2022
Xin Chúa thêm lòng tin
24.4 Chúa Nhật Thứ Hai Mùa Phục Sinh – Kính Lòng Thương Xót Chúa
Cv 5:12-16; Tv 118:2-4,13-15,22-24; Kh 1:9-11,12-13,17-19; Ga 20:19-31
Xin Chúa thêm lòng tin
Chúa Giêsu phục sinh cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Ngài sẽ mãi mãi mang dấu tích của cuộc khổ nạn.
Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa, vì được Ngài cho tham dự vào cùng một sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em.”
Chỉ có một người không vui, đó là ông Tôma. Ông này vốn có óc thực tiễn (Ga 11,16; 14,5). Chẳng rõ vì sao ông hụt gặp Chúa Giêsu phục sinh. Chỉ biết ông đã “không ở với” các môn đệ, lúc Ngài đến. Có vẻ giữa ông và cả nhóm có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn, khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn: “Chúng tôi đã thấy Chúa.” Nhưng ông lại rất tin vào chính mình, vào giác quan. “Nếu tôi không thấy… nếu tôi không xỏ ngón tay… nếu tôi không thọc bàn tay… tôi sẽ chẳng tin đâu.” Ông có thái độ như một nhà khoa học thực nghiệm.
Chúa Giêsu phục sinh đến với nhóm, nhưng không quên một ai. Ngài muốn cho Tôma được toại nguyện.
Tuần sau, khi Tôma ở với nhóm, thì Ngài hiện đến. Ngài chê ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em, nhưng Ngài vẫn thoả mãn từng điều ông đòi hỏi. Rốt cuộc Tôma cũng được thấy và tin như anh em.
Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy và đã tin, đã dám hy sinh mạng sống để nói rằng Ngài sống lại.
Ngay từ khởi đầu đoạn Phúc Âm, chúng ta được nhắc lại việc Chúa Giêsu hiện ra cho các tông đồ nhưng lại vắng mặt Tôma, và trong lần hiện ra này, Chúa đã ban cho các tông đồ sự bình an: “Bình an cho các con”.
Sự bình an này làm cho các tông đồ thực sự được vui mừng. Các tông đồ được vui vì thấy Chúa, rồi Chúa trao ban cho các tông đồ Chúa Thánh Thần, quyền năng tha tội và sai các ông ra đi làm chứng cho Chúa. Các tông đồ có thể nói được trong giai đoạn này – trong phần thứ nhất của đoạn Tin Mừng hôm nay – đã tin phần nào và đã chia sẻ cho Tôma: “Chúng tôi đã xem thấy Chúa”, nhưng Tôma không tin và đòi kiểm chứng một cách cụ thể. Có thể nói, đây là giai đoạn thứ hai của cộng đoàn. Thái độ cứng lòng tin của Tôma đã gây chia rẽ hay làm yếu kém đi sức mạnh làm chứng của cộng đoàn cho Chúa Phục Sinh. Một cộng đoàn chia rẽ như vậy thì chắc chắn không thể nào có sự bình an, không thể nào có niềm vui để làm chứng cho Chúa Phục Sinh.
Sự vắng mặt, sự cứng lòng tin của Tôma, thái độ của Tôma, tất cả những điều đó đã góp phần hay ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Sự vắng mặt của chúng ta, sự cứng lòng tin của mỗi người chúng ta hay thái độ của chúng ta đối với Chúa Giêsu cũng như đối với anh chị em, thái độ đó cũng có ảnh hưởng trên sự hiệp nhất của cộng đoàn. Chúa Giêsu đã đáp lại khuyết điểm này của cộng đoàn các tông đồ để mang lại niềm vui và sự bình an, để trao ban sứ mạng qua việc Chúa đáp lại đòi hỏi của Tôma để biến đổi ông, và Tôma đã tin và tuyên xưng: “Lạy Chúa tôi, Lạy Chúa Trời tôi, Lạy Chúa và là Chúa Trời con”. Và Chúa Giêsu dường như muốn cho các môn đệ của Ngài từ đó không nên thách thức như Tôma nữa: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”.
