2022
Bớt lăn tăn lại !
17.7. Chúa Nhật thứ Mười Sáu Mùa Quanh Năm
St 18:1-10; Tv 15:2-3,3-4,5; Cl 1:24-28; Lc 10:38-42
Bớt lăn tăn lại !
Chúng ta vẫn đang ở trong chuyến đi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã dừng lại tại một làng kia (hẳn là Bêtania?), để thăm gia đình những người bạn thân. Cô chủ Mácta đón Người vào và tất bật phục vụ. Còn cô em Maria thì cứ bình thản ngồi bên chân Đức Giêsu mà nghe Người giảng dạy. Theo truyền thống của các kinh sư, chỉ phái nam mới được ban cho những lời giảng dạy và những huấn thị; các phụ nữ bị loại ra bên ngoài. Nhưng Chúa Giêsu nhìn nhận các phụ nữ có cùng một phẩm giá như phái nam, nên Người ngỏ lời cả với phụ nữ. Ở đây tác giả đã không ngần ngại mô tả một người nữ như là môn đệ ngồi bên chân Chúa Giêsu. Thái độ của Chúa Giêsu khiến chúng ta nhớ đến Cn 31,26.
Bấy giờ Mácta mới lên tiếng nhận định về Maria và về bản thân mình. Lời trách của cô có lý, vì hoàn cảnh quá rõ: một người khách quí vừa đến nhà. Phải làm mọi sự để đón tiếp người ấy cho chu đáo; thật ra còn cả đoàn môn đệ của Chúa Giêsu nữa! Nhà chỉ có hai chị em; thế mà Maria cứ để cho chị phải xoay sở một mình. Mácta có lý khi yêu cầu em giúp mình.
Mácta có lý, nếu vấn đề là phải tiếp đãi người khách cho tươm tất. Nhưng nhận định của Chúa Giêsu khiến chúng ta phải tự hỏi: vấn đề phải chăng là như thế? Người khách phải chăng chỉ muốn được tiếp đãi ân cần chu đáo? Đối với Người, điều gì quan trọng nhất? Những câu hỏi này, Mácta không hề đặt ra cho mình. Ngay từ đầu, hầu như là do thói quen, cô tưởng là mình biết tình thế cần cái gì. Không hề tự hỏi là người khách thật sự muốn gì, cô áp đặt cho người khách ấy điều cô nghĩ là hợp lý hơn, cần thiết hơn, vào lúc này. Chắc chắn Mácta có hảo ý. Nhưng cô không mấy quan tâm đến các sở thích và ý hướng của người khách. Chúa Giêsu giúp cô hiểu rằng trước tiên Người không muốn được đón tiếp, nhưng muốn một điều quan trọng hơn nhiều.
Maria lắng nghe Ngài. Đây là điều duy nhất cần thiết và là điều luôn luôn đúng: lắng nghe Chúa. Đức Giêsu đến nhà Mácta và Maria trước hết không phải để được đón tiếp, nhưng là để được lắng nghe. Với tất cả thiện chí, Mácta đã sao nhãng ý muốn này của Chúa Giêsu. Chỉ có Maria là đã gắn bó với điều Chúa Giêsu muốn. Trước hết, Người muốn cống hiến, chứ không muốn đón nhận. Trước hết, Người không muốn có một sinh hoạt chuyên chăm cần cù, qua đó người ta chứng tỏ người ta luôn biết điều gì là đúng và điều gì phải làm; nhưng Người muốn người ta suy nghĩ và ở yên để lắng nghe, suy tư và để cho Đấng khác nói với mình điều thật sự quan trọng và điều thật sự mình phải làm.
Vậy quả thật Chúa Giêsu không đánh giá thấp sự “phục vụ” mà Mácta đem lại khi bận rộn với việc “nội trợ và bếp núc”. Nhưng để “đi theo Chúa Giêsu” thì ngay cả những gì có giá trị nhân bản nhất cũng phải buông bỏ (Lc 5,11-18,22-9,61). Hãy lắng nghe Lời Chúa! Đó là bổn phận đầu tiên của con người, của Kitô hữu. Chúa Giêsu nói đó là sự cần thiết duy nhất, tuyệt đối, triệt để. Và đây không phải là lần đầu tiên cũng không phải là lần cuối cùng mà Chúa Giêsu khẳng định điều đó. Không lắng nghe Lời chính là xây dựng nhà mình trên cát (Lc 6,47-49). Lắng nghe Lời chính là trở thành mảnh đất trổ sinh hoa trái (Lc 8,4-15). Hạnh phúc chân thật và duy nhất của Đức Maria, Mẹ Chúa Giêsu không phải vì Mẹ là Mẹ Người, mà vì Mẹ đã “’lắng nghe Lời Thiên Chúa và đem ra thực hành” (Lc 1 1,27-28).
