2023
Ý thức và sống phép Rửa
9.1 Thứ Hai Lễ Chúa Giêsu Chịu Phép Rửa
Ý thức và sống phép Rửa
Biến cố Đức Giêsu xuất hiện, đã được Giáo Hội nhìn như một biến cố đặc biệt mà Cựu Ước đã loan báo như chúng ta nghe trong bài đọc thứ nhất: “Hỡi kẻ loan tin mừng cho Sion, hãy trèo lên núi cao; Hỡi kẻ loan tin mừng cho Yêrusalem, hãy cất tiếng lên cho thật lớn … kìa Thiên Chúa các ngươi đang tới”. Nơi Đức Giêsu, người ta thấy vinh quang của Thiên Chúa. Thiên Chúa đến cách đặc biệt nơi Đức Giêsu.
Biến cố Chúa Giêsu cũng đã chi phối và biến đổi đời sống của những người tin Ngài một cách dứt khoát. Đời sống của Kitô hữu phải dọi theo đời sống của chính Đức Giêsu Kitô. Đức Giêsu luôn chọn ý Thiên Chúa trên tất cả, Ngài luôn yêu thương anh chị em mình. Ngài yêu họ đến độ dám hy sinh chính mạng sống mình cho họ, nói cho họ biết Thiên Chúa yêu thương họ đến cùng khi cho Con Ngài nhập thể, cho dù khi nói như vậy Ngài bị người ta hiểu lầm và giết Ngài. Đức Giêsu là người đã đến sống cho tình yêu và chết cho tình yêu. Xin cho mỗi người chúng ta sống theo gương Ngài, yêu thương và khiêm tốn, để đem hạnh phúc cho những người chúng ta gặp gỡ và sống với.
Tham dự phụng vụ hôm nay, Thánh sử Luca mời gọi chúng ta hướng nhìn về Chúa Giêsu, để chúng ta sống giống như Chúa Con, “đẹp Lòng Chúa Cha”. Đầu tiên, chúng ta thấy Chúa Giêsu sống khiêm nhường, sống giống mọi người. Trước khi dìm mình trong nước để nhận lãnh phép rửa từ tay thánh Gioan Tẩy Giả, Chúa Giêsu đã nhập đoàn dân chúng giống y như mọi người, khiêm tốn và chia sẻ với mọi người nhu cầu sám hối và thanh tẩy. Con đường của Chúa Giêsu đi cũng là con đường của tất cả mọi người chúng ta. Chúa Giêsu trở thành người và sống như mọi người, sống giữa mọi người.
Kế đến, Chúa Giêsu cho thấy việc thanh tẩy là hình bóng của bí tích rửa tội mà chúng ta lãnh nhận. Tuy nhiên, nghi lễ thanh tẩy của Gioan chỉ là việc tỏ lòng sám hối. Lời Gioan Tẩy Giả cho thấy bản chất của bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu trao ban cho con người gồm hết mọi lễ nghi thanh tẩy của Cựu Ước, bởi vì Chúa Giêsu sẽ thanh tẩy con người với Chúa Thánh Thần và lửa. Bí tích Rửa tội mà Chúa Giêsu hiện thực là lửa đốt cháy sự dữ. Nó như lửa luyện lọc và thanh tẩy lòng con người như lời tiên tri đã báo trước. Nó như nước tẩy rửa mọi vết nhơ trong tâm hồn con người, trao ban phong phú và sự sống. Và điểm đặc thù nổi bật nhất trong bí tích Rửa tội Kitô giáo, là sự hiện diện củ
Tin Mừng vừa nghe cho chúng ta thấy Chúa Giêsu xuất hiện như là vị cứu tinh của thời đại mới. Gioan lúc này đang làm phép rửa thống hối. Dân chúng đã từng thắc mắc về ông và tự hỏi: Ông có thể là vị cứu tinh của dân tộc, là Đấng Messia từng được mong đợi hay không? Nhưng chính Gion đã trả lời thắc mắc của dân chúng bằng cách giới thiệu Chúa Giêsu trong chính sứ vụ của Người. Đang khi ông chỉ là người làm phép rửa trong nước, thì Chúa Giêsu lại là người làm phép rửa trong Chúa Thánh Thần và trong lửa. Lời giới thiệu của Gioan cho chúng ta thấy là thời đại cũ, thời chuẩn bị, thời tìm đường đã chấm dứt và thời mới, thời chính yếu đang đến.