Cộng đoàn chúng ta hôm nay cần thực hiện lý tưởng của cộng đoàn Kitô tiên khởi của các đồ đệ. Hãy để cho Chúa Giêsu Phục Sinh qui tụ chúng ta lại trong tình yêu của Người, hãy đón nhận sự bình an của Chúa trong niềm vui nhờ ân sủng của Chúa Thánh Thần để làm chứng một cách xứng đáng cho Chúa. Nhưng như vừa nói chúng ta đây là những con người có giới hạn và Chúa Phục Sinh cũng đã hiểu như thế nên Ngài đã thiết lập và để lại cho chúng ta một phương thế để tái tạo sự hiệp nhất của cộng đoàn, để gìn giữ cộng đoàn được luôn hiệp nhất với Chúa và giữa mọi người với nhau, phương thế đó là bí tích Hòa Giải: “Các con tha tội cho ai thì trên trời cũng tha; các con cầm tội ai thì trên trời cũng cầm lại”.
Khi hiện ra với các tông đồ, Chúa không kể lại sự thống khổ mà Chúa đã phải trải qua. Chúa hiện đến với các tông đồ và chúc bình an. Với lòng khoan dung nhân hậu, Chúa khởi lại từ đầu để qui tụ các tông đồ đang tản mác, an ủi khích lệ, củng cố niềm tin và sai các ông ra đi làm nhân chứng Chúa Kitô sống lại. Chúa không muốn khơi dậy sự yếu đuối hay hèn nhát của các ông. Chúa muốn các tông đồ hướng về phía trước và ra đi làm nhân chứng cho tình yêu. Lòng thương xót của Chúa vượt qua mọi biên giới tính toán hạn hẹp và ích kỷ của con người. Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót nhân loại trong mọi khía cạnh của cuộc sống. Chúa đã xóa sạch mọi vết nhơ tội lỗi, lầm lạc và yếu hèn của mọi người.
Tôma chính là mẫu gương cho đời sống đức tin của chúng ta. Có những lúc chúng ta bước đi trong đêm tối của cuộc đời. Muốn buông xuôi. Muốn bỏ cuộc. Có những lúc chúng ta thất vọng muốn xa rời cộng đoàn, chẳng dám tin ai. Tô-ma đã từng xa lìa cộng đoàn. Sống trong cô đơn, thất vọng. Nhưng ông đã trở về với cộng đoàn. Ông bám vào cộng đoàn, nhờ đó mà ông tìm được niềm vui Chúa phục sinh.
Cuộc đời chúng ta đôi khi cũng đánh mất đi quá nhiều cơ hội, bỏ lỡ nhiều dịp may để hy vọng, để tin, để sống… Chúng ta bỏ lỡ đi sự hiện diện, cứu giúp của Chúa, ơn tha thứ của Chúa.
Thế nên, cuộc đời chúng ta vẫn chìm đắm trong đau khổ và thất vọng. Có một điều chúng ta phải học nơi Tôma là ông dám làm lại cuộc đời sau khi gặp được Chúa. Sau khi Chúa bảo Tôma “hãy tra tay sờ vào các lỗ đinh cạnh sườn…” Từ đó con người Tôma biến đổi hơn. Từ một con người thờ ơ lãnh đạm, nghi ngờ yếu đuối, ông trở thành một người tuyên xưng đức tin hùng mạnh: “Lạy Chúa, lạy Chúa tôi”.
Cùng với Chúa Kitô Phục sinh chúng ta phải dám tin Ngài, thông phần chịu mọi đau khổ của cuộc đời trong sự chiến thắng Phục sinh của Chúa Kitô. Cuộc sống này chính là cuộc sống mà tác giả sách Khải huyền đã sống, đã trải qua. Dưới ánh sáng đức tin, chúng ta cần phải tin vững mạnh vào Chúa Kitô đã chết và đã sống vì chúng ta. Xin Chúa thêm đức tin, niềm cậy trông và sự chịu đựng mãnh liệt cho tất cả chúng ta, để chúng ta vững bước trên con đường tiến về quê hương Thiên Quốc.
