2020
Can đảm lên !
CAN ĐẢM LÊN !
Trong thân phận làm người, Chúa Giêsu cũng phải đối diện với nỗi cô đơn. Ngài không lập gia đình, không có một người bạn đời để chia sẻ. Bù lại, Ngài có những người thân yêu ở làng Nazareth. Nhưng ngay cả cha mẹ Ngài cũng không hiểu hết được Ngài (Lc 2, 50). Khi đi rao giảng Tin Mừng, Ngài có những người bạn mới là các môn đệ.
Tiếc thay, họ không phải là những người luôn luôn hiểu Ngài. Ngài muốn chia sẻ cho họ tất cả cái riêng tư giữa Ngài với Cha. Nhưng họ chưa đủ sức kham nổi. Chúa Giêsu không phải là người thích cô đơn, khép kín. Ngài dễ đến với dân chúng, với mọi hạng người. Ngài gặp gỡ họ, loan Tin Vui, và cho họ được tâm thân an lạc. Các bệnh nhân, tội nhân, trẻ em, phụ nữ, cũng không ngại đến với Ngài để trò chuyện hay chia sẻ một bữa ăn.
Dù vậy tìm được một sự đồng cảm trọn vẹn nơi con người vẫn là điều khó đối với Chúa Giêsu, bởi lẽ Ngài còn thuộc về một thế giới khác trên cao. Ngài mãi mãi là một màu nhiệm đối với trí khôn hạn hẹp của con người. Chỉ khi trở về với nguồn cội đời mình, Chúa Giêsu mới ra khỏi được nỗi cô đơn trống trải ấy. “Tôi không (xét đoán) một mình, nhưng có tôi và Đấng đã sai tôi” (Ga 8, 16). Chính vì Chúa Giêsu luôn nói và làm mọi sự theo ý Cha, nên Ngài chẳng bao giờ cô đơn . “Đấng đã sai tôi vẫn ở với tôi; Người không để tôi một mình, vì tôi luôn làm những điều đẹp ý Người” (Ga 8, 29).
Vào giây phút chia ly này, khi Chúa Giêsu biết điều sắp xảy đến: “Anh em sẽ bị phân tán mỗi người mỗi ngả, và để Thầy một mình. Nhưng Thầy không một mình đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy” (c. 32). Chúa Giêsu không cô đơn trong cuộc sống, mà ngay cả khi Ngài kêu lớn tiếng trên thập giá : “Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Chúa bỏ tôi?” (Mc 15, 34), lúc đó lại là lúc Chúa Giêsu gần Cha hơn cả, kết hợp với Cha hơn cả. Chúa Giêsu thực sự chẳng bao giờ cô đơn tuyệt đối, vì Cha thực sự chẳng bao giờ bỏ Ngài, và Ngài cũng chẳng bao giờ bỏ Cha.
Chúa Giêsu khẳng định: “Trời đất qua đi, nhưng lời Thầy nói sẽ chẳng qua đâu” (Lc 21, 33). Thật vậy, thực tại trần thế này chỉ như ngôi nhà tạm bợ, mọi sự rồi sẽ qua đi, Lời Chúa thì tồn tại qua muốn thế hệ, đó là Lời sáng tạo, Lời thông ban sự sống và Lời Cứu Độ toàn thể nhân loại. Đây là điều mà Thánh sử Gioan đã xác quyết trong những trang đầu của Tin Mừng: “Từ nguyên thuỷ đã có Ngôi Lời, và Ngôi Lời vẫn ở với Thiên Chúa, và Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1, 1).
Mỗi người tín hữu kitô được mời gọi lắng nghe và thực hành Lời Chúa. Quả thật Lời Chúa không chỉ được nghe bằng đôi tai nhưng hơn cả cần được nghe bởi con tim. Một con tim biết rung lên những nhịp đập của tình yêu thương, lòng cảm thông, tâm hồn chia sẻ… sẽ lắng nghe được Lời Chúa và tiếng tha nhân, để từ đó sẽ có những lựa chọn, quyết định và hành động phù hợp với thánh ý Thiên Chúa.
