2022
Khiêm nhường
23/10 Chúa Nhật XXX TNChúa Nhật thứ Ba Mươi Mùa Quanh Năm
Hc 35:12-14,16-18; Tv 34:2-3,17-18,19-23; 2 Tm 4:6-8,16-18; Lc 18:9-14
Khiêm nhường
Dụ ngôn người Biệt phái và Thu thuế lên Đền thờ cầu nguyện cho thấy sự tương phản giữa hai thái độ của con người trước tình yêu thương bao la của Thiên Chúa.
Người Biệt phái là nhân vật được xã hội đương thời kính trọng, vì thuộc thành phần nhiệt tâm giữ luật, thực thi đức ái hơn nguời khác. Người thu thuế, kẻ bị xã hội mạt sát, khinh chê.
Hai mẫu người đối lập cùng bước vào Đền thờ và làm cùng một công việc là cầu nguyện. Tại đây, sự tương phản giữa hai con người trở nên rõ nét khi tâm tính và thái độ sâu kín được bộc bạch trước nhan Thiên Chúa. Ông Pharisêu đứng thẳng ngước cao vỗ ngực kể công và chê bai người khác. Người thu thuế đấm ngực và nguyện thầm: “Xin thương xót vì con đầy tội lỗi!”.
Người thu thuế biết rõ về chính mình, về những bất xứng và tội lỗi anh ta đã gây ra. Từ chỗ biết mình, anh đã can đảm đi ra khỏi cái tôi để quy hướng về Thiên Chúa. Ngược lại, người biệt phái quá kiêu ngạo, tưởng rằng biết rõ về bản thân, nhưng thực sự thì không. Ông chỉ biết quy về mình. Ông trưng ra những thành tích đạo đức để khoe mẽ mà không biết rằng những việc tốt mà ông có thể làm, tất cả là do ơn của Chúa chứ không phải do công lao của ông. Ông đến đền thờ cầu nguyện tựa như đi tham dự một hội nghị biểu dương ‘Người tốt việc tốt’, giống như xã hội hôm nay vẫn hay tổ chức. Một người đứng lên giữa đám đông kể ra những ‘thành tích xuất sắc’ của mình để nhận bằng khen hay giấy khen, nhiều khi rất lố bịch và giả tạo. Nhiều người đi tham dự hội nghị còn đeo đầy huy chương để khoe cho mọi người biết tôi là người có công với đất nước.
Người Pharisiêu trong dụ ngôn hôm nay cũng thế. Ông ta trưng ra những thành tích đạo đức để mong Chúa ban cho ông một tấm bằng khen. Chúa biết rõ tâm hồn mỗi người, từ những gì sâu kín nhất tận bên trong. Điều Chúa mong muốn nhất, chính là sự khiêm hạ và thành tâm sám hối. Khi chúng ta đến trình diện trước mặt Chúa, Chúa không thích ngắm những bộ huy chương chúng ta đeo trên ngực hay nhìn những bằng khen chúng ta trưng ra để khoe khoang. Ngài chỉ thích mân mê sờ nắn những vết sẹo nơi tâm hồn chúng ta, là dấu chứng tội lỗi chúng ta phạm nhưng đã được Thiên Chúa yêu thương và chữa lành. Câu chuyện dụ ngôn trong bài Tin mừng hôm nay khẳng quyết điều ấy.
Nhận biết mình chẳng đạo đức, lỗi đức công bằng, cũng chẳng giữ luật, người thu thuế không dám ngước mắt lên trời, đấm ngực, khiêm tốn ăn năn, sám hối. Chỉ khi nào hạ mình xuống, chân thành nhìn vào tâm can, thẳng thắn xét mình, mới có thể nhận biết rõ ràng những vết nhơ trong đời. Dẫu tiền bạc rủng rỉnh, cơ ngơi bề thế, kẻ ăn người ở, đầy tớ phục dịch, người thu thuế vẫn cảm thấy mình đê tiện, nghèo hèn, bất xứng trước Thánh Nhan.