2022
Niềm tin Phục Sinh
17.4 Chúa Nhật Lễ Phục Sinh
St 10:34,37-43; Tv 118:1-2,16-17,22-23; Cl 3:1-4; 1 Cr 5:6-8; Ga 20:1-9
Niềm tin Phục Sinh
Khi còn sinh thời, Chúa Giêsu đã nhiều lần loan báo trước Ngài sẽ bị bắt, đánh đòn, giết chết và sau ba ngày thì sống lại. Sự kiện tiên tri Giona nằm trong bụng cá ba ngày và việc xây thành Giêrusalem trong ba ngày đã là những hình ảnh báo trước việc Chúa Giêsu sống lại sau ba ngày đã chết. Trên dương gian này, những ai đã chết là chết luôn, chỉ có Chúa Giêsu mới có thể dùng quyền năng của mình mà tự sống lại
Giáo hội chính thống có một tục lệ hay về lễ Phục sinh. Sau các nghi lễ về Chúa nhật Phục sinh này, người ta làm phép trứng và chia cho mỗi người trong Giáo hội, để chỉ rằng: mọi người được chia sẻ phúc lành của ngày lễ trọng đại này. Rồi mọi người chúc mừng nhau và cùng nhau đập trái trứng. Khi trứng bể, người kêu lên: “Đức Kitô đã Phục sinh”. Những người khác đáp lại “Người đã sống lại thật”.
Đập bể trái trứng ám chỉ việc mở cửa mồ của Đức Kitô. Trái trứng chỉ sự sống mới. Trong trái trứng có chất liệu làm nên con gà nhỏ tí, mới mẻ. Sự sống mới đó tỏ hiện khi con gà con phá bể chui ra.
Việc Đức Kitô ra khỏi mồ cũng tương tự, Đức Kitô đã chết thật trước khi sống lại. Trái trứng xem như chết, trước khi đem lại sự sống. Trái trứng nhắc chúng ta nấm mồ, trong đó đức Kitô được mai táng, còn gà con ra khỏi vỏ trứng nhắc chúng ta ra khỏi mồ. Chúng ta vui mừng ngày lễ Phục sinh, vì đức Giêsu đã sống lại từ cõi chết. Vì đã hứa cho chúng ta sống lại, một ngày kia từ cõi chết. Nhưng niềm vui của chúng ta còn lớn lao hơn khi ý thức rằng: Hôm nay chúng ta có thể ra khỏi mồ. Có nhiều loại mồ và nhiều cách sống lại. Mỗi người chúng ta có thể ra khỏi mồ hôm nay. Vì hôm nay mỗi người chúng ta có thể trở nên tốt hơn, cuộc sống khá hơn.
Sự kiện ngôi mộ trống chưa có thể xác quyết được sự kiện Chúa sống lại. Chúng ta còn phải nhờ Kinh thánh và với đức tin chân thật thì mới có thể tin Chúa đã sống lại. Chính người Do thái không tin vào sự kiện đó và cho rằng xác Đức Giêsu đã bị lấy trộm đi. Việc Chúa sống lại chỉ là tin vịt do các môn đệ dựng nên. Tuy thế, đối với ông Gioan thì không còn nghi ngờ gì nữa: “Ông đã thấy và ông đã tin” (Ga 20, 9).
Những điều vừa được kể ở đây đã được kiểm chứng vào “lúc tảng sáng” (Ga 20,1). Trong Tin Mừng thứ IV, giờ và các biến cố tương ứng với nhau. Vào lúc tảng sáng, có nhiều điều tiên báo một sự thay đổi tận căn: đêm đang qua đi, chân trời rạng sáng dần, các sự vật rõ nét thêm. Ai chưa bao giờ thấy mặt trời, thì không thể biết điều gì đã gần kề. Mặt trời lên soi sáng tất cả và làm cho mọi điều đã được tiên báo nên sáng tỏ. Các môn đệ còn đang ở trong tình trạng tranh tối tranh sáng, ở trong tình trạng gồm những dấu chỉ tiên báo và chờ đợi. Chỉ khi họ gặp Đấng Phục Sinh, mặt trời mới mọc lên cho họ, mọi sự mới nên sáng tỏ. Đêm đen và bóng tối, cái chết và niềm đau, sự bần khốn và yếu đuối đều được ánh sáng của Đấng Phục Sinh, được vinh quang của sự sống vĩnh cửu của Người, chiếu rọi.
