2023
Mục tử nhân lành
30.4 Chúa Nhật thứ Tư Mùa Phục Sinh
St 2:14,36-41; Tv 23:1-3,3-4,5,6; 1 Pr 2:20-25; Ga 10:1-10
Mục tử nhân lành
Trong Tin Mừng hôm nay, Chúa nêu bật hai hình ảnh trái ngược: mục tử và kẻ trộm. Đâu là tiêu chuẩn để có thể nhận ra khuôn mặt của hai hạng người đó?
Tùy thái độ đối với đoàn chiên, hai hạng người đó sẽ lộ nguyên hình. Tự bản chất, tên trộm bao giờ cũng rình mò xâm phạm đến của cải và tính mạng người khác. Họ không biết luật công bình là gì. Bất chấp luật pháp, “kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ.” (Ga 10, 10) Họ không biết tôn trọng của cải, mạng sống và những giá trị tinh thần cũng như vật chất. Tất cả đều phải hy sinh cho cái lợi bản thân và phe đảng họ. Thật là một bất công khủng khiếp!
Trái lại, không những tôn trọng công lý, mục tử đích thực còn hy sinh bản thân vì người khác. Họ hy sinh tất cả cho hạnh phúc tha nhân. Có nhìn thấy mục tử chăn chiên trên đồi Palestine, mới thấy họ hy sinh cho đoàn chiên tới mức nào. Họ mất ngủ, mệt mỏi đứng dựa trên gậy, theo dõi từng động thái của đàn chiên. Tối đến, sau khi lùa đàn chiên vào chuồng, họ nằm chắn ngang bực cửa để bảo vệ đoàn chiên khỏi thú dữ. Mục tử như một chiếc cửa mở ra cho chiên ra vào và che chở đoàn chiên khỏi thú dữ sát hại. Có được bảo vệ an toàn như thế, đoàn chiên mới “sống và sống dồi dào.” (Ga 10, 10)
Mục tử không còn nghĩ tới bản thân. Họ quên mình để bảo về sự sống cho đoàn chiên. Không những tôn trọng sinh mạng con chiên, họ còn lo phát triển đoàn chiên. Đó là nét nổi bật của một mục tử đích thực. Sở dĩ mục tử có thể hy sinh tất cả cho đoàn chiên, vì họ rất gần gũi con chiên.
Quả thực, khi vào trong chuồng chiên, họ có thể “gọi tên từng con,” (Ga 10, 3) khi chúng quây quần chung quanh. Cảnh sinh hoạt rất thân mật.
Dù lúc ở trong chuồng hay khi ra ngoài, đoàn chiên luôn an tâm vững lòng vì người mục tử luôn sẵn sàng đối phó với mọi thách đố để bảo vệ con chiên. Khi dẫn chiên ra ngoài kiếm ăn, ông “đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng” (Ga 10, 4) của ông. Trái lại, bọn trộm cướp không bao giờ được hưởng hạnh phúc đó. Chúng hoàn toàn xa lạ với đoàn chiên. Làm sao chiên có thể nghe theo chúng? Chương 9 trong Tin Mừng Gioan đưa ra một ví dụ cụ thể: mặc dù những nhà lãnh đạo Do thái dùng đủ mọi kỹ thuật thuyết phục, nhưng anh mù vẫn khẳng khái trả lời không tố cáo Chúa. Cuối cùng, anh đã bị trục xuất ra khỏi hội đường. Nói chung, những nhà lãnh đạo Do thái đương thời không chú tâm tới đàn chiên. Họ chỉ muốn thỏa mãn tham vọng quyền lực.
Làm sao tiếng nói mục tử có thể vang động trong con chiên? Đây là lúc bắt đầu phân biện được tiếng gọi của Thiên Chúa. Nếu mục tử không sinh hoạt thân mật với con chiên, làm sao chiên có thể nhận ra tiếng ông mà đi theo? Do đó thời giờ theo sát và quan tâm đến đoàn chiên thật quan trọng. Nếu không, dù là mục tử, tiếng nói cũng chẳng lọt tai con chiên. Tiếng nói Vị Mục Tử Nhân Lành đụng tới miền sâu thẳm nhất trong con chiên.
