2023
Thứ năm sau Chúa Nhật VII Phục Sinh
Thứ năm sau Chúa Nhật VII Phục Sinh
Ca nhập lễ
Chúng tôi tin tưởng chạy đến toà ơn Chúa, để nhờ Chúa thương đến, chúng tôi được ơn Chúa tuỳ thời cơ thuận tiện – Alleluia.
Lời nguyện nhập lễ
Lạy Chúa, xin tuôn đổ muôn ơn Thánh Thần, để Người biến đổi lòng chúng con, giúp chúng con ăn ở sao cho đẹp lòng Chúa như những người con thảo. Chúng con cầu xin…
Bài Ðọc I: Cv 22, 30; 23, 6-11
“Con phải làm chứng về Ta tại Rôma”.
Trích sách Tông đồ Công vụ.
Trong những ngày ấy, toà án muốn biết đích xác người Do-thái tố cáo Phaolô về tội gì, nên cởi trói cho ngài, và truyền lệnh cho các thượng tế và toàn thể công nghị họp lại, rồi dẫn Phaolô đến đứng trước mặt họ. Phaolô biết có một số người thuộc phe Sađốc, và một số khác thuộc phe biệt phái, nên kêu lớn tiếng giữa công nghị rằng: “Thưa anh em, tôi là biệt phái, con của người biệt phái, tôi bị xét xử vì niềm hy vọng và vì sự sống lại của những người đã chết”. Ngài vừa nói thế, thì xảy ra sự bất đồng ý kiến giữa các người biệt phái và Sađốc, và hội đồng đâm ra chia rẽ. Vì các người Sađốc cho rằng không có sự sống lại, không có thiên thần và thần linh; còn các người biệt phái thì tin tất cả điều đó. Tiếng la lối inh ỏi, và có mấy người biệt phái đứng lên bênh vực rằng: “Chúng tôi không thấy người này có tội gì; và nếu thần linh hay thiên thần nói với người này thì sao?” Cuộc tranh luận đã đến hồi gây cấn, viên quản cơ sợ Phaolô bị phân thây, nên sai lính xuống kéo ngài ra khỏi họ và dẫn về đồn.
Ðêm sau, Chúa hiện đến cùng ngài và phán: “Hãy can đảm lên! Con đã làm chứng về Ta tại Giêrusalem thế nào, thì cũng phải làm chứng về Ta tại Rôma như vậy”.
Ðó là lời Chúa.
Ðáp Ca: Tv 15, 1-2a và 5. 7-8. 9-10. 11
Ðáp: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa
Hoặc đọc: Alleluia.
Xướng: Xin bảo toàn con, lạy Chúa, vì con tìm nương tựa Chúa. Con thưa cùng Chúa: Ngài là chúa tể con; Chúa là phần gia nghiệp và phần chén của con, chính Ngài nắm giữ vận mạng của con. – Ðáp.
Xướng: Con chúc tụng Chúa vì đã ban cho con lời khuyên bảo, đó là điều lòng con tự nhủ, cả những lúc đêm khuya. Con luôn luôn đặt Chúa ở trước mặt con, vì Chúa ngự bên hữu con, con sẽ không nao núng. – Ðáp.
Xướng: Bởi thế, lòng con vui mừng và linh hồn con hoan hỉ, ngay cả đến xác thịt của con cũng nằm nghỉ an toàn, vì Chúa chẳng bỏ rơi linh hồn con trong Âm phủ, cũng không để thánh nhân của Ngài thấy điều hư nát. – Ðáp.
Xướng: Chúa sẽ chỉ cho con biết đường lối trường sinh, sự no đầy hoan hỉ ở trước thiên nhan, sự khoái lạc bên tay hữu Chúa, tới muôn muôn đời! – Ðáp.
Alleluia: Ga 14, 18
Alleluia, alleluia! – Chúa phán: “Thầy sẽ không bỏ các con mồ côi: Thầy sẽ đến với các con và lòng các con sẽ vui mừng”. – Alleluia.