Không còn thi hài của Chúa Giêsu trong mộ nữa. Điều này rất quan trọng đối với sự Phục Sinh: Bởi vì người ta không thể tìm ra xác ướp của Chúa Giêsu hay một vài vết tích, vài mảnh rơi rớt của thi hài, mà lại khẳng định về sự Phục Sinh được. Bởi vì Phục Sinh không phải là một hiện tượng thiêng liêng nào đó chỉ liên hệ tới phần hồn, nhưng sự Phục Sinh đặt dấu ấn lên trên toàn thể con người: thân xác và linh hồn, và biến đổi cách vĩnh viễn toàn thể con người. Vậy không bao giờ được hiểu Phục Sinh chỉ là sự hồi sinh của một người chết, chẳng hạn như trường hợp Lazarus, vì sau này ông cũng lại đã chết. Sự Phục Sinh là việc chuyển sang một cuộc sống bên kia cái chết, sang một cuộc sống không cùng, nghĩa là một đời sống vĩnh cửu.
Các môn đệ biết rằng, Chúa Giêsu đã chết và đã được mai táng. Ngôi mộ và thi hài là dấu vết cuối cùng của Chúa Giêsu trần thế. Tất cả những gì tác giả Tin Mừng thứ IV quy chiếu đến ở đây, đều tiến đi từ ngôi mộ này và liên hệ đến thi hài của Chúa Giêsu. Đối với các môn đệ, chặng cuối cùng của Chúa Giêsu là ngôi mộ; các phụ nữ cũng như các ông đều không hề quay hướng về cuộc Phục Sinh của Người: chẳng hạn phản ứng của Maria Magdalene ở đây chứng tỏ bà nghĩ rằng, Chúa Giêsu đã chết thật. Họ không hề hiểu những loan báo Người đã cung cấp, cũng chẳng hiểu những gì được viết trong Kinh Thánh. Ở đây, tác giả cho thấy những bước đầu đưa các môn đệ đi từ ý thức là Đức Giêsu đã chết đến hiểu biết là Người đã sống lại. Con đường đi từ nỗi kinh ngạc này đến nỗi kinh ngạc khác, và không phải tất cả các môn đệ đều đạt tới mục tiêu cùng một lúc.
Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan nhắc đến Maria, người tội lỗi, mà Chúa đã trừ cho khỏi bảy quỷ. Bà rất yêu mến Chúa. Ngay sáng sớm ngày thứ nhất trong tuần bà đã ra mộ viếng Chúa, nhưng thấy mộ trống. Bà tức tốc chạy về báo tin cho ông Phêrô và các Tông đồ biết: người ta đã lấy trộm xác Chúa. Ông Phêrô và Gioan đã ra mộ và thấy sự kiện ấy: ngôi mộ trống. Phêrô tỏ ra không hoảng hốt, ông bình tĩnh, xem ra ông đã tin Thầy mình phục sinh rồi.
Tin vào Chúa Kitô phục sinh là một điều kiện tiên quyết phải có, vì nếu Chúa không sống lại thì niềm tin của ta trở nên trống rỗng. Sự phục sinh của Chúa chính là trung tâm của lịch sử nhân loại, là nền tảng cho niềm tin Kitô giáo.
Sự chết và Phục Sinh của Chúa Giêsu đều nằm trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa. Kinh Thánh đã tiên báo về Ngài. Chúa Giêsu chết để nhân loại chôn vùi tội lỗi cùng với cái chết của Ngài. Chúa Giêsu Phục Sinh để sự sống Thần Linh của Chúa Giêsu sống động trong tâm hồn mọi người. Chúa Giêsu Phục Sinh đã tái lập sự sống mới trên trần gian. Sự sống mới là sự sống chan hòa yêu thương. Vì tình yêu đã chiến thắng hận thù. Sự đen tối của màn đêm phải lui xa, nhường lại thế giới cho ánh bình minh tươi sáng. Khởi đầu một ngày mới, một trời mới đất mới xuất hiện. Trong niềm hân hoan chúng ta reo vui. Alleluia.