Qua dụ ngôn này, chắc hẳn Chúa rất muốn nói với chính chúng ta, cả những mục tử và từng Kitô hữu trong Hội Thánh. Thiên Chúa, Đấng Cao Cả, Chí Thánh; đến trước Ngài, chúng ta trần trụi, ô nhơ nên thái độ khiêm nhường và đấm ngực xưng thú tội lỗi phải là thái độ của mỗi Kitô hữu. Trong cầu nguyện hay nơi cuộc sống, người công chính thật thì chẳng bao giờ khoe khoang, nâng mình lên và chê bai người khác.
Người thánh thiện thật thì mọi cử chỉ, lời nói, hành động đều mang đậm nét khiêm tốn, tôn trọng và nâng người khác lên. Trái lại, trong đời sống cộng đoàn giáo xứ, chúng ta thường thấy có những người mãi không lọt tai lời khiển trách nặng nề của Chúa với người Pharisiêu. Họ phô trương ngay cả những thực hành đạo đức như dâng lễ, cầu nguyện, ăn chay, bố thí… trước mặt thiên hạ. Họ chê bai người khác như để đạp lên người cho mình cao hơn.
“Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.” Ước mong sao Lời Chúa hôm nay thấm đẫm trong mỗi chúng ta. Xin Tình yêu và ân sủng Chúa biến đổi chúng ta trở nên khiêm nhường, giúp chúng ta thật lòng thống hối về tất cả những lỗi phạm, kiêu căng tự phụ trong đời sống đạo, để rồi ta biết sống khiêm hạ trước Chúa và anh chị em. Có như thế, ta mới trở nên con cái của Cha và ngày càng nên giống Cha chúng ta là Đấng hoàn thiện.
Nhằm dạy bài học khiêm nhường, Đức Giêsu đã kể dụ ngôn về hai người lên đền thờ cầu nguyện. Trong đó người Pharisêu đã kiêu ngạo khi cầu nguyện chỉ trích tha nhân và tự đề cao bản thân. Đang khi người thu thuế khiêm tốn xin Chúa tha tội và chỉ biết cậy trông vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Cuối cùng Đức Giêsu kết luận: người Pharisêu kiêu căng sẽ bị Thiên Chúa hạ xuống, còn người thu thuế khiêm hạ sẽ được Thiên Chúa tôn vinh.
Biết lỗi, nhận lỗi, xin lỗi, sửa lỗi là thái độ khiêm nhu chân thành sâu sắc của người tử tế, tự trọng, quân tử, nhất là con chiên của Chúa. “Lạy Chúa, xin thương xót con là kẻ có tội.” Người thu thuế biết mình hèn nhát, hư đốn, yếu đuối, khó cưỡng nổi lòng tham, khó yêu thương đồng bào, khó tuân giữ Lề Luật, nên hết lòng khấn xin, hoàn toàn trông cậy vào Lòng Thương Xót cứu vớt, giải thoát khỏi tội lỗi. Lời kêu xin đó không tự dưng biến người thu thuế trở nên công chính, nhưng được Chúa chạnh lòng đoái thương, công chính hoá. “Ta bảo các ngươi: người này ra về được khỏi tội, còn người kia thì không.”
2022
Kiên trì trong cầu nguyện
16/10 TNhúa Nhật thứ Hai Mươi-Chín Mùa Quanh Năm
Xh 17:8-13; Tv 121:1-2,3-4,5-6,7-8; 2 Tm 3:144; Lc 18:1-8
Kiên trì trong cầu nguyện
Tin Mừng hôm nay bắt đầu: “Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng”. Dụ ngôn nói về một bà goá gây phiền hà. Để trả lời cho câu hỏi “Chúng ta phải cầu nguyện bao lâu?” Chúa Giêsu trả lời, “phải cầu nguyện luôn!” (Lc 18, 1-2).
Bà góa trong dụ ngôn tin chắc vào vụ kiện của bà, bà chứng tỏ rằng bà đáng được đền bù, nên không ngại đấu tranh vì điều đó, bà có đủ lý do để lo lắng, vì các thẩm phán hành động không theo công lý, “họ không kính sợ Thiên Chúa, cũng không kiêng nể người ta”(Lc 18, 3). Chúa Giêsu không ngại gọi ông là “vị thẩm phán bất lương nói”(Lc 18, 7). Vị thẩm phán bất lương này không có ý định xử vụ bà góa kiện, ông không để ý đến vụ kiện của bà. May mắn thay, câu chuyện kết thúc tốt đẹp: khi ông từ chối mãi, cuối cùng ông mất kiên nhận vì sự quấy rầy của bà, nên xét xử cho bà, để ông có sự yên tĩnh.