Như vậy, qua hình ảnh, thái độ của Maria, và nhất là được nghe lời chúc phúc của Chúa Giêsu cho cô, mỗi người chúng ta hãy yêu mến Lời Chúa, chăm chỉ đọc Thánh Kinh, và nhất là đem Lời Chúa ra thực hành. Đây chính là điều cao trọng nhất để ta thể hiện lòng yêu mến Chúa trọn vẹn. Yêu mến Chúa mà không giữ Lời Chúa thì là người giữ đạo hình thức; giữ Lời Chúa như một luật lệ cứng ngắc, thậm chí chỉ giữ trong nhà thờ mà thôi. Nếu đời sống đạo của chúng ta đúng như vậy, thì chẳng khác gì người mang danh và đeo cái mác Công giáo, chứ thực ra không phải là người mang đạo trong mình.
Nhưng để nghe được tiếng Chúa muốn gì nơi chúng ta, chúng ta cần phải loại bỏ một số thứ không cần thiết, và phải kết hợp với Chúa trong thinh lặng nội tâm thực sự. Làm được như thế, tâm hồn chúng ta hoàn toàn thuộc về Chúa và để chúng ta dễ nhận ra tiếng Chúa trong Thánh Kinh, cuộc sống và qua lương tâm.
Trong mọi thời, Giáo Hội luôn mời gọi con cái của mình hãy siêng năng đọc Thánh Kinh, suy gẫm và đem ra thực hành cách sống động trong gia đình, lối xóm, giáo xứ và bất cứ môi trường nào… Thế nhưng, vì quen lối sống đạo xưa kia, nên chúng ta nhiều khi chỉ thuộc kinh và không mấy coi trọng Thánh Kinh. Khi nói như thế, chúng ta không có ý phủ nhận lối sống đạo bình dân của cha ông, vì trên thực tế, đời sống đạo truyền thống này đã sản sinh cho Giáo hội Việt Nam nhiều chứng nhân anh dũng và chúng ta ngày hôm nay được kế thừa niềm tin cũng nhờ cung cách sống đạo bình dân đó.
Tuy nhiên, chúng ta quên mất rằng, mọi lời giáo huấn, truyền thống của Giáo Hội, mọi lời kinh từ bao thế hệ đều được khởi đi và suy tư từ Thánh Kinh mà ra. Nếu chúng ta am tường và hiểu biết Thánh Kinh càng nhiều, thì đời sống đạo của chúng ta càng sống động. Thật thế, Thánh Giêrônimô đã nói: “Không biết Thánh Kinh là không biết Chúa Kitô.”
Vì thế, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã gợi lên cho chúng ta cách tiếp cận cụ thể với Thánh Kinh như sau: “Yêu mến Thánh Kinh không chỉ thể hiện qua việc phổ biến sách Thánh Kinh, mà còn là siêng năng đọc Lời Chúa trong đời sống và cho đời sống cụ thể của mình. Nói cách khác, đọc Lời Chúa không những để hiểu về Chúa mà còn để tìm hướng đi cho cuộc đời.” (Thư Chung 1980, số 8).
Mong thay, mỗi chúng ta biết chọn sao cho trọn. Chọn điều tốt sẽ dẫn đến kết quả tốt. chọn điều xấu ắt sẽ xấu. Nhưng trong tất cả mọi sự chọn lựa, Lời Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống là làm cho Chúa được hiện tại hóa trong lời nói, cử chỉ, hành động của mỗi chúng ta. Có thế, Lời Chúa mới thực sự bén rễ sâu và sinh hoa kết quả trong đời sống đạo của chúng ta.
Ước gì Lời Chúa khen ngợi cô Maria khi xưa vì đã biết chọn phần tốt nhất cũng là lời tác phúc cho mỗi chúng ta khi chúng ta thành tâm đi tìm kiếm Chúa và yêu mến Chúa bằng việc lắng nghe và đem ra thực hành Lời ấy trong cuộc sống.
2022
Ai thân cận ai ?
10.7 Chúa Nhật thứ Mười Lăm Mùa Quanh Năm
Đnl 30:10-14; Tv 69:14-17,30-31,33-34,36-37; Tv 19:8,9,10,11; Cl 1:15-20; Lc 10:25-37
Ai thân cận ai ?