Ở đây Chúa Giêsu đã không chỉ được giới thiệu bởi Gioan mà còn bởi chính Thiên Chúa Cha qua sự kiện siêu phàm: Trời mở ra, Chúa Thánh Thần ngự xuống và tiếng phán từ trời. Người ta quan niệm rằng sau khi con người phạm tội thì trời và đất như đóng kín lại với nhau. Thiên Chúa Chúa không còn đi lại gần gũi với dân của Ngài như ngày xưa nữa. Nay với Chúa Giêsu, thì trời không còn khép kín, nhưng đã được mở ra như một điều kiện dọn đường cho Thánh Thần ngự xuống. Hình ảnh gợi lên cho chúng ta lòng mơ ước của dân Chúa vào thời cứu chuộc, thời Thiên Chúa sẽ xé trời mà xuống.
Lễ Chúa Giêsu chịu phép rửa gợi nhớ về Bí tích Rửa Tội của chúng ta. Vì tình thương, Chúa Giêsu đã lập nên Bí tích Rửa Tội để tha tội cho chúng ta. Đây là Bí tích cần nhất. Bởi vì, chỉ có người đã lãnh nhận Bí tích này mới có thể lãnh nhận các Bí tích khác. Vì vậy, Giáo lý Hội Thánh Công Giáo gọi Bí tích Rửa tội là “lối dẫn vào các bí tích khác”(x. số 1213). Thật vậy, nhờ bí tích Rửa Tội, chúng ta mới có thể lãnh nhận Bí tích Giao Hoà, Bí tích Thánh Thể, Bí tích Xức dầu…
Nhờ Bí tích Rửa Tội chúng ta không những được tha tội nguyên tổ và tất cả các tội lỗi của bản thân, mà còn được sinh ra trong sự sống mới, nhờ đó chúng ta trở thành nghĩa tử của Chúa Cha, là chi thể của Chúa Kitô, là đền thờ Chúa Thánh Thần. Nhờ đó, người lãnh nhận Bí tích Rửa Tội được nhập vào Giáo Hội, Thân Thể Chúa Kitô, và được tham dự vào chức tư tế của Chúa Kitô(x. GLHTCG số 1279). Vì vậy, Thánh Grêgôriô Naz gọi “Bí tích Rửa Tội là hồng ân đẹp nhất và tuyệt nhất trong các hồng ân của Thiên Chúa”.
Nhưng quyền lợi đi đôi với bổn phận. Khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội, Giáo Hội mời gọi chúng ta: Từ bỏ tà thần, tuyên xưng Đức Tin. Từ bỏ tà thần tức là từ bỏ tội lỗi, từ bỏ những quyến rũ bất chính và từ bỏ ma quỷ. Chúng ta thường gọi là: ma quỷ, thế gian và xác thịt. Giáo Hội cũng mời gọi chúng ta tuyên xưng đức tin, đó là những điều chúng ta đã tuyên xưng trong Kinh Tin Kính. Nhưng Đức Tin không chỉ tuyên xưng ngoài môi miệng mà còn phải thể hiện bằng những hành động cụ thể, vì như Thánh Giacôbê nói “Đức Tin không việc làm là Đức Tin chết”(Gc 2,17).
Như thế, phép rửa của Chúa Giêsu nhắc nhở cho chúng ta ý thức được ơn gọi cao trọng làm con cái Chúa của mình, ơn gọi mà chúng ta đã lãnh nhận ngày chịu phép Rửa tội. Ơn gọi đó đồng thời cũng bao gồm sứ mệnh làm chứng cho Chúa giữa lòng thế giới này. Và chúng ta chỉ có thể hiện thực được nó khi biết cố gắng sống theo mẫu gương của Chúa Giêsu sống đẹp lòng Chúa Cha mà thôi.
