2023
Tuyên tín
19.1 Thứ Năm
Thứ Năm trong tuần thứ Hai Mùa Quanh Năm
Dt 7:25; Dt 8:6; Tv 40:7-8,8-9,10,17; Mc 3:7-12
Tuyên tín
Chúa Giêsu và các môn đệ đi ra bờ biển. Dân chúng từ khắp nơi theo Chúa rất đông, nên Người phải xuống thuyền giảng dạy để khỏi bị chen lấn. Người đã chữa lành nhiều bệnh nhân, nên hết thảy những kẻ đau yếu đều tuốn đến với Người. Còn ma quỷ mỗi khi thấy Người thì sụp lạy và tuyên xưng Ngài là Con Thiên Chúa. Nhưng Người cấm không cho chúng tiết lộ điều đó, để tránh sự dòm ngó của nhà cầm quyền, nhất là vì quần chúng còn hiểu lầm về sứ mạng của Người.
Thánh Marcô cho biết danh tiếng Người đã đồn đi khắp nơi nên người ta từ mọi miền, các thành Do thái cũng như các thành ngoại giáo, không biết là bao nhiêu người./Nhưng có một điều muốn đặt ra ở đây là “động cơ nào” đã khiến người ta đến với Chúa đông như thế, vì người ta chưa thực sự biết Chúa: ma quỷ biết Chúa Giêsu, nhưng chỉ biết trong thù hận; đám đông thì tìm đến với mục đích kiếm lợi; bà con thân thuộc của Ngài chỉ biết một cách hời hợt; những người biệt phái thì hoàn toàn mù tịt về con người của Chúa; chỉ có nhóm Mười Hai về sau này mới biết chính xác về Người.
Như vậy có nhiều động cơ nhưng theo như cách Chúa hành xử trong bài Tin mừng hôm nay, có lẽ đa số người ta đến với Chúa vì động cơ vụ lợi và vật chất. Chính vì thế, nên khi ma quỷ muốn làm cho người ta hiểu Chúa Giêsu là một “nguồn lợi vật chất”, thì chính Chúa Giêsu đã phải tìm cách lánh xa và ngăn cấm.
Tin Mừng hôm nay vẽ nên khung cảnh hữu tình giữa thiên nhiên và con người. Dưới biển là Chúa Giêsu trên chiếc thuyền nhỏ; trên bờ là đám đông đang quây quần. Họ từ nhiều nơi tuôn đến, họ mang nhiều loại bệnh tật. Họ đang dồn con tim, mơ ước, trăn trở, và cả những đớn đau hồn xác của họ về phía Chúa Giêsu. Họ khát khao, mong chờ, hy vọng Ngài sẽ bù đắp, chữa lành và nâng đỡ họ.
Khung cảnh đẹp này hẳn đã đủ để thu hút tôi, bạn và anh chị sẵn lòng dành những giây phút đẹp nhất, ý nghĩa nhất trong ngày sống để lãnh nhận Lời Chúa, để gặp gỡ Chúa. Hy vọng cuộc gặp gỡ hôm nay sẽ đầy tràn niềm vui và ý nghĩa nhờ sức hút tỏa ra từ Chúa Giêsu, từ những phận đời đang lũ lượt đi theo Người, lũ lượt đến với Người.
Trước hết, thật dễ dàng để ta nhận ra động lực thúc đẩy đám đông đến với Chúa: họ nghe biết những gì Chúa Giêsu đã làm. Hữu xạ tự nhiên hương, tiếng lành đồn xa.
Thử hỏi, Chúa Giêsu đã làm gì khiến Ngài thu hút dân chúng đến thế ? – Lần theo mạch văn, ta tìm được phần nào câu trả lời: Ngài rao giảng Tin Mừng của Thiên Chúa và gọi các môn đệ đầu tiên (1, 14-20), chữa bệnh tại Capharnaum (1, 21-45), làm cho các Kinh sư và Pharisêu phải bẽ mặt trong các cuộc tranh luận (2, 1 – 3,5).