2022
Cùng Chúa bước vào Tuần Thánh
10.4 Chúa Nhật Lễ Lá
Lc 19:28-40; Is 50:4-7; Tv 22:8-9,17-18,19-20,23-24; Pl 2:6-11; Lc 22:1423; Lc 23:1-49
Cùng Chúa bước vào Tuần Thánh
Lễ Lá có một khởi đầu vui nhưng lại có một kết cục buồn. Khởi đầu Chúa Giêsu long trọng vào thành Giêsusalem. Kết cục, Chúa Giêsu chịu kết án, chịu khổ hình và chết trên thập giá. Con đường vào thành của Người là con đường vinh quang vương giả. Nhưng con đường lên Núi Sọ lại là con đường của kẻ tội đồ.
Thánh lễ hôm nay cũng họa lại hai hình ảnh trái ngược trong một tuần thương khó. Khung cảnh ban đầu là đoàn rước thật long trọng, hồ hởi với đàn hát, với trải lá lót đường …; Khung cảnh sau là phiên tòa kết án, với lời thóa mạ, với đòn roi, với án tử. Xuyên suốt hai khung cảnh ấy là hình ảnh Chúa Giêsu luôn bình tĩnh trước mọi biến cố. Dường như Ngài đã không tìm cách lẩn trốn trước những gì đang diễn ra. Ngài bình thản đi vào tuần thương khó mà Thánh Kinh bảo rằng: “để mọi sự được nên trọn”.
Trước hết Chúa nhật Lễ Lá là việc tưởng niệm cuộc vào thành Giêrusalem cách long trọng.Biến cố này cho chúng ta thấy giờ của Ngài đã đến. Ngài sẽ phải bước vào cái chết để đem lại ơn cứu độ và sự phục sinh, như hạt lúa mì cần phải mục nát đi thì mới nẩy mầm và kết trái. Trước đó, nhiều lần những người Do Thái chống đối lập mưu giết hại Ngài, nhưng giờ Ngài chưa đến, đồng thời nhiều lần dân chúng định tôn Ngài lên làm vua, nhưng giờ Ngài cũng chưa đến. Còn lúc này giờ ấy đã đến và đã đến thật rồi.
Tiếp đến, với Chúa nhật Lễ Lá, chúng ta tôn kính Đức Kitô là Vua.Đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Ngài đồng ý để dâng chúng tung hô vạn tuế Ngài là Vua: Chúc tụng Đấng nhân danh Chúa mà đến. Và cũng chính vì phong cách vương đế này mà Ngài đã bị kết án tử hình. Bản án của Ngài được viết bằng ba thứ tiếng: Do Thái, Latinh và Hy Lạp: Giêsu Nagiarét, vua dân Do Thái. Chính Ngài đã xác quyết trước toà án Philatô: Tôi sinh ra và đến trong thế gian là để làm chứng cho sự thật. Ai tôn trọng sự thật thì nghe tiếng tôi. Sở dĩ như vậy vì vương quốc của Ngài là vương quốc của yêu thương và an bình, vương quôc của sự sống và chân lý.
Sau cùng, Chúa nhật Lễ Lá nhắc cho chúng ta biết về giá trị của những đau khổ.Thực vậy, sống trên đời là phải đối đầu với khổ đau, bởi vì Lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc thương khó của Chúa, chuẩn bị chúng ta chiêm ngắm cái chết đau thương của Ngài trên đỉnh Canvê. Khi chấp nhận vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chúng ta cũng chia sẻ gánh nặng của Ngài. Thế nhưng điều quan trọng không phải là vác đi trong than khóc, mà vác đi trong hy vọng. Bởi vì với Chúa Giêsu, thập giá và phục sinh không thể tách lìa nhau. Với Chúa Giêsu, đau khổ và sự chết không đẩy con người vào ngõ cụt, mà trái lại đem con người tiến bước trên con đường dẫn tới ngày phục sinh.
Điều nghịch lý của Lễ Lá, đó là vị vua của chúng ta đang tiến lên, vị vua đã bênh vực nhân vị, đã xoa dịu mọi đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người, thế nhưng chính vị vua ấy lại thu tích tất cả những đau khổ thể xác cũng như tinh thần của con người vào trong chính bản thân của mình để chết đi một lần thay cho tất cả và đã mở ra cánh cửa vào cõi phúc trường sinh. Và đó cũng chính là niềm hy vọng của chúng ta, bởi vì đau thương là đường lên ánh sáng, gian khổ là đường về vinh quang và thập giá là đường dẫn tới sự phục sinh.