Chúa không hứa với chúng ta ai theo Người thì sẽ được mọi tiện nghi, thuận lợi. Theo Chúa thì phải chấp nhận thử thách gian lao. Lịch sử Hội Thánh đã minh chứng điều đó. Điều quan trọng là chúng ta hãy tin tưởng vào sự chiến thắng của Chúa Giêsu Kitô Phục sinh, để can đảm, trung thành với ơn nghĩa Chúa, vượt qua mọi thử thách trong đời sống đức tin. Với cái nhìn đức tin, chúng ta nhận ra rằng, những thiên tai, bệnh tật, tai nạn… là những biến cố Chúa dùng để cảnh giác chúng ta điều chỉnh lại lối sống của mình cho phù hợp với Tin Mừng.
Có lẽ giữa muôn vàn thử thách, bách hại của thế gian đối với người Kitô hữu, nếu người nào luôn ở trong Chúa, gắn liền với Chúa, đều cảm thấy bình an sâu thẳm trong tâm hồn cho dù họ đau đớn, mất mát. Chúa tiên báo trước, để các môn đệ và ngay cả chúng ta không lạ lẫm gì khi mình đi ngược dòng với thế gian, bị thế gian cho rằng là những con người dại dột. Hơn nữa, các môn đệ phải hy sinh, đau khổ rất nhiều, chịu bách hại vì lẽ công chính, vì Nước Trời, vì Tin Mừng, vì chính Chúa Giêsu là niềm tin, là đối tượng tôn thờ duy nhất của họ.
Đời sống đức tin của các Kitô hữu mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Tin mừng hôm nay thì hoàn toàn khác. Ở giữa thế gian này, người tín hữu có thể phải chịu đủ mọi thử thách, thậm chí họ chẳng bao giờ được an ủi về mặt lợi lộc, vật chất thế gian. Nhưng họ vẫn có sự bình an, thanh thản trong thẳm sâu tâm hồn dù họ gặp phải muôn vàn khốn khó giữa cuộc sống cơm áo gạo tiền thường ngày.
Chúa Giêsu là sức mạnh và là niềm trông cậy của những ai tin tưởng nơi Ngài. Ngài là niềm hy vọng của những kẻ sầu khổ, thất vọng, là ánh sáng chiếu soi tăm tối. Chúa bảo chúng ta hãy can đảm lên, vì có Chúa ở bên, vì có Chúa là đấng thấu suốt tâm can mỗi người. Trong những gian nan khốn khó, chúng ta cũng hãy can đảm vì Ngài sẽ không cho những gì xảy ra quá sức chịu đựng; bởi Ngài đã chiến thắng sự dữ và thần chết. Vì tình yêu mà Chúa đã vượt thắng mọi sợ hãi, và chấp nhận khổ giá.
Cùng vác thập giá với Thầy là số phận của người môn đệ Ðức Kitô. Mặt khác, an bình và hy vọng là quà tặng của Ðấng Phục Sinh và là bảo chứng cho những người môn đệ trung tín sẽ được cùng phục sinh với Ngài. Người Kitô hữu không trốn chạy trước gian nan khốn khó nhưng chiến thắng nó bằng phương thế và tinh thần của Chúa Kitô. Mời bạn dùng tinh thần lạc quan Kitô đó để loan báo Tin Mừng Phục Sinh trong cuộc sống của mình.
Ta xin Chúa cho ta luôn can đảm, cho ta nhớ rằng Chúa đã không báo trước cho con nhuãng điều thuận lợi, may lành, mà là báo trước những sự đau khổ, bất lợi và thiệt thòi gắn liền với ý tưởng phụng sự Chúa . Vì thế, khi gặp những nghịch cảnh, tan không ngỡ ngàng nhưng biết đón nhận với lòng yêu mến Chúa. Với tình yêu, ta sẽ vượt qua tất cả. Khi ta thông phần vào thập giá Chúa thì ta cũng được chia sẻ phần vinh quang Phục sinh.
2020
Thứ Hai Tuần VII – Mùa Phục Sinh
Thứ Hai Tuần VII – Mùa Phục Sinh
Ca nhập lễ
Cv 1,8
Anh em sẽ nhận được sức mạnh của Thánh Thần, khi Người ngự xuống trên anh em. Bấy giờ anh em sẽ làm chứng cho Thầy, cho đến tận cùng trái đất. Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, chúng con nài xin Chúa ban sức mạnh Thánh Thần cho chúng con, để chúng con hằng nhận ra thánh ý và sống sao cho đẹp lòng Chúa suốt đời. Chúng con cầu xin …
Bài đọc 1
Cv 19,1-8
Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa ?