Khi lãnh nhận Bí tích Rửa tội, Giáo Hội còn trao cho chúng ta chiếc áo trắng và ngọn nến sáng: chiếc áo trắng là tượng trưng cho sự trong sạch tâm hồn; ngọn nến sáng là tượng trưng cho Đức Kitô, Đấng là nguồn mạch ánh sáng. Giáo Hội mời gọi chúng ta hãy gìn giữ tâm hồn trong sạch, hãy gìn giữ ngọn lửa Đức Tin luôn luôn chiếu sáng cho tới khi ra trước toà Chúa Kitô để chúng ta được sống muôn đời.
2023
Mở rộng Nước Trời
5.1 Thứ Năm Thánh Gioan Neumann, Gm
1 Ga 3:11-21; Tv 100:1-2,3,4,5; Ga 1:43-51
Mở rộng Nước Trời
Thánh Gioan Neumann sinh trưởng ở Bohemia. Vào năm 1835, ngài trông đợi để được thụ phong linh mục nhưng đức giám mục sở tại quyết định không phong chức thêm. Thật khó để ngày nay chúng ta tưởng tượng rằng Bohemia dư thừa linh mục, nhưng thực sự là như vậy. Gioan viết thư cho các giám mục khắp Âu Châu, nhưng câu trả lời ở đâu đâu cũng giống nhau. Tin rằng mình có ơn thiên triệu nhưng mọi cơ hội dẫn đến sứ vụ ấy dường như đều đóng kín.
Không nản chí, và nhờ biết tiếng Anh khi làm việc trong xưởng thợ của người Anh, ngài viết thư cho các giám mục ở Mỹ Châu. Sau cùng, vị giám mục ở Nữu Ước đồng ý truyền chức linh mục cho ngài. Ðể theo tiếng Chúa gọi, ngài phải từ giã quê nhà vĩnh viễn và vượt đại dương ngàn trùng để đến một vùng đất thật mới mẻ và xa lạ.
Ở Nữu Ước, Cha Gioan là một trong 36 linh mục trông coi 200.000 người Công Giáo. Giáo xứ của ngài ở phía tây Nữu Ước, kéo dài từ Hồ Ontario đến Pennsylvania. Nhà thờ của ngài không có tháp chuông nhưng điều đó không quan trọng, vì hầu như lúc nào Cha Gioan cũng di chuyển, từ làng này sang làng khác, lúc thì lên núi để thăm bệnh nhân, lúc thì trong quán trọ hoặc gác xếp để giảng dạy, và cử hành Thánh Lễ ngay trên bàn ăn.
Vì sự nặng nhọc của công việc và vì sự đơn độc của giáo xứ, Cha Gioan khao khát có một cộng đoàn, và đã ngài gia nhập dòng Chúa Cứu Thế, là một tu hội chuyên giúp người nghèo và những người bị bỏ rơi.
Vào năm 1852, Cha Gioan được bổ nhiệm làm giám mục Philadelphia. Việc đầu tiên khi làm giám mục là ngài tổ chức trường Công Giáo trong giáo phận. Là một nhà tiên phong trong việc giáo dục, ngài nâng số trường Công Giáo từ con số đơn vị lên đến 100 trường.
Ðức Giám Mục Gioan không bao giờ lãng quên dân chúng – đó là điều làm giới trưởng giả ở Philadelphia khó chịu. Trong một chuyến thăm viếng giáo xứ ở thôn quê, cha xứ thấy ngài ngồi trên chiếc xe bò chở phân hôi hám. Ngất ngưởng ngồi trên mảnh ván bắc ngang trên xe, Ðức Gioan khôi hài, “Có bao giờ cha thấy đoàn tùy tùng của một giám mục như vậy chưa!”
Khả năng biết tiếng ngoại quốc đã đưa ngài đến Hoa Kỳ thì nay lại giúp Ðức Gioan học tiếng Tây Ban Nha, Pháp, Ý, và Ðức để nghe giải tội bằng sáu thứ tiếng. Khi phong trào di dân người Ái Nhĩ Lan bắt đầu, ngài lại học tiếng Gaelic và sành sõi đến nỗi một bà Ái Nhĩ Lan cũng phải lầm: “Thật tuyệt chừng nào khi chúng ta có được vị giám mục là người đồng hương!”
