì phải xin “cho danh thánh Cha vinh hiển, Triều Đại Cha mau đến”?
Bởi Thiên Chúa luôn muốn danh thánh Ngài vinh hiển, mà Thiên Chúa được vinh hiển khi con người được thông phần hạnh phúc với Ngài, bởi theo thánh Irênê: “Vinh quang của Thiên Chúa là con người được sống”: Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người không bỏ đói đồng loại của mình; Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người không hận thù cấu xé lẫn nhau; Thiên Chúa sẽ vinh hiển nếu con người biết lánh xa những điều xấu và không nô lệ cho sự dữ. Vì vậy, cầu xin là cách chúng ta mở lòng để sẵn sàng hành động cùng Thiên Chúa, còn không thì chúng ta xin sẽ chẳng được, vì chúng ta xin mà không biết mình xin gì! (Mc 10, 38).
“Nguyện cho danh thánh Cha vinh hiển” (c.2) là một lời cầu nguyện truyền giáo; là lời xin cho mọi người nhận ra sự hoàn mỹ tốt lành của Cha mà nhận biết Cha – Đấng tạo thành trời đất. Cách đặc biệt hơn như chúng ta đã từng biết: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào” (Thánh I-rê-nê). Thế nhưng, ngày nay vẫn còn biết bao con người sống kiếp lam lũ lầm than, đói nghèo, không có điều kiện để sống đúng với nhân phẩm; những nạn kỳ thị chủng tộc, giai cấp, phân biệt đối xử giới tính; những trẻ em bị bóc lột sức lao động, không được chăm sóc; những nạn buôn người….
Tất cả làm nên một khoảng ‘trời đen’ của nhân loại khiến cho mọi con người, nhất là người Ki-tô hữu chân chính phải nhức nhối, không thể dửng dưng làm ngơ. Vì vậy, lời cầu xin cho “Danh thánh Cha vinh hiển” cũng là lời cầu nguyện cho nhân loại có được một cuộc sống dồi dào, hạnh phúc; có thể tận hưởng được những ân phúc, ân lộc mà Thiên Chúa ban cho qua thiên nhiên, qua vũ trụ và con người, hầu con người được sống xứng đáng với phẩm giá là con Thiên Chúa; và đồng thời biết chung tay xây dựng cuộc sống tốt đẹp; đẩy lui những bất công còn tồn đọng trong xã hội, thắp sáng ngọn lửa tin yêu xua đi những mây mù hắc ám góp phần làm lành mạnh môi trường sống của nhân loại.
“Xin cho chúng con lương thực hằng ngày” (c.3)
Lương thực là để nuôi dưỡng đời sống con người. Có lương thực nuôi dưỡng phần xác, có lương thực nuôi dưỡng tinh thần, có lương thực nuôi dưỡng linh hồn. Con người có đầy đủ những lương thực trên nuôi dưỡng thì mới phát triển hài hòa, quân bình hầu có đầy đủ năng lực để sống, làm việc và phục vụ với hết khả năng, nhiệt tâm và tình yêu.
Thế nhưng, ngày nay có rất nhiều người (nếu không nói là đại đa số) chỉ biết chăm lo phát triển vật chất, thỏa mãn những nhu cầu thể lý, tìm kiếm ‘vinh thân phì gia’ mà đời sống tâm linh lại èo uột có nguy cơ chết yểu. Cái đói thể lý người ta có thể rất dễ nhận ra và dễ quan tâm; nhưng ngược lại, cái đói tâm linh thì người ta không dễ nhận ra và thường bỏ mặc không quan tâm, mặc dù nó là tác nhân gây ra nhiều hậu quả vô cùng tai hại ảnh hưởng đến hạnh phúc và đời sống sung mãn của con người. Chúng ta hãy cầu xin Cha ban cho chúng ta có đầy đủ lương thực hằng ngày để sống và thi hành ý Cha.
“Xin tha tội cho chúng con, vì chính chúng con cũng tha cho mọi người mắc lỗi với chúng con” (c. 4).
Điều kiện để được tha thứ là chính bản thân mình phải biết sống thứ tha. Tại sao tôi cầu mong Thiên Chúa tha thứ mọi tội lỗi tôi; tha nhân đối xử khoan dung đối với tôi, mà tôi lại hà khắc với người anh em. Tha thứ không phải là chuyện dễ làm. Tuy nhiên, chúng ta hãy mở lòng mình ra trước Thiên Chúa, khiêm tốn xin ơn chữa lành để ta có thể hòa giải với Thiên Chúa, với chính bản thân, để có thể sống hòa giải với tha nhân.