Trong thế giới luật pháp có ‘luật người Samari nhân hậu’, luật này yêu cầu bảo vệ hợp pháp với những ai giúp đỡ chính đáng cho người khác khi người đó bị thương tích, đau yếu hoặc trong những tình cảnh hiểm nghèo. Luật người Samari nhân hậu này nhằm khuyến khích người khác trợ giúp những ai lâm cảnh hoạn nạn
Theo quan niệm người Do thái, thì: “Thân cận” là người có quan hệ tự nhiên gần gũi với mình như: cùng dân tộc, cùng gia đình, cùng thành phần giai cấp… còn đối với Chúa Giêsu, thì thân cận là người hiện lúc này đang cần đến tình yêu thương và sự giúp đỡ của ta. Nạn nhân bị quân cướp trấn lột, là người Do thái. Thấy anh nằm vệ đường, người Samari có thể bảo mình: đây là người ngoại quốc, tôi không biết hay đây là một kẻ thù, không đáng giúp đỡ. Nhưng ngược lại, người Samari đã động lòng thương xót, tiến lại gần, không phải để hỏi han qua loa, nhưng người ấy lại nhận lấy trách nhiệm giúp đỡ nạn nhân cho đến khi họ không cần thiết nữa.
Người thông luật trong Tin Mừng hôm nay hỏi Chúa Giêsu: “Ai là người thân cận của tôi?” Thay vì trả lời, Chúa Giêsu đã kể dụ ngôn người Samari tốt lành: Một khách bộ hành đi từ Giêrusalem xuống Giêricô, bị bọn cướp đánh nhừ tử, trấn lột, rồi bỏ nằm nửa sống nửa chết bên lề đường. Trong khi hai thầy tư tế và Lê vi “tránh qua bên kia mà đi”, thì người Samari ngoại đạo lại dừng chân, băng bó vết thương, đem nạn nhân về nhà trọ săn sóc.
Người Luật sĩ đã hỏi Chúa Giêsu đâu là người thân cận của ông ta, và Ngài đã trả lời cho ông thấy người thân cận chính là anh em của mình, và phải yêu thương họ như chính mình. Qua câu nói đó, Ngài muốn chúng ta đi xa hơn để vượt ra khỏi ranh giới chủng tộc, quốc gia, giai cấp, địa vị để yêu thương bằng một tình yêu vị tha thay thế cho vị ngã. Người Samaritanô đã chạnh lòng thương đến người bị nạn, ông đã coi nỗi đau khổ của người bị nạn chính là nỗi đau của ông, nên ông cảm thấy trách nhiệm và cần phải giúp đỡ người bị nạn. Tình thương đã khiến cho ông gần tha nhân hơn là những rào cản tôn giáo, dân tộc.
Chúa Giêsu hỏi lại người thông luật: “Vậy ai là người thân cận của kẻ bị cướp?”. Hỏi tức là trả lời. Và người thông luật đáp: “Chính là kẻ đã thực thi lòng thương xót”. Chúa Giêsu bảo: “Ông hãy đi, và cũng hãy làm như vậy” (Lc 10, 37).
Người Samaria là một anh chàng không có đạo, mà không có đạo cũng đồng nghĩa với không thể sống bác ái lương thiện. Quan niệm Do Thái hẹp hòi và thiển cận ấy, như một mẫu mực để những ai muốn có cuộc sống đời đời phải nhìn đó mà noi theo. Người Samaria ngoại đạo đã trổi vượt hơn những người chính thống, đạo đức nhất của xã hội và Giáo Hội lúc bấy giờ là thầy Lêvi và vị tư tế. Trổi vượt trong lãnh vực yêu thương, cứu giúp những người gặp vận nạn hiểm nguy trong cuộc sống.
Thầy tư tế chuyên lo việc đền thờ, nhưng đền thờ đích thực nơi con người, những thụ tạo được Chúa dựng nên giống hỉnh ảnh Ngài, thì ông ta lại không màng. Cũng vậy, các thầy Lêvi thường hay đeo bảng khắc lề luật ở trước ngực, nhưng luật của tình yêu thì ông lại nhẫn tâm dẫm đạp, để mặc người bị nạn nằm đó chờ chết. Còn người Samaritanô ngoại giáo thì khác. Anh ta không biết chút gì về lề luật trên lý thuyết, nhưng trong thực hành, ông lại quá tuyệt vời.