Và Đức Giêsu phán: “Các con hãy nghe lời vị thẩm phán bất lương đó nói”. Cuối cùng vị thẩm phán đó cũng mang lại công lý, hơn nữa chúng ta chắc chắn rằng Thiên Chúa sẽ nghe lời chúng ta. Chúa Giêsu tuyên bố một cách long trọng rằng: “Thầy bảo các con, Chúa lại sẽ kíp giải oan cho họ !” (Lc 18, 8).
Để chúng ta yên tâm Thánh Luca giải thích rằng “Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ một dụ ngôn, dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng”. Nguy cơ chán nản thất vọng, khiến chúng ta ngã lòng là vì Thiên Chúa nhân lành không nhận lời chúng ta ngay? Nghĩa là Thiên Chúa có thể trì hoãn đáp lời chúng ta. Đáng ngạc nhiên nhất Chúa Giêsu bảo chúng ta “phải luôn luôn cầu nguyện không ngừng”, cần phải kiên trì.
Việc cầu nguyện trong Kitô giáo khác xa với việc cầu nguyện nơi các tôn giáo khác. Sự khác biệt lớn nhất chính là đối tượng. Đấng mà chúng ta cầu khẩn không phải là một vị thần ở tít trên cao, nhưng là một người Cha rất gần gũi và thân tình. Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về điều ấy trong cả 4 sách Tin Mừng.
Một người con đến thưa chuyện với cha của mình không cần phải nhiều lời, khi đứa con biết rằng người bố rất yêu thương nó và biêt rõ nó đang cần gì. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị quan tòa khó tính hay cáu gắt, nhưng là một người Cha nhân hậu lúc nào cũng dang rộng đôi tay sẵn sàng ôm đón chúng ta vào lòng.
Vì thế khi đến với Chúa, chúng ta phải loại bỏ sự sợ hãi, nhưng cần đơn thành trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu mà Thiên Chúa hiến trao. Chúng ta cũng cần thâm tín rằng cầu nguyện không phải chỉ là xin xỏ điều này hay điều nọ. Chúa biết rõ chúng ta đang thiếu thốn những gì. Thái độ nội tâm căn bản cần phải có khi cầu nguyện là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, rất quảng đại và giàu lòng thương xót. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 kể lại một kinh nghiệm mà Ngài không bao giờ quên. Lúc còn nhỏ, Ngài đi tham dự một cuộc hành hương cùng với thân phụ của Ngài. Giữa một biển người mênh mông, đứa bé đứng dưới đất không nhìn thấy gì.
Thấy vậy, thân phụ của Đức Thánh Cha đã đặt Ngài trên đôi vai mình. Ngài cảm thấy rất tuyệt vời. Cũng vậy, khi chúng ta đến với Chúa, Chúa ôm chúng ta trong vòng tay trìu mến. Chúa cũng đặt chúng ta trên đôi vai Ngài. Trong vòng tay yêu thương của Chúa, chúng ta không còn lý do để sợ hãi.
Sự cầu nguyện, như tình yêu, không chịu sự tính toán. Một người mẹ đâu có hỏi bà phải thường yêu con mình bao lâu, hay là một người bạn đâu có hỏi mình phải yêu một người bạn bao lâu? Có thể có những mức độ khác nhau trong sự cân nhắc đối với tình yêu, nhưng không có những khoảng cách nhiều hay ít điều hòa hơn trong sự yêu đương. Với sự cầu nguyện cũng vậy. Lý tưởng của sự cầu nguyện kiên trì này được thực hiện trong nhiều hình thức bên phương Đông và phương Tây. Kitô giáo phương Đông thực hành điều ấy với “Kinh cầu nguyện Chúa Giêsu: “Lạy Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót con!”