Tình yêu thương của Người là làn ánh sáng xé tan bóng đêm thù hận, chiếu soi cả những người ghét ghen. Tình yêu thương của Người giống như loài gỗ quý nhuốm cả hương thơm vào lưỡi búa đã đốn ngã nó. Tình yêu của Người như đoá hoa sen. Bùn lầy có dậy lên cũng không nhiễm được vào đoá hoa tinh khiết thánh thiện. Tình yêu của Người là tình yêu nguyên tuyền không vẩn một chút oán hờn giận ghét, vượt lên trên tất cả những hận thù, nhỏ nhen, hèn nhát, phản bội. Giữa những hung hãn tàn bạo, Người vẫn yêu thương. Giữa những phản bội, Người vẫn tha thứ. Tình yêu của Người đã thắng.
Rước lá đi theo Chúa Giêsu trong vài giờ không phải là một điều khó khăn lắm. Đi theo Chúa giữa lúc Ngài được tung hô chúc tụng là điều dễ dàng. Nhưng tiếp tục đi theo Ngài khi Ngài đã bị mọi người bỏ rơi và lên án, điều đó khó hơn nhiều. Tin Mừng không thấy nói đến một ai dám lên tiếng bênh vực cho Chúa Giêsu vào lúc đó, mà chỉ thấy lên tiếng đòi phóng thích cho tên đạo tặc Baraba. Nếu Kitô hữu được định nghĩa là người đi theo Chúa Giêsu, thì chắc chắn chúng ta sẽ có lúc nghiệm thấy nỗi khó khăn khi phải đến nơi mà mình không muốn đến. Còn đường bước theo Chúa có lúc vui, lúc buồn. Chúng ta phải có mặt ở trong đám đông hoan hô Chúa khi vào thành đô Giêrusalem và cũng không được vắng mặt khi Ngài hấp hối trên thập giá.
Trong những ngày thánh này, chúng ta phải tìm thời giờ đọc lại chậm rãi cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Hãy để cho tâm tình, lời nói và hành động của Chúa Giêsu thấm nhuần và biến đổi chúng ta. Trong cuộc khổ nạn của Chúa, chúng ta bắt gặp rất nhiều tình huống tăm tối của đời thường: vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết… Nhưng trên hết, chúng ta bắt gặp một tình yêu. Tình yêu vô cùng lớn của Đức Giêsu đối với Chúa Cha và nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ.
Bề ngoài, cuộc tiến vào thành Giêrusalem giữa tiếng tung hô của đám đông dân chúng nô nức phất cao cành lá: “Hoan hô Con Vua Đavit” có vẻ là một cuộc toàn thắng vang dội. Nhưng thực ra, đây là một cuộc mở màn Thương Khó mỉa mai nhất và có lẽ cũng là giai đoạn bi thương nhất của cuộc Thương Khó. Bởi vì Chúa biết rõ rằng trong niềm phấn khởi chóng qua của dân chúng, đã chất chứa một sức phản bội sẽ bùng nổ dữ trước mặt Tổng trấn Philatô trong tiếng kêu gào với những bàn tay nắm chặt đưa lên: “Đả đảo! Đóng đinh nó vào Thập giá!”
Xin Chúa giúp chúng ta bước vào tuần thương khó với tâm tình sám hối ăn năn, vì có những lần chúng ta cũng thay lòng đổi dạ để kết án Người, cũng có những lần chúng ta bỏ rơi Ngài. Nhưng điều quan yếu là chúng ta hãy luôn nhận ra tình yêu của Chúa để biết tri ân tình yêu cao vời mà Chúa đã dành cho chúng ta. Xin cho chúng ta đừng bao giờ phụ bạc ân tình mà Chúa vẫn dành cho chúng ta.