Bài trích sách Công vụ Tông Đồ.
1 Hồi ấy, trong khi ông A-pô-lô ở Cô-rin-tô thì ông Phao-lô đi qua miền thượng du đến Ê-phê-xô. Ông Phao-lô gặp một số môn đệ 2 và hỏi họ : “Khi tin theo, anh em đã nhận được Thánh Thần chưa ?” Họ trả lời : “Ngay cả việc có Thánh Thần, chúng tôi cũng chưa hề được nghe nói.” 3 Ông hỏi : “Vậy anh em đã được chịu phép rửa nào ?” Họ đáp : “Phép rửa của ông Gio-an.” 4 Ông Phao-lô nói : “Ông Gio-an đã làm một phép rửa tỏ lòng sám hối, và ông bảo dân tin vào Đấng đến sau ông, tức là Đức Giê-su.” 5 Nghe nói thế, họ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su. 6 Và khi ông Phao-lô đặt tay trên họ, thì Thánh Thần ngự xuống trên họ, họ nói tiếng lạ và nói tiên tri. 7 Cả nhóm có chừng mười hai người.
8 Ông Phao-lô vào hội đường, và trong vòng ba tháng, ông mạnh dạn rao giảng, thảo luận về Nước Thiên Chúa và cố gắng thuyết phục họ.
Đáp ca
Tv 67,2-3.4-5ab.6-7ab (Đ. c.33a)
Đ.Hỡi vương quốc trần gian,
nào hát khen Thượng Đế.
2Thiên Chúa đứng lên, địch thù Người tán loạn,
kẻ ghét Người phải chạy trốn Thánh Nhan.3Như làn khói cuộn, chúng bị Chúa cuốn đi ;
như sáp chảy tan khi vừa gặp lửa,
kẻ ác cũng tiêu vong khi giáp mặt Chúa Trời.
Đ.Hỡi vương quốc trần gian,
nào hát khen Thượng Đế.
4Những người công chính
múa nhảy mừng vui trước mặt Chúa Trời,
niềm hoan lạc trào dâng.5abHãy hát mừng Thiên Chúa, đàn ca kính danh Người,
hãy dọn đường cho Đấng ngự giá đằng vân.
Đ.Hỡi vương quốc trần gian,
nào hát khen Thượng Đế.
6Cha nuôi dưỡng cô nhi, Đấng đỡ bênh quả phụ,
chính là Thiên Chúa ngự trong thánh điện Người.7abKẻ cô thân, Thiên Chúa cho nhà cửa,
hạng tù đày, Người trả lại tự do hạnh phúc.
Đ.Hỡi vương quốc trần gian,
nào hát khen Thượng Đế.
Tung hô Tin Mừng
Cl 3,1
Ha-lê-lui-a. Ha-lê-lui-a. Anh em đã được trỗi dậy cùng với Đức Ki-tô, nên hãy tìm kiếm những gì thuộc thượng giới, nơi Đức Ki-tô đang ngự bên hữu Thiên Chúa. Ha-lê-lui-a.
Tin Mừng
Ga 16,29-33
Can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian.
✠Tin Mừng Chúa Giê-su Ki-tô theo thánh Gio-an.
29 Khi ấy, các môn đệ thưa với Đức Giê-su rằng : “Bây giờ Thầy nói rõ, chứ không còn dùng dụ ngôn nào nữa. 30 Giờ đây, chúng con nhận ra là Thầy biết hết mọi sự, và Thầy không cần phải có ai hỏi Thầy. Vì thế, chúng con tin Thầy từ Thiên Chúa mà đến.” 31 Đức Giê-su đáp : “Bây giờ anh em tin à ? 32 Này đến giờ -và giờ ấy đã đến rồi- anh em sẽ bị phân tán mỗi người một ngả và để Thầy cô độc một mình. Nhưng Thầy không cô độc đâu, vì Chúa Cha ở với Thầy. 33 Thầy nói với anh em những điều ấy, để trong Thầy anh em được bình an. Trong thế gian, anh em sẽ phải gian nan khốn khó. Nhưng can đảm lên ! Thầy đã thắng thế gian.”