Là một người Công giáo, một thành phần của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm hướng đến người khác. Aaron và Hur đã không bỏ rơi Môsê trong lúc ông mệt mỏi. Họ không nghĩ rằng Môsê cầu nguyện một mình hoặc họ phải chú ý tới những lời cầu nguyện riêng của họ. Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện đầy mạnh mẽ bởi vì chúng ta cầu nguyện với tất cả không phải như những cá nhân độc lập, nhưng là cùng nhau như những người Công giáo, những người của Giáo Hội được hợp nhất trong tinh thần và trong thân thể của Đức Kitô.
Chúa Giêsu hiểu sự yếu đuối của chúng ta. Đó là lý do vì dao Ngài đã nói với chúng ta về dụ ngôn sự cần thiết của cầu nguyện luôn luôn và đừng bao giờ mất hy vọng. Người góa phụ trong dụ ngôn là môt bằng chứng. Một bằng chứng về sự bền bỉ, bà đã bị từ chối, bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã không muốn chúng ta bỏ cuộc, không có vấn đề gì khó, hay mất bao lâu để chúng ta cầu nguyện cho một điều gì. Để chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong suốt Thánh Lễ.
Chúng ta đến với Thánh Lễ với nhiều lý do, và có thể mọi người trong chúng ta đều được thúc đẩy bởi lý do riêng của mỗi người mà chúng ta cho là quan trọng nhưng trên hết chúng ta phải được cảnh báo để thực hành bài học của phụng vụ trong ngày hôm nay.
Linh mục đọc Kinh nguyện trong thánh lễ với đôi tay rộng mở. Giống như Môsê, ông cầu nguyện không chỉ nhân danh ông mà nhân danh một cộng đoàn thờ phượng. Cho dù chính chúng ta không cầu nguyện giống như thế, chúng ta có thể có cùng một thái độ trước Thiên Chúa như kinh nguyện ấy gợi ý: một thái độ khiêm nhường và tín thác.
Một lời cầu nguyện được đáp lại, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta cầu xin, nhưng khi chúng ta được ban cho cảm thức về sự cận kề của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của một bệnh nhân được đáp lại không phải bởi bì bệnh của người ấy biến mất, nhưng bởi vì người ấy có được một cảm thức về sự kề cận của Thiên Chúa, sự bảo đảm rằng căn bệnh của người ấy không phải là một hình phạt của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bỏ rơi người ấy. Cầu nguyện có thể không làm thay đổi thế giới cho chúng ta, nhưng nó có thể cho chúng ta lòng can đảm đối diện với thế giới.
Đức Giêsu khuyên chúng ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu chúng ta ngưng cầu nguyện, chúng ta hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu chúng ta cầu nguyện liên tục, chúng ta sẽ không bao giờ mất nhiệt tình. Cầu nguyện có nghĩa là đặt chính mình và số phận của mình trong đôi tay của Thiên Chúa. Chúng ta cầu nguyện có nghĩa là chúng ta trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của chúng ta. Khi chúng ta cầu nguyện một thứ quyền lực khác trở thành có hiệu lực đối với chúng ta.
2022
Lòng biết ơn !
9/10 Chúa nhật XXVIII TN
2 V 5:14-17; Tv 98:1,2-3,3-4; 2 Tm 2:8-13; Lc 17:11-19
Lòng biết ơn !
Thánh Luca thuật lại câu chuyện về 10 người phong hủi được chữa lành, nhưng chỉ duy nhất một người quay trở lại để bày tỏ lòng biết ơn. Rất bẽ bàng, đó lại là người ngoại giáo, một người Samari. Cũng vậy, cả đám đông khổng lồ đã được Chúa cho ăn no nê và chứng kiến biết bao phép lạ Ngài làm, nhưng khi Chúa oằn vai vác Thập Giá, chỉ duy nhất Simon thành Cyrênê ghé vai giúp Ngài, lại cũng là một người ngoại giáo. Sự vô ơn đạt đến cao điểm khi toàn dân quay lưng, đồng thanh đả đảo và kết án Chúa Giêsu như một tên tội phạm. Trên đỉnh cao núi sọ, chỉ duy nhất một người khám phá ra bầu trời yêu thương từ đôi mắt Chúa, và đó cũng lại là một tay ăn trộm khét tiếng.
