2023
Xin Chúa chữa cho ta khỏi mù
19.3. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Tư Mùa Chay
1 Sm 16:1,6-7,10-13; Tv 23:1-3,3-4,5,6; Ep 5:8-14; Ga 9:1-41; Ga 9:1,6-9,13-17,34-38
Xin Chúa chữa cho ta khỏi mù
Tin mừng hôm nay nói đến rất nhiều nhân vật nhưng chỉ có một người là sáng mắt thực sự. Người có mắt sáng là người biết nhìn nhận sự việc đúng sự thật. Người sáng mắt không lệch lạc về quan điểm, về sự việc. Người sáng mắt biết nhận định đúng về những gì đang diễn ra chung quanh. Đó là anh mù từ thuở mới sinh. Anh mù về thể xác nhưng sáng về tinh thần. Anh đã dám nhìn nhận sự thật cho dù vì đó mà anh bị trục xuất khỏi cộng đoàn. Anh đã công khai nói lên niềm tin của mình vào Đấng đã chữa lành cho anh. Cho dù anh gặp nhiều sự chống đối, nhiều hiểm nguy nhưng anh vẫn phải nói đúng sự thật về những gì đã diễn ra trong cuộc đời anh.
Nhưng tiếc thay nhiều người mắt sáng nhưng lại tối tâm hồn. Đó là các biệt phái đầy kiêu căng đã không thể nhìn thấy quyền năng của Chúa đang hiển thị trước mặt các ông. Đó là cha mẹ của anh mù vì sợ hãi đã lẩn trốn sự thật, không dám nói đúng sự thật cũng đồng nghĩa chấp nhận mình mù loà giữa đời. Người biệt phái vì lòng ghen ghét mà họ đã có cái nhìn lệch lạc về việc làm của Chúa Giêsu. Cha mẹ anh mù vì cầu an nên thiếu trách nhiệm với con và với người đã cứu con mình. Xem ra bệnh mù về tâm hồn có muôn vàn nguyên nhân dẫn đến mù loà. Và xem ra bệnh mù thể xác thì ít hơn bệnh mù về tinh thần. Bởi lẽ, mỗi một cách sống sai với lương tri con người đều được coi là căn bệnh mù loà của tâm hồn
Có những người mắt sáng nhưng lại nhìn sự vật qua lăng kính của những tư tưởng sai lầm, do đó đã trở thành mù. Một sự mù quáng còn trầm trọng và tai hại hơn cả cái mù nơi thể xác, vì nó khép kín tâm hồn trước tình thương và ơn sủng của Chúa. Đó là trường hợp của bọn Biệt phái trong đoạn Tin Mừng sáng hôm nay.
Thực vậy, đầu mối câu chuyện chỉ vì Chúa Giêsu đã chữa lành cho một người mù vào đúng ngày nghỉ lễ. Luật về ngày nghỉ lễ do bọn Biệt phái chủ trương cấm làm những việc Chúa Giêsu đã làm. Thế nhưng Chúa Giêsu đã làm điều cấm ấy, cho nên Ngài chỉ là một kẻ tội lỗi. Mà đã tội lỗi, thì không thể nào là người bởi Thiên Chúa, do đó không thể làm được phép lạ.
Cái lý luận chặt chẽ ấy đã che mắt họ, không cho họ nhận biết điều lạ lùng đang xảy ra. Được đặt trước sự thực, nhưng họ lại tìm cách chối bỏ sự thực ấy: Kẻ được chữa lành không phải là người mù họ thường thấy, nhưng chỉ là một người giống như hắn. Họ đã muốn phủ nhận ngay chính người được chữa lành. Họ hạch hỏi và làm khó dễ cả người cha lẫn người mẹ. Bản thân anh cũng bị tra hỏi, tất cả như muốn anh chối bỏ chính cái ơn huệ, chính cái thực tế diễn ra nơi con người anh.
Thế nhưng cuộc hạch hỏi này lại cho chúng ta thấy người sáng suốt lại chính là anh mù. Còn kẻ mù lại là bọn Biệt phái, vốn tự nhận mình là thông suốt đạo lý và lề luật. Anh mù đã muốn đi từ thực tế không thể chối cãi được, tìm hiểu về con người đã làm phép lạ, để rồi cuối cùng anh không phải chỉ được chữa để nhìn thấy sự vật chung quanh, mà còn được nhận biết ánh sáng của niềm tin, nhìn nhận Chúa Giêsu chính là Đấng từ trời đến, để thông chia cho mọi người sự sống Thiên Chúa.