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho của lễ tinh tuyền này thanh tẩy chúng con sạch muôn tội lỗi và tuôn đổ thần lực bởi trời xuống tâm hồn chúng con. Chúng con cầu xin …
Lời tiền tụng Phục Sinh hay Thăng Thiên
Lạy Chúa là Cha chí thánh là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Vì Chúa Giê-su, Vua vinh hiển, Ðấng chiến thắng tội lỗi và sự chết, trước sự ngỡ ngàng của các Thiên thần, (hôm nay) lên trời cao thẳm/ làm Ðấng trung gian giữa Thiên Chúa và loài người, Ðấng xét xử trần gian và là Chúa muôn loài.
Người lên trời/ không phải để lìa xa thân phận yếu hèn của chúng con, nhưng để chúng con là chi thể của Người, tin tưởng được theo Người đến nơi mà chính Người là Ðầu và là Thủ Lãnh của chúng con đã đến trước.
Vì thế, với niền hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh! …
Ca hiệp lễ
Ga 14,18 ; 16,22
Chúa nói :
“Thầy sẽ không để anh em mồ côi :
Thầy sẽ lại đến với anh em,
và lòng anh em sẽ vui mừng.” Ha-lê-lui-a.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, xin phù trợ chúng con là đoàn dân của Chúa, Chúa đã lấy bánh bởi trời nuôi dưỡng chúng con, xin cũng giúp chúng con từ bỏ nếp sống cũ để hân hoan bước vào đời sống mới nhờ kết hợp với Ðức Kitô phục sinh. Người hằng sống và hiển trị muôn đời.
2020
Chúa Thăng Thiên Để Ở Cùng
Chúa Thăng Thiên Để Ở Cùng
Một sự từ giã về phương diện không gian, để gần gũi theo cách vượt thời gian; một sự chia lìa trong thời gian, để ở lại siêu thời gian.
Đức Giêsu Phục Sinh muốn gặp các môn đệ tại nơi Người khởi sự việc loan báo tin mừng nước Thiên Chúa. Galilê miền đất của dân ngoại đã in đậm dấu ấn trong kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa, vì từ nơi ấy xuất hiện Ánh Sáng thần linh xua tan bóng tối của tội lỗi và tử thần, đập tan quyền lực Satan gông xiềng nhân loại từ bao đời. Bây giờ, cũng nơi ấy, Đức Giêsu Kitô đã cho các môn đệ thấy Người đã “xuyên thủng” cõi đất hạn hẹp, chết chóc này tiến về trời, lên nơi Người đã xuất phát, trở nên cầu nối giữa cõi trời và cõi đất; trở nên trung gian giữa con người và Thiên Chúa; trở nên Con Đường duy nhất dẫn người tin về cõi trời hiển vinh.
Galilê còn là nơi Đức Giêsu Phục Sinh, trong tư cách là Đấng đã được Thiên Chúa trao toàn quyền trên trời dưới đất, ban sứ vụ cho Nhóm Mười Một, để minh chứng họ đích thực là môn đệ, có sứ mạng làm cho công cuộc cứu độ của Đức Giêsu có sự liên tục, trải dài trên toàn cõi đất qua việc loan báo tin mừng, làm phép rửa nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần cho những ai tin và dạy họ tuân giữ những điều mà Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ. Như thế, sứ mạng của Đức Giêsu phục sinh được tiếp diễn và bây giờ qua họ, Người sẽ hoàn tất công việc của mình.
Việc trọng đại ấy xảy ra trên một ngọn núi. Người Do thái vẫn coi núi là nơi Thiên Chúa chọn để hiển linh, để ban giới luật và thông tỏ ý định của Người. Đức Giêsu trước khi công khai rao giảng tin mừng Nước Thiên Chúa, đã bị satan đưa lên một ngọn núi để cám dỗ Người đi trệch con đường Chúa Cha muốn; khi cho ba môn đệ thân tín thoáng thấy thần tính vinh hiển của Người trên núi Taborê, và trên núi Sọ, Đức Giêsu đã chịu chết trên thập giá để chuộc tội loài người. Bây giờ, Đức Giêsu phục sinh đưa các môn đệ lên một ngọn núi Thăng Thiên- để ở cùng Giáo hội.