Lịch sử dân Do Thái, một dân được Thiên Chúa ưu tuyển, được đan dệt bằng những hành vi phản bội và vô ơn. Hình tượng con bò vàng dưới chân núi Sinai rất tiêu biểu nói lên sự vô ơn này. Vết xe cũ của sự vô ơn nơi người Do Thái năm xưa, có thể vẫn đang được lặp lại nơi mỗi người chúng ta hôm nay. Mỗi tội chúng ta phạm là một sự phản bội. Mỗi điều ác chúng ta làm là một hành vi chống lại Thiên Chúa, và thể hiện sự vô ơn đối với Ngài.
Câu chuyện Naaman, người xứ Syri, đã được nhiều người biết. Thiết tưởng chẳng cần phải dài dòng thuật lại rằng: Ông là vị tướng chỉ huy toàn thể quân lực Syri, được vua Syri tín cẩn, nhưng lại mắc bệnh phong cùi. Nghe tin ở đất Giuđa có vị tiên tri nổi danh làm phép lạ. Ông xin thư vua Syri đến đất Do Thái để gặp nhà tiên tri. Êlisê bảo ông cứ xuống sông Hòa Giang tắm 7 lần thì sẽ được khỏi bệnh. Thoạt đầu ông không muốn nghe vì nghĩ sông Hòa Giang của Do Thái có gì sạch hơn sông ở Syri. Nhưng, sau nghĩ lại, ông đã vâng lời xuống sông tắm 7 lần và đã được sạch… đang khi ấy ở đất Do Thái có biết bao người bị phong cùi mà không được chữa khỏi như ông. Trường hợp của ông nói lên lòng thương – và phải nói là ưu ái nữa – của Thiên Chúa đối với lương dân.
Bài học hôm nay chỉ nhắc sơ đến việc Naaman được chữa lành. Những gì xảy ra sau đó mới là trọng tâm. Chúng ta thấy Naaman được sạch rồi đã cùng đoàn tùy tùng trở lại gặp nhà tiên tri. Ông nói: bây giờ tôi đã biết: trên khắp cả mặt đất chẳng có chúa nào khác ngoài Chúa của Israel.
Naaman đã bỏ tà thần để suy phục Thiên Chúa. Ông đã được đức tin sau khi được lành bệnh. Từ nay ông trở thành dân của Chúa. Và chắc chắn đức tin của ông dứt khoát, mạnh mẽ hơn nhiều người Do Thái. Ðể chứng tỏ niềm tin này, trước hết ông xin phép dâng chút lễ mọn cho nhà tiên tri, tức là người của Chúa, theo thông lệ thời bấy giờ. Không phải ông muốn cám ơn Êlisê vì đã chữa ông khỏi bệnh. Ý nghĩa gói ghém trong việc muốn dâng tặng lễ vật là để nói lên niềm tin Êlisê là tiên tri, tức là người của Chúa. Naaman muốn cư xử như mọi tín hữu. Những người này khi đến với các tiên tri vẫn dâng cho các ngài một chút lễ mọn để nói lên niềm tin công nhận và tôn trọng những người được Chúa chọn.
Êlisê từ chối. Có lẽ vì tế nhị, hoặc vì muốn người tân tòng hiểu đạo một cách thuần túy. Cũng có thể Êlisê muốn thử đức tin của Naaman, vì theo lời nói tiếp sau của ông này, chúng ta thấy Naaman có vẻ sợ nhà tiên tri chưa coi mình như là một tín hữu thường. Ông nói: “Nếu không, thì xin cho tôi chở về một xe đất cặp la kéo được, vì tôi tớ ngài sẽ không còn dâng lễ cho một thần linh nào khác ngoài Thiên Chúa, Chúa của Israen”.