Bởi vì, nếu tôi không thể tha thứ cho chính mình thì tôi rất khó để có thể tha thứ cho người khác thật lòng. Có những người nhiệt tâm, thiện ý có thừa, họ cho rằng đối với bản thân họ thì việc tha thứ cho tha nhân thật dễ hơn là tha thứ cho chính mình rất nhiều. Chúng ta không thể phủ nhận suy nghĩ của họ.
Tuy nhiên, nó thường chỉ đúng khi người ta tha thứ những khuyết điểm của người khác mà những khuyết điểm ấy không trực tiếp làm tổn thương đến bản thân họ (nhất là đến danh dự, lòng tự trọng). Tôi biết có những người rất tốt lành, nhưng lại mang trong lòng những vết thương không xóa nổi; hay nói khác đi, tận đáy lòng họ chưa thể tha thứ cho người làm tổn hại đến mình, làm mất thanh danh tiếng tốt của mình. Họ có thể quên tạm thời, nhưng khi có những hoàn cảnh, sự kiện gợi đến, lòng họ vẫn sôi lên nỗi niềm cay đắng. Những vết thương như thế phải cần rất nhiều ơn Chúa để chữa lành và cho chúng ta thấy để sống tha thứ không phải là chuyện dễ. Xin Chúa giúp chúng ta biết sống khiêm tốn, chân nhận và chấp nhận những giới hạn của bản thân và sống khoan dung đối với tha nhân.
“Xin chớ để chúng con sa chước cám dỗ” (c.4)
Con người ngày nay phải đương đầu với rất nhiều thứ cám dỗ về danh, lợi, thú. Thậm chí người ta có thể coi nó là mục tiêu để đạt tới trong cuộc đời. Có những người để cho danh, lợi cuốn hút đến bất chấp thủ đoạn. Có những người chạy theo lạc thú trong những cuộc tình và coi nó như một ‘mốt thời thượng’ mà đánh mất tình yêu thủy chung, coi nhẹ đời sống hôn nhân gia đình…và còn biết bao nhiêu thứ cám dỗ khác nữa.
Vì vậy, lời cầu xin “chớ để chúng con sa chước cám dỗ” phải tha thiết hơn bao giờ hết – xin Chúa giúp chúng ta có được đôi mắt tâm linh sáng suốt để biết biện phân những giá trị cao đẹp trong cuộc đời và chọn chúng làm mục tiêu hướng tới để hoàn thành sứ mạng và ơn gọi mà Thiên Chúa trao phó cho mỗi con người.
Tin Mừng Thánh Matthêu ghi Kinh Lạy Cha trong văn mạch Chúa Giêsu đang dạy cho các môn đệ mình cách thi hành những việc đạo đức (làm việc đạo đức cách kín đáo, đừng phô trương). Còn Tin Mừng Lc ghi kinh này sau khi một môn đệ xin Chúa Giêsu dạy cho nhóm môn đệ mình một bài kinh riêng của nhóm, để phân biệt với các nhóm tín ngưỡng khác.
Như thế Kinh Lạy Cha là kinh nguyện độc đáo của Kitô giáo. Tìm hiểu Kinh Lạy Cha, ta có thể biết những điểm độc đáo của sự cầu nguyện Kitô giáo là gì. Điểm độc đáo đầu tiên là Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha (Abba) một cách rất thân thương gần gũi.
2022
Lắng Nghe và Chiêm Niệm
4/10 Thứ Ba
Thánh Phanxicô thành Assisi, Tu Sĩ
Gl 1:13-24; Tv 139:1-3,13-14,14-15; Lc 10:38-42
Lắng Nghe và Chiêm Niệm
Thánh Phanxicô Assisi là một người nghèo hèn nhưng đã làm bàng hoàng và gây nguồn cảm hứng cho Giáo hội bởi ngài sống sát với Phúc Âm – không trong ý nghĩa cực đoan hẹp hòi, nhưng thực sự sống theo những gì Ðức Giêsu Kitô đã nói và hành động, một cách vui vẻ, không giới hạn và không một chút tự tôn.