Vai trò mục tử vô cùng quan trọng trong lịch sử Israel đến nỗi Kinh thánh tôn xưng Giêsu là Mục Tử quy tụ đoàn chiên tản mác từ muôn dân nước. Ngôn sứ Êdêkien tiên báo Vị Thiên Sai sẽ đến và gọi Người là một Mục tử (Ed 34, 23). “Ngược với tên trộm, Người ban ngay sự sống cách phong phú, dồi dào và toàn vẹn. Ngay bây giờ sự sống vĩnh cửu bắt đầu. Sự sống trong Chúa Kitô ở trên một mức độ cao hơn, vì tràn ngập tình yêu, ơn tha thứ và được định hướng.” Con người sẽ sống hạnh phúc, bình an, tự do, vượt xa những gì người Do thái vẫn mơ tưởng.
Trong thế giới ngày hôm nay, con người vẫn khát khao tìm kiếm Chúa, thế nhưng, ở thời đại nào cũng có tiên tri giả, thời đại nào cũng tồn tại những thứ mà Tin Mừng hôm nay được Chúa Giêsu gọi là quân trộm cướp. Họ không qua cửa là Chúa Giêsu để dẫn đến cuộc sống đích thực, mà chỉ sống trong sự dối trá, hay những thực tại trần thế .
“Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Mt 10, 10). Hình ảnh Người Chủ Chăn đang dẫn đàn chiên đến một đồng cỏ xanh tươi, đến bên dòng suối mát để cho chiên tha hồ bổ dưỡng. Và theo năm tháng, những con chiên đó được lớn lên khoẻ mạnh trong bàn tay yêu thương và tận tuỵ của Vị chủ chăn vì: “chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10, 27). Vậy, khi chúng ta khước từ Chúa, loại trừ Người ra khỏi cuộc sống, thì chính là lúc chúng ta tự kết liễu đời mình, cuộc sống trở thành vô vị, mất điểm tựa, chạy theo những thứ hư ảo, để rồi cuộc sống cứ trượt dài trong thế sự.
Đức kitô là vị mục tử nhân lành, nơi Người ẩn chứa một tình yêu cao cả. Tình yêu đó được kết tinh trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Người đã thể hiện tình yêu đó qua cái chết và sự Phục Sinh của Người để cho nhân loại tin vào Người để được cứu độ. Thánh Phêrô đã không ngần ngại khi nói về Người rằng: “xưa kia, anh em như những con chiên lạc, nhưng giờ đây anh em đã về cùng với vị mục tử đấng canh giữ linh hồn anh em”
Với tình thương bao la của người, Chúa đã đến kêu gọi mỗi người chúng ta hãy tiến bước theo Ngài, hãy nhập đoàn chiên của Ngài. Đây không phải là lời mời gọi một cách chung chung, nhưng là lời mời có tính cách cá nhân và trực tiếp. Cũng như ngày xưa Chúa đã đến gặp Nicôđêmô, Giakêu, Matthêu, người đàn bà Samaritanô bên bờ giếng Giacob, và người bất toại bên bờ Bếtsaiđa, thì ngày nay Chúa cũng vẫn còn đến để phù trợ, chữa lành, gặp gỡ, hướng dẫn, và chỉ bảo chúng ta trong cuộc sống. Ngài ban Thánh Thần của Ngài cho chúng ta để an ủi, nâng đỡ, giúp sức, và sự khôn ngoan, để chúng ta có đủ sức đối diện với mọi khó khăn trong cuộc đời.
Qua Lời Chúa và các Bí tích, đặc biệt là Bí tích Thánh Thể, Ngài bảo vệ và ban ơn giúp chúng ta thoát khỏi nanh vuốt của thần dữ, như những kẻ trộm, đang bày trò hãm hại chúng ta. Và những khi chúng ta vấp ngã, qua Bí tích Xá giải, Ngài sẵn sàng ôm chúng ta vào lòng để tha thứ yêu thương, như người cha nhân lành đối xử với đức con phung phá.