“Mười một môn đệ.” Con số này vừa cho thấy sự khiếm khuyết của Hội thánh, vừa cho biết sự bất toàn của Hội thánh, vì khi “các ông bái lạy Người”, có “mấy ông lại hoài nghi.” Hoài nghi điều gì, ngờ vực vấn đề nào? Tin mừng Mátthêu không nói rõ. Mãi mãi đó là một bí ẩn, nhưng sẽ lộ tỏ dần qua từng thời kỳ của nhân loại, qua những diễn biến của những sự kiện lớn nhỏ của thế giới và Giáo hội, qua những người từng là môn đệ Đức Giêsu.
Vì thế Giáo hội mọi thời phải nắm vững tinh thần và sứ mạng của Đức Giêsu để vượt qua tình trạng hoài nghi này, vừa để làm sáng tỏ các chân lý đức tin để củng cố lòng tin của mình hơn, vừa giúp cho Giáo hội tin tưởng vào lời Đấng Phục Sinh – Lên Trời, luôn ở cùng mình mọi ngày cho đến tận thế.
Bao lâu Giáo hội còn trung thành thực thi mệnh lệnh của Đấng Phục Sinh – Lên Trời, dạy cho muôn dân những huấn lệnh như chính Người đã dạy, làm phép rửa cho họ Nhân Danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, bấy lâu Giáo hội sẽ dễ dàng vượt qua sự hoài nghi ấy. Các môn đệ sẽ nhận ra sự hiện diện của Người, khi họ công bố tin mừng của Đấng Phục Sinh – Lên Trời; khi họ vững tin vào quyền bính tối thượng của Người trên mọi yếu tố vũ trụ.
Tác giả Mátthêu không nói việc Đức Giêsu trao quyền bính cho họ, nhưng nhấn mạnh đến sự quả quyết của Đức Giêsu về sự kết hợp giữa Người với họ. Bao lâu họ còn duy trì chân tính của người môn đệ, kết hợp khắn khít với Đức Giêsu, còn trung thành thực thi sứ mạng của Người, thì chính Người, trong tư cách siêu việt, sẽ bộc lộ quyền năng ấy qua họ.
Vì thế lời rao giảng của Hội thánh không chỉ là trình bày sứ điệp Cứu rỗi của Đức Kitô mà còn phải kiến tạo nên một cộng đoàn có cùng một đức tin, một phép rửa, một lối sống theo Lời Chúa, trong tương quan mật thiết vừa có tính cá biệt, vừa có tính chung nhất, với Đấng đã Phục Sinh – Lên Trời ở ngay trong tâm hồn họ, trong đời sống họ, trong sứ mạng của họ. Đức Giêsu Phục sinh – Lên Trời luôn là điểm trung tâm của Giáo hội và quy chiếu mọi hoạt động của Giáo hội.
Tác giả Mátthêu đã khéo léo đóng khung mầu nhiệm Emmanuen: Thiên Chúa ở cùng chúng ta, vào lúc Đức Giêsu được sinh ra cho đến ngày Người được Phục Sinh – Lên Trời, là có ý nhắm đến sự Hiện diện của Người trong không gian và thời gian của lịch sử, vừa cho thấy chiều kích mầu nhiệm bao trùm của Người trên toàn thể lịch sử nhân loại và vũ trụ.
Giáo hội không bao giờ cô đơn vì Chúa Kitô tử nạn và phục sinh luôn ở cùng Giáo hội. Người luôn hướng dẫn, nâng đỡ và bầu cử cho Giáo hội trong mọi hoàn cảnh cuộc sống, giúp Giáo hội đem quyền bính tình yêu của Người đến cho nhân loại.