Dân chúng miền Galilê và Giuđa năm xưa vui mừng hớn hở vì tìm được nguồn hy vọng hòng thoát khỏi những bế tắc trong lối sống ; tìm được sức mạnh hòng nhanh chóng khuất phục thế lực quỷ thần ; tìm được ý nghĩa đời mình hòng sống an hạnh trong tình yêu và niềm vui.
Kế đến, nhìn vào bản thân: tôi, bạn và anh chị, ta không chỉ nghe biết những gì Chúa đã làm, mà chắc chắn ít nhiều trong hành trình đời mình, ta đã chân nhận ít nhiều những gì Chúa đã làm cho chính bản thân ta, cho những người thân thuộc của ta. Ta cũng chẳng phải khó nhọc để tìm đến với Chúa như người xưa. Nhưng xem ra, sức hấp dẫn của Chúa Giêsu chưa thể lớn bằng các tạo vật khác, nên ta còn đứng xa, còn chưa quan tâm đủ, còn chưa thật sự khát khao gặp gỡ Ngài. Hơn nữa, dương như chính ta cũng chưa đủ sáng, chưa đủ thông để nhận ra mình đang mang những tật bệnh hồn xác, đang phải đối diện với cuộc sống đầy hiểm nguy bởi đủ thứ lạc thuyết và đam mê, nên chưa thấy cần phải chữa trị, chưa thấy mình phải tìm thầy chạy thuốc.
Thậm chí, khi xuôi ngược trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, liệu những gì ta nói và những việc ta làm có đáng để người nghe chúng ta được thúc đẩy tìm đến với Chúa Giêsu như kinh nghiệm của đám đông trên đây chăng ?
Cùng nhau ta ở lại với Chúa Giêsu thêm ít phút nữa. Mỗi người hãy để Lời Chúa hôm nay soi chiếu mọi ngõ ngách, mọi nơi mọi chốn, kể cả những góc khuất lâu năm meo mốc của đời ta, của hồn ta, để ta được chữa lành các tật bệnh ; được thanh tẩy các nhơ uế ; và nhất là được có đủ uy tín mà giới thiệu Chúa Giêsu cho anh chị em ta. Chính nơi Chúa, ta tìm về để lãnh nhận Tin Mừng và cũng từ Chúa, ta đi ra loan báo Tin Mừng.
Các Tông đồ theo Chúa một thời gian, nghe Ngài giảng dạy, chứng kiến phép lạ Chúa làm mà vẫn chưa hiểu rõ Ngài khi Ngài hỏi: “Phần các con, các con bảo Thầy là ai ?”(Mc 8, 29) Các ông cũng chỉ trả lời theo dư luận của quần chúng, trừ ông Phêrô được Thiên Chúa mạc khải cho: “Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống”. Câu trả lời Ngài chờ đợi các môn đệ và mọi người chắc không phải là một công thức, một lời tuyên xưng trên môi miệng, nhưng là tất cả cuộc sống. Sự hiểu biết Chúa Giêsu chờ đợi nơi mọi người chúng ta không phải là một hiểu biết thuần trí thức, mà phải là một tương giao mật thiết.
2023
Lề luật
17.1 Thứ Ba Thánh Antôn, Ab
Dt 6:10-20; Tv 111:1-2,4-5,9-10; Mc 2:23-28
Lề luật
Chúa Giêsu đi ngang đồng lúa với các môn đệ. Các ông đói nên bứt lúa ăn. Nhóm biệt phái thấy vậy thì trách các ông làm việc cấm trong ngày hưu lễ. Chúa hỏi họ: Các ông có biết vua Đavít và bạn hữu vua làm gì khi đói không ? Vua đã vào đền thờ lấy bánh ăn, thứ bánh mà không ai được ăn chỉ trừ các tư tế. Ngày hưu lễ được lập ra vì loài người, chớ không phải loài người được dựng nên vì ngày hưu lễ. Và chính tôi là chủ của ngày hưu lễ. Tôi có quyền trên ngày hưu lễ.