Sự ích kỷ và vô tâm nơi mỗi người, thường xuất phát từ thái độ tự mãn mà chúng ta vẫn hay có. Trong Tin mừng Matthêu chương 18, Chúa nặng lời chỉ trích thái độ trịch thượng, khoe khoang của những người biệt phái và ký lục giả hình. Họ là những con người bề ngoài xem ra rất đạo đức nhưng trong lòng thì rống tuếch, chẳng khác gì mồ mả sơn phết bên ngoài.
Cũng thế, hai ‘đấng bậc’ mà Chúa nhắc đến hôm nay, Thầy tư tế và Thầy Lêvi, đã hoàn toàn tỏ ra vô cảm trước nỗi đau của đồng loại. Họ vẫn tự cho mình là những người đạo đức, không dám sờ chạm đến xác chết vì sợ bị nhiễm uế. Nhưng sự vô cảm và ích kỷ lại chính là tình trạng nhiễm uế ghê tởm nhất từ chính bên trong tâm hồn của họ. Chúng ta cũng dễ rơi vào tình trạng giống vậy. Ông Wilberforce, một nhà tu đức đã nói: “Chắp tay lại để cầu nguyện thì rất tốt, nhưng biết mở tay ra để đến với anh em, nhất là những con người cùng khổ, thì vẫn tốt hơn.”
Đối với Chúa Giêsu, dựa trên tinh thần đạo đức siêu nhiên, Ngài đã bổ túc luật cũ, lấy tiêu chuẩn hành động là Thiên Chúa; “Đây là điều răn của Thầy: ” Các con hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương các con” (Ga 15, 12; 13, 34). Công Đồng Vaticanô II trong Hiến Chế Lumen Gentium đoạn 40 cũng nhắc nhở: “Bởi vậy, Người đã sai Thánh Thần đến với mọi người, để từ bên trong Ngài thôi thúc họ yêu mến Thiên Chúa hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn cùng hết sức họ (Mc 12,30) và yêu thương nhau như Chúa Kitô yêu thương họ” (Ga 15, 12; 13, 34)
Khi đề cao người Samaria, Chúa Giêsu muốn chúng ta cũng phải là những người chăm sóc. Con đường Giêrusalem tới Giêricô chính là đường đời, trên đó không thiếu những người bất hạnh cần được chăm sóc. Mỗi người cũng được Chúa ban có nhiều khả năng chăm sóc: một lời an ủi động viên, một cử chỉ thân ái, một giúp đỡ thiết thực chính là chút rượu và chút dầu xoa dịu những thương đau cho người anh em mình đang gặp đau khổ.
Là người Kitô hữu, chúng ta mắc một món nợ, tức là nợ yêu thương đối với bất kỳ ai đang cần được giúp đỡ. Có người ở ngay sát nhà ta, nhưng họ không cần ta giúp đỡ, nên chưa phải là người thân cận ta, nhưng nếu người xa lạ gặp ta và cần sự giúp đỡ mà ta có khả năng đem lại cho họ, thì khi đó họ trở nên người thân cận của ta. Người đó cần tình yêu thương của ta. Tình yêu thương ấy ta phải thi hành đúng lúc, hữu hiệu và vô vị lợi.
Mỗi người hãy nhìn lại, là thành viên của gia đình, cộng đoàn, nhóm tông đồ… nhưng chúng ta có thấu hiểu, cảm thông, chia sẻ nỗi niềm đau đớn tinh thần cũng như thể xác của người thân trong gia đình, của cộng đoàn, của nhóm mình hay không? Hay chúng ta vẫn vô tâm trước những đau khổ của người khác? Hay chúng ta thay vì xoa dịu lại còn gây thêm đau khổ cho người khác?
Hành động bác ái còn có tác dụng rất lớn trong việc truyền giáo. Tôi biết được nhiều người trở lại đạo vì họ cảm kích việc bác ái của người Công Giáo. Chẳng hạn như ở họ đạo mà tôi đang phục vụ, có nhiều người Công Giáo sống xa nhà thờ, xen lẫn với bà con lương dân, khi các gia đình Công Giáo hay các gia đình lương dân nầy có tang chế, những người giáo dân trong họ đạo không quản ngại xa xôi, hao tốn đến giúp về tinh thần lẫn vật chất… những việc làm như thế rất đánh động bà con lương dân và sau đó thường có những người xin học đạo. Như thế hành vi bác ái không những chứng tỏ chúng ta là môn đệ thật của Chúa Giêsu, mà còn có thể qua đó giúp tha nhân đến với Chúa nữa.