Trong chuyến công tác mục vụ sang nước Ðức, đến nơi ngài ướt đẫm dưới cơn mưa tầm tã. Khi gia chủ đề nghị ngài thay đôi giầy sũng nước, ngài trả lời, “Tôi chỉ có cách đổi giầy từ chân trái sang chân phải thôi. Chứ có một đôi giầy thì làm gì được.”
Ðức Gioan từ trần ngày 5-1-1860 khi mới 48 tuổi. Ngài nổi tiếng về sự thánh thiện và sở học. Ngài được phong chân phước ngày 13-10-1963, và ngày 19-6-1977, ngài được phong thánh.
Tin mừng theo Thánh Gioan thuật lại cuộc gặp gỡ giữa Đức Giê su và philipphê và sau đó, qua Philiphê, là cuộc gặp gỡ, trao đổi giữa Nathanaen và Đức Giêsu.
Nếu như cuộc diện kiến giữa Chúa Giêsu và Philipphê có nhiều thuận lợi ,Thánh Gioan ghi lại: Ông Philipphê là người Betsaida cùng quê với các ông Anrê và Phêrô ( những người đầu tiên đã đi theo làm môn đệ Chúa), để rồi sau đó, Philiphê dễ dàng tin và đáp lại lời mời gọi của Chúa Giêsu “ Anh hãy theo tôi”.
Trường hợp theo Chúa của Nathanaen thì không phải thế, Philipphê nói về Chúa Giêsu Nadaret và trình bày cặn kẽ cho Nathanaen biết Ngài chính là Đấng mà kinh thánh đã nói đến, các tiên tri đã loan báo, muôn dân hằng mong đợi, chúng tôi đã gặp và chúng tôi đã đi theo Ngài. Dù vậy, xem ra , giữa sứ điệp được trình bày và người nghe sứ điệp cũng còn một khoảng cách khá lớn, “ từ Nadaret, làm sao có cái gì hay được ?”. Để thu hẹp khoảng cách đó, Philiphê đề nghị một cuộc gặp gỡ :” Cứ đến mà xem !”. Nathanaen đã đến và, không chỉ là để xem những “cái chi hay” mà là gặp được Đức Giêsu, tin và đi theo Người.
Chúa Giêsu kitô chính là Tin Mừng phải được loan báo cho mọi người, mọi nơi, có những mảnh đất tâm hồn màu mỡ, đã được chuẩn bị kỹ càng, nhưng cũng có những mảnh đất khô cằn, gai góc, chẳng mấy thuận lợi. Nhưng hạt giống Tin mừng cần được gieo xuống trên tất cả.
Đời sông của Hội thánh, của tất cả mọi Kitô hữu phải là lời loan báo, lời mời gọi “ hãy đến mà xem!”, không phải chỉ là đến để nghe chúng tôi rao giảng, mà còn thấy chúng tôi, những con người “mến Chúa yêu người” đang diễn tả điều đó thế nào trong cuộc sông hàng ngày, và gặp được Tin Mừng cứu độ là chính Đức Kitô. “Cái chi hay”, cái độc đáo mà giáo xứ, cộng đoàn chúng ta muốn giới thiệu cho mọi người đến chiêm ngưỡng là gì, đó có phải là đời sống đậm nét Tin Mừng, của đời sống liên đới, của yêu thương, khiêm tốn.
Một giáo xứ nơi vùng quê, hưởng ứng lời mời gọi của Đức Cha Giáo phận,về việc thực hiện những hành động cụ thể trong năm Đức tin, nhiều người giáo dân đã chủ động chào hỏi, làm quen, thân thiết hơn với những anh chị em lương dân sống cùng địa phương với mình, những gặp gỡ đời thường đó phải chăng là khởi đầu cho việc “ quan tâm đến nhu cầu của mọi anh chị em chung quanh chúng con, nhờ đó họ sẽ được nhận biết Chúa, để chính họ cũng nhận được ơn đức tin đem lại sự sống đời đời”.(Kinh năm đức tin). Thiết nghĩ, đây cũng là một “ cái chi hay”.