Để hiểu luật nghỉ làm việc trong ngày hưu lễ (Sabbat) được ghi trong Xh 20,8-11), linh mục Carôlô đã giải thích như sau: Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabát, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài./Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân Do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Maisen đã ra luật nghỉ ngày Sabat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người Do thái: đó những người chủ Do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người Ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Theo tinh thần ấy, Chúa Giêsu dám tuyên bố 2 câu “nảy lửa”:
Ngày Sabat được lập ra vì con người, chứ không phải con người được tạo nên vì ngày sabbat;
Con người (tức là Chúa Giêsu) là chủ của ngày sabbat.
Những người Pharisêu chẳng ưa gì Chúa Giêsu, nên họ đã quay ra bắt lỗi các môn đệ của Chúa. Thấy các môn đệ bứt vài gié lúa, họ liền quy kết cho tội làm việc ngày sa bát. Một hành động rất nhỏ mọn như thế cũng bị quy chụp cho cái tội ghê gớm! [Người nào làm việc ngày sa bát thì chịu án phạt: nhẹ thì bị loại ra khỏi cộng đoàn (x. Xh 31, 15; 35, 2), còn nặng thì có thể bị ném đá cho đến chết (x. Ds 15, 32 – 36)]!
`Nhân dịp này, Chúa Giêsu cho họ biết, luật lệ cốt thiết là vì con người, chứ không phải con người vì luật lệ. Hơn nữa, Chúa làm chủ ngày sa bát! Chúa làm chủ mọi sự mà không kết án con người, thì con người cũng đừng kết án lẫn nhau. Điều người ta phải làm ấy là học nơi Chúa bài học của tình yêu thương mà đối xử với nhau. Thật vậy, thánh Irênê bảo rằng: “Vinh quang Thiên Chúa là con người được sống và sống dồi dào”. Thiên Chúa bày tỏ vinh quang của Ngài không phải bằng cách dùng uy lực đè nén, hà hiếp con người, nhưng là nâng con người đứng dậy và làm cho họ được sống hạnh phúc sung mãn.
Nhóm biệt phái chỉ để ý đến mặt chữ, cho nên họ suy nghĩ nông cạn rằng nghỉ là nghỉ. Thậm chí họ còn đưa thêm đến 39 việc không được làm trong ngày sabbat, trong đó có việc mót lúa và bứt vài bông lúa. Bởi đó họ phản đối Chúa Giêsu về việc làm của các môn đệ Ngài.
Còn Chúa Giêsu thì để ý đến tinh thần của khoản luật ấy, tức là nhằm phục vụ con người. Ngày xưa khi còn ở bên Ai cập, dân do thái phải làm nô lệ cực nhọc. Bởi đó khi họ ra khỏi Ai cập, Môsê đã ra luật nghỉ ngày sabbat, trước hết là nhằm phục vụ cho chính những người do thái: họ phải được một ngày nghỉ ngơi; kế đó là vì quan tâm tới những người tôi tớ và nô lệ: trong ngày đó những người chủ do thái phải để cho các tôi tớ và nô lệ được nghỉ ngơi, đừng tái phạm điều mà người ai cập trước kia đã phạm đối với họ.
Khi muốn hình thành dân Israel, Chúa đã ban cho họ một bộ luật gồm 10 điều răn, nhưng rồi với thời gian, cùng với sự tiếp xúc với các nền văn hoá chung quanh, người Do thái đã từ từ hình thành một bộ luật rất chi tiết. Bộ sách Luật ấy người Do thái gọi là Torah. Sách gồm 5 quyển, dày 250 trang, chứa 613 khoản luật, chia ra 365 khoản cấm và 248 khoản buộc.