Mến Chúa và yêu người không thể tách rời nhau. Thật vậy, yêu thương giúp đỡ người khác mà thiếu lòng yêu mến Chúa thì việc làm đó khó bền vững và thường dẫn tới tự cao tự mãn. Yêu thương giúp đỡ người khác như là dấu chỉ của lòng yêu mến Chúa, như thánh Giacôbê đã từng dạy rằng: đức tin không có việc làm là đức tin chết. Hay như mẹ Têrêsa đã nói: hoa trái của đức tin là bác ái, hoa trái của bác ái là phục vụ, hoa trái của phục vụ là bình an.
2022
Loan báo Tin Mừng
3.7 Chúa Nhật thứ Mười Bốn Mùa Quanh Năm
Is 66:10-14; Tv 66:1-3,4-5,6-7,16-20; Gl 6:14-18; Lc 10:1-12,17-20; Lc 10:1-9
Loan báo Tin Mừng
Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống trần gian để thực thi sứ vụ loan báo về Nước Trời và mời gọi mọi người tin để được cứu độ. Vì thế, đây chính là mối bận tâm hàng đầu của Ngài. Mối ưu tư đó được thể hiện rất rõ qua bài Tin Mừng hôm nay, khi thầy trò đang đi qua cánh đồng; “tức cảnh sinh tình”, Ngài nhìn các môn đệ và chỉ ra đồng lúa đã chín vàng rồi cất tiếng nói: “Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít. Vậy các con hãy xin chủ ruộng sai thợ gặt lúa về.” (Lc 10,2). Ngay sau đó, Chúa Giêsu đã sai 72 môn đệ đi rao giảng Tin Mừng.
Chúa Giêsu lập Nhóm Mười Hai. Ngài cho các ông sống bên cạnh mình. Ngài trực tiếp huấn luyện bằng cách cho các ông được nghe những lời Ngài giảng, được xem những việc Ngài làm. Sau đó, Ngài sai các Tông đồ ra đi thực tập truyền giáo. Chúa Giêsu còn chọn thêm nhiều môn đệ nữa. Tin Mừng hôm nay cho thấy 72 môn đệ được sai phái thêm sau chuyến sai đi Nhóm Mười Hai (Lc 9,1-6) vì “Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Lc 10,2). Thánh Luca muốn nhấn mạnh rằng, không riêng gì các Tông đồ, mà tất cả mọi người đều được Chúa Giêsu sai đi rao giảng Tin Mừng. Hai động từ “gọi, sai đi” diễn tả rõ rệt ơn gọi của các môn đệ.
Sứ vụ loan báo Tin mừng là bản chất của Giáo hội. Vì thế, Giáo hội không ngừng kêu gọi mọi người hãy nhiệt tâm ra đi rao giảng lời Chúa, đem Chúa đến những nơi chưa biết Tin mừng. Chúng ta là những đoàn chiên của Giáo hội, vì thế, sứ vụ này cũng là bổn phận và trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu chúng ta.
Mệnh lệnh sai đi loan báo Tin Mừng của Chúa đối với các môn đệ năm xưa không mất đi nhưng vẫn còn vang vọng, kêu gọi khẩn thiết đối với Giáo hội, với mọi người kitô hữu chúng con trong thời đại hôm nay. Người muốn mỗi người chúng con mang Tin Mừng đến khắp mọi nơi như năm xưa người đã nói với các môn đệ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 5).
Quả thực, sứ vụ loan báo Tin Mừng là bản chất của Giáo hội. Sứ vụ này không chỉ dành riêng cho những tu sĩ, linh mục mà cho tất cả mọi người chúng con. Bởi vì, khi lãnh nhận bí tích Rửa tội, chúng con đã được tham dự vào đoàn dân riêng của Chúa, chúng con mang vào mình sứ vụ ngôn sứ là loan báo Tin Mừng cứu độ cho mọi người. Vì thế, mỗi người chúng con đều có bổn phận loan báo Tin Mừng tùy theo chức phận của mình trong Giáo Hội.
Bổn phận loan báo Tin Mừng cũng được Đức Cố Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trình bày trong cuốn sách “Nói với bạn trẻ hôm nay” như sau: “Toàn thể hội thánh đón nhận lệnh truyền của Đức Kitô: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 5). Vậy tất cả hội thánh có tính thừa sai và phúc âm hóa, sống trong một tình trạng truyền giáo liên lỉ. Làm Kitô hữu nghĩa là làm những người thừa sai tông đồ, khám phá ra Đức Kitô chưa đủ, phải mang Người đến cho người khác nữa!”.