Cơn trọng bệnh đã giúp chàng thanh niên Phanxicô nhận ra sự trống rỗng của một đời sống vui nhộn khi còn là người thủ lãnh của nhóm trẻ ở Assisi. Sự cầu nguyện – thật lâu giờ và thật kham khổ -đã giúp ngài trút bỏ mọi sự để theo gương Ðức Kitô, đến độ ngài đã ôm lấy một người cùi mà ngài gặp trên đường. Ðiều đó nói lên sự tuân phục những gì ngài đã nghe được trong khi cầu nguyện: “Phanxicô! Mọi sự con yêu quý và khao khát nơi thân xác con, thì đó chính là điều con phải khinh miệt và ghét bỏ, nếu con muốn biết ý định của Thầy. Và khi con bắt đầu thi hành điều này, tất cả những gì đối với con dường như ngọt ngào và đáng yêu sẽ trở nên quá quắt và cay đắng, nhưng tất cả những gì mà con thường hay tránh né sẽ trở nên thật ngọt ngào và cực kỳ vui sướng.”
Từ Thánh giá trong một nguyện đường bỏ hoang ở San Damiano, Ðức Kitô nói với ngài, “Phanxicô, hãy đi xây dựng nhà của Thầy, vì nó đã gần sụp đổ.” Phanxicô trở nên một người lao động hoàn toàn khó nghèo và thấp hèn.
Chắc chắn ngài đã đoán ra được ý nghĩa sâu xa hơn của câu “xây dựng nhà của Thầy.” Nhưng ngài không bằng lòng chấp nhận việc đi xin từng cục gạch về xây lại nguyện đường hoang phế ấy. Ngài từ bỏ tất cả những gì ngài có, ngay cả đống quần áo ngài cũng trao lại cho cha của mình (là người đòi Phanxicô bồi thường những gì ngài đã cho người nghèo), để ngài hoàn toàn thuộc về “Cha trên trời.” Thời gian ấy, ngài bị coi là một thầy tu quá khích, đi ăn xin từng nhà này sang nhà khác, khi ngài không thể kiếm ra tiền bằng cuộc việc của mình được, khiến các bạn cũ phải buồn rầu và ghê tởm, và bị những người thiếu suy nghĩ nhạo cười.
Nhưng cái gì thật sự chân chính tất phải dần dần tỏ lộ. Người ta bắt đầu nhận ra rằng con người này đang cố gắng trở nên một Kitô hữu đích thực. Ngài thực sự tin vào điều Ðức Kitô dạy: “Hãy đi công bố nước trời! Ðừng mang theo vàng bạc, tiền của trong túi, đừng mang theo bao bị, giầy dép, gậy gộc” (Lc 9, 1-3).
Quy luật đầu tiên của Phanxicô cho những người muốn theo ngài là thu lượm tất cả những lời dạy của Phúc Âm. Ngài không có ý thành lập một dòng tu, nhưng một khi Tu hội thành hình, ngài đã bảo vệ nó và chấp nhận mọi hình thức tổ chức có cơ cấu luật pháp cần thiết để nâng đỡ nó. Sự tận tụy và trung thành với Giáo hội của ngài quả thật là điều tuyệt đối cần thiết và phải được đề cao trong một thời đại mà nhiều phong trào cải cách khác nhau lại dường như nhằm phá vỡ sự hợp nhất của Giáo hội.
Ngài bị xâu xé giữa một đời sống hoàn toàn tận hiến cho sự cầu nguyện và một đời sống tích cực rao giảng Tin Mừng. Và ngài đã quyết định theo đuổi đường rao giảng Tin Mừng, nhưng luôn luôn trở về sự tĩnh mịch bất cứ khi nào có cơ hội. Ngài muốn đến truyền giáo ở Syria và Phi châu, nhưng trong cả hai trường hợp ngài đều bị đắm tàu và đau nặng. Ngài cũng cố gắng hoán cải các vua Hồi giáo ở Ai Cập trong lần Thập tự Chinh thứ năm.
Trong những năm cuối cùng của cuộc đời ngắn ngủi (ngài từ trần khi 44 tuổi) ngài gần như mù và đau nặng. Hai năm trước khi chết, ngài được in năm Dấu thánh, là những vết thương thực sự của Ðức Kitô ở tay chân và cạnh sườn của ngài.
Trong giờ phút cuối cùng, ngài lập đi lập lại phần phụ thêm của Bài ca anh Mặt Trời, “Ôi lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì người chị tử thần.” Ngài hát Thánh vịnh 141:
Trước thánh nhan Chúa, hỡi địa cầu, hãy rung chuyển,
trước thánh nhan Chúa Trời nhà Giacóp,
Người biến đá tảng thành hồ ao,
và sỏi đá nên mạch nước dồi dào.
Và khi đã đến giờ lìa đời, ngài xin cha bề trên cho ngài cởi quần áo ra để nằm chết trần truồng trên mặt đất, giống như Ðức Giêsu Kitô.