Ngoài bộ luật chính ra, còn rất nhiều khoản khác được thêm vào. Đây không phải là luật mà là những tập tục được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Các tập tục này được truyền lại cho những thế hệ mai sau. Và sau cùng thì người chép lại và đóng lại thành tập gọi là Talmud. Talmud là bộ sách giải thích Luật của Do thái giáo. Bộ sách này được chia thành 2 loại: một là Mishna và hai là Gemara. Bộ sách này có tới 523 quyển.
Nguyên nhân cuộc xung đột này chỉ là việc các môn đệ ngắt mấy bông lúa khi đi qua cánh đồng lúa. Một sự việc tầm thường không đáng kể. Luật chỉ cấm gặt và trục lúa thôi, nhưng ở đây các người biệt phái coi đó như việc gặt hái, là một trong những việc cấm trong ngày sabat. Sở dĩ người biệt phái xét nét khắt khe như vậy là cái tính ghen tương nghi ngờ, cái thói hay vạch lá tìm sâu, bới lông tìm vết của người biệt phái, đã gây nên cớ xung đột giữa họ với Chúa Giêsu về việc kiêng việc xác ngày sabat.
Một lần nữa Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo Hội, của Dòng tu, của Chủng viện đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa và yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
Tính ghen tương hay soi mói và nghi ngờ thường xảy ra những xung đột, cãi vã, và chia rẽ nhau trong đời sống cộng đoàn và xã hội. Chúa Giêsu lưu ý chúng ta phải hiểu biết ý nghĩa và mục đích của lề luật. Tất cả mọi khoản luật của Giáo hội cũng như trong cộng đoàn đều nhằm giúp ta thêm mến Chúa yêu người. Giữ những luật đó mà lòng không mến Chúa và yêu người thì vô ích. Dựa vào những khoản luật đó để làm khổ người khác là phản lại luật.
2023
Ý thức và trở về
14.1 Thứ Bảy Thứ Bảy trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
Dt 4:12-16; Tv 19:8,910,15; Mc 2:13-17
Ý thức và trở về
Chúa Giêsu đi dọc bờ biển giảng dạy dân chúng. Người thấy ông Lêvi (Mátthêu) đang ngồi thu thuế. Người gọi ông, ông liền theo Người, và dọn tiệc thiết đãi Người với các kẻ thu thuế và nhiều người tội lỗi. Thấy vậy, nhóm luật sĩ và biệt phái hỏi môn đệ Chúa: Sao Thầy các ông ăn uống với phường thu thuế và kẻ tội lỗi ? Chúa nghe thấy vậy thì đáp: Thầy thuốc không cần cho người khỏe mạnh mà chỉ cần cho kẻ yếu đau. Cũng thế, Ta không đến để kêu gọi người lành thánh mà đến để kêu gọi người tội lỗi ăn năn thống hối.
Thiên Chúa là Đấng toàn năng. Sự toàn năng nơi Ngài có sức biến đổi và cứu độ. Và sự toàn năng nơi Ngài xuất phát từ lời nói đến việc làm. Quả thế, “ngôn hành” của Ngài luôn có ý hướng và mục đích. Ý hướng của Ngài gợi hứng từ sự yêu thương vô điều kiện. Mục đích Ngài nhắm đến chính là chia sẻ ơn cứu độ cũng như mong mỏi hết thảy mọi người đều được tham dự vào bàn tiệc Thiên Quốc.
Đọc lại hành trình lịch sử cứu độ dân Chúa, chúng ta nhận ra rằng từ trong Cựu Ước cho đến Tân Ước, Thiên Chúa vẫn dùng “ngôn hành” của mình để dẫn dắt, dạy dỗ và biến đổi từng cá nhân trong dân tộc của Ngài. Trong Cựu ước, Thiên Chúa đã kêu gọi, đồng hành và hướng dẫn Mô-sê thành một người chỉ huy tài ba, thành cầu nối giữa dân và Chúa. Mặc dầu Mô-sê không phải là người tài ăn, khéo nói, thậm chí nhút nhát. Nhưng Chúa muốn và Mô-sê vâng phục, Mô-sê trở thành thủ lãnh trong dân, thành người kéo ơn Chúa xuống cho dân và thông truyền mong mỏi của dân đến với Chúa. Đó là sự toàn năng và tuyệt hảo nơi Chúa thực hiện qua Mô-sê cũng như dân của Ngài.