(Hoặc đọc: Alleluia, alleluia! Chúa nói: “Lạy Cha, xin cho tất cả nên một, như Cha ở trong con và Con ở trong Cha, để thế gian tin rằng Cha đã sai con”. Alleluia
Phúc Âm: Ga 17, 20-26
“Xin cho chúng nên một”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Gioan.
Khi ấy, Chúa Giêsu ngước mắt lên trời cầu nguyện rằng: “Con không cầu xin cho chúng mà thôi, nhưng còn cho tất cả những kẻ, nhờ lời chúng mà tin vào Con, để mọi người nên một, cũng như Cha ở trong Con và Con ở trong Cha, để cả chúng cũng nên một trong Ta, để thế gian tin rằng Cha đã sai Con. Con đã ban cho chúng vinh hiển mà Cha đã ban cho Con, để chúng nên một như Chúng Ta là một. Con ở trong chúng, và Cha ở trong Con, để chúng được hoàn toàn nên một và để thế gian biết rằng Cha đã sai Con, và Con đã yêu mến chúng như Cha đã yêu mến Con. Lạy Cha, những kẻ Cha ban cho Con thì Con muốn rằng Con ở đâu, chúng cũng ở đấy với Con, để chúng chiêm ngưỡng vinh quang mà Cha đã ban cho Con, vì Cha đã yêu mến Con trước khi tạo thành thế gian. Lạy Cha công chính, thế gian đã không biết Cha, nhưng Con biết Cha, và những người này cũng biết rằng Cha đã sai Con. Con đã tỏ cho chúng biết danh Cha, và Con sẽ còn tỏ cho chúng nữa, để tình Cha yêu Con ở trong chúng, và Con cũng ở trong chúng nữa”.
Ðó là lời Chúa.
Lời nguyện tiến lễ
Lạy Chúa, xin thánh hoá và chấp nhận của lễ này, là biểu hiện lễ tế thiêng liêng của Giáo Hội; xin Chúa cũng thương tình biến đổi chúng con thành của lễ muôn đời đẹp lòng Chúa. Chúng con cầu xin…
Lời Tiền Tụng
Lạy Chúa là Cha chí thánh, là Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, chúng con tạ ơn Chúa mọi nơi mọi lúc, nhờ Ðức Ki-tô, Chúa chúng con, thật là chính đáng, phải đạo và đem lại ơn cứu độ cho chúng con. Sau khi sống lại, Người đã hiện ra tỏ tường với tất cả môn đệ, và đã được đem lên trời trước mặt các ông/ để cho chúng con được thông phần thần tính của Người.
Vì thế, với niền hân hoan chứa chan trong lễ Phục Sinh, toàn thể nhân loại trên khắp địa cầu đều nhảy mừng. Cũng vậy, các Dũng thần và các Quyền thần không ngừng hát bài ca chúc tụng vinh quang Chúa rằng:
Thánh! Thánh! Thánh!…
Ca hiệp lễ
Chúa phán:”Thày phải nói sự thật với các con: Thày đi thì ích lợi cho các con, vì nếu Thày không đi, thì Đấng phù trợ sẽ không đến với các con” – Alleluia.
Lời nguyện hiệp lễ
Lạy Chúa, chúng con vừa tham dự bàn tiệc Chúa dọn ra; xin cho lời hằng sống soi dẫn trí lòng và bánh bởi trời dưỡng nuôi hồn xác, hầu chuẩn bị chúng con sẵn sàng nhận lãnh muôn hồng ân Thánh Thần ban tặng. Chúng con cầu xin…
2023
Kinh thánh nói gì về âm nhạc?
Kinh thánh nói gì về âm nhạc?
Ghi nhận đầu tiên trong Kinh Thánh liên quan đến một nhạc sĩ là ở sách Sáng thế ký khi gọi ông Giu-ban là “tổ phụ của những người chơi đàn (đàn lyre) và thổi sáo”. Kể từ đó, các tiên tri Do Thái đều là những nhạc sĩ.
Âm nhạc có ảnh hưởng mạnh mẽ đến trải nghiệm của con người về thiên nhiên, tâm linh và cuộc sống. Vì vậy, âm nhạc đóng vai trò quan trọng trong việc thờ phượng ở các cộng đồng dân Chúa. Đó như là một cách để đến gần Thiên Chúa và diễn tả niềm vui vì sự hiện diện của Người.