Bởi vì theo quan niệm thời bấy giờ, đất nước nào thì thần linh ấy. Naaman đã tin Chúa của Israen thì phải thờ Ngài trên đất của Ngài. Ðất cát xứ Syri không xứng đáng với Ngài nữa vì là đất của dân ngoại và đã ra nhơ nhớp vì tà thần. Nay trở về quê quán, Naaman phải đem một ít đất Do Thái về để dựng bàn thờ mới trên đất ấy mà thờ phượng Thiên Chúa. Nếu Êlisê cho phép làm như vậy, Naaman mới chắc chắn nhà tiên tri đã tin mình và coi mình như tín hữu. Và vì thế lời xin của Naaman còn là một lời tuyên xưng đức tin chân chính.
Chúng ta phải cảm phục ông, cũng như chúng ta thường cảm phục đức tin của những người mới trở lại. Chúng ta thấy họ sau khi đã nhận biết Chúa thì thành khẩn muốn theo Chúa cho đến cùng. Họ muốn là những tín hữu một trăm phần trăm, khiến chúng ta, những người “đạo cũ, đạo dòng” phải suy nghĩ.
Câu chuyện Naaman và đức tin của ông đã được Ðức Giêsu nhắc lại để nêu gương cho môn đệ của Người. Chúng ta còn phải đọc đi đọc lại cũng với nhiều gương sáng khác để thấm thía những bài học mà Chúa muốn dùng lương dân để nói với chúng ta. Cũng trong chiều hướng đó, phụng vụ hôm nay còn muốn chúng ta đọc thêm đoạn Tin Mừng Luca.
Qua trang Tin Mừng, ta chỉ thấy có một người đã nhận ra ơn của Chúa. Người ấy thấy rằng ơn cứu độ bây giờ ở nơi Ðức Giêsu. Người ấy trở lại thờ lạy Người. Ðền thờ Chúa chân thật từ nay không còn nằm nơi có tư tế đạo cũ nữa. Ðền thờ ấy bây giờ là chính Chúa Giêsu. Thành ra đã thực hiện Lời Chúa Giêsu nói với người phụ nữ xứ Samaria trong sách Tin Mừng Gioan: Ơn giải thoát khơi nguồn tự Do Thái… nhưng sẽ đến giờ – và là ngay bây giờ -, những kẻ thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Cha trong Thần Khí và Sự Thật.
Việc một người trong số 10 người được khỏi bệnh trở lại thờ lạy Ðức Giêsu phải chăng muốn ám chỉ những điều ấy? Và người ấy lại là một người Samaria dị chủng duy nhất. Tác giả Luca đợi đến lúc này mới nói lên quốc tịch của người ấy. Chín người kia là Do Thái. Chúa Giêsu nói: “Không phải là cả 10 người được sạch ư? Chín người kia đâu?”. Có một màu sắc đau xót và phiền trách trong câu hỏi này. Nó nói lên lòng của tác giả Luca khi thấy Chúa mang ơn cứu độ đến cho cả Do Thái lẫn Hy Lạp, thế mà kìa xem dường như chỉ có dân ngoại chen vào nhà Chúa.
Chúa Giêsu bảo người kia để kết luận: “Hãy chỗi dậy mà đi. Lòng tin của ngươi đã cứu ngươi”. Chúng ta tự nhiên muốn hỏi, phải chăng lời này ám chỉ rằng những người kia không được khỏi bệnh? Không chắc. Tôi dám nghĩ Chúa Giêsu đâu có hẹp hòi gì! Người chẳng cần rút lại một ơn đã ban. Nhưng có thân thể lành mạnh mà không được vào Nước Trời thì nào ích gì? Ðiều cốt yếu mà người Samaria kia đã được là “được cứu”, tức là được ơn cứu độ, được tình thương của Chúa cứu thế. Người bảo anh ta: Hãy chỗi dậy mà đi đi. Những từ ngữ này gợi đến mầu nhiệm phục sinh sống lại, chỗi dậy khỏi sự chết và đời sống cũ; và nhắc chúng ta nhớ đến việc Ðức Giêsu đang đi lên Giêrusalem để được vinh hiển. Ðó là con đường mà người Samari, tức là lương dân từ nay sẽ đi để sống đạo, sống đời sống Kitô hữu để theo Ðức Kitô đến vinh quang.