Còn trong Tân ước, có rất nhiều những con người, những nhân vật đã được Thiên Chúa gọi mời và biến đổi thành người cộng tác đắc lực với Chúa trong công cuộc rao giảng Tin mừng. Cụ thể, trong bài Tin mừng ngày hôm nay, tác giả Mác-cô trình bày cho chúng ta, một Mát-thêu, kẻ làm nghề thu thuế, bị coi là người tội lỗi, bị dân chúng khinh bỉ, là người cộng tác với ngoại bang để hành hạ đồng bào. Thế nhưng, chính “ngôn hành” của Chúa đã biến đổi và giúp ông trở thành Tông đồ cho Ngài.
Quả vậy, Thiên Chúa không chấp nhất quá khứ, Ngài kêu gọi Mát-thêu từ bỏ quá khứ tội lỗi và hướng tới tương lai. Không phụ lòng tin tưởng nơi Chúa, Mát-thêu đã rũ bỏ tất cả, tiền tài, địa vị, quyền bính và thậm chí cả những dị nghị, nghi nan. Chính sự đáp trả, niềm tin và sự phó thác vào Thiên Chúa đã biến đổi ông. Nói cách khác, chính tình yêu Chúa đã thay đổi và nâng ông dậy. Từ một con người chỉ biết tích cóp, ăn chặn và bóc lột đồng bào. Giờ đây Mát-thêu trở thành kẻ “lưới người”, kéo những “mẻ cá người” về cho Chúa, cho Hội thánh bằng sự nhiệt thành và hăng say. Bên cạnh đó, Mát-thêu còn trở thành tác giả Tin mừng viết về dòng dõi và sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa. Ông dùng chính đôi tay thu thuế trước đây của mình, giờ đây cũng với đôi bàn tay ấy, ông chia sẻ cho đồng bào và hậu thế về sứ mạng của Đấng Tình Yêu. Sở dĩ Mátthêu có đặc ân ấy là vì sự toàn năng và yêu thương của Chúa dành riêng cho ông. Ngài muốn, Ngài yêu và Ngài tin tưởng vào sự thay đổi nơi ông và biến ông thành người cộng tác đắc lực trong sứ mạng rao giảng Tin mừng.
Thiên Chúa toàn năng và rất mực yêu thương nhân loại như vậy. Thế nhưng, hôm nay chứng kiến việc Chúa Giêsu kêu gọi Mátthêu và Ngài còn về nhà ông để mừng tiệc, để được ông thiết đãi, những người kinh sư thuộc nhóm Biệt phái tỏ vẻ không hài lòng, nghi kị và muốn kết án. Suy nghĩ và cái nhìn của những người Biệt phái ngày xưa, dường như cũng đang là não trạng và cách hành xử của con người thời nay.
Trong một xã hội vô cảm, đặt nặng những giá trị bên ngoài nhưng thiếu ý thức nhân bản và chiều sâu đời sống nội tâm. Dường như con người hiểu nhau qua vật chất, qua vẻ hào nhoáng của địa vị mà bỏ quên giá trị và ý nghĩa nhân bản hay đời sống đức tin. Khác hẳn với cách cư xử và hành động của con người. Thiên Chúa hứa là Ngài giữ lời. Ngài chậm giận và giàu tình thương. Thiên Chúa không giữ quá khứ của chúng ta nhưng Ngài kêu gọi chúng ta hướng tới tương lai, từ bỏ tội lỗi và tín thác nơi Ngài. Như một bác sĩ rành nghề, hôm nay Chúa Giêsu biết rõ bệnh tình của Mátthêu, Ngài đã trị dứt cơn bệnh của ông, đồng thời Ngài sử dụng tài năng linh hoạt có sẵn nơi ông để dùng ông trong sứ vụ rao giảng Tin mừng.