Khi sai 72 môn đệ đi loan báo Tin Mừng, Chúa Giêsu muốn cho mỗi người chúng ta được tham dự vào sứ mạng ngôn sứ phổ quát của Ngài. Sứ mạng ấy được khởi đi từ lệnh truyền của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo.” (Mc 16,15). Từ đó, chúng ta xác định căn tính truyền giáo thuộc về chúng ta. Bao lâu chúng ta không truyền giáo, thì bấy lâu ta đánh mất bản chất của mình. Nói như Thánh Phaolô: “Khốn thân tôi, nếu tôi không loan báo Tin Mừng.” (1 Cr 9,16). Nỗi lòng thao thức của Chúa Giêsu – “lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít…” – phải là lời chất vấn lương tâm mỗi chúng ta. Là Kitô hữu, chúng ta cùng đồng lòng và cảm nghiệm với Chúa Giêsu trước những cánh đồng bao la đang độ chín vàng… Tham gia vào sứ mạng truyền giáo là chúng ta đang đóng góp cho Giáo Hội những viên gạch, hạt cát để xây nên tòa nhà Giáo Hội, nơi đó là niềm vui, hạnh phúc và bình an.
Sứ vụ loan báo Tin mừng không phải là việc của một cá nhân riêng lẻ, mà là việc của cộng đoàn, không phải là độc quyền của riêng ai, nhưng phải liên đới và liên kết với nhiều người khác. Khi sai đi “từng hai người một”, Chúa Giêsu mong các môn đệ hợp tác và liên đới với nhau, khích lệ và bàn hỏi nhau khi gặp khó khăn “Hai người có giá trị hơn một, nếu họ ngã, người này đỡ người kia dậy” (Gv 4,9). Hai người làm việc chung, nâng đỡ nhau biểu lộ tình yêu thương nhau như một dấu chỉ đặc trưng của môn đệ của Chúa (Ga 13,35). Dấu chỉ này là một chứng từ sống động và lôi cuốn người khác.
Vậy để loan báo Tin Mừng thuyết phục, người Kitô hữu phải sống thế nào cho cuộc đời mình trở thành đáng tin. Đới sống đáng tin thì tự nhiên lời nói cũng đáng tin. Làm tông đồ, rao giảng Phúc Âm đặc biệt thích hợp cho ngày nay là làm cho đời sống Kitô hữu đáng tin. Như vậy toàn bộ cuộc sống ta đều phải “làm chứng”: lời ăn tiếng nói, cách cư xử, giao tiếp, trong gia đình, ngoài xã hội, khi làm việc, khi vui chơi giải trí…
Đối với người có ý thức truyền giáo thì nhất nhất việc gì, khía cạnh nào của đời sống họ cũng có thể là lời loan báo. Lời trách nặng nề nhất của người chưa biết Chúa đối với tín hữu Công giáo có lẽ là: Người Công giáo các anh (các chị) không mấy đáng tin; các anh (các chị) nói một đường làm một nẻo. Đức tin, giáo lý nghe thì thật hay nhưng không thấy đem lại cho xã hội một cái gì thật sự tốt đẹp và mới mẻ. Lời phê bình đó có lẽ là quá đáng nhưng thiết tưởng ta chẳng cần cãi lý làm gì, hãy coi đó như một lời nhắc nhở để chúng ta nhìn lại cuộc sống “chứng tá” của mình. Xã hội này đang suy thoái trầm trọng về đạo đức: tham nhũng, thối nát, dối trá, bất công, xì ke ma túy, sa đoạ… Ta có còn là men, là muối, là ánh sáng nữa không?
2022
TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU
Chúa Nhật thứ Mười Ba Mùa Quanh Năm
1 V 19:16,19-21; Tv 16:1-2-5,7-8,9-10,11; Gl 5:1,13-18; Lc 9:51-62
TRỞ NÊN MÔN ĐỆ CHÚA GIÊSU
Chúa Giêsu ngày xưa cũng có một sức hút ghê gớm đối với người dân. Bao quanh Người có lúc là một đám đông không đếm nổi, có khi là một bữa ăn tối với hơn năm ngàn người đàn ông. Người ta theo Chúa vì phong cách gần gũi của Ngài, những bài giảng nảy lửa như một nhà lãnh đạo, những lời mời gọi như một nhà cách mạng. Nhiều người trẻ ngày xưa nhìn Chúa Giêsu như một thần tượng hấp dẫn, một biểu tượng của sự tự do, một nhà cải cách xã hội. Vì thế, có nhiều người trẻ say mê bước theo Chúa Giêsu.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu không lợi dụng sự nhiệt tình của người dân. Ngài không tạo cho họ những ảo tưởng, không hứa hẹn một cuộc cách mạng xã hội, sứ mạng của Ngài hoàn toàn khác với những gì dân chúng đang nghĩ về Ngài. Con đường của Chúa Giêsu là con đường yêu thương chứ không phải là bạo lực. Sứ mạng của Ngài là giải thoát và cứu độ con người khỏi nguyên nhân gây ra đau khổ, là ma quỷ và tội lỗi, đem lại cho con người tự do. Vì thế, những ai tin theo và muốn trở nên môn đệ của Ngài cũng sẽ phải đi cùng một con đường với Ngài.