Trong khi đó bọn Biệt phái lại muốn đi từ một cách hiểu về đạo giáo của họ để phán xét sự thật. Vì họ đã sai lầm trong cách hiểu và lý luận của mình, nên họ đã bị bưng bít, không thể nhận ra được sự thật, cũng như ý nghĩa của sự thật ấy.
Chúa Giêsu đã đảo ngược các hoàn cảnh. Người mù tin ở Ngài thì được khỏi và được dẫn đến chỗ nhìn nhận mạc khải của Chúa. Trái lại những kẻ vẫn tự khoe là thông thái và sáng suốt thì lại không thấy được Đấng đem ánh sáng cứu rỗi đến cho con người. Họ tự giam mình trong tối tăm của sự chết.
Như vậy, hai giai đoạn trong dấu lạ chữa lành người mù từ thuở mới sinh của Chúa Giêsu được lên đến cao trào khi anh mù tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu. Việc tuyên xưng niềm tin ấy là một dấu hiệu cho thấy anh mù được chữa trị tận căn bệnh của mình. Chúa Giêsu đã mở mắt cho anh nhìn thấy con đường dương gian, nhưng trên hết và tuyệt vời nhất là Ngài cho anh nhìn thấy con đường đưa đến sự sống vĩnh cửu. Tuyên xưng niềm tin vào Chúa Giêsu là mở ra cho Anh con đường sống mãi mãi.
Đây cũng là hoàn cảnh của chúng ta. Thực vậy, một cản trở không nhỏ trên con đường đến với Chúa và nhận ra tiếng Ngài trong những biến cố của cuộc sống đó là cứ bám víu vào những tiên kiến và tự mãn với những điều chúng ta đã biết, bằng sự rập khuôn và óc câu nệ. Tất cả tạo nên một thứ hàng rào kiên cố ngăn cản chúng ta tiếp cận với sự thật để được cứu rỗi. Những người thủ cựu và cố chấp giống như những kẻ đeo cặp kính màu xám, thì nhìn cái gì cũng hoá ra xám. Họ giống như những anh mù sờ voi, phùng má trợn mắt bảo vệ lập trường của mình, mà chẳng ai nắm được sự thật.
“Thà thắp nên một ngọn nến, còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Chúa Giêsu đến và làm cho anh được thấy ánh sáng. Nhưng hành động của Chúa Giêsu đã tạo nên xáo trộn. Tất cả đều bị lôi cuốn vào một cuộc tranh tụng sôi nổi. Họ đã chứng kiến phép lạ nhưng sự việc xảy ra không đúng lúc, bởi vì là ngày Sabát. Đàng khác một số người lại nghĩ rằng, một kẻ tội lỗi không thể làm dấu lạ! Người mù đã được sáng mắt. Đó là sự thực hiển nhiên không thể chối cãi, nhưng không ai dám tin vào mắt của mình. Cha mẹ của anh mù thì tìm cách thoái thác, tránh né. Anh mù thì quả quyết rằng, Chúa Giêsu là một tiên tri.
Bài Tin Mừng cũng phản ảnh hình ảnh thực tế của cuộc sống con người ngày nay! Chúng ta có mắt nhưng nhiều khi giống như kẻ đui mù. Nhiều người đi ngang qua nhìn thấy anh mù nhưng làm ngơ giống như không hề nhìn thấy. Tương tự như thế, chúng ta chỉ để mắt nhìn những gì chúng ta muốn, chúng ta chỉ quan tâm đến những người chúng ta có cảm tình. Dĩ nhiên trong ngày có rất nhiều hình ảnh đập vào mắt, đặc biệt qua mạng lưới truyền hình với kỹ thuật tân tiến hiện nay. Chúng ta phải chọn lựa nhưng dựa vào tiêu chuẩn nào đây? Đam mê dễ biến thành cực đoan, tình yêu cũng có thể thành mù quáng! Nhiều người vẫn tự hào nhìn nhận mình thuộc thành phần trí thức, gia đình gia giáo nhưng không bao giờ để tâm chú ý tới những cảnh bất công, bần cùng bên lề đường, những kẻ sống trong cảnh man rợ đáng sợ hơn cảnh mù loà gấp ngày lần. Đó chính là thái độ sống của những kẻ nghĩ rằng mình là kẻ sáng mắt, nhưng trong thực tế còn tệ hơn kẻ đui mù.