Việc Chúa Giêsu chọn một người thu thuế như Lêvi làm môn đệ đã đem lại sự vui sướng chẳng những cho chính Lêvi, mà còn cho những người thu thuế khác. Vì thế họ dọn một bữa tiệc để ăn mừng. Xưa nay họ chỉ thấy mới có một mình Chúa Giêsu không chê họ, mà còn chọn một người trong bọn họ làm môn đệ.
Bữa ăn hay bữa tiệc thường được diễn tả sự gần gũi thân tình. Ở đây Đức Giêsu và các môn đệ đến dùng bữa tại nhà ông Lêvi cùng với nhiều người thu thuế và các người tội lỗi, chứng tỏ Chúa bày tỏ tình thương đối với những người tội lỗi. Chính tinh thần này lôi kéo những người tội lỗi đến với Người.
Việc Chúa Giêsu gọi Lêvi là người thu thuế đi theo Người lại là cớ gây ra sự phê bình và chỉ trích của người Do thái, nhất là các luật sĩ và biệt phải.
Họ vốn có quan niệm chật hẹp, khép kín và khinh rẻ đối với những người tội lỗi, nên khi thấy Chúa Giêsu và các môn đệ tiếp xúc thân tình với những người tội lỗi, thì họ đã tỏ ra khó chịu nên họ đã phê bình và chỉ trích Chúa. Họ đã hỏi các môn đệ: “Sao! Ông ấy ăn uống với bọn thu thuế và quân tội lỗi ?” (Mc 2, 16)
Để sửa lại quan niệm hẹp hòi của luật sĩ, Chúa Giêsu đã trả lời cho họ: “Người khỏe mạnh không cần thầy thuốc, người đau ốm mới cần. Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Mc 2, 17). Chính vì Lêvi ý thức thân phận tội lỗi bất xứng của mình cho nên anh rất mừng khi được Chúa gọi, và quảng đại bỏ tất cả để theo Người.
2023
Đấng uy quyền
13.1 Thứ Sáu Thứ Sáu trong tuần thứ Nhất Mùa Quanh Năm
Dt 4:1-5,11; Tv 78:3,4,6-7,8; Mc 2:1-12
Đấng uy quyền
Tin Mừng hôm nay thánh sử Mác cô thuật lại sự việc Chúa Giêsu chữa lành cho một người bại liệt. Có hai điều đáng lưu ý trong đoạn Tin Mừng là: Thứ nhất vì người ta đến nghe Chúa Giêsu giảng đạo rất đông nên người bại liệt không thể tiếp cận với Ngài được, do vậy; bốn người khiêng anh bại liệt mới sáng kiến ra là phải trèo lên mái nhà, dỡ ngói ra rồi dùng dây thả người bại liệt xuống trước mặt Chúa Giêsu. Vì vậy anh bại liệt đã được Chúa chữa lành. Điều thứ hai là: thạy vì nói: “Này con, con đã được chữa lành” thì Chúa Giêsu lại nói: “Này con, con đã được tha tội rồi”.
Một điểm trong phép lạ chữa người bất toại được ghi lại trong Tin Mừng hôm nay đáng chúng ta lưu ý, đó là Chúa Giêsu không nói ngay: “Ta chữa lành cho con”, nhưng Ngài nói với người bất toại: “Con đã được tha tội rồi”. Qua đó, Chúa Giêsu mạc khải Ngài là Thiên Chúa, bởi vì chỉ Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Chính những kẻ chống đối Chúa Giêsu cũng nghĩ như thế, và vì không tin Ngài là Thiên Chúa, cho nên họ nghĩ thầm rằng: “Sao ông này lại dám nói như vậy? Ông ta nói phạm thượng”. Nhưng Chúa Giêsu đã nhân cơ hội này để một lần nữa chứng tỏ Ngài là Thiên Chúa, vì Ngài đọc thấu tư tưởng thầm kín của họ. Ngài bảo họ: “Sao trong bụng các ông lại nghĩ những điều ấy?”