Để diễn bày lòng biết ơn, chúng ta hãy học lấy thái độ của người Samari trong bài Tin mừng hôm nay. Cũng tương tự, tướng Naaman, vua nước Aram sau khi khỏi bệnh đã đến cám ơn ngôn sứ Elisa, và dâng lễ vật tạ ơn Đức Chúa. Còn chúng ta, chúng ta thực hành lòng biết ơn như thế nào.
2022
ĐỪNG “DỬNG DƯNG” VÀ “VÔ CẢM” NHƯ THẾ!
25.9 Chúa Nhật thứ Hai Mươi-Sáu Mùa Quanh Năm
Am 6:1,4-7; Tv 146:7,8-9,9-10; 1 Tm 6:11-16; Lc 16:19-31
ĐỪNG “DỬNG DƯNG” VÀ “VÔ CẢM” NHƯ THẾ!
Cuộc sống đời này không phải là hưởng thụ, nhưng là phục vụ. Người nghèo được Thiên Chúa quan tâm đặc biệt. Vì họ thường bị bóc lột và lãng quên. Thánh Phaolô khuyên nhủ tín hữu hãy biết trông đợi ngày Chúa quang lâm, để số phận mỗi người được phân định rõ ràng.
Tin mừng hôm nay thuật lại câu chuyện về một ông nhà giàu và người hành khất La-da-rô nghèo khó. Ông nhà giàu thì ăn mặc sung sướng đang khi La-da-rô có cuộc sống rất tồi tệ. Nhưng sau khi cả hai đều chết đã được Thiên Chúa xét xử công bình: La-da-rô thì được an ủi ngồi trong lòng tổ phụ Áp-ra-ham, đang khi ông nhà giàu phải chịu đau khổ trong hỏa ngục.
Ông nhà giàu không có tên, nhưng lại rất giàu; còn Ladarô chỉ có một sự giàu có, đó là cái tên. Hai người không có tương quan gì với nhau cả.
Ông nhà giàu không làm điều gì xấu về luân lý cả; ông chưa hề từ chối Ladarô một điều gì, vì Ladarô cũng chưa xin gì cả. Bản văn chỉ nói rằng ông có một chương trình sống như chương trình một ông nhà giàu khác đã phác ra, nhưng đã không thể thực hiện trọn vẹn vì cái chết đến sớm: “Cứ nghỉ ngơi, cứ ăn uống vui chơi cho đã” (Lc 12,19).
Y phục thường xuyên của ông là lụa là gấm vóc: mỗi ngày ông đều mặc “gấm tía và vải lanh mịn”, chứ không chỉ vào một số ngày đặc biệt. “Gấm tía” rất đắt, nên chỉ giới thượng lưu vương giả mới dám dùng. “Vải lanh mịn” cũng là thứ hàng hiếm, ngay tại Rôma. Thế mà ông nhà giàu mặc mỗi ngày! Thường mỗi gia đình có một bữa ăn chính mỗi ngày; còn trong nhà của ông nhà giàu, bữa ăn chính này, mỗi ngày, lại là một yến tiệc. Chắc chắn ông nhà giàu không ăn mặc và ăn uống sang trọng hào nhoáng như thế cho riêng ông, ông phải có các khách mời. Ông đã sống như một ông vua.
Các thính giả có thể khó chịu vì bức tranh này, vì dường như “bôi bác” người nghèo. Nhưng Chúa Giêsu sắp chuyển sang vấn đề cách thức sử dụng của cải và lý do vì sao của cải không cứu được mà lại tiêu diệt người chủ của. Chính bài học hệ trọng này cho hiểu vì sao Chúa Giêsu giới thiệu quá chi tiết hình ảnh ông nhà giàu, một hình ảnh ở mức độ nào đó đang có trong mỗi một người, ở dạng hiện thực hay ở dạng nguyện ước.
