2023
Yêu kẻ thù
19.2. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Bảy Mùa Quanh Năm
Lv 19:1-2,17-18; Tv 103:1-2,3-4,8-10,12-13; 1 Cr 3:16-23; Mt 5:38-48
Yêu kẻ thù
Đối với nhiều người trong chúng ta, hai tiếng “yêu thương” chỉ dành cho các thành viên trong gia đình, họ hàng và một vài người bạn thân cận. Có chăng chỉ là lòng “thương hại” những người nghèo khó, cô đơn và bất hạnh, vì họ là những người không làm gì hại đến mình và gia đình mình. Chúng ta chẳng bao giờ đề cập đến việc yêu thương những đối thủ của mình. Chúng ta còn gán cho họ những cái tên đáng sợ và dạy cho con cháu sống xa tránh họ.
Chúng ta đang sống trong một thế giới bị chi phối bởi những thứ luật có thể nói là “luật rừng”, thứ luật mà chỉ bảo vệ cho một số kẻ có quyền, có tiền, thứ luật không có chút nào là công bằng, cướp nhà, cướp đất của người nghèo, để chia chác, để làm giàu cho những kẻ có quyền có chức, bắt người vô tội, đánh đập đàn áp những người bênh vực cho chân lý. Một thế giới đầy dẫy những toan tính ích kỷ, vì lợi ích của mình, sẵn sàng chà đạp lên công lý, diệt trừ lẫn nhau, có người phải mất mạng, nhiều người thì “thân bại danh liệt”. Anh em lỡ làm thiệt hại một thì bắt đền gấp mười. Có những người chỉ vì cái lợi trước mắt đã cố tình gây ra tai nạn, rồi nằm ăn vạ để bắt người khác phải đền oan uổng.
Chúa Giê-su muốn nâng nền luân lý nhân loại lên một tầm cao mới. Người đề xuất một giải pháp tối ưu cho mọi tranh chấp xung đột giữa người với người, đó là: “Hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em” và “Đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt 5, 39.44) Trước lời dạy nầy, những người nông nổi cho là nhu nhược, là hèn nhát, là yếu đuối; chỉ những ai khôn ngoan sâu sắc mới nhận thấy đây là giải pháp tối ưu để giải quyết mọi xung đột và đem lại an hòa.
Hãy yêu thương kẻ thù. Cứ sự thường người ta đối xử với nhau theo cái luật: Răng đền răng, mắt đền mắt, ân đền oán trả, hòn đất ném đi hòn chì ném lại. Chúng ta yêu thương những người yêu thương chúng ta và ghét bỏ những kẻ ghét bỏ chúng ta. Kẻ nào làm hại chúng ta thì chúng ta sẵn sàng để trả đũa, và người đời cho đó là lẽ thường tình, là thái độ khôn ngoan.
Thế nhưng, qua đoạn Tin Mừng nay Chúa Giêsu bảo chúng ta phải vượt lên trên cái lẽ thường tình ấy. Ngài phán với chúng ta: Hãy yêu thương kẻ thù và làm ơn cho những kẻ ghét bỏ chúng ta. Bởi vì có thực hiện được điều đó, chúng ta mới xứng đang là con cái Thiên Chúa và mới trở nên giống Ngài, Đấng đã cho mưa xuống trên người lành cũng như trên kẻ dữ.
Chúa Giêsu không phải chỉ truyền dạy chúng ta mà chính Ngài đã làm gương trước cho chúng ta trong việc thực thi giới luật yêu thương này. Đúng thế, Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước, ngay cả trong khi chúng ta còn nằm trong tội lỗi, còn quay lưng chống lại Ngài như lời thánh Phaolô trong bức thư gởi tín hữu Rôma đã viết: Thiên Chúa đã chứng tỏ tình yêu của Ngài đối với chúng ta, đó là khi chúng ta còn tội lỗi, thì Đức Kitô đã chết để chúng ta được sống.
Đúng thế, Ngài luôn luôn mong ước những điều tốt, những điều phải cho những kẻ bách hại Ngài. Ngài chịu đau khổ và chịu chết để những ai bắt Ngài phải đau khổ và phải chết được hết đau khổ và chết chóc. Trước sự từ chối của con người không đáp trả tình thương yêu của Ngài, Ngài vẫn duy trì cái quyết định tuyệt đối của Ngài, đó là yêu thương chúng ta mãi mãi.