Ước chi chúng ta hãy đáp lại lời mời của Ngài. Hãy luôn nhận Ngài là Chúa Chiên của mình và luôn tin tưởng vào sự hướng dẫn phù trợ của Ngài. Có Chúa ở cùng, cho dù bất cứ điều gì xảy ra, tâm hồn chúng ta vẫn tìm được sự bình an. Không phải là chúng ta sẽ hết phải đau khổ, nhưng vì chúng ta có Chúa là sức mạnh và là nguồn ủi an cho chúng ta, nên không gì lấy mất đi niềm hy vọng và sự bình an trong tâm hồn chúng ta được. “Chúa là Mục Tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi. Dù bước đi trong thung lũng tối, tôi sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng tôi” (Tv 23)
2023
Chúa Nhật IV Phục Sinh – Năm A – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Chúa Nhật IV Phục Sinh – Năm A – Chúa Nhật Chúa Chiên Lành
Dẫn vào Thánh Lễ
Anh chị em thân mến,
Hôm nay Chúa Nhật IV Phục Sinh, là ngày Giáo Hội mời gọi chúng ta cầu nguyện cách riêng cho ơn thiên triệu, tức là cầu nguyện cho có nhiều tâm hồn nhiệt thành đáp lại lời mời gọi của Chúa làm linh mục hoặc tu sĩ nam nữ để rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho mọi người. Thực tế, chúng ta thấy có rất nhiều người vào chủng viện, vào dòng tu, nhưng rất ít người trở thành linh mục hay tu sĩ, vì kẻ được gọi thì nhiều nhưng người được chọn thì ít, và không phải tất cả ai được chọn cũng đều trở nên hoàn hảo, vì trong 12 tông đồ được chọn cũng có một Giuđa phản bội. Vậy chúng ta hãy dâng Thánh Lễ cầu nguyện cho có nhiều ơn gọi trung thành tiến bước theo Chúa Giêsu mà hân hoan phục vụ Tin Mừng Nước Trời.
Ca nhập lễ
Địa cầu đầy ân sủng Chúa, do Lời Chúa mà trời xanh được tạo thành – Allêluia.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, Ðức Kitô, vị Mục Tử oai hùng của chúng con, đã khải hoàn tiến vào thiên quốc; xin cho chúng con là đoàn chiên hèn mọn cũng được theo gót Người vào chung hưởng hạnh phúc vô biên. Người là Thiên Chúa hằng sống và hiển trị cùng Chúa, hiệp nhất với Chúa Thánh Thần muôn thuở muôn đời.
Bài Ðọc I: Cv 2, 14a. 36-41
“Thiên Chúa đã tôn Người làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong ngày lễ Ngũ Tuần, Phêrô cùng với mười một Tông đồ đứng ra, lên tiếng nói rằng: “Xin toàn thể nhà Israel hãy nhận biết chắc rằng: Thiên Chúa đã tôn Ðức Giêsu mà anh em đã đóng đinh, lên làm Chúa và làm Ðấng Kitô”.
Nghe những lời nói trên, họ đau đớn trong lòng, nói cùng Phêrô và các Tông đồ khác rằng: “Thưa các ông, chúng tôi phải làm gì?” Phêrô nói với họ: “Anh em hãy ăn năn sám hối, và mỗi người trong anh em hãy chịu phép rửa nhân danh Ðức Giêsu Kitô để được tha tội; và anh em nhận lãnh ơn Thánh Thần. Vì chưng, đó là lời hứa cho anh em, con cái anh em, và mọi người sống ở phương xa mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi đến”. Phêrô còn minh chứng bằng nhiều lời khác nữa, và khuyên bảo họ mà rằng: “Anh em hãy tự cứu mình khỏi dòng dõi gian tà này”. Vậy những kẻ chấp nhận lời ngài giảng, đều chịu phép rửa, và ngày hôm ấy có thêm chừng ba ngàn người gia nhập đạo.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 22, 1-3a. 3b-4. 5. 6
Ðáp: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Chúa chăn nuôi tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi; trên đồng cỏ xanh rì, Người thả tôi nằm nghỉ. Tới nguồn nước, chỗ nghỉ ngơi, Người hướng dẫn tôi; tâm hồn tôi, Người lo bồi dưỡng.
Xướng: Người dẫn tôi qua những con đường đoan chính, sở dĩ vì uy danh Người. (Lạy Chúa), dù bước đi trong thung lũng tối, con không lo mắc nạn, vì Chúa ở cùng con. Cây roi và cái gậy của Ngài, đó là điều an ủi lòng con.
Xướng: Chúa dọn ra cho con mâm cỗ ngay trước mặt những kẻ đối phương; đầu con thì Chúa xức dầu thơm, chén rượu con đầy tràn chan chứa.
Xướng: Lòng nhân từ và ân sủng Chúa theo tôi hết mọi ngày trong đời sống; và trong nhà Chúa, tôi sẽ định cư cho tới thời gian rất ư lâu dài.
Bài Ðọc II: 1 Pr 2, 20b-25
“Anh em đã trở về cùng Ðấng canh giữ linh hồn anh em”.
Trích thư thứ nhất của Thánh Phêrô Tông đồ.