Người mù đã được Chúa Giêsu chữa lành nhưng đồng thời cũng lột trần bộ mặt thật của những người chung quanh. Anh đã làm chứng tá cho Chúa Giêsu. Người chính là ánh sáng đích thực, có sức làm tan biến lớp sương mù dầy đặc che phủ tầm mắt của chúng ta. Qua bí tích Rửa tội Chúa Giêsu đã ban tặng cho chúng ta một cặp mắt lành mạnh. Nhờ đó chúng ta có thể khám phá những khía cạnh tốt đẹp nơi người anh em sống bên cạnh chúng ta. Con mắt là cửa sổ của linh hồn. Chúng ta chỉ nhìn và khám phá ra thế giới muôn màu ở chung quanh với con mắt đầy tình thương, với con mắt của đức tin, của tâm hồn.
Mù loà thể xác đã là một bất hạnh không ai mong đợi, nhưng mù loà tâm hồn còn là một tai hoạ khủng khiếp nhất. Người ta có thể trở nên mù loà khi cố chấp không đón nhận sự thật: Sự thật về cái yếu đuối bất toàn của mình, sự thật về một Đức Kitô bởi Thiên Chúa mà đến, Đấng là Ánh sáng thế gian. Chính Người đã tuyên bố: “Sự thật sẽ giải thoát chúng con” (Ga 8,32). Sự thật chính là Đức Kitô và những gì Người đã loan báo. Tin vào sự thật là tin rằng Người sẽ giải thoát chúng ta khỏi mù lòa thiêng liêng. Tin vào sự thật là tin rằng Người là Ánh sáng thế gian. Tin vào sự thật là sẵn sàng bước theo Ánh sáng của Người.
Xin thương mở mắt tâm hồn ta như Chúa đã mở mắt người mù bẩm sinh được thuật lại trong Tin Mừng hôm nay để ta được thoát khỏi tối tăm lầm lạc và được hoan hỉ bước đi trong ánh sáng Tin Mừng.
2023
Nguồn nước đời đời
12.3. Chúa Nhật
Chúa Nhật thứ Ba Mùa Chay
Xh 17:3-7; Tv 95:1-2,6-7,8-9; Rm 5:1-2,5-8; Ga 4:5-42; Ga 4:5-15,19-26,39,40-42
Nguồn nước đời đời
Mùa Chay cho chúng ta một cơ hội quý báu để nhìn lại chính mình: Có những an toàn giả tạo mà chúng ta cứ khư khư giữ lấy, không chịu vất bỏ trên con đường lữ hành. Mùa Chay nhắc nhở chúng ta rằng: muốn sống tốt, cần phải duyệt xét lại đời mình. Để Mùa Chay này tràn đầy ơn phúc, giúp chúng ta trở thành những người dễ thương, quảng đại và chân thực, chúng ta phải chết đi cho những lối sống trần tục, bằng cách hi sinh và từ bỏ chính mình, để có một cuộc hoán cải thực sự như người đàn bà Samaria mà Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta. Muốn trở về thật sự cần phải có ơn Chúa giúp, chúng ta sẽ kín múc ơn thánh ấy nơi bàn tiệc Thánh Thể.
Tin Mừng hôm nay mô tả cuộc gặp gỡ của Chúa bên bờ giếng Giacóp với thiếu phụ Samaria. “Khi ấy, Ngài tới một thành gọi là Sykar thuộc xứ Samaria… ở đó có giếng của Giacóp, Chúa Giêsu đi đường mệt, nên ngồi nghĩ trên miệng giếng” giữa trưa hè. Chắc là Chúa ngồi sát mặt đất, lưng tựa vào bờ thành giếng. Ngài ngồi đó mệt mỏi, sau một khoảng đường dài qua xứ Samaria.
Ngài ngồi đó để chờ đợi. Ngài biết muốn gặp gỡ đàn ông thì ra phố chợ, muốn gặp gỡ đàn bà thì ra bờ giếng. Ngài ngồi đó để đón chờ chúng ta, vừa mệt vừa đói. Trời đã về trưa, nắng, nóng. Ngài ngồi đó để chờ một người đàn bà mà cuộc đời có nhiều sóng gió, đang ỏn ẻn đầu đội vò, tay xách gầu đi ra.
Cuộc gặp gỡ tương tợ như những lần gặp gỡ do Thánh Kinh kể lại giữa Giacóp và Rachel (Stk 29), giữa Moisê và các con gái của Rơuel-Yêthrô (Xh 2. 15-22) bên một suối nước. Chúa nói: “Xin bà cho tôi uống nước”. Ngài khát. Nhưng khát gì?