Chúa Giêsu dạy yêu thương, chính Ngài đã sống yêu thương, Ngài luôn tỏ tình yêu thương những kẻ thù nghịch với Ngài, mặc dù họ ghen ghét Ngài vô cớ, họ luôn tìm dịp để tố cáo Ngài, xuyên tạc lời Ngài giảng dạy. Đối với Giuđa là kẻ phản bội, Chúa không tố cáo đích danh trước mặt các môn đệ, Chúa còn ngồi ăn cùng bàn và rửa chân cho y nữa.
Khi Giuđa dẫn quân lính đến bắt Chúa trong vườn cây dầu, Chúa vẫn ôn tồn nói với Giuđa: “Giuđa ơi, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao?” (Lc 22, 48). Vì yêu thương Giuđa nên nhiều lần Chúa Giêsu nhắc nhở, cảnh tỉnh để ông ta thay đổi việc làm xấu mà được hưởng ơn cứu độ. Trên thập giá, trước khi tắt thở, Chúa vẫn dùng chút hơi tàn lực kiệt để cầu nguyện cho kẻ đóng đinh Người “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34). Vì vậy, thánh Phaolô cũng nói: “Đức Kitô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi, đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5, 8).
Chúa mời gọi mỗi người chúng ta hãy nên hoàn thiện “Anh em hãy nên hoàn thiện, như Cha anh em trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5, 48). Để nên hoàn thiện, chúng ta hãy loại bỏ thứ “luật rừng”, thứ luật luôn diệt trừ lẫn nhau, loại bỏ những toan tính, ích kỷ, hẹp hòi, tham lam, gian dối, lừa lọc. Chúng ta hãy thực thi giới luật Chúa Giêsu đã truyền dạy là “mến Chúa và yêu người” yêu thương tất cả mọi người không phân biệt bạn hay thù, yêu thương và tha thứ cho những người làm thiệt hại đến mình, dù là vô tình hay hữu ý.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn mọi lề luật. Ngài đã dạy cho các môn đệ một cách cư xử mới trong tương quan với người bất hòa, phụ nữ, bản thân, người làm ác và kẻ thù. Cao điểm của cách cư xử nầy là làm điều tốt và yêu thương họ như Cha trên trời và cũng như Chúa Giêsu. Đó là con đường trọn lành mới mà Ngài muốn con người bước vào.
2023
Luật tình yêu
12.2. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Sáu Mùa Quanh Năm
Hc 15:16-21; Tv 119:1-2,4-5,17-18,33-34; 1 Cr 2:6-10; Mt 5:17-37; Mt 5:20-22,27-28,33-34,37
Luật tình yêu
Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu lại khẳng định một điều xem ra mâu thuẫn với thái độ của Ngài: Ta đến để kiện toàn, chứ không phải là để huỷ bỏ lề luật và các tiên tri. Trong lời khẳng định này của Chúa Giêsu, chúng ta phải hiểu là không khi nào lề luật, ngay cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất, sẽ mất hiệu lực, nghĩa là sẽ mất tính cách bắt buộc. Vậy phải cắt nghĩ làm sao điều xem ra như mâu thuẫn giữa lời tuyên bố và hành động của Ngài đối với lề luật?
Chúa Giêsu tuyên bố Ngài là Đấng kiện toàn lề luật và kiện toàn ở đây không có nghĩa là tuân giữ lề luật một cách chín chắn, trọn đủ, mà có nghĩa là làm trọn, làm cho lề luật có đầy đủ ý nghĩa của nó.
Khi Thiên Chúa tuyển chọn và kết giao ước với dân riêng của Ngài, Ngài đã ban cho họ mười điều răn, cốt yếu là những điều cấm, quy định ranh giới sinh hoạt mà kẻ thuộc về Ngài không thể vượt qua. Ở đây cũng cần phải lưu ý mười điều răn không phải là những điều kiện tiên quyết để Thiên Chúa ký kết giao ước với dân Ngài, mà trái lại, giao ước đã được ký kết do sáng kiến của chính Thiên Chúa, rồi sau đó, mười điều răn mới được mạc khải cho dân Ngài.
Bên trong ranh giới được ấn định bởi những điều cấm là cả một khoảng trống. Khoảng trống này dần dà được lề luật lấp đầy, rồi đến lượt các luật sĩ giải thích và những giải thích này đã biến thành một mạng lưới dày đặc những quy định, những nghi thức len lỏi vào từng chi tiết của cuộc sống con người và xã hội. Và như thế con người lâm vào tình trạng mình có vì lề luật, trở nên nô lệ cho lề luật, thay vì lề luật có là vì con người.