Tin Mừng cho thấy, gần tới ngày Đức Giêsu được rước lên trời, Ngài nhất quyết đi lên Giêrusalem. Tại đó, Chúa Giêsu đã chấp nhận bước vào cuộc hành trình thập giá vì yêu thương con người. Khi nói Chúa Giêsu nhất quyết đi lên Giêrusalem, tức là Ngài ý thức rõ ràng về cuộc khổ hình thập giá phía trước mà Ngài sẽ trải qua bắt đầu từ Galilêa, ngang qua Samaria và lên đến đỉnh cao là Giêrusalem..
Tuy nhiên, khi Ngài đi ngang qua Samaria, dân làng tỏ ra không quan tâm, không nuốn đón tiếp Ngài, họ công khai từ chối Chúa. Giacôbê và Gioan đã nổi giận vì thấy Thầy mình bị từ chối. Các ông cứ tưởng rằng các ông theo Chúa thì mọi người sẽ kính nể, sẽ tôn trọng các ông. Tính tự ái nổi lên, các ông thưa : Thưa Thầy, thầy có muốn chúng con khiến lửa từ trời xuống thiêu hủy chúng nó không ? Các ông đã muốn mượn danh Chúa để thị uy, muốn nhân danh Chúa để làm điều ác. Chúa Giêsu đã không đồng ý với suy nghĩ và hành động của các ông. Ngài quay lại quở mắng các ông vì lời đề nghị và sự nóng nảy đó. Rồi Thầy trò đi sang làng khác. Đó là cách trả lời của Chúa Giêsu.
Liền sau đó, có kẻ chủ động đến xin với Chúa : Thưa Thầy, Thầy đi đâu tôi cũng xin theo Thầy. Chúa Giêsu trả lời : Con chồn có hang, chim trời có tổ, nhưng Con Người không có nơi gối đầu. Câu trả lời cho thấy, việc theo Chúa không thể là quyết định bồng bột, cũng không phải là sự thúc đẩy bởi ảo tưởng như theo một thần tượng, theo Chúa không phải để tìm kiếm một chỗ dựa kinh tế hoặc tìm kiếm một vị trí quyền lực. Nhưng, để làm môn đệ của Chúa phải chấp nhận từ bỏ, thoát khỏi ràng buộc của vật chất và những cám dỗ của trần gian. Theo Chúa là dám bước đi trong vô định, dám đặt trọn tương lai trong bàn tay của Chúa, không có sự tính toán thiệt hơn theo thói đời nữa.
Kế đến là một người khác được Đức Giêsu mời gọi: Anh hãy theo tôi. Chắc hẳn người này đã có một đời sống thích hợp, nên Đức Giêsu đã ngỏ lời với anh. Tuy nhiên, anh đã không quảng đại đủ. Anh thưa: Xin cho tôi về chôn cất cha tôi trước đã. Một lời xin xem ra thật chính đáng, nhưng Chúa Giêsu đã trả lời anh: Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh hãy đi loan báo Nước Thiên Chúa. Trả lời như thế, Chúa Giêsu cho thấy việc loan báo Tin Mừng sự sống thì quan trọng hơn sự chết, việc đáp trả lời mời gọi của Chúa phải là quyết định dứt khoát, không thể nấn ná.
Người tiếp theo được gọi đã đưa ra một lý do: Tôi sẽ theo Thầy, nhưng xin cho tôi về từ biệt gia đình trước đã. Chúa trả lời: Ai cầm cày mà còn ngó lại đàng sau thì không xứng đáng với Nước Thiên Chúa. Chúa không phủ nhận tình cảm gia đình, Chúa cũng không từ chối bổn phận thảo hiếu làm con, nhưng Chúa cho thấy sự cấp bách của lời mời gọi. Việc chọn theo Chúa Giêsu, đáp trả lời mời gọi làm môn đệ và là người loan báo Nước Trời phải là ưu tiên trên mọi ưu tiên, không vì bất cứ lý do gì có thể trì hoãn sứ mạng này. Theo Chúa là một quyết định dứt khoát không tiếc nuối để có thể bước vào cùng một hành trình với Chúa.