Lm. Giuse Ngô Văn Kha, CSsR
2020
Làm chứng cho Thầy
24.5 Chúa Nhật Chúa thăng thiên
Mt 28, 16-20
LÀM CHỨNG CHO THẦY
Kế hoạch của Thiên Chúa được ghi trong Kinh Thánh không chấm hết cùng với cái chết, phục sinh và lên trời vinh hiển của Chúa Glêsu, mà còn tiếp tục trong Hội Thánh. Sứ điệp Tin Mừng được hoạch định “cho muôn dân”, được rao giảng “bắt đầu từ Giêrusalem”.
“Anh em là chứng nhân của những điều đó”. Chúa Giêsu đã tuyên bố với các môn đệ như vậy. Và trước khi lìa bỏ các ông để “được đưa lên trời”, Người loan báo cho các ông biết rằng, các ông sẽ “nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống”, quyền năng mà Cha đã hứa, để hoàn thành sứ mạng vĩ đại vượt quá sức riêng của các ông.
Chúa về trời mang lại cho nhân loại, cho Giáo Hội và cho các tông đồ một mối Phúc lớn lao vì nếu Chúa không ra đi thì Đấng bàu chữa không đến. Chúa về trời, Ngài đã làm tròn lời hứa ban Thánh Thần và trao quyền năng cho các tông đồ, cho Giáo Hội:” Mọi quyền năng trên trời dưới đất đã được ban cho Thầy. Vậy các con hãy đi giảng dậy muôn dân…Thầy ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế ” (Mt 28, 17-20).
Ta thấy rằng với biến cố Thăng Thiên vào “ngày thứ bốn mươi” để bắt đầu cuộc sống mới của Chúa Giêsu vượt qua không gian và thời gian… thì cũng là lúc khởi sự trang đầu tiên của Công vụ Tông đồ! Kết thúc thời gian của Chúa Giêsu Nadarét…là bắt đầu thời kỳ của Giáo hội.
Biến cố Thăng Thiên là điều kiện tất yếu của biến cố Ngũ Tuần, vì Thăng Thiên đồng nghĩa với việc Chúa Giêsu được tôn vinh. Chính khi Đức Kitô “được tôn vinh”, Người sẽ sai phái Thánh Thần hay Chúa Cha sai phái Thánh Thần nhân danh Người (Ga 14, 26). Tin Mừng Gioan nhấn mạnh nhiều lần: “Bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Chúa Giêsu chưa được tôn vinh” (Ga 7, 39) hay “Thầy ra đi thì có lợi cho anh em.
Thật vây, nếu Thầy không ra đi, Đấng Bảo Trợ sẽ không đến với anh em; nhưng nếu Thầy đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với anh em” (Ga 16, 7). Mặt khác, việc Chúa Giêsu không còn hiện diện hữu hình nữa là một giai đoạn cần thiết để chuẩn bị cho các môn đệ một cách thế hiện diện khác của Người, sự hiện diện vô hình và nội tại trong Thánh Thần.
Các môn đệ đã cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, Người đã phục sinh. Các ông đã bắt đầu hiểu rằng sự việc phải đi tới đích điểm đó và phải được hoàn thành cách vinh quang. “Cần phải…”. Đây không phải là do định mệnh an bài. Cụm từ đó chỉ có ý nói rằng mọi biến cố tìm được ý nghĩa trong Thiên Chúa và chúng là tiếp nối của một quá khứ cao quý nhất. Một nụ hoa hé nở, một việc kỳ diệu Thiên Chúa làm ở giữa dân Người.
Chúa Giêsu được “đưa lên trời”. Những lời trăn trối cuối cùng của Người là lệnh “sai đi”, và là lời loan báo cho họ một sức mạnh từ trời cao, đó là Thần Khí được ban xuống, Thần Khí mà các Ngôn sứ đã loan báo. Từ nay, những con người ấy sẽ mang trên tay và trong trái tim ơn tái sinh. Các ông sẽ làm lây lan ơn Thiên Chúa, biến đổi cả nhân loại. Chúa Giêsu đi về cùng Cha Người, cốt để các ông ra đi đến tận cùng trái đất.