Anh em thân mến, khi làm việc lành, nếu anh em phải nhẫn nhục chịu đau khổ, đó mới là ân phúc trước mặt Thiên Chúa. Anh em được gọi làm việc đó, vì Ðức Kitô đã chịu đau khổ cho chúng ta, lưu lại cho anh em một gương mẫu để anh em theo vết chân Người. Người là Ðấng không hề phạm tội, và nơi miệng Người không thấy điều gian trá. Bị phỉ báng, Người không phỉ báng lại; bị hành hạ, Người không ngăm đe; Người phó mình cho Ðấng xét xử công minh; chính Người đã gánh vác tội lỗi chúng ta nơi thân xác Người trên cây khổ giá, để một khi đã chết cho tội lỗi, chúng ta sống cho sự công chính; nhờ vết thương của Người, anh em đã được chữa lành. Xưa kia, anh em như những chiên lạc, nhưng giờ đây, anh em đã trở về cùng vị mục tử và Ðấng canh giữ linh hồn anh em.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: Ga 10, 14
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Ta là mục tử tốt lành, Ta biết các chiên Ta, và các chiên Ta biết Ta”. – Alleluia.
PHÚC ÂM: Ga 10, 1-10
“Ta là cửa chuồng chiên”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu phán rằng: “Thật, Ta bảo thật cùng các ngươi, ai không qua cửa mà vào chuồng chiên, nhưng trèo vào lối khác, thì người ấy là kẻ trộm cướp. Còn ai qua cửa mà vào, thì là kẻ chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy. Kẻ ấy sẽ gọi đích danh từng con chiên mình và dẫn ra. Khi đã lùa chiên mình ra ngoài, kẻ ấy đi trước, và chiên theo sau, vì chúng quen tiếng kẻ ấy. Chúng sẽ không theo người lạ, trái lại, còn trốn tránh, vì chúng không quen tiếng người lạ”. Chúa Giêsu phán dụ ngôn này, nhưng họ không hiểu Người muốn nói gì. Bấy giờ Chúa Giêsu nói thêm: “Thật, Ta bảo thật các ngươi: Ta là cửa chuồng chiên. Tất cả những kẻ đã đến trước đều là trộm cướp, và chiên đã không nghe chúng. Ta là cửa, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm thấy của nuôi thân. Kẻ trộm có đến thì chỉ đến để ăn trộm, để sát hại và phá huỷ. Còn Ta, Ta đến để cho chúng được sống và được sống dồi dào”.
Ðó là lời Chúa
Lời nguyện tín hữu
Chủ tế: Anh chị em thân mến, với tâm hồn tràn ngập niềm vui phục sinh của Con Chúa, Đấng là Mục Tử nhân lành dẫn dắt chúng ta vượt qua thung lũng tội lỗi và bóng tối sự chết đến đồng cỏ xanh tươi trong sự sống sung mãn của Người. Vậy, cùng với Người, chúng ta hãy xin Chúa Cha tuôn đổ phúc lành trên toàn thế giới.
- Xin cho các vị mục tử của Hội Thánh được tràn đầy Thánh Thần, để như thánh Phêrô, các ngài có thể can đảm rao giảng Đức Giêsu là Chúa, và là Đấng Cứu Độ duy nhất của toàn thế giới.
- Xin cho những ai đang bị thiệt thòi hay bị bách hại vì trung thành với Chúa Kitô có thể nhận ra ân phúc khi làm việc lành mà phải chịu đau khổ.
- Xin cho nhiều tâm hồn quảng đại đáp trả lại tiếng Chúa gọi để trở nên những linh mục và tu sỹ nhiệt thành, theo gương Chúa Kitô Mục Tử nhân lành, hoàn toàn hiến thân cho Chúa và phục vụ các linh hồn.
- Xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta mỗi ngày biết lắng nghe và trung thành đi theo Chúa Kitô để trở nên đoàn chiên đích thực của Người.
Chủ tế: Lạy Chúa, Chúa tỏ lộ tình yêu Chúa trong Đức Kitô là Mục Tử nhân lành. Xin cho chúng con luôn ở lại trong đoàn chiên của Người và cảm nghiệm tình Chúa yêu thương. Chúng con cầu xin nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin cho chúng con hằng vui sướng trong suốt thời gian mừng mầu nhiệm Vượt Qua; để mầu nhiệm thánh này không ngừng đem lại ơn cứu độ và trở nên nguồn vui bất tận cho mọi người tín hữu. Chúng con cầu xin…
Lời tiền tụng Phục Sinh
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa mọi lúc, nhất là trong đêm (ngày, mùa) cực thánh này, chúng con càng hãnh diện tung hô Chúa khi Ðức Ki-tô đã được hiến tế làm Chiên Vượt Qua của chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con.