Nhận thức của Giáo hội về vai trò của thánh nhạc đã tiến những bước khá xa. Đức Giáo hoàng Pi-ô X từng gọi thánh nhạc là “nữ tỳ”. Đến Công đồng Vaticano II thì gọi thánh nhạc là “thành phần không thể thiếu” của phụng vụ.
Trong Cựu ước
KHI LÊN NGÔI, VUA ĐA-VÍT VẪN THAM GIA, THẬM CHÍ TỔ CHỨC, HƯỚNG DẪN CHI TIẾT CHO NHÓM CÁC THẦY LÊ-VI CÁCH DÙNG ÂM NHẠC ĐỂ NGỢI CA THIÊN CHÚA.
Trong thời kỳ dân Do Thái rời khỏi đất Ai Cập, nữ tiên tri Mi-ri-am, chị của ông Mô-sê, đã cầm trống con dẫn đầu đoàn phụ nữ vừa múa vừa hát. Họ xướng lên bài hát Xuất hành nổi tiếng do ông Mô-sê sáng tác để ca tụng chiến công của Thiên Chúa trước dân Ai Cập.
Sách tiên tri Gio-suê, đoạn 6, từ câu 1 đến 21, ghi lại trận chiến phá hủy thành Giê-ri-cô với đầy dấu ấn của thanh nhạc lẫn khí nhạc: Tường thành sụp đổ trong tiếng reo hò của quân dân Do Thái sau bảy ngày rước Hòm Bia Giao Ước đi vòng quanh thành, vừa đi vừa thổi kèn và hát.
Khi thay mặt Thiên Chúa tấn phong cho ông Sa-un, tiên tri Sa-mu-en báo trước ông sẽ gặp một đoàn ngôn sứ đang nói tiên tri với phần đệm của đàn, sáo và trống. Tiên tri I-sai-a đã sáng tác nhiều bài hát ca ngợi Thiên Chúa, trong đó có bài thánh thi tạ ơn nổi tiếng (Is. 26, 1–6). Lời giảng của tiên tri Ê-zê-ki-en được xem là rất có hiệu quả bởi ông có một “giọng hát đẹp với phần tự đệm nhạc hay”.
Nổi tiếng nhất trong các “tiên tri nhạc sĩ” có lẽ là vua Đa-vít. Ông không chỉ là một chiến binh giỏi mà còn là một nhạc sĩ có tài. Người đã dành cho âm nhạc một chỗ đặc biệt trong việc phụng thờ Thiên Chúa.
Khi lên ngôi, vua Đa-vít vẫn tham gia, thậm chí tổ chức, hướng dẫn chi tiết cho nhóm các thầy Lê-vi cách dùng âm nhạc để ngợi ca Thiên Chúa. Vua còn chỉ định ông A-xáp chịu trách nhiệm chính về thánh nhạc phụng vụ và phân công cho các thành viên khác. Ông còn được coi là tác giả của bộ Thánh vịnh gồm 150 bài.
Trong Tân ước
Trong giai đoạn đầu của Tân ước, phụng vụ Ki-tô giáo dùng lại những hình thức, đặc điểm âm nhạc đã có từ nhiều đời trước trong phụng vụ Do Thái giáo.
Câu chuyện Kinh thánh bắt đầu với một bài tụng ca (hymn) của các thần sứ trong ngày Đức Ki-tô giáng sinh: “Vinh danh Thiên Chúa trên trời cao”. Sau đó là các bài thánh ca có hình thức gần giống Thánh vịnh, gồm: bài ca vịnh Ngợi khen (Magni cat) của Đức Mẹ, bài ca Chúc phúc (Benedictus) của ông Zacaria, bài ca An bình ra đi (Nunc dimittis) của ông già Si-mê-ôn.
Tin mừng Mát-thêu ghi lại việc Chúa Giê-su cùng các môn đệ hát thánh vịnh sau bữa tiệc ly, trước khi lên núi Cây Dầu. Có lẽ đó là bài ca Tạ ơn (Thánh vịnh 113 – 118) mà theo truyền thống, người Do Thái hay hát vào cuối bữa ăn trong lễ Vượt qua.