Lời nói của Chúa hàm chỉ hai ý nghĩa. Ngài khát sau những giờ cuốc bộ dưới nắng hè, nhưng Ngài khát khao cứu các linh hồn đang cần một thứ nước thiêng liêng cao trọng hơn.
Cuộc đối thoại giữa Chúa và người đàn bà kênh kiệu bắt đầu. Từ bối cảnh một giếng nước sâu đến thảm trạng một tâm hồn ngụp lặn trong tội lỗi, Chúa Giêsu đã khơi lên một giếng nước hằng sống “mà ai uống thì không bao giờ còn khát nữa”.
Mỗi ngày, thiếu phụ Samaria phải ra giếng kín nước. Nhưng càng uống lại càng khát cũng như càng đi sâu vào biển tình càng thấy thiếu thốn. Đời của bà là một chuỗi thất bại. Chúa đưa bà đến chỗ phải thú nhận. Tuy nhiên bà vẫn còn tin cậy và tìm kiếm, vẫn mong chờ Đấng Messia đến, “Ngài sẽ loan báo hết mọi sự”.
Và giòng nước đã vọt lên: “Hỡi bà, Đấng ấy chính là Ta, Người đang nói với bà đây”. Thiếu phụ đã cầu được ước thấy, được rửa sạch. Giòng nước Ngài ban “trở thành mạch nước vọt đến sự sống đời đời”.
Thiếu phụ Samaria không còn nghĩ đến giếng, đến vòi, vội chạy về thành báo tin cho mọi người biết để họ cùng nhìn nhận Ngài là Đấng Cứu Thế.
Gioan qua từng giai đoạn đã mạc khải cho chúng ta mầu nhiệm Chúa Giêsu. Ngài là một người tha hương mỏi mệt, một người Do thái bị khinh chê, một nhà tiên tri đọc được trong tâm hồn, là Đấng Messia đến để dạy cách thờ phượng trong tinh thần và chân lý, là Đấng Cứu chuộc của nhân loại. Đó là tóm lược bài Tin Mừng của Chúa ngày hôm nay.
Ta thấy Chúa Giêsu cũng đang chờ đợi người thiếu phụ Samari bên bờ giếng của Tổ phục Giacob giữa ngã ba đường, tại làng Sikar. Từ một lời xin được nước uống, Chúa Giêsu đã khéo léo bắt chuyện và dần dần đưa người thiếu phụ từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác: từ chỗ chỉ thấy người đối thoại với mình là một người lữ hành, một người Do Thái kỳ lạ, dám tiếp xúc với một người phụ nữ Samari vốn thù nghịch với mình, đến chỗ coi người lữ hành nầy như một tổ phụ – như Tổ phụ Giacod – còn hơn nữa, như một tiên tri và cuối cùng nhận ra Ngài là Đấng Cứu Thế đã được trông đợi từ lâu. Chị liền vội vàng chạy đi thông báo cho dân thành đến với Đấng Cứu Thế. Chính ngài sẽ ban cho chúng ta “Nước hằng sống”. Bao lâu chưa tìm ra nguồn nước đó, con người sẽ chết đói, chết khát.
Cuộc hẹn bất ngờ đã làm đảo ngược tình huống: Bây giờ người đói, người khát không phải là Chúa Giêsu nữa mà chính là người thiếu phụ Samari. Chính chị là người phải mở miệng xin Chúa cho nước uống, không phải thứ nước từ trong giếng kia, uống vào chỉ đỡ khát trong chốc lát; còn Ngài, Ngài sẽ ban cho thứ nước ban sự sống đời đời, như Ngài nói: “Ai uống nước Tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước Tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước chảy vọt mang lại sự sống đời đời”.
Qua cuộc gặp gỡ này, Chúa Giêsu đã làm một cuộc cách mạng. Cách mạng về khoảng cách địa lý, về vai vế để đi đến một cuộc cách mạng vĩ đại, đó là cách mạng tâm hồn. Nhờ cuộc cách mạng tâm hồn này, mà từ nay, giữa người Dothái và người Samari được sống và sống dồi dào khi thờ phượng Chúa không chỉ ở trên núi này hay núi nọ, mà ngay tại trong tâm của mình qua Thần Khí và sự thật.