Nhờ Người con cái sự sáng được sinh ra để sống muôn đời, và khi các cửa Nước Trời được mở ra đón các tín hữu, vì nhờ sự chết của Người, chúng con khỏi phải chết, và trong sự sống lại của Người, chúng con được phục sinh.
Vì thế, với niềm hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!.
Ca hiệp lễ
Đấng chăn chiên nhân lành đã phục sinh, Người đã phó mạng sống mình vì con chiên, và đã đoái thương chịu chết vì đoàn chiên – Allêluia.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa là mục tử nhân lành, chúng con là đoàn chiên đã được Chúa cứu chuộc bằng máu châu báu của Ðức Giêsu Kitô. Cúi xin Chúa giờ đây thương đoái, dẫn đưa chúng con vào đồng cỏ Nước Trời. Chúng con cầu xin…
2023
Bỏ đi hay ở lại
29.4 Thánh Catêrina đệ Siena, Đtts
Cv 9:31-42; Tv 116:12-13,14-15,16-17; Ga 6:60-69
Bỏ đi hay ở lại
Chị Ca-ta-ri-na là con áp út trong một gia đình đạo đức có 25 người con. Chị chào đời tại phố Phôn-tê-bơ-ran-đa, miền Xi-ê-na nước Ý năm 1347. Thân phụ là ông Gơ-ra-cô-mô Bê-nin-ca-sa làm nghề thợ nhuộm ; thân mẫu là bà La-pa.
Hồi còn là ấu niên (1354), được ơn Chúa dự liệu, chị đã khấn giữ đức trinh khiết và lướt thắng nhiều khó khăn do những người thân gây ra. Chị đã khởi sự sống cầu nguyện, hãm mình nhiệm nhặt cùng với các Chị Em Hãm Mình Ða Minh (1363), say mê chiêm niệm chân lý đệ nhất là Thiên Chúa mà chị cho là ngọt ngào nhất. Chị cố gắng “nhận biết Thiên Chúa ở trong con người của mình và mình ở trong Thiên Chúa.” Sống tại gia đình rất nhiệm nhặt cho đến năm 1370 là năm chị nhận được mệnh lệnh của Chúa Giê-su để bước vào hành trình dấn thân làm việc tông đồ.
Từ đó, chị được Chúa Thánh Thần ban nhiều ân huệ lạ lùng và chị ngoan ngoãn tuân theo sự hướng dẫn của Thánh Linh. Lạ lùng thay ! chị có khả năng kết hiệp việc chiêm niệm những mầu nhiệm cao siêu trong thâm tâm với những hoạt động tông đồ bên ngoài. Chị đã dùng những lời nói sắc bén và những bức thư hối thúc đức giáo hoàng trở về Rô-ma (1376). Thêm vào đó, chị còn tạo điều kiện cho nhiều người nam nữ thuộc mọi tầng lớp xã hội đi theo con đường thánh đức và bình an. Lòng bừng cháy lửa mến Chúa, chị nỗ lực để trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giê-su chịu đóng đinh trên thập giá, nên đã xứng đáng được Chúa dùng những tia sáng in các thương tích của Người nơi thân xác chị vào ngày 1-4-1375.
Trong sắc phong thánh của chị có viết : “Giáo thuyết của người không phải là do học hỏi, người được coi là mẫu sư hơn là môn sinh”. Chị đã để lại cho hậu thế nhiều tài liệu thiêng liêng và thần học quý giá, nhất là cuốn “Ðối thoại” (1378), nên ngay từ thời đó, chị đã được đoàn môn sinh gọi là “Mẹ”. Danh hiệu ấy vẫn còn được lưu truyền trong đại Gia đình Ða Minh cho đến ngày nay.
Chị qua đời tại Rô-ma ngày 29-4- 1380 và được an táng tại vương cung thánh đường Ðức Ma-ri-a thành Mi-nê-va. Ðức giáo hoàng Pi-ô II đã ghi tên chị vào sổ các hiển thánh ngày 29-6-1461 ; và ngày 4-10-1970, đức giáo hoàng Phao-lô VI tôn phong chị lên bậc tiến sĩ Hội Thánh.