Sau khi tỏ mình cho các môn đệ nhận ra mình: “Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà” (c.39). Chúa Giêsu mở tâm hồn cho họ hiểu ý nghĩa của biến cố phục sinh: “Tất cả những gì sách luật Môsê, sách các ngôn sứ và các Thánh vịnh chép về Thầy đều phải được ứng nghiệm” (c.44). Tất cả những gì các ông vừa trải qua cùng với Người, đều hiện rõ ý nghĩa dưới ánh sáng của Thánh Kinh, và chính Thánh Kinh được thực hiện hoàn hảo trong mầu nhiệm Vượt Qua: “Đấng Kitô phải chịu khổ hình rồi ngày thứ ba từ cõi chết sống lại rồi phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội”.
Khi dẫn các môn đệ tới tận Bêtania, giờ đây Chúa Giêsu từ biệt và chúc lành cho các ông là những người kế thừa mình theo cách các thánh tổ phụ chúc lành cho các con vào lúc lìa cõi thế. Và đang khi Ngươi được “đem lên trời” các môn đệ “phủ phục bái lạy Người”, một cử chỉ tôn thờ chỉ dành riêng cho Thiên Chúa mà thôi.
Cuối cùng, các moôn đệ nghe Chúa Giêsu đã nói rõ: “Chúng con sẽ làm chứng cho Thầy tại Giêrusalem, Giuđê, Samari và cho đến tận cùng thế giới”. Giêrusalem là nơi lúc ấy các tông đồ đang ở, Giuđê xa hơn một chút nhưng cũng quen thuộc vì có nhiều người đã tin Chúa, Samari tuy gần mà xa vì dân miền đó tuy biết Chúa Giêsu nhưng không có cảm tình với Ngài, đến tận cùng thế giới là mục tiêu xa nhất và bao quát nhất.
Khi vẽ một bản đồ hành trình làm chứng như thế, ý Chúa Giêsu là hãy bắt đầu làm chứng cho Ngài ngay từ trong nội bộ của mình, rồi từ từ mới lan dần ra. Chúng ta thấy các tông đồ đã thực hiện đúng như thế: nhờ cộng đoàn Giêrusalem sống đoàn kết hiệp nhất, tương thân tương trợ mà người ngoài nhìn vào đã mến phục và xin gia nhập Giáo Hội, thế rồi từ Giêrusalem Giáo Hội lan sang Giuđê, lan sang Samari, lan sang Antiôkia và dần dần tỏa ra khắp thế giới.
Qua các thời đại, Giáo hội đã, đang và luôn mãi hăng hái, trung kiên thi hành sứ mệnh đó. Mặc dù Giáo hội luôn phải trải qua những giai đoạn khó khăn, bách hại, cấm cách; nhưng dân Chúa vẫn hiên ngang rao giảng và sẵn sàng hy sinh mạng sống vì Tin Mừng, vì Nước Trời. Lòng can đảm, chí trung thành đó đã cho chúng ta nhận ra rằng chúng ta không phải đơn phương chiến đấu, nhưng Chúa luôn đồng hành với mỗi người như lời Ngài đã phán: Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho tới tận thế.
Việc Chúa Giêsu thăng thiên hay nói một cách cụ thể hơn là Ngài ra đi, trở về, kết hiệp với Chúa Cha để thực hiện lời hứa ban Đấng phù trợ tới cho các môn đệ và cho toàn Giáo Hội là một mầu nhiệm của lòng tin vì hôm nay chấm dứt một giai đoạn Chúa phục sinh hiện diện, chứng minh cho các môn đệ thấy rằng mình vẫn sống giữa các ông (Cv 1, 3).
Việc Chúa Giêsu thăng thiên đánh dấu một bước ngoặc trong việc loan báo Tin Mừng. Trước đây, loan báo Tin Mừng chủ yếu là việc của Chúa Giêsu. Nhưng từ đây, việc này chủ yếu là của Giáo Hội, với sự hỗ trợ đắc lực của Chúa Giêsu và Chúa Thánh Thần. Bởi đó, khi từ biệt các môn đệ, Chúa Giêsu đã trao sứ mạng “Anh em hãy đi đến với muôn dân, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”.
Lễ Thăng thiên được xem như đỉnh điểm của đời sống Đức Giêsu và là khởi điểm sứ vụ của Giáo hội. Do đó, mọi thành viên trong Giáo hội phải tích cực thi hành sứ vụ này bằng đời sống chứng nhân trước mặt mọi người.