Trong tình trạng này, lề luật bỗng được giao cho vai trò môi giới trong quan hệ giữa con người và Thiên Chúa. Người ta được quan hệ với Thiên Chúa hay bị cắt đứt mối liên hệ ấy một cách máy móc do tuân giữ hay không tuân giữ các điều khoản của lề luật. Hơn nữa, các luật sĩ đã đề ra những điều khoản mà không phải ai cũng có thể tuân giữ được. Người ta không tuân giữ được, không phải vì thiếu thiện chí, thiếu lòng đạo đức, nhưng vì những điều kiện khách quan của cuộc sống, của nghề nghiệp không cho phép, nên quả thực, các luật sĩ đã khoá cửa Nước Trời đối với đông đảo thành phần trong dân Chúa.
Chính những lề luật và cách hiểu về vai trò của lề luật này đã bị Chúa Giêsu đả phá. Ngài phủ định vai trò môi giới của lề luật. Đối với Ngài, điều quyết định trong mối liên hệ giữa con người và Thiên Chúa, cũng như giữa con người với nhau không phải là việc tuân giữ các điều khoản của lề luật mà chính là lời của Chúa Giêsu và việc thi hành lời của Ngài: Ngay cả kẻ được coi là công chính, vì trung thành tuân giữ các điều khoản của lề luật cũng được đòi hỏi phải trở lại với lời của Ngài.
Chúa Giêsu đã quả quyết, luật căn bản nhất mà con người phải tuân giữ, đó là luật yêu thương. Tin Mừng hôm nay chứa đụng giáo huấn rất phong phú về nội dung này. Không thể viện cớ một luật lệ hay một tập quán thế tục để hành động ngược với giới luật yêu thương. Khởi đi từ luật yêu thương này, người ta mới có thể xây dựng tình bằng hữu, đạo gia đình và tình nghĩa phu phụ.
Chúa Giêsu đến để kiện toàn lề luật của Cựu Ước. Hơn thế nữa, Người mặc cho lề luật một giáo trị cao siêu hơn. Nếu luật Cựu Ước quy định kẻ sát nhân phải ra tòa, thì luật Tân Ước, những ai giận ghét anh chị em mình hoặc chửi mắng rủa xả họ với những lời thóa mạ, thì đã đáng hình phạt hỏa ngục trầm luân. Những quy định của luật Tân Ước nhằm bảo vệ và cổ võ thực thi bác ái giữa những người đồng loại.
Trong Giáo huấn của Chúa Giêsu, luật yêu thương không chỉ dừng lại ở những cấm đoán, nhưng còn tiến xa hơn bằng những lời khuyên làm việc tốt cho tha nhân, đến mức yêu tha nhân như chính mình. Để giáo huấn của mình có độ xác tín, Đức Giêsu đã làm gương cho chúng ta noi theo qua việc rửa chân cho các môn đệ và nhất là qua cái chết trên thập giá.
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần phúc âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo được quy chiếu vào lòng mến. Mến Chúa thì phải yêu mến anh em. Tình yêu đó đòi hỏi phải sống hiệp thông với nhau trong yêu thương và tha thứ. Tình yêu đó đòi hỏi tránh xa những mâu thuẫn, những ghen ghét, giận hờn. Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Giáo lý của Chúa tóm gọn trong hai điều: Mến Chúa và yêu người. Đức ái là giới răn quan trọng nhất trong cuộc sống người Kitô hữu. Vì Yêu, Chúa gọi ta vào đời. Ta sa ngã Chúa cứu chuộc. Ta mất ơn nghĩa tử Chúa cho làm kẻ thừa tự. Ta chết trong tội Chúa ban sự sống đời đời. Nhận biết những điều trên để dâng lời tạ ơn là sống khôn ngoan. Kitô hữu có bổn phận học và thực hành, yêu người khác như Chúa yêu ta. Giữ trọn lề luật mà thiếu yêu thương là phạm luật. Luật đến từ con tim yêu mến, thứ tha. Bỏ luật con tim là bỏ luật Chúa. Thờ phượng Chúa mà thiếu thực hành đức ái đến từ đức tin nông cạn.
2023
Ánh sáng cho trần gian
5.2. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Năm Mùa Quanh Năm
Is 58:7-10; Tv 112:4-5,6-7,8-9; 1 Cr 2:1-5; Mt 5:13-16
Ánh sáng cho trần gian
Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Chính Ngài đã khẳng định: “Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.” (Ga 8,12). Chúa Giêsu chính là ánh sáng chiếu soi tâm hồn, để dẫn bước chúng ta trên con đường tìm gặp Chúa. Khi Ngài bắt đầu cuộc sống công khai, Tin mừng đã áp dụng lời tiên tri Isaia sau đây cho Ngài: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.” (Mt 4,16).