Qua câu chuyện giữa Chúa Giêsu và người phụ nữ bên bờ giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã mặc khải hai điều:
Trước tiên, Chúa Giêsu mặc khải cho người phụ nữ biết rằng: Ngài chính là Đấng Kitô, là Mêsia mà muôn dân mong đợi từ lâu. Ngài chính là nguồn mạch phát sinh sự sống, nên gặp được Ngài là gặp được chính nguồn sự sống bất diệt: “Ai uống nước này, sẽ lại khát. Còn ai uống nước tôi cho sẽ không bao giờ khát nữa.Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Ga 4, 13-14). Như vậy, Chúa Giêsu chính là “Nước Hằng Sống”.
Thứ đến, Chúa Giêsu mặc khải thêm: đã đến lúc không còn chuyện phân biệt rằng Thiên Chúa của tôi và Thiên Chúa của chị nữa. Không còn chuyện cùng một Thiên Chúa chúng ta thờ, nhưng lại chỉ thờ ở đây mà không thờ chỗ khác. Vì thế, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Nhưng giờ đã đến – và chính lúc này đây, giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Người như thế” (Ga 4, 23).
Như vậy, điều mà Chúa Giêsu đã mặc khải cho người phụ nữ khi xưa, cũng chính là điều mà Ngài muốn mặc khải cho chúng ta ngày hôm nay.
Chúa Giêsu là niềm khát vọng thầm kín, sâu xa của mọi người và mỗi người chúng ta trong cái khát vọng cơm nước tầm thường hằng ngày của chúng ta, để rồi chúng ta cảm thấy không phải chỉ cần có thứ cơm nước đó mới sống được, không phải chỉ có những thực tại vật chất ấy là đáng kể trong đời sống mà còn có những khát vọng tình yêu và hạnh phúc, độc lập và tự do, công lý và hòa bình…, và lắng sâu trong tâm hồn còn có khát vọng sự sống vĩnh cửu; Nước Hằng Sống.
Chúng ta phải làm sao để cảm thấy Chúa cần thiết cho đời sống của chúng ta, gắn liền với cuộc sống chúng ta như ánh nắng, như khí thở, như cơm ăn, như nước uống hằng ngày: “Ai uống nước Tôi ban cho sẽ không bao giờ khát nữa… và sẽ được sống muôn đời”.
2023
Chúa biến hình giữa đời thường
5.3. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Hai Mùa Chay
St 12:1-4; Tv 33:4-5,18-19,20-22; 2 Tm 1:8-10; Mt 17:1-9
Chúa biến hình giữa đời thường
Chúa nhật trước, Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay, Phụng vụ dẫn chúng ta vào sa mạc để chứng kiến Chúa Giêsu chịu cám dỗ. Chúa nhật hôm nay, chúng ta được mời gọi cùng lên núi để chiêm ngưỡng Chúa Giêsu biến hình. Hai sự kiện diễn tả hai khía cạnh cuộc đời Chúa Giêsu, Ngôi Lời nhập thể: trong sa mạc, Chúa thể hiện nhân tính của Người: yếu đuối, mỏng giòn, đói khát; trên núi cao, Chúa tỏ ra thiên tính của Người: cao cả, sáng láng, thánh thiện. Hai nhân vật quan trọng của Cựu ước cũng xuất hiện để đàm đạo với Chúa, kèm theo lời chứng của Chúa Cha: “Đây là Con yêu dấu của Ta. Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy nghe lời Người”.
Lời Chúa hôm nay cho chúng ta cơ hội nhìn lại đức tin của Abraham, ông phải rời bỏ nơi “chôn nhau cắt rốn” để đi đến một vùng đất ông không hề biết. Nhưng với niềm tin cậy vào Thiên Chúa, ông vội vã thực hiện ngay lệnh Chúa truyền. Đức tin và lòng vâng phục của Abrahamtrở nên gương mẫu cho tất cả chúng ta noi theo. Bài Tin Mừng mô tả biến cố đáng kinh ngạc trong cuộc đời Chúa Giêsu đó là biến hình trên núi. Các Tông Đồ đã hoàn toàn bị hoảng hồn khi nhìn thấy vinh quang Đức Kitô trong phút giây, và nhất là khi được mạc khải cho biết Thầy của mình là ai: “Này là con Ta yêu dấu, hãy nghe Lời Người”.
Biến cố này nói với chúng ta, không chỉ về những giai đoạn thử thách và khổ đau của chúng ta, mà còn về vinh quang tiềm tàng dành sẵn cho chúng ta, với điều kiện là chúng ta luôn luôn đi theo con đường của Chúa với một niềm tin tưởng cậy trông, không bao giờ ngã lòng thất vọng. Tuy nhiên trong đời sống, với những yếu hèn tội lỗi, chúng ta hay đánh mất niềm tin và lòng trông cậy vào Chúa mỗi khi bị thử thách.