Rồi Ngài nói với những kẻ không tin: “Trong hai điều: một là bảo người bất toại: “Con đã được tha tội”, hai là bảo: “Ðứng dậy, vác chõng mà đi”, điều nào dễ hơn”. Thật ra, hai điều này đều khó, và Chúa Giêsu quả quyết: “Ðể các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội, Ta truyền cho anh hãy đứng dậy, vác chõng đi về nhà”, lập tức người ấy đứng dậy vác chõng mà đi trước mặt mọi người, khiến ai nấy đều sửng sốt và tôn vinh Thiên Chúa.
Chúa Giêsu đã thực hiện phép lạ để chứng minh Ngài có quyền tha tội, vì Ngài là Thiên Chúa. Như những người chống đối Chúa, ngày nay cũng có nhiều người không chấp nhận quyền tha tội của Chúa, quyền này đã được Chúa trao cho các Tông đồ, và qua các ngài cho Giáo Hội. Giáo Hội vẫn tiếp tục công việc tha tội trong Bí tích sám hối và hòa giải. Nhờ Bí tích này, tội nhân sau khi lãnh Bí tích rửa tội được ơn tha thứ và làm hòa với Thiên Chúa.
Từ ít lâu nay, có một cơn khủng hoảng đối với Bí tích giải tội: nhiều người không còn lãnh nhận Bí tích giải tội, không còn quí trọng ơn tha tội, vì đã đánh mất ý thức về tội lỗi: có thể họ cần được Thiên Chúa ban cho điều này điều nọ, nhưng không thấy cần được Thiên Chúa tha cho những tội đã phạm.
Trong câu mở đầu của chương hai, tác giả giới thiệu nơi chốn rõ ràng: ở thành Caphacnaum và trong nhà của Người (1). Caphacnaum là nơi Chúa Giêsu khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng. Căn nhà mà Người đang ở có thể là nhà Simon, Anrê. Nghĩa là trong chính căn nhà Giáo Hội, Thiên Chúa thực thi lòng thương xót và tha thứ.
Bao quanh Người là làn sóng dân chúng. Họ tụ tập đông đến nỗi chỗ nào cũng chật cứng người (2), để nghe lời Người giảng dạy. Có một kẻ bại liệt muốn được chữa lành phải nhờ đến sự trợ giúp của người khác. Anh ta nằm trên chõng và được đưa tới gần Chúa Giêsu bằng một lối đi hết sức ngoạn mục và đầy sáng kiến.
Vì dân chúng quá đông, len lỏi vào còn khó huống hồ khiêng một cái chõng nặng. Nhưng khó khăn ấy không làm chùn bước khao khát của họ. Tình yêu đầy sáng kiến. Họ liền dỡ mái nhà và thòng dây đưa cái chõng cùng kẻ bại liệt xuống ngay trước mặt Chúa Giêsu. Chúa Giêsu thấy rõ lòng tin và sự khao khát kiếm tìm Thiên Chúa của họ. Họ mong được Chúa giải thoát cho kẻ bại này khỏi sự trói buộc của bệnh tật. Chúa Giêsu – hiện thân của lòng thương xót Thiên Chúa – đã không những chữa lành căn bệnh bại liệt thể xác nơi bệnh nhân, mà còn chữa lành tâm linh cho anh nữa “Con đã được tha tội rồi” (5).