Tin Mừng Nước Trời chính là kho báu, Hồng ân cứu độ là viên ngọc quí, nhưng tất cả có thể đang bị vùi chôn , đang bị che lấp bởi chính đời sống thụ động, đời sống cầu an của người tin Chúa. Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người hãy cùng Chúa mở rộng kho báu,và hãy cùng nhau trao ban viên ngọc Nước Trời.
2023
Rao giảng Chúa cho mọi người
4.1 Thứ Tư Thánh Elizabeth Ann Seton
1 Ga 3:7-10; Tv 98:1,7-8,9; Ga 1:35-42
Rao giảng Chúa cho mọi người
Gioan đã có rất nhiều ảnh hưởng nơi dân chúng. Dân chúng rất ngưỡng mộ Ngài. Khi được Chúa Giêsu hỏi “Phép Rửa của Gioan bởi đâu mà có? Bởi trời hay bởi người ta?” (Mt 21,25), thì nhóm Pharisêu đã cảm thấy thật lúng túng. Nói bởi người thì sợ dân chúng phản đối, nói bởi trời thì sao quý vị lại không nghe lời Gioan, nghe những lời mà Gioan đã nói về nhân vật Giêsu. Nói chúng tôi không biết là cách để chữa cháy, để tránh trả lời một sự thật. Họ không dám chấp nhận sự thật.
Không những có ảnh hưởng trong dân chúng mà Gioan cũng có nhiều môn đệ theo mình. Nhưng Gioan vẫn luôn tuyên bố “tôi không phải là Đức Kitô” (Ga 1,19). “Tôi không đáng cởi dây giày cho Ngài” (Ga 1,27). “Ngài phải lớn lên, còn tôi phải nhỏ lại” (Ga 3,30).
Không ngần ngại, không tiếc nuối, mà một cách xác tín, Gioan đã dõng dạc, xác quyết với hai môn đệ đang đứng với mình, khi thấy Chúa Giêsu đi qua: “Đây là chiên Thiên Chúa, Đấng xóa bỏ tội trần gian” (Ga 1,29). Hai môn đệ đó đã tức khắc bỏ thầy Gioan mà đi theo Chúa Giêsu. Thế là mất toi hai môn đệ!
Gioan đã xác tín rằng Chúa Giêsu đích thị là Minh Quân. Chắc chắn Gioan phải mừng thầm vì đồ đệ của mình đã gặp được Minh Quân, Gioan vui mừng vì đã giới thiệu Chúa Giêsu cho người khác. Gioan đã đóng đúng vai trò Tiền Hô của mình và Đức Giêsu cũng là Đấng Minh Quân của Gioan. Chẳng phải Gioan đã nhảy mừng trong bụng mẹ mình, khi chỉ mới là 6 tháng tuổi khi gặp được Đức Kitô? Gặp được Chúa là gặp được niềm vui, và niềm vui thì cần được chia sẻ, loan tỏa cho mọi người.
Những cuộc giới thiệu Đức Giê-su trong Tin Mừng: Tin mừng Gio-an nhiều lần đề cập tới việc giới thiêu của ông An-rê. Hôm nay An-rê đã giới thiệu Đức Giê-su cho em ông là Si-mon: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (Ga.1,41). Rồi sau đó đã dẫn em đến gặp Người. Lần khác, ông đã dẫn cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” giới thiệu với Đức Giêsu, để rồi sau khi đã cầu nguyện tạ ơn, Người đã nhân mấy chiếc bánh và cá đó ra nhiều để nuôi hơn năm ngàn người ăn no. Rồi lần thứ ba, khi Đức Giê-su vào Giê-ru-sa-lem trước cuộc khổ nạn, cũng chính An-rê đã giới thiệu mấy người Hy Lạp đến gặp Đức Giê-su, khiến Người đã nhận ra dấu chỉ đã đến giờ Người ban ơn cứu độ bằng việc chịu chết trên thập giá (Ga 12,31-32).