Ánh sáng đó chính là con người của Ngài: Đó là ánh sáng bao phủ các mục đồng khi sứ thần loan báo tin vui; đó là ánh sáng của ngôi sao lạ chỉ đường cho các nhà đạo sĩ đến gặp Hài Nhi Giêsu; đó là ánh sáng chói lòa bao phủ lấy Ngài trong biến cố biến hình trên núi Taborê; đó là ánh sáng đã quật ngã Phaolô trên đường Đamát, khiến Phaolô từ một người bắt bớ các Kitô hữu đã trở thành người loan báo Tin Mừng.
Ánh sáng đó chính là Lời của Ngài: Lời của Ngài được ghi chép lại trong các sách Tin mừng. Lời đó cũng chính là giáo huấn của Ngài. Thật vậy, Lời của Ngài đã xua trừ ma quỷ. Lời của Ngài đã chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Lời của Ngài đã cho kẻ chết sống lại. Lời của Ngài đã biến đổi biết bao tâm hồn từ trong tối tăm của sự chết đến ánh sáng huy hoàng. Lời của Ngài là ngọn đèn soi cho con bước là ánh sáng chỉ đường con đi (Tv 119,105). Giải thích Lời Ngài là đem lại ánh sáng cho kẻ đơn sơ thông hiểu am tường (Tv 119,130).
Ánh sáng đó chính là hiệu quả các Bí tích mà Ngài đã thiết lập: Bí tích Rửa tội xóa tan tội Nguyên tổ và các tội riêng, giúp con người trở nên con Thiên Chúa; Bí tích Giao hòa, trả lại cho con người tội lỗi trở lại tình trạng nguyên thủy ban đầu; Bí tích Thánh Thể, gia tăng ơn thánh hóa và giúp cho người Kitô hữu đón nhận chính Đức Giêsu…Như vậy, các Bí tích nhằm mục đích giúp con người lãnh nhận thêm ánh sáng của Đức Giêsu.
Có lần Chúa Giêsu đã xác quyết: Ta là ánh sáng thế gian. Ai theo Ta sẽ không đi trong đêm tối, nhưng sẽ có ánh sáng đời đời. Và hôm nay Chúa dạy các môn đệ hãy bắt chước Ngài để trở nên ánh sáng thế gian: Người ta không thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt nó trên giá đèn hầu soi sáng cho mọi người trong nhà.
Chúng ta phải là đèn soi cho kẻ khác bằng lời nói, bằng việc làm và bằng gương sáng. Nếu Phúc Âm không được rao giảng người ta sẽ quên nó. Trái lại, nếu mỗi người chúng ta thắp lên cây đèn nhỏ của mình, thì không những nhà riêng của chúng ta mà cả thế giới sẽ được soi sáng. Sự sáng của các con sẽ chiếu soi trước mặt thiên hạ và mọi người sẽ ngợi khen Thiên Chúa.
Chúa Giêsu nói về chính mình: “Ta là ánh sáng thế gian” (Ga 8, 12). “Bao lâu Chúa Giêsu còn ở thế gian, Ngài là ánh sáng thế gian” (Ga 9, 5). Bao lâu thân xác Ngài còn đang hiện diện nơi trần thế, chính Ngài là ánh sáng thế gian. Nhưng khi cuộc đời trần thế của Ngài không còn nữa, các môn đệ của Ngài phải đóng vài trò ánh sáng thế gian. Vì họ đã được hấp thụ bởi chính nguồn ánh sáng là Đức Kitô, nên phải phản chiếu lại ánh sáng đó (Ga 13,15). Chúa Giêsu cũng muốn chúng ta, những Ki-tô hữu hãy sống như con cái sự sáng, hãy tỏa ánh sáng Chúa Ki-tô, tỏa hương thơm tốt lành là những việc thiện để người đời nhận biết Chúa Ki-tô, Ánh Sáng của Muôn Dân và Đấng Cứu Độ duy nhất của trần gian.
Ngày chịu phép rửa tội, mỗi người chúngta đã đón nhận cây nến được đốt lên từ ánh sáng Chúa Kitô. Qua lời hứa của cha mẹ đỡ đầu, chúng ta chấp nhậ phản chiếu ánh sáng Đức Kitô đó bằng chính đời sống Kitô hữu của mình. Ánh sáng của cây nến là biểu tượng của Đức Tin trong đời sống Kitô hữu.