Thánh Phanxicô Assisi trở nên nghèo hèn chỉ vì ngài muốn giống Ðức Kitô. Ngài coi vũ trụ được tạo dựng như là một sự biểu lộ khác của vẻ đẹp của Thiên Chúa. Trong năm 1979, ngài được đặt làm bổn mạng của khoa sinh thái. Ngài hãm mình phạt xác (để rồi sau này ngài phải xin lỗi anh “Thể xác”) để có thể hoàn toàn tuân thủ Thánh ý Chúa. Sự khó nghèo của ngài đi đôi với sự khiêm tốn, mà nhờ đó ngài hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa tốt lành. Nhưng tất cả những điều ấy chỉ để dẫn vào tâm điểm của đời sống tâm linh của ngài: Sống đời sống Phúc Âm, đã được tóm lược nơi lòng bác ái của Chúa Giêsu và được tỏ lộ cách tuyệt hảo nơi Bí tích Thánh Thể.
Tin Mừng hôm nay có thể được lắng nghe và suy niệm với nỗi thao thức ấy. Chúa Giêsu hẳn không làm một cuộc so sánh về hai thái độ: một của Marta tất bật với việc tiếp đãi khách, và một của Maria ngồi bên chân khách để trò chuyện. Trong thực tế, cả hai thái độ này đều cần thiết: tinh thần hiếu khách được biểu lộ cụ thể và tích cực qua việc chuẩn bị bữa ăn, nhưng cũng được thể hiện không kém qua sự hàn huyên ân cần. Chúa Giêsu đề cao thái độ của Maria, nhưng không hề giảm thái độ của Marta. Ngài chỉ muốn mượn hình ảnh của Maria đang ngồi dưới chân Ngài để nói lên thái độ cơ bản mà con người phải có đối với Thiên Chúa, đó là thái độ lắng nghe và chiêm niệm.
Hơn bao giờ hết, sự hiện diện của những người hiến dâng cho việc cầu nguyện và chiêm niệm là một trong những kho tàng quí giá nhất của thời đại chúng ta, để nhắc nhở cho thế giới rằng cuộc sống con người không chỉ giản lược vào điều mà thánh Phaolô gọi là chuyện ăn, chuyện uống, tôn thờ cái bụng, và rằng cuộc sống chỉ có giá trị và đứng vững vì chính chiều kích siêu việt, thiêng liêng của nó.
Trong một bài nói chuyện với các nữ tu của một Dòng Kín tại Mêhicô năm 1979, Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã đề cao sự hy sinh của họ như sau:
“Cuộc sống của chị em quan trọng hơn bao giờ hết; sự hiến thân trọn vẹn của chị em đầy tính thời sự. Trong một thế giới đang đánh mất dần ý thức về thần linh, trong một thế giới đề cao quá mức những thực tại vật chất, hỡi các nữ tu thân mến, các chị lại dấn thân vào các tu viện Kín để làm chứng cho những giá trị mà các chị sống cho. Các chị là những chứng nhân của Chúa cho thế giới ngày nay; với lời cầu nguyện, các chị đang thổi một luồng sinh khí mới vào trong Giáo Hội và con người ngày nay”.
Những lời của Ðức Gioan Phaolô II không chỉ đề cao chứng từ của các Tu sĩ chiêm niệm, mà còn nhắc nhở cho các Kitô hữu về chính chứng từ của sự cầu nguyện của họ. Có những người hiến thân trọn vẹn cho sự cầu nguyện, nhưng cầu nguyện không phải là độc quyền của một số người, mà phải là hơi thở cho tất cả những ai có niềm tin. Có những giây phút dành cho việc cầu nguyện đã đành, nhưng người Kitô hữu phải sống thế nào để biến cả cuộc sống của họ thành lời cầu nguyện. Chiêm niệm không chỉ là hoạt động dành riêng cho một số người hay một số giờ hoặc một số nơi nhất định. Chiêm niệm chính là thái độ tìm kiếm, lắng nghe và suy niệm bao trùm mọi sinh hoạt của người Kitô hữu.
Nguyện xin Chúa nung nấu sự khát khao trong tâm hồn chúng ta, để chúng ta luôn hướng về Ngài, tìm kiếm Ngài và kết hiệp với Ngài trong mọi sự. Nguyện xin Mẹ Maria là Ðấng luôn cất giữ và suy niệm mọi sự trong lòng, hướng dẫn chúng ta trong thái độ cầu nguyện và chiêm niệm của Mẹ.