Hiệu quả của việc giới thiệu Chúa cho tha nhân: Nếu An-rê không giới thiệu em ông là Si-mon với Đức Giê-su thì có lẽ Hội Thánh ngày nay không được xây dựng trên Tảng Đá dức Tin của Phê-rô. Nếu An-rê không giới thiệu cậu bé có “năm chiếc bánh và hai con cá” với Đức Giê-su, thì có lẽ sẽ không có phép lạ nhân bánh ra nhiều của Chúa Giê-su. Vậy bài học Hội thánh muốn chúng ta học nơi thánh An-rê là: Hãy giới thiệu Đức Giêsu với tha nhân và dẫn đưa họ đến gặp gỡ Người. Công cuộc rao giảng Tin Mừng thường theo thể thức: Đức Tin được truyền từ người này đến người kia. Chúa và Hội Thánh hôm nay rất cần những tín hữu biết vững lòng tin vào Chúa và sẵn sàng chia sẻ niềm tin với người thân như An-rê đã gặp em mình là ông Si-mon và nói: “Chúng tôi đã gặp Đấng Mê-si-a” (nghĩa là Đấng Ki-tô). Rồi ông dẫn em mình đến gặp Đức Giêsu (Ga 1,40-42a).
Hãy đến mà xem: Đức Giê-su không hối thúc người ta phải tin Người mà chỉ nới với họ: “Hãy đến mà xem”. Họ đã đến, đã xem thấy lối sống thân thiện, niềm nở, nồng ấm của Người. Họ biết mình đã gặp được một con người tuyệt vời, và thế là phát sinh một tình cảm. Khi ở với Đức Giê-su, họ cảm thấy bình an thoải mái trong tâm hồn. Nhờ tiếp xúc với Đức Giê-su, họ còn khám phá ra chính bản thân mình và quyết tâm sống theo lối sống của Người.
Khác biệt giữa sự áp đặt và tự nguyện theo Chúa: Những người hành quyền trên người khác thì muốn chế ngự người khác, biến họ thành nô lệ theo ý mình. Trái lại, Đức Giê-su không gò ép ai. Người cho người ta tự do lựa chọn theo hay không theo làm môn đệ Người. Chính thái độ sống và gương sáng của Đức Giê-su đã khiến các ông tự nguyện theo làm môn đệ Người
“Tình yêu Chúa Ki-tô thúc bách chúng tôi”: Một vấn nạn được đặt ra là: Tại sao nhiều người công giáo lại không nhiệt tình nói về Chúa cho tha nhân ? Có thể là do ngại ngùng vì chưa nắm vững đức tin, sợ người kia vặn hỏi sẽ không biết giải thích ra sao. Cung có thể điều người công giáo đang quan tâm là tiền bạc vật chất hơn là đức tin tôn giáo. Họ chưa thấy được giá trị thực sự của đức tin nên dĩ nhiên không thiết tha với việc giúp người thân được niemf vui hạnh phúc giống như mình. Nhưng có lẽ lý do sâu xa nhất là do không mên Chúa nên không cần giới thiệu Chúa, không quan tâm đến viêc “làm cho Danh Cha cả sáng, Nước Cha trị đến, ý Cha thể hiện dưới đất cũng như trên trời” như kinh Lạy Cha dạy.
Thánh Phaolô đã nói câu: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,16). Ước gì câu này không phải là câu dành riêng cho Thánh Phaolô. Ước gì câu này là câu của mỗi Kitô hữu chúng ta.
Chúng ta yêu mến Chúa Giêsu bởi vì người yêu thương chúng ta, Ngài đem cho ta ơn cứu độ. Chúng ta rao giảng Chúa Giêsu cho mọi người, bởi vì Chúa Giêsu là Đấng cứu độ duy nhất của loài người. Nhất định không còn Đấng cứu độ nào khác.