Bốn bài giảng liên tiếp về Bánh hằng sống của Đức Giêsu đã tạo ra nhiều phản ứng nơi những cử tọa Do thái. Khi Ngài tiết lộ cho họ biết Ngài có Bánh hằng sống, ăn vào sẽ không đói khát nữa, họ liền xin Ngài cho họ thứ bánh đó. Tiến thêm một bước, Ngài cho họ biết Bánh đó chính là Ngài từ trời xuống, họ có phản ứng chống lại ngay, vì họ cho rằng Ngài chỉ là con bác thợ mộc Giuse ở Nazareth, làm sao lại có chuyện đó được? Nhưng khi Đức Giêsu cho họ biết Bánh hằng sống đó chính là thịt máu Ngài, phải ăn thì mới có sự sống trong mình, thì họ có phản ứng kịch liệt, vì họ cho đây là một việc tởm gớm không thể chấp nhận được. Thậm chí, cả một số môn đệ cũng có phản ứng tương tự: “Lời này chói tai quá, ai mà nghe được”. Kết quả là một số môn đệ bỏ đi, không theo Ngài nữa.
Tuy nhiên, bài Tin mừng hôm nay chuyển tải cho chúng ta, là giữa sự thất vọng bỏ đi của nhiều người, thì vẫn còn đó Nhóm Mười Hai với lời tuyên xưng của tông đồ trưởng Phêrô: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng thánh của Thiên Chúa”. Có lẽ ở đây chúng ta chưa dám chắc Phêrô và các Tông đồ đã hiểu được mầu nhiệm Thánh Thể là lấy thịt Chúa cho nhân loại ăn, nhưng ít nhất Phêrô tin vào uy tín của Thầy không thể nói điều sai lạc.
Lời tuyên xưng còn khẳng định rõ hơn về đức tin là một ân ban mà không phải ai cũng dễ dàng có được. Lời tuyên xưng của Phêrô và sự trung thành của các Tông đồ là điểm sáng về niềm tin và lòng trung tín cho chúng ta, nhất là ngày hôm nay không thiếu những người đã lìa bỏ Giáo hội. Nếu không có ơn đức tin thì sẽ không thấy sự khác biệt giữa bánh chưa truyền phép và bánh đã được truyền phép không thể cảm nhận được sự hiện diện thực sự của Đức Giêsu trong phép Thánh Thể.
Mẩu đối thoại của Chúa Giêsu với nhiều môn đệ đã khởi đầu bằng lời phản đối của họ và bằng cách họ đánh giá các lời của Người theo cảm xúc. Bây giờ Đức Giêsu ngỏ lời với nhóm thứ ba bên trong đám đông, Nhóm Mười Hai, một nhóm rất gần gũi với Người, nhưng cũng bị cám dỗ, bị lay động, bị thách thức bởi những lời đòi hỏi của Người. Mẩu đối thoại của Người với Nhóm Mười Hai bắt đầu bằng một câu hỏi Người đặt ra: “Cả anh em nữa, anh em cũng muốn bỏ đi hay sao?” (Ga 6,67).
Câu hỏi này không hề có đặc tính gây hấn, như thể Chúa Giêsu muốn nói: “Anh em cứ việc bỏ đi!”, trái lại câu hỏi này hàm chứa một lời mời ở lại. Chúa Giêsu đặt câu hỏi và để cho các môn đệ tự do quyết định. Nhưng Người không rút lại bất cứ điều gì Người đã nói. Simôn Phêrô đã nhân danh nhóm (“chúng con”) nói lên một câu trả lời có suy ngẫm và nêu ra ba lý do khiến các ông ở lại với Chúa Giêsu chứ không đi theo đa số: “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa” (Ga 6,68-69).
Lý do thứ nhất là một suy tư sáng suốt: “Chúng con không thể bỏ đi kiểu mù quáng. Khi bỏ đi, chúng con cần phải biết chúng con muốn bỏ ai, và gặp được điều gì tốt hơn và thuyết phục hơn nơi người nào. Chỉ đơn giản bỏ đi thì không có ý nghĩa”. Suy tư này giúp tránh những quyết định vội vã, theo tình cảm. Bởi vì không tìm được một vị thầy nào dứt khoát khá hơn, thì khôn ngoan là ở lại với Đức Giêsu.
Lý do thứ hai nhắc đến đặc tính của các lời Đức Giêsu. Chính Người đã nói: “Lời Thầy nói với anh em là Thần Khí và là sự sống” (6,63). Bây giờ Phêrô chấp nhận điều ấy: “Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời” (c. 68). Ông đã hiểu rằng ân ban cao trọng nhất của Chúa Giêsu là sự sống đời đời và nhận biết rằng Chúa Giêsu nói về điều đó trong tư cách đáng tin nhất; Chúa Giêsu không chỉ nói về điều đó, Người còn mang sứ điệp chắc chắn về sự sống đời đời và mở đường vào sự sống đó.
Lý do thứ ba liên hệ đến việc nhận biết bản thân Chúa Giêsu. Phêrô nói về con đường giúp nhận biết như thế và nói về nội dung của nhận thức này. Nhóm Mười Hai đã ký thác và tín nhiệm hoàn toàn vào Chúa Giêsu. Trên nền tảng của thái độ này, các ông đã hiểu và nhận biết rằng Chúa Giêsu là “Đấng Thánh của Thiên Chúa” (c. 69). “Thánh” chính là điều thuộc về Thiên Chúa. Nếu Chúa Giêsu là Đấng Thánh của Thiên Chúa, điều này có nghĩa là Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và được kết nối với Thiên Chúa trọn vẹn. Chính vì Chúa Giêsu có một tương quan đặc biệt với Thiên Chúa, Người hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa, mà Người có những lời ban sự sống vĩnh cửu, và do đó, thật là điên rồ nếu xa lánh Người.
Khi suy niệm bản văn Ga 6, 60-69, người tín hữu hôm nay không được phép bằng lòng với việc trách móc nhóm môn đệ đã bỏ đi hoặc khen ngợi Nhóm Mười Hai vẫn còn ở lại. Làm như thế là quên mất rằng chính mình cũng là một môn đệ, là một trong Nhóm Mười Hai. Do đó, họ phải tự hỏi: Quan niệm của tôi về Chúa Giêsu lâu nay như thế nào? Tôi đang đặt những niềm chờ mong gì nơi Người? Tại sao tôi còn ở lại với Người? Những câu hỏi này bắt tôi phải ra khỏi tình trạng nửa vời để dứt khoát chọn Chúa Giêsu.
2023
Hãy đến với Thánh Thể
28.4 Thứ Sáu trong tuần thứ Ba Mùa Phục Sinh
Cv 9:1-20; Tv 117:1; 2 Ga 6:52-59
Hãy đến với Thánh Thể
Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu chia sẻ với các môn đệ những lời rất thân tình, tha thiết: Ngài sẽ ra đi về cùng Cha rồi Ngài sẽ trở lại đón các ông, để Ngài ở đâu, môn đệ cũng ở đó với Ngài. Ngài cho các ông biết sứ mạng của Ngài là đến trần gian để dẫn đưa nhân loại về cùng Chúa Cha, đến sự sống đời đời. Chính Ngài là con đường duy nhất. Ai muốn đến cùng Cha, muốn có sự sống đích thực thì phải qua con đường đó. Nếu từ chối Ngài, không bao giờ chúng ta có thể đạt tới hạnh phúc viên mãn.
Chúa Giêsu khẳng định với người Do Thái : “Thịt Ta thật là của ăn, Máu Ta thật là của uống”.
Lời quả quyết đó không khỏi thắc mắc cho họ, như họ nêu lên ngay từ câu đầu bài Tin Mừng : “Làm sao ông này có thể lấy thịt mình mà cho chúng ta ăn được?”
Tuy nhiên, Chúa Giêsu muốn làm chứng rằng : Ngài chính là nguồn mạch sự sống của con người; Ngài chính là Đấng mang đến cho nhân loại sự sống thần linh; Ngài chính là của ăn nuôi sống linh hồn con người. Nhưng chỉ những ai có đức tin mới có thể đón nhận được sự sống thật nơi Bí tích Thánh Thể, như Chúa Giêsu quả quyết : “Ai ăn thịt Ta và uống máu Ta, thì ở trong Ta, và Ta ở trong kẻ ấy. Cũng như Cha là Ðấng hằng sống đã sai Ta, nên Ta sống nhờ Cha, thì kẻ ăn Ta, chính người ấy cũng sẽ sống nhờ Ta.”
Vì thế, một nguyên lý quan trọng nhất của tế lễ Thánh Thể không phải chúng ta làm cho Thiên Chúa xuống trong những dấu chỉ, nhưng chính Thiên Chúa đến với chúng ta, cho chúng ta được ở trong Ngài, cho chúng ta được liên kết với Ngài, được giao ước với Ngài và được sống với Ngài.