Chúa Giêsu tỏ lộ vinh quang của Người cho ba môn đệ trên một ngọn núi ở Galilê. Nhưng trước khi đạt tới vinh quang Phục Sinh, Chúa Giêsu phải vâng phục thánh ý Thiên Chúa, trải qua những thử thách đau khổ trong cuộc thương khó. Các môn đệ chứng kiến cuộc biến hình cũng được Chúa Giêsu nhắc nhở rằng các ông chỉ được phép nói về biến cố này sau khi Người từ cõi chết sống lại.
Họ chỉ hiểu được vinh quang của Chúa Giêsu khi chứng kiến cuộc khổ hình và sự phục sinh của Người. Chúa Giêsu chiến thắng sự chết và tội lỗi bằng chính hiến tế của mình trên thập giá. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa vì nhờ kế hoạch của Ngài và tình yêu hiến tế của Chúa Giêsu mà chúng ta hưởng nhận ơn cứu độ.
Ngay sau khi tiên báo lần thứ nhất về cuộc thương khó cho các môn đệ (x. Mt 16,21), Chúa Giêsu biểu lộ cách công khai về vinh quang Phục Sinh của Người cho Phêrô, Gioan và Giacôbê trên một ngọn núi cao ở Galilê. Trong cuộc biến hình này, Thiên Chúa Cha mặc khải căn tính đích thực của Chúa Giêsu: “Có tiếng từ đám mây phán rằng: Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người”.
Hình ảnh của Môsê và Êlia xuất hiện bên cạnh và đàm đạo với Chúa Giêsu mang nhiều ý nghĩa. Hôm nay Đức Giêsu tỏ lộ căn tính của mình cho các môn đệ như Môsê được Thiên Chúa mặc khải cho biết căn tính của Ngài trên núi Sinai và ngôn sứ Êlia cũng được Thiên Chúa tỏ lộ căn tính của mình trên núi Khôrếp qua một cơn gió thoảng nhẹ (x. 1 V 19,9-18).
Hình ảnh Môsê và Êlia đứng bên cạnh Chúa Giêsu muốn nói lên rằng Chúa Giêsu là Đấng mà Lề Luật và các ngôn sứ nói đến. Người là Đấng hoàn tất lời hứa cứu độ của Thiên Chúa. Hơn nữa, qua cuộc biến hình của Chúa Giêsu, Thiên Chúa muốn truyền đạt cho các môn đệ một sứ điệp quan trọng đó là “các ngươi hãy vâng nghe lời Người”. Tất cả những Lề Luật và lời các ngôn sứ giờ đây được hội tụ nơi Chúa Giêsu. Vâng nghe lời Chúa Giêsu là vâng nghe thánh ý Thiên Chúa. Hãy đem lời Chúa Giêsu vào trong cuộc sống. Việc Chúa Giêsu cho các môn đệ cảm nghiệm cuộc biến hình và vinh quang là để chuẩn bị cho các môn đệ về cuộc thương khó của Người tại Giêrusalem. Chúa Giêsu phải trải qua đau khổ để bước vào vinh quang Phục Sinh. Chính vì thế, Người cấm các môn đệ nói về kinh nghiệm biến hình trước khi Người phục sinh.
Chúa Giêsu là Con Thiên Chúa. Qua mầu nhiệm Nhập thể, Người trở nên hoàn toàn giống chúng ta – ngoại trừ tội lỗi. Qua mầu nhiệm nhập thể, Người “biến hình” để trở nên giống như người trần thế. Trên núi cao, khi Chúa “biến hình” lại là lúc Chúa trở về tình trạng thiêng thánh nguyên thuỷ. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu đang “biến hình” giữa chúng ta.
Quả thế, chúng ta đâu có nhìn thấy Người bằng con mắt thể lý. Chúa hiện diện qua Lời Chúa, qua cộng đoàn cầu nguyện, qua người nghèo khổ và nhất là trong Bí tích Thánh Thể. Chúa đang biến hình trong đời sống của chúng ta. Mùa Chay là thời điểm giúp chúng ta nhận ra Chúa Giêsu đang hiện diện, để chúng ta gặp gỡ Người. Thánh Phaolô nhắc chúng ta hãy nhận ra Chúa Giêsu là Con yêu dấu của Chúa Cha. Người là Đấng tiêu diệt thần chết và đang hiện diện giữa chúng ta (Bài đọc II).