2023
Lời tuyên xưng tuyệt đẹp
3.1 Thứ Ba Thứ Ba trước Lễ Hiển Linh
1 Ga 2:293; Tv 98:1,3-4,5-6; Ga 1:29-34
Lời tuyên xưng tuyệt đẹp
Đây là lời chứng thứ hai của Gio-an Tẩy Giả về Đức Giê-su. Ông xác nhận Đức Giê-su là Con Chiên của Thiên Chúa, có sứ mệnh xóa bỏ tội trần gian. Người là Đấng mà Gioan được sai đến trước để dọn đường qua dấu chỉ Thánh Thần ngự xuống. Gio-an đã thấy Thánh Thần ngự xuống trên Đức Giê-su khi làm phép rửa cho Người tại sông Gio-đan, nên ông đã làm chứng: “Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn”.
Đây là Chiên Thiên Chúa: Chiên Thiên Chúa hay Chiên Vượt Qua thời Xuất Hành (x. Xh 12,3-46). Tin Mừng Gio-an cho thấy Đức Giê-su chính là Con Chiên lễ Vượt Qua qua ba sự kiện: Một là thời gian quan Phi-la-tô xét xử Đức Giê-su vào Giờ Thứ Sáu (tức 12 giờ trưa) trong ngày lễ áp lễ Vượt Qua (x. Ga 9,14), trùng với giờ các tư tế giết chiên trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem để mừng đại lễ Vượt Qua. Hai là cành hương thảo: Người Do thái lấy một bó hương thảo, nhúng vào chậu đựng máu chiên và quét lên khung cửa nhà. Điều này giống như một tên lính đã lấy miếng bọt biển thấm giấm, buộc vào cành hương thảo đưa lên miệng Đức Giê-su nếm (x. Ga 19,29). Ba là chỉ thị của Mô-sê cấm đánh gãy xương của con Chiên bị giết trong biến cố Vượt Qua: quân lính không đánh dập ống chân của Người trên cây thập giá (x. Ga 19,34).
Về con chiên gánh tội : Trong lễ Xá Tội, người Do Thái bắt một con chiên đem đến cho Tư tế. Vị Tư Tế sẽ đọc một danh sách các thứ tội của dân và kêu gọi mọi người sám hối. Sau đó, Tư Tế đặt tay trên đầu con chiên, ngụ ý trút hết danh sách tội ấy lên đầu nó, rồi đuổi nó vào sa mạc. Người ta cử hành nghi lễ sám hối này để xin Đức Chúa xóa hết tội cho mình (x. Lv 1,4). Con chiên Vượt qua là hình bóng Đấng Cứu thế như ngôn sứ I-sai-a đã tuyên sấm: “Chính các bệnh tật của chúng tôi. Ngài đã vác. Ngài đã bị đâm vì những phản nghịch của chúng tôi. Vì tội vạ của chúng tôi, Ngài đã bị nghiền tán… Ngài đã chịu đựng, không mở miệng, như chiên con dẫn đến lò sát sinh… Thiên Chúa đã ái mộ Ngài, đã phục sinh Đấng đã làm lễ hy sinh tạ tội. Ngài đã được trường sinh bất tử” (Is 53, 4-5.7.10).
Đấng xóa bỏ tội trần gian: Thay vì dùng chữ gánh tội, Tin Mừng Gio-an đã dùng chữ “xóa” theo nghĩa “làm mất đi” (x. 1 Ga 3,5). Và như vậy “xóa tội” nghĩa là giải thoát khỏi tội lỗi. Trong cuộc Vượt Qua, nhờ máu chiên được sát tế và quét lên khung cửa nhà mà các con trai đầu lòng của người Do thái khỏi bị tiêu diệt (x. Xh 12,23). Cũng vậy, nhân loại nhờ việc Đức Giê-su chịu chết sẽ được xóa bỏ tội lỗi, giống như bỏ đi gánh nặng đè trên mình họ. + Có người đến sau tôi, vì có trước tôi: Tuy về thời gian, Đức Giê-su được sinh ra sau Gio-an 6 tháng (x. Lc 1,24.26), nhưng về bản tính Thiên Chúa thì Người luôn hiện hữu cả trước khi Gio-an ra đời.