Sách giáo lý công giáo số 1216 xác định rằng: Trong phép rửa tội, người được rửa tội nhận lầy Ngôi Lời là “ánh sáng đích thực soi sáng mọi người” (Ga 1, 9) và sau khi được soi sáng như thế họ
Chúng ta chỉ là ánh sáng thế gian trong mức độ khi chúng ta để Chúa Kitô biến đổi cuộc sống mình, để cho ánh sáng của Chúa biến đổi cuộc đời chúng ta trở thành cuộc đời của Chúa. Lời Chúa phán: “Chúng con là ánh sáng”, không là một lời khoe khoang để chúng ta hãnh diện, tự kiêu, nhưng là một mệnh lệnh, một đòi hỏi, mỗi người phải là một Chúa Kitô khác, hãy sống sự sống của Chúa, hành động như Chúa để trở thành một Chúa Kitô khác.
Ánh sáng không thiên vị một ai, không thích người này và cũng không chê người kia. Ánh sáng của mặt trời lan tỏa khắp nơi, chiếu sáng mọi người và mọi nhà. Ánh sáng của người Kitô cũng vậy,“ánh sáng của anh em phải ở trên cao, vượt trên mọi danh vọng, tiền tài, lạc thú. Không phải để khoe khoang, tự kiêu, nhưng là để tôn vinh Cha, Đấng ngự trên trời” (Mt.5:16).
Ánh sáng của cây nến tuy nhỏ bé nhưng cũng đủ toả sáng cả một căn phòng, làm cho bóng tối phải lùi bước. Một khi ánh sáng của ngọn nến bừng lên, đó cũng là lúc ngọn nến bị đốt cháy, bị tan biến đi. Người Kitô cũng vậy, phải mất đi cho chính mình, phải tan biến đi để “Ánh Sáng Chúa Kitô“ được loan toả khắp nơi, khắp mọi nhà, khắp mọi tâm hồn.
Khi bị đốt cháy, ngọn nến nhận sức nóng từ ngọn lửa và cho đi ánh sáng. Người Kitô trong thế giới hôm nay cũng phải giống như vậy. Nhưng trong suy tư thinh lặng, tôi tự hỏi lòng mình: “Tôi đang nhận điều gì trong cuộc sống hôm nay? Và tôi sẽ cho đi những gì cho người anh em xung quanh tôi?”
2023
Phúc thật
29.1. Chúa Nhật Chúa Nhật thứ Tư Mùa Quanh Năm
Xp 2:3,3; Tv 146:6-7,8-9,9-10; 1 Cr 1:26-31; Mt 5:1-12
Phúc thật
Trong dịp đầu năm, chúng ta thường cầu chúc cho nhau 365 ngày hạnh phúc. Trong những bức thư, chúng ta thường nguyện ước cho nhau gặp nhiều may mắn, thế nhưng trái chín hạnh phúc vẫn ở ngoài tầm tay của chúng ta, vì cả chúng ta lẫn những người chung quanh không ai có đủ yêu thương và đủ quyền phép để thực hiện những điều mong ước. Bởi đó đau khổ vẫn chồng chất trong cuộc sống, đau khổ vì nghèo đói, vì bệnh tật, vì chết chóc. Đau khổ vì thất bại, vì chia ly, vì những cám dỗ đè nặng. Và hạnh phúc mãi mãi vẫn là một khát vọng chưa một lần nguôi ngoai.
Tất cả những gì mà người ta nghĩ là hạnh phúc thì Chúa Giêsu lại không nghĩ vậy, giáo huấn của Người hoàn toàn biệt lập về sự hạnh phúc là gì, làm thế nào và khi nào chúng ta đạt được hạnh phúc. Tất cả chúng ta đều đã nghe lời giáo huấn của Người nhưng có lẽ chúng ta hoàn toàn thất bại trong việc nắm bắt cho dù là một đặc tính duy nhất mà Chúa Giêsu đã tuyên bố.
Nhiều người ao ước được giàu có và danh tiếng như ông vua phần mềm máy tính này, thậm chí chỉ xin được bằng cái số lẻ của ông thì đã vô cùng hạnh phúc. Bởi vì “Có tiền mua tiên cũng được!” Hay như thời nay người ta thường nói:
“Đồng tiền là Tiên là Phật
Là sức bật của tuổi trẻ,
Là sức khỏe của tuổi già,
Là cái đà của danh vọng,
Là cái lọng che thân,
Là cán cân công lý,
Đồng tiền là hết ý”.