2022
ĐỪNG KẾT ÁN AI
3.4 Chúa Nhật thứ Năm Mùa Chay
Is 43:16-21; Tv 126:1-2,2-3,4-5,6; Pl 3:8-14; Ga 8:1-11
ĐỪNG KẾT ÁN AI
Chúng ta biết rằng, đến cao điểm thì sư ghen tị và âm mưu của người Do Thái càng lộ rõ hơn, họ muốn tìm cách để loại trừ Đức Giêsu, vì qua những lần lên đền thờ, qua những bài giảng, Chúa Giêsu đã trực tiếp đụng chạm đến đời sống và quyền lợi của các thày thượng tế và luật sĩ tại Giêrusalem. Chúa Giêsu đã thẳng thắn lên tiếng cảnh cáo lối sống giả hình, tham tiền và những việc làm của các nhà lãnh đạo, những người này một mặt thì muốn người ta trọng vọng mình, giành cho mình những quyền lợi và ưu tiên, mặt khác họ bày vẽ và đặt ra nhiều thứ tập tục để có được nhiều tiền, như cho người dân vào buôn bán, đổi tiền trong sân đền thờ… Chúa Giêsu đã lên án những cách sống như thế và mời gọi mọi người trở về với lề luật và giới răn của Thiên Chúa.
Kinh cáo mình có câu: “Tôi đã phạm tội nhiều trong tư tưởng, lời nói việc làm và những điều thiếu sót”. Tội chúng ta phạm có thể là tội cố tình vi phạm một điều luật cấm như dối trá, trộm cắp, ngọai tình, phá thai… hay tội bỏ không làm việc lẽ ra phải làm như: Bất hiếu với cha mẹ, làm ngơ trước người đau khổ cần trợ giúp…
Trong Tin mừng, Chúa Giêsu đã đề cập đến tội thiếu sót này như dụ ngôn ông nhà giàu đã làm ngơ không giúp đỡ anh La-da-rô, một người nghèo khổ nằm trước cửa nhà ông ta (x Lc 16,19-31). Đến ngày tận thế, Vua Thẩm Phán Giê-su cũng sẽ phán với những kẻ bỏ qua không chịu làm việc lành như sau: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên ác quỷ và các sứ thần của nó. Vì xưa Ta đói các ngươi không cho ăn; Ta khát các ngươi không cho uống; Ta là khách lạ các ngươi chẳng đón tiếp; Ta mình trần các ngươi không cho đồ mặc; Ta ở tù các người đã không viếng thăm …” (Mt 25,41-45).
Những tội thiếu sót này tưởng chỉ là tội nhẹ mà thực ra cũng có thể thành tội nặng nếu nó cho thấy trong ta không có tình thương và đồng nghĩa với tội giết người như thánh Gio-an đã viết: “Kẻ không yêu thương thì ở lại trong sự chết. Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân . Và anh em biết: Không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1 Ga 3,14b-15).
Những luật sĩ và biệt phái hôm nay đã có cơ hội giăng một cái bẫy, và họ tưởng rằng Chúa Giêsu sẽ không thể thoát khỏi cái bẫy này: Họ đem đến cho Chúa Giêsu một người phụ nữ bị bắt quả tang phạm tội ngoại tình, đặt người phụ nữ này đứng trước mặt Chúa Giêsu và đám đông, vừa để làm nhục người phụ nữ và vửa để thử Chúa Giêsu: Thưa Thày, theo luật Mosê, hạng phụ nữ này phải bị ném đá cho chết, còn Thày, Thạy dạy làm sao? Những người luật sĩ và biệt phái đặt ra cái thòng lọng ở cả hai đầu, nếu Chúa Giêsu đồng ý cho họ ném đá người phụ nữ này, thì chứng tỏ giáo lý về lòng thương xót của Thiên Chúa cũng không có gì khác hơn Mosê, và nếu Chúa tha cho người phụ nữ này, thì họ sẽ có cớ để kết án Chúa vi phạm luật Mosê. Đàng khác qua việc tố cáo kết án người phụ nữ này, những luật sĩ và biệt phái muốn nói với mọi người rằng: họ là những người công chính, ngay thẳng, đạo đức thánh thiện và có quyền kết án người khác.
Chúa Giêsu đã biết thâm ý của họ, Ngài đã không trả lời trực tiếp, nhưng Ngài thinh lặng cúi xuống lấy tay viết trên đất. Chúa Giêsu đã tạo một khoảng thinh lặng để cho những con người đang hằm hằm sát khí, đang lăm le cằm hòn đá trên tay kia, có thời gian để nhìn lại chính mình, cho đến khi họ đòi Chúa phải nói một điều gì đó ủng hộ hay phản đối, Chúa mới nói với họ: Ai trong các ông là người sạch tội thì lấy đá mà ném trước đi. Một câu nói bất ngờ khiến cho họ giật mình tự vấn lương tâm, và rồi họ đã buông những hòn đá xuống đất, và từng người bỏ đi, từ người lớn đến người nhỏ, vì không ai trong họ thấy mình là là người sạch tội.