Tôi đã không biết Người: Kiểu nói “không biết” có nghĩa là Gio-an đã không nhận ra Đức Giê-su là Đấng Thiên Sai. Cái “không biết” của Gio-an cũng giống như “không biết” của người Do thái trong câu “Ở giữa các ông có Đấng mà các ông không biết” (Ga 1,26). Nhưng để Người được tỏ ra cho dân Ít-ra-en: Việc Gio-an làm phép rửa cho Chúa Giê-su chính là cơ hội để Người tỏ mình là Đấng Thiên Sai cho dân Do thái.
Ông Gio-an còn làm chứng: Do những dấu chỉ “Thần Khí tựa chim bồ câu từ trời xuống và ngự trên Người”, mà Gio-an đã nhận ra thân phận của Đức Giê-su: Người thực là “Con Thiên Chúa”, là “Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn”. + Thánh Thần như chim bồ câu: Kiểu nói này không khẳng định Thánh Thần hiện ra dưới hình của chim bồ câu, nhưng đáp xuống trên Đức Giê-su giống như tiếng rung nhè nhẹ của loài chim ấy.
Và ngự trên Người: Việc “Thánh Thần đáp xuống như chim bồ câu và lưu lại trên Đức Giê-su” tượng trưng cho hiệu quả của việc tuôn đổ ơn Thánh Thần, là ban sự sống để thiếp lập một dân Ít-ra-en mới. Cũng vậy, trong ngày lễ Hiện Xuống, “Lưỡi Lửa” không trực tiếp tượng trưng cho Chúa Thánh Thần, nhưng tượng trưng cho việc các Tông Đồ được Thánh Thần ban cho “nói tiếng lạ” để công bố Tin Mừng khắp thế gian.
Tôi đã không biết Người. Nhưng chính Đấng sai tôi đi làm phép rửa trong nước đã bảo tôi: Câu này được lặp lại để nhấn mạnh việc Gio-an không tự nhận biết Đức Ki-tô là Con Thiên Chúa nhưng là do chính Thiên Chúa, Đấng sai Gio-an làm phép rửa đã dạy cho ông biết.
Đó chính là Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần: Làm phép rửa trong Thánh Thần là một thành ngữ ám chỉ công việc chính của Đức Giê-su là “xóa bỏ tội lỗi” bằng cách tuôn đổ ơn Thánh Thần xuống trên kẻ tin và lãnh nhận phép rửa để được tha tội ( Ga 3,5-8).
Tôi đã thấy nên xin chứng thực rằng Người là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn: Gio-an xác định việc ông làm chứng “Chúa Giê-su là Đấng Thiên Chúa đã tuyển chọn” là do Thiên Chúa soi sáng. “Đấng Thiên Chúa tuyển chọn” đồng nghĩa với “Con Thiên Chúa”, như lời sấm của I-sai-a: “Đây là người tôi trung Ta nâng đỡ, là người Ta tuyển chọn…” (Is 42,1). Việc Chúa Giê-su được Thiên Chúa tuyển chọn gắn liền với việc Người được ban Thần Khí để chu toàn sứ mạng Thiên Sai.
Khi tuyên xưng Chúa Giêsu là Con Chiên Thiên Chúa, nhất là trong mỗi thánh lễ, chúng ta xác tín ơn huệ cứu độ đặc biệt được lãnh nhận, nhờ tình yêu phục vụ và hy sinh của ngài. Và cũng từ đó, chúng ta được mời gọi bước theo ngài trong việc loan truyền ơn cứu độ hồng phúc đó cho anh em chung quanh, cũng bằng một tình yêu phục vụ và hy sinh.
“Đây Chiên Thiên Thiên Chúa, Đấng xóa tội trần gian”. Đó là lời giới thiệu và lời chứng của Gioan Tẩy Giả về Chúa Giêsu, cho dân chúng bên bờ sống Giodan. Đó cũng là điều chúng ta vẫn tuyên xưng trong mỗi thánh lễ, để tung hô Chúa Giêsu đã hy sinh mạng sống cứu chuộc mọi người.