Thế rồi Chúa Giêsu đưa ra một hình ảnh đối ngược tối đa với ông nhà giàu: một người nghèo mạt. Bản văn không nói là anh này sống đúng đắn về luân lý. Anh có một tên, “Ladarô” có nghĩa là “Thiên Chúa giúp đỡ”, một cái tên có ý nghĩa đối với “những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù” (Lc 14,13.21). Ladarô nghèo khó lại mụn nhọt đầy mình. Phải chăng Thiên Chúa sẽ giúp đỡ Ladarô qua trung gian ông nhà giàu? Anh không thể đi lang thang đây đó mà xin ăn. Ladarô cần có bạn bè để giúp anh tìm được thức ăn. Họ đã bỏ anh nằm trước cổng nhà ông nhà giàu, một vị trí mà một người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù, người không được mời, có thể ở gần chủ nhà nhất. Ông chủ và các khách mời không thể nào không biết có anh này ở ngoài cổng, và quả thật, ông nhà giàu đã gọi tên anh khi anh đang ở trong lòng tổ phụ Abraham.
Ladarô đói, anh thèm được ăn những thứ thừa thãi trên bàn người giàu và các thực khách rơi xuống. Rất có thể mấy con chó dưới gầm bàn được hưởng những thứ này. Mà nếu vậy, hẳn là Ladarô mong được không phải ở giữa những thực khách, mà là ở giữa những con chó. Chỉ có mấy con chó hoang đến liếm ghẻ chốc của anh. Phải chăng chúng săn sóc anh? Nếu thế, ông nhà giàu không giúp đỡ anh bằng mấy con chó. Nhưng cũng có thể hiểu việc mấy con chó đến liếm mụn nhọt cho anh như là một tình trạng bị bỏ rơi, không được ai giúp đỡ, mà còn bị đàn vật tấn công nữa.
Bức tranh Chúa Giêsu phác ra kết thúc tại điểm này: đây là một “kết thúc mở”. Tình trạng mâu thuẫn đã rõ. Chúa Giêsu không mô tả thêm gì; điều này có nghĩa là bao lâu hai nhân vật trên còn sống, không có gì thay đổi cả: mỗi người cứ tiếp tục như thế cho đến chết. Dù sao, tác giả Lc không hề xác định rằng ông nhà giàu xấu xa, hay là Ladarô là điển hình của người tốt. Đấy là những vấn đề nằm ngoài bản văn.
Tác giả chỉ mô tả cuộc sống của hai bên: một bên thì ăn tiệc, còn bên kia thì ăn xin; một bên thì ăn mặc sang trọng, còn bên kia thì gần như trần truồng.đây là hai kiểu mẫu song đối đang đứng trước mặt nhau, nhưng không có đối thoại. Mặc dù có sự gần kề thể lý hằng ngày, dụ ngôn lại cho thấy sự xa cách là có thật. Đàng khác, sự kiện họ không nói với nhau là một yếu tố không phài không đáng kể, nhất là trong một dụ ngôn kết thúc bằng việc kêu gọi lắng nghe (16, 29.31).
Nhà phú hộ không bị kết án vì của cải của mình, ông bị kết án vì bênh vô cảm, không có khả năng cảm thương đồng loại là Lagiarô, đại diện cho tiếng kêu thầm lặng của người nghèo thuộc mọi thời đại và sự mâu thuẫn của một thế giới, trong đó các của cải và tài nguyên mênh mông nằm trong tay một ít người.
Đây là một bài học đắt giá cho mỗi người chúng ta. Vậy, hãy mở tâm hồn đối với những người đang sống trong tình trạng bấp bênh, đau khổ; những anh chị em bị tước đoạt phẩm giá. Hãy phá vỡ hàng rào của sự dửng dưng lãnh đạm là thái độ đang lan tràn, che đậy sự giả hình và ích kỷ.
Vui mừng thực thi những công việc bác ái về thể lý và tinh thần, “để thức tỉnh lương tâm ngái ngủ của chúng ta trước thảm trạng nghèo đói” và đừng quên rằng “vào cuối đời, chúng ta sẽ bị phán xét về đức bác ái” (lời Thánh Gioan Thánh Giá).
Xin Chúa đánh động trái tim chúng ta, để chúng ta nhận ra những người nghèo khó, rách rưới, đang cần đến miếng cơm của thương xót, chiếc áo của lòng từ bi, che phủ những vết ghẻ chốc, vực dậy và gìn giữ phẩm giá cao quý của con người, và không từ chối giúp đỡ họ.