Hôm nay Chúa vẫn đang nói với chúng ta những điều ấy. Đừng sợ trước thân phận yếu hèn và tội lỗi, hãy trở về với Chúa vì Chúa bao dung nhân từ. Đừng sợ khi giúp đỡ anh chị em bất hạnh cô thế, cô thân, vì Chúa sẽ thưởng cho lòng quảng đại rộng rãi của chúng ta. Đừng sợ trước những bất ổn của cuộc ống do bạo lực, cạnh tranh và chia rẽ, vì Chúa hiện diện giữa cuộc đời. Người là Đấng đang biến hình giữa chúng ta.
Mùa Chay là dịp để chúng ta thức tỉnh trở về qua việc thống hối ăn năn, và quyết tâm đổi mới cuộc sống của mình ngày càng nên hoàn thiện hơn.
2023
Vào sa mạc
26.2. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Nhất Mùa Chay
St 2:7-9; Tv 51:3-4,5-6,12-13,14-17; Rm 5:12-19; Rm 5:12,17-19; Mt 4:1-11
Vào sa mạc
Hôm nay là Chúa nhật thứ nhất Mùa Chay. Tất cả lời Chúa hôm nay gồm tóm trong câu Chúa tuyên bố trong bài Phúc âm: “Thời giờ đã mãn và Nước Thiên Chúa đã gần đến. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng.”
Trước hết, thời giờ đã mãn, Nước Trời sắp đến. Mùa Chay là mùa hy vọng, mùa tình thương. Thánh Phaolô, trong Thư gửi Giáo đoàn Roma, đã nói lên một câu khiến cho chúng ta tràn đầy hy vọng: “Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa đã dồn mọi người hết thảy vào đàng bất tuân (tội lỗi), ngõ hầu Người dủ lòng thương hết mọi người” (Rom 11, 32).
Thánh Phêrô nói như một bài giáo huấn cho tân tòng sắp chịu phép rửa tội, cũng nói lên ơn cứu chuộc tràn đầy rằng: “Chúa Kitô đã chết một lần cho tội lỗi chúng ta… thay cho chúng ta là kẻ bất công, để hiến dâng chúng ta cho Thiên Chúa.” Ám chỉ phép rửa tội, Thánh Tông đồ nhắc lại sự tích ông Noe xưa, vâng lời Chúa đóng một chiếc tàu giữa tiếng bàn tán, dị nghị, chế riễu, nhưng nhờ đó mà gia đình ông được cứu sống. Thì ngày nay, nhờ phép rửa tội chúng ta cũng được cứu thoát, nhờ công nghiệp Chúa Kitô phục sinh. Ngài đã thắng sự chết và tội lỗi để ban cho chúng ta sự sống của chính Thiên Chúa. Ở đâu tội lỗi tràn ngập thì ơn Chúa cũng tràn đầy.
Trong ba tường thuật của Phúc Âm nhất lãm về việc Chúa bị ma quỉ cám dỗ, Phúc Âm của Marcô ngắn gọn và chỉ có ý đưa dẫn đến sứ vụ Tông đồ của Chúa. Ngài chỉ viết: “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó suốt bốn mươi đêm ngày, chịu sata cám dỗ, sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài”.
Hoang địa hay sa mạc là chốn thinh không, là nơi không có tiếng nói ngoài tiếng gió vi vu hay tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng kêu cầm thú. Một nơi im lặng nhưng không phải là không có tiếng nói và có nhiều thứ tiếng nói sẽ vọng lên. Tiếng nói của chính lương tâm mình, tiếng nói của dĩ vãng, của một đoạn đời đã qua, một khoảng đời sắp tới. Nhất là tiếng nói của Chúa, vì “Người thích nói trong im lặng”. Vì thế, ngày xưa bao nhiêu vị Thánh đã vào trong hoang địa Thebes bên Ai cập để sống đời khổ tu, hoặc như Thánh Hiêrônimô xa lánh sự ồn ào thành phố Lamã để vào trong sa mạc gần Nagiarét suy niệm Thánh Kinh.
Nhưng hoang địa cũng là nơi thần bí, như lời Chúa phán: “Khi tà thần ra khỏi người nào, thì nó đi dong dài những nơi khô cháy tìm chỗ nghỉ ngơi…”. Trong chốn thinh không im lặng, ma quỉ thường hay hoạt động, quấy phá. Ma quỉ đã hiện ra nhiều lần dưới nhiều hình quái ghê sợ để buộc Thánh Antôn bỏ cuộc nhưng ngài đã xua đuổi và trở nên tổ phụ đời sống tu trì. Về đêm, trong im lặng, ma quỉ quấy phá Thánh Vianney trong 35 năm.