“Anh hãy theo tôi! Người ấy thưa: Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã. Đức Giêsu bảo: Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết của họ. Còn anh, anh hãy đi loan báo Triều Đại Thiên Chúa” (Lc 9,60-61).
Lần này chính Chúa mời gọi anh theo Người, nhưng anh ta lại xin phép về chôn cất cha mình đã. Chúa bảo: hãy để kẻ chết chôn kẻ chết. Ở đây, Chúa Giêsu không có ý nói rằng chữ hiếu đối với cha mẹ là không quan trọng và đi theo Chúa là hết bổn phận thảo hiếu cha mẹ. Nhưng ai muốn làm môn đệ Chúa phải biết ưu tiên tìm kiếm Nước Trời, chọn Chúa là trên hết, và không được do dự.
Chúng ta không thể đi theo Chúa nếu cứ chờ cho đến khi cha mình qua đời rồi mới theo. Theo Chúa phải biết đặt lại trật tự giá trị: Chúa là trên hết, là ưu tiên hàng đầu, vì Chúa và vì Nước Trời, còn mọi thứ khác là thứ yếu. Muốn theo Chúa phải biết hy sinh những thứ khác để chọn Chúa và lời mời gọi của Người. Ai chần chừ thì không thể theo Chúa được. Đây là trường hợp cần có sự đáp trả của con người đúng thời điểm Chúa gọi. Ai muốn theo Chúa phải biết nắm bắt cơ hội Chúa trao và đáp trả cách dứt khoát, không do dự, không chần chừ.
Chúa Giêsu đã đưa ra hai con đường và mời gọi mỗi người chúng ta lựa chọn (“đường rộng” và “đường hẹp”). Sống cho gia đình và thân nhân, hay là sống sứ vụ tông đồ để loan báo Tin mừng? Đứng trước lời mời gọi ấy của Đức Giêsu, anh thanh niên rất thông minh và lanh lẹ muốn chọn cả hai nên đã vội vàng “mặc cả” với Chúa rằng: “Thưa Thầy, xin cho phép tôi về chôn cất cha tôi trước đã” (Lc 9, 59).
Thực sự thì mong muốn của anh ta là rất tốt, về chôn cất cha và chu toàn việc gia đình trước đã rồi sau đó sẽ chọn sứ vụ tông đồ. Nhưng Đức Kitô đã trả lời anh ta một cách dứt khoát và mạnh mẽ rằng: “Cứ để kẻ chết chôn kẻ chết. Còn anh, anh hãy đi loan báo triều đại nước Thiên Chúa” (Lc 9, 60). Không dễ chút nào khi chúng ta rơi vào thế phải chọn một và từ bỏ một.
Và cũng chẳng dễ chút nào cho chúng ta nhận biết cái nào là quạn trong nhất và cái nào là phụ thuộc để mà lựa và chọn. Chúa Giêsu cũng đã quả quyết mạnh mẽ với các môn đệ rằng: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đằng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa” (Lc 9, 62). Đây là một xác quyết mạnh mẽ và là một đòi hỏi triệt để đối với người môn đệ Chúa: phải chọn lựa một cách cương quyết và dứt khoát. Thực ra, điều này không có nghĩa rằng Đức Kitô đòi buộc ta phải phải từ bỏ gia đình và sự thảo kính cha mẹ khi theo Chúa, nhưng Ngài muốn dạy ta phải đặt trọng tâm vào ưu tiên chính và phải dứt khoát trong sự chọn lựa.Lời mời gọi bước theo Chúa là lời mời gọi gỡ bỏ mọi thứ ràng buộc, dù là những ràng buộc chính đáng nhất để có thể sống hoàn toàn tự do thanh thoát.
Thực tế, chúng ta đang bị biết bao lực cản và trói buộc khiến chúng ta không thể bước theo con đường của Đức Giêsu. Ràng buộc đó có thể là những lo toan của cuộc sống, của cơm ăn áo mặc, công ăn việc làm khiến chúng ta không còn thời giờ và cũng không còn chỗ cho Chúa trong tâm hồn. Có những người để cho các mối quan hệ xã hội, bạn hữu ràng buộc khiến họ bỏ quên gia đình, và quên việc sống theo Tin Mừng.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta biết những điều kiện căn bản để theo Chúa Giêsu, đó là sống khó nghèo, phải dứt khoát theo Chúa và biết từ bỏ những quyến luyến ràng buộc.