Có lẽ độc giả khá ngạc nhiên trước sự “lẩm cẩm” của Chúa Giêsu. Người ta đến xin chữa bệnh chứ đâu xin ơn sám hối. Nhưng ở đây, Chúa Giêsu tỏ hiện quyền năng của một Đấng Mêsia, một Vị Thiên Chúa với uy quyền tối cao. Các ông kinh sư rất nhạy bén về giáo lý này. Các ông nghĩ ngay rằng: “ Sao ông này dám nói phạm thượng, xúc phạm đến Thiên Chúa. Vì không ai có quyền tha tội, duy một mình Thiên Chúa?” (7).
Chúa Giêsu thấu hiểu lòng họ đang nghĩ gì, Người bảo họ: “Trong 2 điều, “con đã được tha tội rồi” và “đứng dậy, vác chõng mà về”, điều nào dễ hơn?”. Ở đây, Chúa đưa các kinh sư vào hai thái cực: một hành vi chữa lành tâm linh và một hành vi chữa trị thể xác của Người. Bất cứ ở thái cực nào, Người cũng có đủ quyền năng để thực hiện. Điều này chứng tỏ Người có uy quyền trên mạng sống và cả linh hồn con người nữa. Chúa Giêsu khẳng định: Vậy để các ông biết: ở dưới đất, Con Người có quyền tha tội.
Đến đây, Người mạc khải cho các kinh sư biết chính Người là Đấng Mêsia, Đấng phải đến để cứu dân thoát xiềng xích của ma quỷ và tội lỗi. Đấng đến để đưa con người vào hưởng hạnh phúc Thiên Chúa. Như vậy, thánh sử muốn chúng ta biết lòng thương xót của Thiên Chúa đối với con người toàn vẹn nơi anh bại liệt, mặc dù anh đến chữa bệnh không một lời hay cử chỉ van xin, mà chỉ do sự nhiệt tình của những người khiêng. Nhưng điều kỳ diệu hơn nữa của ơn tha thứ là: trước khi tha thứ cho anh, Chúa Giêsu đã khai mở ơn cứu độ cho các kinh sư, khi các ông nhận ra: chỉ có Thiên Chúa mới có quyền tha tội. Nhưng rất tiếc là sự hiểu biết ấy chỉ trên lý thuyết, các ông vẫn không mở lòng mở trí đón nhận ơn cứu độ, mặc dù họ biết: Chúa Giêsu đang thi hành sứ vụ của Đấng Mêsia. Người chính là Đấng Cứu Thế mà dân Do Thái đang mong chờ.
Ngược với thái độ cứng lòng, cố chấp của các kinh sư là tâm tình tôn vinh quyền năng và tình yêu Thiên Chúa mà dân chúng cảm nhận được “ chúng ta chưa thấy vậy bao giờ” (12). Họ trầm trồ thán phục, ngạc nhiên ngỡ ngàng trước tình yêu nhân hậu của Thiên Chúa được thể hiện qua con người Giêsu Nagiarét.
Lời Chúa hôm nay nhắc chúng ta biết rằng chỉ có Chúa mới có thể chữa lành cho một con người đã bị bệnh bại liệt từ lâu. Nhưng nếu như không có những người mang người bệnh đến để được Chúa chữa lành thì chắc là người bệnh sẽ không có cơ hội để khỏi bệnh. Chúa muốn chúng ta cũng phải cộng tác với Ngài để Ngài thực hiện những phép lạ. Như vậy, bổn phận của chúng ta là phải đưa mọi người đến với Chúa, nhất là những người mang bệnh tật trong tâm hồn, chúng ta có thể thực hiện việc này qua lời cầu nguyện, qua việc khích lệ, động viên để cùng nhau làm việc lành, xây dựng xã hội và cộng đoàn nên tốt đẹp…
Kế đến ta thấy rằng chỉ có Chúa Giêsu là Đấng Cứu Thế. Là Đấng Cứu Độ chúng ta, Ngài uy quyền và toàn năng, Ngài đến thế gian để giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, khỏi quyền lực sự dữ, nên chúng ta phải có tâm tình; hoàn toàn tin tưởng và tín thác vào Ngài và luôn chạy đến bên Ngài để được bảo vệ chở che.