TRONG THỜI KỲ DÂN DO THÁI RỜI KHỎI ĐẤT AI CẬP, NỮ TIÊN TRI MI- RI-AM, CHỊ CỦA ÔNG MÔ-SÊ, ĐÃ CẦM TRỐNG CON DẪN ĐẦU ĐOÀN PHỤ NỮ VỪA MÚA VỪA HÁT.
Bài vinh tụng ca (hymn) Hosanna mà đám đông hò reo đón mừng Chúa Giê-su cưỡi lừa vào thành Giê-ru-sa-lem đã trở thành một phần của cử hành phụng vụ Thánh thể trong lịch sử Ki-tô giáo.
Sách Công vụ Tông đồ kể lại việc hai ông Phao-lô và Xi-la hát thánh vịnh trong tù ở Phi-lip-pi. Ngay lúc đó một trận động đất diễn ra là bứt tung xiềng xích. Trong lúc rao giảng, Thánh Phao-lô khuyến khích giáo dân thành Ê-phê-xô và Cô-lô-xê hãy dùng thánh vịnh, thánh thi và thánh ca do Thần khí linh ứng để ca ngợi Thiên Chúa.
Nhiều đoạn trong các thư của Thánh Phao-lô được trích từ các bài vinh tụng ca của các Ki-tô hữu thời kỳ sơ khai dùng để ca tụng Đức Ki-tô, như các đoạn: Thư gửi các tín hữu Phi-líp- phê đoạn 2, câu 6–11; Thư gửi các tín hữu Cô-lô-xê đoạn 1, câu 15-20 và Thư thứ nhất gửi Ti-mô-thê đoạn 3, câu 16.
Diễn cảm âm nhạc của việc thờ phượng Ki-tô giáo đạt đến đỉnh cao ở Tân ước với các bài hymn trong sách Khải huyền của thánh Gio-an. Các bài vinh tụng ca này ca ngợi Đấng Tạo hóa nêu cao giá trị của Con Chiên, tán dương Cha và Con, ca tụng chiến thắng của Thiên Chúa trước kẻ thù của dân Người và công bố công lý của Người.
Tuy Tân ước không cung cấp đủ chi tiết để tái tạo chính xác các nội dung âm nhạc đã được sử dụng trong việc thờ phượng tại các cộng đoàn Ki-tô hữu ở những ngày đầu, thế nhưng có nhiều chứng cứ cho thấy âm nhạc đóng vai trò trọng yếu trong phụng vụ của cộng đoàn Ki- tô hữu đang dần phát triển.
Vì âm nhạc là một phần quan trọng cho cuộc sống, nên không có gì ngạc nhiên khi Kinh thánh đã nói nhiều về âm nhạc. Chính cuốn sách dài nhất trong Kinh thánh là một tuyển tập các bài ca:Thánhvịnh.
2023
Lịch sử của bánh lễ: Từ ổ bánh mì đến bánh lễ hiện nay
Các Tin Mừng đã nói rõ ràng: trong Bữa Tiệc Ly, Đức Giêsu “cầm lấy bánh”. Hẳn nhiên, ta biết rõ rằng bánh mà Đức Giêsu sử dụng phải là bánh không men, biểu tượng của Lễ Vượt Qua (thông tin ít oi này cũng không ngăn được nhiều họa sĩ vẽ Bữa Tiệc Ly mô tả Đức Giêsu cầm một ổ bánh mì có men bình thường). Tuy nhiên, bánh không men và bánh lễ không cùng một sự việc và trông cũng không giống nhau hoàn toàn. Vì vậy, khi nào (và tại sao) có phong tục sử dụng những mẫu bánh lễ xốp nhỏ, màu trắng, trong các cử hành phụng vụ?
Tập tục chắc là có từ lâu, nhưng không phải từ thời đầu của Kitô giáo: các linh mục trong những thế kỷ đầu đã thánh hiến những chiếc bánh mì có men thông thường rồi phân phát các miếng nhỏ cho các tín hữu. