2023
Sửa dạy huynh đệ
16.8 Thứ Tư trong tuần thứ Mười Chín Mùa Quanh Năm
St 34:1-12; Mt 18, 15-20
Sửa dạy huynh đệ
Thường khi nói đến đức ái, là chúng ta nghĩ ngay đến tình thương yêu hoặc việc chia sẻ trao ban … Nhưng ở đây, Chúa Giê su dạy chúng ta và chính Ngài cũng là một mẫu gương về tinh thần đức ái tuyệt vời trong một lĩnh vực mới này. Đó là sửa lỗi.
Đã gọi là chỉnh sửa, ta chỉnh những lỗi lầm, thì phải dùng đến luật lệ và được thực hành cách nghiêm minh ra trước một phiên tòa còn gọi là trước vành móng ngựa. Nhưng ở đây, Chúa Giê su lại dẫn chứng hình ảnh về vị quan tòa, về cách xét xử khác với con người. Đó là vị quan tòa đầy tính hiền hòa và lòng khiêm tốn. Luật của Ngài là yêu thương và tha thứ.
“Nếu người anh em… trót phạm tội”. Ở đây không nói đến thứ tội trong lương tâm, nhưng là những tội gây xáo trộn hoặc làm mất uy tín của cộng đoàn (giáo xứ, dòng tu…). Như thế là có xảy ra những gương xấu trong cộng đoàn, phải cư xử thế nào?
Chúng ta hãy xem cách “sửa dạy huynh đệ” mà Chúa Giê su nêu ra như một bằng chứng về đức ái như sau: “Anh hãy đi sửa lỗi nó, một một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe, thì anh đã chinh phục được người anh em” ( câu 15). Đó là phương án thứ nhất: Một gặp gỡ, một ý nói: Lời trách cứ phải được thực hiện trong sự kín đáo. Nếu phương án này chưa đạt kết quả, cần phải thực hiện phương án hai là: “Đem theo một hoặc hai người nữa, để công việc được giải quyết…” Theo như sách Đệ Nhị Luật đã gợi ý (Đnl 19,15) Nếu người đó vẫn không chịu nghe, thì đem ra trước cộng đoàn; Với sự có mặt của cộng đoàn, cộng đoàn sẽ làm chứng và yêu cầu tội nhân nhận trách nhiệm của họ ( x. 17a ). Với cả ba phương án trên, nếu vẫn không đạt kết quả thì “hãy kể nó như người ngoại hay người thu thuế” (x. 17b ). Lúc này mới chấp nhận người đúng như một kẻ xa lạ đối với đời sống cộng đoàn.
Vì sao Chúa Giêsu lại đưa ra cách sửa lỗi từng bước như vậy? Vì theo Thánh sử Matthêu, việc sửa lỗi huynh đệ là một bổn phận của cộng đoàn Kitô. Việc sửa lỗi này có một nền tảng là Đức Ái, nhằm cứu vãn và xây dựng hơn là áp dụng kỷ luật để đàn áp, loại trừ. Vì thế, Chúa Giêsu muốn mọi phương cách phải được sử dụng để đưa tội nhân trở về. “Cộng Đoàn” ở đây là những người có trách nhiệm chính thức, và các vị này cũng phải áp dụng tiêu chuẩn sửa dạy trên đức ái. Nếu dùng quyền mà sửa trị và loại trừ, cũng là vì bác ái với đương sự, để đương sự nhận ra và hối cải, và cũng bác ái với các phần tử khác trong cộng đoàn để họ không theo gương xấu đó mà phạm tội.
“Dưới đất, anh em cầm buộc điều gì, trên trời cũng cầm buộc; dưới đất, anh em tháo cởi điều gì, trên trời cũng tháo cởi” (x. Câu 18). Đây là quyền bính được trao cho tông đồ đoàn và đạt được là Thánh Phê rô. Thiên Chúa ở trên trời sẽ chuẩn nhận những quyết định kỷ luật “tháo cởi – cầm buộc” của pháp lý Do Thái cổ xưa. Đối với Giáo Hội, đó là trách nhiệm nặng nề và tinh thần trách nhiệm đó được xác định trong hai câu 19 và 20 sau:
“Dưới đất, hai người hợp lời cầu xin… Cha Thầy… sẽ ban cho” (x. câu 19): Nói lên việc cầu nguyện chung với nhau sẽ dẫn đến tình bác ái và sự hiệp nhất trong cộng đoàn, và lúc đó lời cầu nguyện được Thiên Chúa nhậm lời. Như thế, khi cầu nguyện cần có hai việc được tiến hành song song: một là tâm đầu ý hợp trong đời sống cộng đoàn; hai là nhân danh Chúa Giê su (x. Câu 20). Chúa Giê su khẳng định Người sẽ hiện diện khi chúng ta cầu nguyện, thực hiện đủ hai bước này và Người sẽ bảo đảm hiệu năng của lời cầu nguyện trước mặt Chúa Cha, và lời cầu nguyện sẽ dẫn đến kết quả tốt đẹp.
Vì lý do nào mà Thánh sử Matthêu lại đề cao việc hiệp nhất trong cầu nguyện sau khi nói về việc “sửa dạy huynh đệ” ? Đó là vì có một tương quan giữa việc cầu nguyện và sửa dạy. Chỉ có Thiên Chúa là Đấng sửa dạy, chúng ta chỉ là dụng cụ thi hành ý Chúa. Vậy trước khi sửa dạy, cần cầu nguyện lắng nghe tiếng Chúa, cần theo cách của Ngài chứ không theo sự khôn ngoan của con người. Qua việc con người nhân danh Chúa Kitô sẽ liên kết chúng ta lại với nhau, nhất là liên kết những ai tham gia vào tiến trình “sửa dạy huynh đệ” này.
Ngày nay, nói chung, chúng ta rất nhạy cảm đến những bài diễn thuyết về chăm sóc và bác ái vì lợi ích thân thể và vật chất của người khác, nhưng chúng ta hầu như im lặng hoàn toàn về trách nhiệm tinh thần đối với anh chị em của mình. Điều đó không có trong Giáo hội sơ khai và trong các cộng đoàn thực sự trưởng thành trong đức tin, ở đó không chỉ lưu tâm đến sức khỏe thể xác của người anh em, mà còn chăm sóc linh hồn của người đó ở phút cuối phận đời.
Chúng ta đọc trong Thánh kinh: “Đừng khiển trách đứa ngoan cố kẻo nó thù ghét con. Hãy khiển trách người khôn ngoan, con sẽ được họ thương mến” (Kn 9,8). Chính Chúa Giêsu ra lệnh sửa lỗi người anh em khi phạm tội (Mt 18,15). Động từ được sử dụng để xác định việc sửa dạy huynh đệ cũng là động từ nói đến sứ mạng tiên tri về tố cáo của những người Kitô hữu đối với một thế hệ đắm chìm trong tội ác.”
Trong một thế giới chủ nghĩa cá nhân chiếm ưu thế, khám phá lại tầm quan trọng của việc sửa dạy huynh đệ thật sự quan trọng, để cùng nhau hướng đến sự thánh thiện. Ngay cả Thánh kinh cũng nói: “Vì chính nhân có ngã bảy lần cũng đứng lên được” (Cn 24, 16), và tất cả chúng ta đều yếu đuối và thiếu thốn (x. 1Ga 1,8).
Vì vậy, đó là một việc làm lớn lao để giúp đỡ và cho phép mình được giúp đỡ để đọc lại bản thân bằng sự thật, để cải thiện đời sống của mình và đi trên đường ngay chính của Thiên Chúa. Luôn cần một cái nhìn yêu thương và sửa dạy, nhận biết và thừa nhận, phân định và tha thứ (Lc 22, 61), như Thiên Chúa đã và đang làm với mỗi người trong chúng ta.”
2023
Hãy trân trọng bài giảng
Hãy trân trọng bài giảng
Tôi quá thích chủ đề “Người Mục Tử Phải Có Hồn Tông Đồ” trong thánh lễ thuyên chuyển linh mục 04-08-2023. Giáo huấn Đức Tổng Giám Mục Sàigòn Giuse Nguyễn Năng gởi cho linh mục quá thực tế, đầy Thần Khí. Tôi nghe đi nghe lại nhiều lần phần ngài cảnh tỉnh bản thân và linh mục: “Có phải tại vì chúng ta giảng dở?” rồi gom lại hai điểm: thế nào là giảng dở và thế nào là giảng hay?
Lời ngài cảnh tỉnh xoáy vào tim, thúc bách tôi noi gương Đức Giáo Hoàng Phanxicô kiến tạo “Niềm Vui Tin Mừng” thành cuộc đời mình. “Niềm Vui Tin Mừng”, tựa đề Tông Huấn của Đức Giáo Hoàng Phanxicô được ban hành ngày 24 tháng 11, 2013, đã tạo cảm hứng rất mạnh cho linh mục Gregory Heille, OP. hoàn tất tác phẩm nhỏ “The Preaching of Pope Francis,” chỉ có 77 trang nhưng là thuốc thần chữa trị bệnh “giảng dở.” Ở trang 4, linh mục Gregory Heille viết: “Bằng lời và gương sáng, Đức Giáo Hoàng Phanxicô là người thành tâm thực hành Niềm Vui Tin Mừng trong chiêm niệm. Trong nỗ lực hằng ngày hềt tình thi hành sứ vụ, ngài chân thực chuyển tải trái tim người chủ chăn… cơ bản sống sứ mệnh người tông đồ truyền giáo và loan báo Tin Mừng.”
Thánh Phaolô đã báo động: “Thiên hạ không còn chịu nghe đạo lành!” (2Tim 4:3)
Có nên đặt lại vấn đề tại sao thiên hạ không muốn nghe đạo lành? Có phải tại vì chúng ta giảng dở???
- Giảng không có sự thu hút của Chúa Thánh Thần
- Giảng không xác tín
- Giảng không đem lại của ăn thiêng liêng.
Ngày nay nhiều linh mục có lắm “chiêu” giảng để thu được nhiều tiền, để thăng hoa tiến chức, để thu hút mọi người đến với mình. Sau khi kiểm tiền cãu, ông cố khuyên con linh mục: “Bố thấy con liệu tìm “chiêu” nào khác mà giảng, chứ tiền cãu tuần này xuống thấp rồi đấy!” Chuyện có thật trăm phần trăm!
Đừng kể chuyện lan man – dài dòng, đi từ điều này đến điều khác, không đúng trọng tâm vấn đề, không mạch lạc, không hệ thống – không nói chuyện đời. Đức Ông McGarry, giáo sư dạy môn Nghệ Thuật Giảng Lễ tại Đại Học Maynooth, Ireland nhắc nhở: “Hãy nhớ kỹ nhiệm vụ của anh em là nuôi dưỡng đàn chiên, chứ không phải là đùa giỡn với bầy dê!” (trích sách 150 More Stories for Preachers and Teachers của linh mục Jack McArdle, The Columba Press Dublin 1992, tr. 5)
Thời nào cũng có nhiều người khao khát Lời Chúa. Họ tha thiết tìm của ăn thiêng liêng để nuôi dưỡng tâm hồn. Thánh Phaolô khuyên Timôtê hãy kiên trì, hãy sốt sắng rao giảng, chu toàn bổn phận của mình. (2Tim 4:5)
- Hãy soạn bài giảng. Theo gương thánh Gioan Vianney, soạn bài giảng trước Nhà Tạm để dễ dàng kín múc khôn ngoan của Chúa từ nơi Thánh Thể Chúa và từ sự cầu nguyện.
- Hãy giảng với xác tín vào sức mạnh của lợi thế bài giảng
- Hãy trân trọng bài giảng. Hãy có trách nhiệm với trọng trách giảng huấn của mình.
“Hồn môn đệ” làm người giảng lễ luôn trung thực với bản thân, hăng say đem tình thương chân lý của Chúa vào tâm hồn tín hữu: chuyển tải sự sống và niềm vui từ trái tim người giảng lễ vào trái tim người nghe giảng. Trong bức tranh người mẹ cho con bú, họa sĩ người Mỹ Mary Cassatt tài tình vẽ ra hình ảnh mắt mẹ mắt con âu yếm nhìn nhau. Giống như người mẹ khi cho con bú, trò chuyện với con bằng ánh mắt, âu yếm để sự sống mình qua dòng sữa ngọt ngào tuôn chảy vào con, nuôi con lớn, cũng vậy người giảng lễ cống hiến niềm vui Đức Giêsu cho thế giới. ĐTGM Sàigòn Giuse Nguyễn Năng gọi đó là “Người Mục Tử Có Hồn Tông Đồ.” Toàn thân của người giảng lễ là nhạc cụ có dây. Khi lời giảng như sóng âm thanh phát ra từ dây đàn và từ phòng âm thanh trong cơ thể người giảng lễ thì nó tạo nên rung động rồi chuyển tải truyền thông đến với tế bào cảm nhận ở tai người nghe. Hoạt động truyền thông quả là phép mầu: trái tim nói với trái tim! Linh hồn chuyển tải niềm vui cho linh hồn. Đức Thánh Cha Phanxicô kêu gọi người giảng lễ trở thành môn đệ truyền giáo loan báo Tin Mừng.
Cuối tác phẩm “The Preaching of Pope Francis,” ở trang 77, linh mục Gregory Heille, OP. kết luận bất luận ở đâu – thành thị hay thôn quê – người giảng lễ luôn đứng trên “thánh địa” sống cuộc sống của mình. Ngay tại đó người giảng lễ được Đức Thánh Cha Phanxicô “mời gọi tiếp tay với ngài – trở thành và loan báo hy vọng vào sự hiện diện đầy yêu thương của Thiên Chúa.” Bởi thế Đức Tổng Giám Sàigòn Giuse Nguyễn Năng mạnh dạn kêu gọi: “Hỡi linh mục, hãy trân trọng bài giảng!” Người giảng lễ được kêu gọi, được sai đi rao giảng, mang niềm vui đến cho người nghe và cảm hóa họ ngõ hầu “nhờ tin Mừng,” mọi người “cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẽ điều Thiên Chúa hứa.” (Eph 3:6)
Lm. Gioan Baotixita Huỳnh Hữu Khoái
Brisbane, 08-08-2023
2023
Nên cầu nguyện bao lâu sau khi rước lễ?
Khi kết thúc Thánh lễ, hầu hết chúng ta đều có những phận sự và trách nhiệm khác nhau khiến chúng ta không thể ở lại nhà thờ để cầu nguyện. Sống trong một thế giới hối hả, thật khó để dừng lại vài phút tạ ơn Chúa về hồng ân Thánh Thể.
Tuy nhiên, nhiều vị thánh đã khuyến khích thực hành lòng đạo là duy trì việc cầu nguyện trong một khoảng thời gian dài sau khi Rước Lễ.
Năm 1980, Bộ Phụng tự và Bí tích xuất bản một tài liệu, Inaestimabile donum, khuyến khích mọi người tiếp tục cầu nguyện.
Các tín hữu được khuyên không nên bỏ qua việc tạ ơn riêng sau khi rước lễ. Họ có thể cầu nguyện trong thánh lễ qua thời gian im lặng, với bài thánh ca, thánh vịnh hoặc một bài hát ngợi ca khác, hoặc sau thánh lễ, nếu có thể ở lại cầu nguyện trong một thời gian thích hợp.
Bạn nên ở lại cầu nguyện bao lâu?
Không có thời gian “chính thức” để cầu nguyện. Các thánh trong nhiều thế kỷ đã đề xuất nhiều lựa chọn khác nhau.
Thánh Josemaria Escriva đã viết: “Nếu lời tạ ơn của chúng ta cân xứng với sự khác biệt giữa ơn sủng và những khô cằn của chúng ta, liệu có nên biến cả ngày thành một thánh lễ liên tục, một lời tạ ơn liên tục không? Đừng rời khỏi nhà thờ ngay sau khi lãnh nhận Bí tích. Chắc chắn bạn không có việc gì quan trọng đến nỗi bạn không thể dành cho Chúa 10 phút để nói lời cảm tạ. Tình yêu được đền đáp bằng tình yêu”
Thánh Peter Julian Eymard cũng có một gợi ý tương tự: “Những khoảnh khắc trang trọng nhất trong cuộc đời của bạn là những lúc bạn dành để tạ ơn, khi Vua của trời và đất, Đấng Cứu Rỗi và Thẩm Phán của bạn, là của bạn, Ngài sẵn sàng ban cho bạn tất cả những gì bạn cầu xin. Nếu có thể được, hãy dành nửa giờ cho việc tạ ơn này hoặc ít là 15 phút. Thay vì rút ngắn việc tạ ơn của bạn, tốt hơn hết, bạn nên rút ngắn phần chuẩn bị của mình; vì không có khoảnh khắc thánh thiện nào, không có khoảnh khắc nào ích lợi hơn khi bạn sở hữu Chúa Giêsu trong thể xác và trong tâm hồn mình”.
Các vị thánh khác đã dành trọn một giờ sau khi Rước Lễ, tận hưởng từng phút ở với Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể.
Dù bạn dành bao nhiêu thời gian để cầu nguyện, hãy tạ ơn Thiên Chúa vì sự hiện diện của Người trong Bí tích Thánh Thể và hãy để tình yêu của Người rửa sạch tâm hồn bạn.
G. Võ Tá Hoàng chuyển ngữ từ Aleteia.org
2023
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
Nhìn thấy Chúa trong cuộc sống
![4](https://gpbuichu.org/uploads/news/2023_08/4.jpeg)
Thiên Chúa đang hiện diện trong cuộc sống của mỗi người
Nietzche, một triết gia vô thần đã ngạo nghễ tuyên bố : “Thiên Chúa đã chết rồi”. Ông muốn khai tử Thiên Chúa và cho rằng, con người ngày nay đã đạt đến cao điểm của nền văn minh khoa học, nên Thiên Chúa không còn lý do để hiện hữu. Ông đã phạm một sai lầm rất lớn khi muốn loại bỏ Thiên Chúa và vào cuối đời, ông đã chết trong tuyệt vọng. Cũng tương tự, triết gia Jean Paul Satre đã trở thành con người vô thần khi chối từ Thiên Chúa. Ông cảm thấy cuộc đời của mình hoàn toàn trống rỗng và vô nghĩa như một cơn buồn nôn. Để diễn tả tâm trạng bất an nơi mình, ông đã viết cuốn ‘La Nausée’ (cơn buồn nôn). Cho dù nhiều người đang cố gắng đào thải Thiên Chúa ra khỏi cuộc sống để chạy theo chủ nghĩa vô thần hiện sinh, nhưng Thiên Chúa vẫn luôn hiện hữu. Tuy nhiên, chỉ khi nào chúng ta đi sâu vào cảm thức đức tin, chúng ta mới có thể khám phá ra sự hiện hữu của Ngài và tiếp cận được Ngài.
Trong bài đọc 1, tác giả sách Các Vua đã thuật lại câu truyện về ngôn sứ Elia trên đường đến núi Hô-rep để gặp Chúa. Chúa không ở trong những tiếng động ầm ĩ của gió bão, cũng không ở trong những tiếng rung chuyển của cơn động đất hay trong ngọn lửa hừng hực phun trào trên đỉnh núi cao. Cuối cùng, Chúa đã đến với Elia trong tiếng gió thổi hiu hiu rất âm thầm và nhẹ nhàng. Trong cuộc sống của chúng ta hôm nay cũng vậy, có biết bao tiếng động ồn ào làm cản che đôi tai khiến chúng ta không nghe được tiếng Chúa nói, hoặc bịt kín đôi mắt khiến chúng ta không thể nhận ra dung mạo của Chúa. Sự ồn ào gây nên không phải bởi những tiếng gầm rú của xe cộ ngoài đường phố hay bởi những loa nhạc mở hết công suốt tại các phòng trà. Trên hết, đó là những tiếng động xào xạc của tiền bạc, của lòng tham nơi con người khi họ đang hướng về một lối sống hưởng thụ và ích kỷ. Chính cuộc sống duy vật ấy đang dần khai tử Thiên Chúa, và hình ảnh của Thiên Chúa đang dần trở nên mờ nhạt trong tâm hồn con người ngày hôm nay.
Cũng tương tự như thế, trong trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Matthêu thuật lại giai thoại Chúa Giêsu đi trên biển để đến với các môn đệ, nhưng các ông tưởng là thấy ma. Con thuyền lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các ông khiếp sợ. Sự sợ hãi đã khiến các ông không nhận ra Chúa. Trong cuộc sống hiện nay cũng vậy, chúng ta sẽ không thể nhận ra sự hiện diện của Chúa cho dù Ngài đang đứng bên cạnh chúng ta, đặc biệt mỗi khi chúng ta chìm ngập trong sợ hãi và bị những bóng ma cản che con mắt đức tin. Đó là bóng ma của tiền bạc, của lạc thú, của một nếp sống hưởng thụ khi chỉ nghĩ đến bản thân mình một cách ích kỷ. Phêrô đã dần dần nhận ra Chúa và muốn đến với Ngài. Nhưng khi nỗi sợ hãi dâng cao, ông lại từ từ lún chìm giữa lòng biển khơi ngập sóng. Những bóng ma trong đêm tối dễ làm cho con người chúng ta khiếp sợ. Sự khiếp hãi làm sói mòn đức tin và nó đốt cháy lòng tín thác của chúng ta đặt để nơi Chúa.
Thưa ngài, xin cứu con với
Đây là lời cầu cứu của thánh Phêrô lúc ông đang từ từ lún chìm vì sợ. Con thuyền của các tông đồ đang lênh đênh giữa biển khơi đầy sóng to và gió lớn khiến các Ngài hoảng loạn. Nỗi sợ hãi tăng cao khi các ông tưởng nhìn thấy một bóng ma đang lù lù tiến đến. Cũng vậy, khi cuộc đời chúng ta cứ bình lặng êm trôi, chúng ta rất dễ hướng lòng về Chúa. Nhưng khi gặp nhiều thử thách với bao sóng dữ như muốn nuốt chửng, chúng ta dễ bị chao đảo và vuột mất niềm tin nơi mình. Triết gia Karl Marx đã từng mỉa mai nói rằng “Thiên Chúa chỉ là một sản phẩm của trí tưởng tượng nơi phận người đầy khổ đau, là tiếng kêu cứu của một con người bị áp bức mà không biết bấu víu vào đâu. Ảo tưởng đó sẽ bị xóa bỏ, khi xã hội con người đạt đến tự do bình đẳng, không còn người bóc lột người và tất cả được no cơm ấm áo”. Nhận định của ông rất phiếm diện và ngày nay, học thuyết Marxism đang dần dần bị con người đào thải. Niềm tin tôn giáo không phải là một thứ thuốc phiện gây mê như ông đã từng nói. Càng sống sung túc về đời sống vật chất, con người lại càng cảm thấy nhu cầu cần đi tìm kiếm một thực tại linh thánh để có thể khỏa lấp những khao khát sâu xa nơi mình. Chỉ Thiên Chúa mới có thể làm cho con người thỏa mãn những khát vọng sâu xa ấy.
Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của thánh Phaolô được nói đến trong bài đọc 2 hôm nay. Vị Thánh Tông đồ đã trải qua nhiều đau khổ, nhưng luôn kiên định trong niềm tin vào Đức Giêsu. Thánh nhân viết : “Lòng tôi rất đỗi ưu phiền và đau khổ mãi không nguôi. Nếu tôi có bị nguyền rủa và xa lìa Đức Kitô, thì tôi cũng cam lòng” (Rm 9,2-3). Ngài viết tiếp : “Ai có thể tách chúng ta ra khỏi Đức Kitô, phải chăng là gian truân, khốn khổ, đói rách, hiểm nguy, bắt bớ hay gươm giáo (Rm 9,35). Phaolô đã vượt qua được những sóng gió vì Ngài đã cắm sâu vào mầu nhiệm Thập giá cùng với Đức Kitô, đã vượt qua mọi sợ hãi để luôn bình thản trước những cơn sóng dữ của cuộc đời. Vì vậy Thánh nhân đã kết luận : “Không gì có thể tách tôi ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa, thể hiện nơi Đức Kitô” (Rm 9,39).
Đào sâu cảm thức đức tin
Có rất nhiều nhà khoa học lỗi lạc đã thể hiện niềm tin sâu xa vào Thiên Chúa như Louis Pasteur, Copernic, Newton, Thomas Edison,v…v… Chúng ta hãy nhìn vào mẫu gương của ông Louis Amstrong, phi hành gia đầu tiên người Mỹ đã đặt chân lên đến mặt trăng. Vừa sau khi phi thuyền đáp xuống, ông đã quỳ gối, giơ tay làm dấu Thánh giá để biểu thị đức tin nơi mình. Cũng vậy, ông Newton, một khoa học gia lỗi lạc, khi nhìn ngắm trăng sao để nghiên cứu bầu trời, đã cảm thấy con người rất nhỏ bé trước sự hùng vĩ của thiên nhiên, là kiệt tác do bàn tay Thiên Chúa tạo thành. Ông luôn sống khiêm tốn để ngày càng đi sâu vào cảm thức đức tin. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói với Phêrô : “Hỡi kẻ kém lòng tin, sao lại hoài nghi”. Đây cũng là lời trách cứ Chúa nói với chúng ta, mỗi khi đức tin của chúng ta bị chao đảo. Để đức tin nơi chúng ta được nuôi dưỡng và được kiện cường, điều kiện tiên quyết là phải có một tấm lòng biết mở rộng để Chúa Thánh Thần hướng dẫn. Đức Maria là thầy dạy đức tin và cũng là khuôn mẫu nội tâm để chúng ta học hỏi thái độ đức tin nơi Ngài.
Kết luận
Thiên Chúa luôn hiện diện và đang đồng hành với chúng ta trên mọi nẻo đường cuộc sống. Dấu chân của Ngài luôn in đậm nét trong mọi biến cố cuộc sống đời thường của mọi người, nhưng nhiều khi chúng ta chưa hoặc không nhận ra Ngài. Kinh nghiệm mà thánh Phêrô cũng như các tông đồ đã trải nghiệm năm xưa trên biển hồ Galilê cũng thường được lập lại trong cuộc sống hiện sinh của chúng ta ngày hôm nay. Cùng với Thánh Phêrô, chúng ta hãy thưa lên với Chúa : “Thưa thầy, xin hãy cứu con. Xin hãy gia tăng lòng tin yếu kém nơi chúng con”.
Tác giả: GB. Văn Hào, SDB