Cuối cùng chỉ còn mình Chúa Giêsu và người phụ nữ đứng đó, Chúa nói với họ: Ta không lên án chị đâu, chi về đi và từ nay đừng phạm tội nữa- Người phụ nữ này đã được đối diện với một Thiên Chúa là Cha nhân từ yêu thương tha thứ, qua lời tuyên bố này, cho thấy một trái tim chạnh thương và cảm thông nơi Chúa Giêsu. Chúa Giêsu không chấp nhận tội lỗi,và tình trạng tội lỗi, nhưng Ngài lại nhân thừ và thương xót tội nhân. Vì cũng mang thân phân làm người, Chúa Giêsu cũng đã mang trong mình yếu đuối tư bề, và cũng còn bị ma quỷ tấn công cám dỗ, chính vì thế Ngài hiểu thế nào là thân phận yếu đuối của con người, của người phụ nữ này, và Ngài đã nói với chị: Ta không kết án chị đâu.
Không kết án người phụ nữ, vì có thể chị cũng chỉ là nạn nhân, còn kẻ gây ra tội đã bỏ trốn, hoặc lại được coi là được phép, không kết án chị, vì chị đáng thương hơn là đáng trách. Tôi không kết án chị, không có nghĩa là đồng lõa bao che hay chấp nhận sự sai trái, không kết án, để chị có cơ hội làm lại cuộc đời. Tha cho người có tội, nhưng Chúa Giêsu cũng đòi họ một điều kiện: Từ nay đừng phạm tội nữa, Chúa muốn cho người phụ nữ này có một cơ hội, có một tương lai, Chúa muốn chị bỏ lại đàng sau quá khứ sai lầm, vì ai cũng có thể đã từng sai lầm, điều quan trọng không phải là trong quá khứ tôi đã làm gì cho bằng, trong tương lai tôi sẽ làm gì và sẽ như thế nào.
Tội ngoại tình đa dạng và nhiều kiểu lắm chứ không phải đơn thuần chỉ là chuyện ăn nằm với người khác mà thôi đâu. Khi người ta bỏ Chúa đi thờ ngẫu tượng và các thần xa lạ khác thì lúc đó người ta đang phạm tội ngoại tình đấy. Khi đi cầu cơ, đi coi bói, chơi bùa, chơi ngải, cúng vái các tượng thần để xin chữa bịnh, xin cho làm ăn phát tài …
Khi cúi gập mình xuống để tôn thờ thần sex, làm nô lệ cho thần khoái lạc, suốt ngày chỉ tôn thờ những thú vui trụy lạc, lao đầu vào những thú vui giải trí thiếu lành mạnh nhưng vẫn nghĩ rằng xã hội nhiều người làm như thế, nên tôi làm cũng chẳng sao. Rồi tự do yêu đương, tự do quan hệ, tự do luyến ái theo kiểu “tình yêu đến em không mong đợi gì, tình yêu đi em cũng chẳng hề hối tiếc”.
Khi quỳ xuống bái lạy Thần Tài, và cắm đầu cắm cổ làm nô lệ cho nó, bỏ cả nhà thờ nhà thánh, bỏ lễ, bỏ đọc kinh và bỏ luôn không lãnh nhận các phép bí tích …
Khi đã chịu phép Rửa Tội đàng hoàng nhưng lại đi chùa, đi thắp hương, đi cúng vái ông này bà nọ…… Là khi ấy, con người đang phạm tội ngoại tình, đang ngấp nghé bỏ nhà để đi… kiếm bò lạc đấy.
Trong Chúa Nhật hôm nay, có thể coi như Chúa Nhật cuối cùng của mùa chay, Lời Chúa một lần nữa mời gọi chúng ta nhìn lại chính mình, thật lòng thống hối để xứng đáng nhận ra ơn tha thứ của Thiên Chúa