Sở dĩ như vậy vì trước đây, Marcô nói, “Thánh Thần thúc đẩy Chúa Giêsu vào hoang địa và Ngài ở đó bốn mươi đêm ngày, chịu satan cám dỗ”. Vị Thánh Sử không nói đến diễn tiến của cuộc cám dỗ nhưng chúng ta cũng hiểu được qua các cuộc đương đầu với ma quỉ trong khi Ngài ra giảng đạo. Marcô còn thêm một chi tiết: Ngài sống chung với dã thú và các Thiên Thần hầu hạ Ngài. Phải chăng Marcô muốn ám chỉ quang cảnh an bình mà Chúa Giêsu, vị Adam mới, đã sống. Ngài đã toàn thắng con rắn hoả ngục dữ tợn muốn cám dỗ Ngài bỏ cuộc, và mở cửa trời cho chúng ta vào hưởng hạnh phúc với các Thiên Thần.
Hôm nay cùng với Chúa Giêsu, chúng ta đi vào sa mạc của chúng ta. Không phải sa mạc của muôn thú và quỷ ma, nhưng là sa mạc của tâm hồn chúng ta. Theo Kinh Thánh, sa mạc là nơi thoát tục để con người gặp gỡ và sống thân mật với Thiên Chúa tình yêu. Ngôn sứ Hôsê đã diễn tả ý nghĩa của sa mạc rất đúng khi ông viết: “Thiên Chúa phán: Ta sẽ dẫn người yêu của Ta vào sa mạc, để ở đó Ta thủ thỉ với nàng” (Hs 2,16). Sa mạc là nơi sống gần gũi với Thiên Chúa, sống trong tình thân mật của Ngài. Vì thế, chúng ta hãy bịt tai trước những tiếng ồn ào bên ngoài, những lời xúi giục, dụ dỗ của Satan.
Ngày nay và hằng ngày vẫn luôn có những tiếng xúi giục như vậy. Đừng tưởng chỉ có tiếng nói bên ngoài, tiếng của Satan có thể nói lên ngay trong tâm hồn chúng ta. Nó xúi giục chúng ta đừng sống theo Lời Chúa. Sống theo Tin Mừng sẽ thiệt thòi lắm! Sống như người ta, làm như người đời, dễ biết bao, lợi biết mấy! Nhưng nghe theo những tiếng xúi giục ấy là phản bội Chúa, là từ bỏ Chúa, là lựa chọn không đi theo Chúa nữa. Như thế là lại rơi vào số phận khốn khổ của Ađam khi xưa, của dân Do Thái ngày trước. Tất cả đã sa ngã trước thử thách. Chúng ta hãy theo gương Chúa Giêsu, chọn tình Chúa làm hạnh phúc, lấy Lời Chúa làm lẽ sống, làm sức mạnh, để chiến thắng tội lỗi và sống gắn bó với Thiên Chúa.
Bắt đầu Mùa Chay thánh, chúng ta cũng đang được Thần Khí đẩy vào “hoang địa” để thực hiện cuộc xuất hành của chính mình và của cộng đoàn mình. Đối với tuyệt đại đa số chúng ta, đây sẽ không phải là một hoang địa theo nghĩa nơi chốn địa dư, mà là theo nghĩa biểu tượng – thần học. Đó là nơi chúng ta thực hiện cuộc hành trình đời mình như dân Israel xưa thực hiện cuộc hành trình đi từ cõi nô lệ Ai Cập về miền đất hứa “chảy tràn sữa và mật”. Đó là nơi xảy đến cuộc xuất hành của chúng ta, cuộc xuất hành đưa chúng ta vào trong đất hứa là Nước Thiên Chúa. Hoang địa, theo nghĩa đó, là chính môi trường sống và làm việc cụ thể của chúng ta trong hiện tại.
Sau cùng, lời rao giảng của Chúa Giêsu gồm tóm trong hai điểm: Hãy ăn năn sám hối và tin vào Tin Mừng. Ta phải ăn năn sám hối tội lỗi. Đó là phần tiêu cực của mọi cuộc trở lại. Nhưng không phải chỉ có thế, có biết bao nhiêu đạo giáo còn đòi hỏi sự hảm mình phạt xác hơn chúng ta. Nhưng điều tích cực là TIN vào Chúa Kitô, chỉ có Chúa mới có thể cứu vãn chúng ta. Đức tin và sám hối là hai yếu tố của mọi cuộc trở lại.