Nhưng Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu lại tuyên bố: “Hạnh phúc thay ai có tâm hồn nghèo khó” (Mt 5,3). Hơn nữa, Người còn cho là hạnh phúc những ai hiền lành, sầu khổ, bị bách hại…
Giáo Hội gọi đó là Hiến Chương Nước Trời, nghĩa là chỉ những ai sống và thực thi những điều ấy mới được làm công dân của Nước Trời.
Với người không có niềm tin thì đó là một điều hết sức nghịch lý. Nghèo khó, hiền lành, sầu khổ, bị bách hại… không thể mang lại hạnh phúc mà chỉ đem đến những bất hạnh thiệt thòi, khinh bỉ mà thôi.
Như vậy phải chăng Chúa Giêsu ngăn cản nền văn minh tiến bộ của nhân loại đang vươn tới hùng cường, thịnh vượng sao? Phải chăng Người ủng hộ cho hành động bóc lột và đàn áp? Hoàn toàn trái lại. Người đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10). Vì thế, làm môn đệ Đức Giêsu là phải xua đuổi nghèo nàn và lạc hậu khỏi thế giới này, là phải đẩy lui đau khổ và bất công xa rời con người. Đó là những vị khách không mời mà đến, và chúng ta phải có nhiệm vụ tống khứ chúng ra khỏi mái nhà của nhân loại. Đây là mục tiêu giải quyết của Kitô giáo, và cũng là trách nhiệm của mỗi người tín hữu chúng ta.
Thực ra, ai cũng biết rằng nghèo không đương nhiên là khổ, đã đành rằng nghèo và khổ thường đi đôi với nhau. Trái lại, giàu có cũng không tất nhiên đem lại hạnh phúc. Vấn đề hạnh phúc chủ yếu ở tại cái Tâm. Bởi thế các bậc thánh nhân, bằng những ngôn ngữ khác nhau, nhưng hầu như đều nhất trí trong việc đề cao đời sống tâm linh. Đó chính là lý do tại sao Chúa Giêsu đề cao tâm hồn nghèo khó, hiền hậu, dám chấp nhận đau hkổ, yêu thích sự chính trực, thương xót anh em đồng loại, trong sạch và xây dựng hoà bình.
Thực vậy, những đức tính trên đây là những đức tính người nghèo của Thiên Chúa, theo truyền thống Kinh Thánh. Người nghèo của Thiên Chúa không phải là người có đời sống vật chất khó khăn túng quẫn, mà là kẻ luôn tin tưởng phó thác nơi Chúa, biết sống cho Ngài và cho anh em đồng loại. Lấy Chúa làm gia nghiệp và luôn sống trong tình liên đới với anh em. Thực thi điều răn quan trọng nhất là mến Chúa và yêu người.
Nói theo tư tưởng Đông phương, thì hạnh phúc chủ yếu ở chỗ thực hiện được sự hoà điệu giữa lòng mình với lòng trời, giữa lòng mình với lòng người, nghĩa là sống cho hợp lòng người và lấy lòng trăm họ làm lòng mình.
Trong tám mối phúc thật, Chúa Giêsu cho thấy hạnh phúc của chúng ta tuỳ thuộc vào mối tương quan ba chiều giữa chúng ta với Thiên Chúa, và giữa chúng ta với anh em đồng loại.
Tận thẳm sâu của tâm hồn, ai cũng có nỗi khao khát cháy bỏng được sống hạnh phúc, ai cũng muốn người khác đem lại phúc lộc cho mình. Nhưng hạnh phúc đích thực chỉ đến với những người biết đem lại hạnh phúc cho kẻ khác, và hết lòng quảng đại với tha nhân. Chúa Giêsu đã dạy: “Cho thì có phúc hơn là nhận” (Cv 20,35). Nhà truyền giáo Albert Schweiltzer quả quyết: “Người hạnh phúc nhất trong anh em là người đã tìm thấy con đường hiến thân phục vụ”.
Hạnh phúc đích thực không đo bằng của cải con người thu tích được, không tùy thuộc nơi những thành đạt mà họ có, cũng không đến từ danh vọng mà con người chiếm hữu, nhưng chính là do nơi họ biết hoàn toàn tín thác vào Chúa mà thôi. Sự giàu có đích thực là sự giàu có ở trái tim, không phải ở túi tiền.