Chúng ta xác tín rằng : Chỉ Thiên Chúa mới có thể trao ban cho con người như lương thực để con người được sống. Khi tiếp nhận Chúa Giêsu trong Thánh Thể, người tín hữu tuyên xưng rằng con người không thể sống mà không có Thiên Chúa. Chỉ có sức sống thần linh mới làm cho con người được sống và sống dồi dào.
Chúng ta luôn nhớ rằng : Bí tích Thánh Thể ban cho chúng ta sức mạnh. Chúng ta hãy đón nhận lấy Chúa Giêsu như hai môn đệ làng Emmaus, họ đã được Chúa Giêsu chia sẻ trong tiệc bẻ bánh, và từ những người buồn sầu và thất bại họ đã trở thành những người tươi vui.
Chúa Giêsu Thánh Thể luôn luôn làm cho chúng ta tràn đầy niềm vui. Chúng ta hãy nhớ kỹ điều đó! Khi buồn sầu, khi nản lòng, hãy đi tham dự thánh lễ Chúa Nhật và rước lễ, tham dự vào mầu nhiệm của Chúa Giêsu!
Tin Mừng hôm nay trình thuật lời tuyên bố của Chúa Giêsu về một vấn đề quan trọng, liên quan trực tiếp tới Ngài và tới tất cả những ai tin Ngài, đó là “Bánh Hằng Sống”. Ngài không nói quanh co bóng gió, nhưng rõ ràng minh bạch: “Tôi là bánh hằng sống từ trời xuống”. Khi tuyên bố như thế, ngay sau đó, Ngài liền khẳng định: “Ai ăn bánh này, sẽ được sống muôn đời” (Ga 6, 51).
Như một sự tiệm tiến, Chúa Giêsu không chỉ ao ước, cũng như không chỉ có ý định trở thành lương thực cho con người, nhưng Ngài còn thực sự muốn và thực hiện điều đó. Vì thế, Ngài nói: “Bánh tôi sẽ ban tặng, chính là thịt tôi đây, để cho thế gian được sống”; “Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì được sống muôn đời, và tôi sẽ cho người ấy sống lại vào ngày sau hết, Ai ăn thịt và uống máu tôi, thì ở lại trong tôi, và tôi ở lại trong người ấy” (x. Ga 6, 54-56).
Khi tuyên bố như thế, Chúa Giêsu cho thấy, lương thực Ngài ban tặng chính là lương thực Thần Linh, hoàn toàn khác biệt với những thứ lương thực trong đời thường, bởi vì Bánh mà Đức Giêsu trao ban chính là Ngài.
Khi trao ban cho con người chính bản thân mình, Chúa Giêsu mong muốn được trở thành nguồn nuôi sống và nhất là thông truyền sự sống Thần Linh của Ngài cho nhân loại. Sự liên kết này được thể hiện qua việc ăn Thịt và uống Máu Chúa trong niềm tin. Chính vì thế, thánh Phaolô đã nhắc nhở tín hữu Côrintô: “Ai ăn và uống mà không phân biệt được Thân Thể Chúa, là ăn và uống án phạt mình”.
Nói như thế, thánh Phaolô muốn nhấn mạnh đến việc chuẩn bị và ý thức cách xứng đáng để tương xứng với hồng ân cao trọng mà vì yêu, nên Chúa Giêsu sẵn sàng trao hiến cho con người.
Thánh lễ quả là một dịp rất quý giá để chúng ta ăn uống Chúa, nhờ đó được ở trong Ngài và chia sẻ sự sống thần linh của Ngài. Thế nhưng các lễ nghi Thánh lễ vẫn cứ lập lại hầu như ngày này cũng như ngày khác. Điều đó khiến chúng ta quá quen đến nỗi không còn chú ý. Việc rước lễ cũng thế, có nhiều ngày nó chỉ là hành động theo thói quen không chút ý thức.
Thỉnh thoảng tôi cần phải làm sống lại ý thức khi tham dự Thánh lễ và Rước lễ.
Hãy đến với Chúa Giêsu Thánh Thể, chúng ta mới cảm nghiệm được thế nào là tình yêu của Chúa Giêsu muốn ở cùng chúng ta, muốn trao ban sự sống của Ngài cho chúng ta. Sự sống của Chúa, tình yêu của Chúa luôn ngự trị trong Bí tích Thánh Thể.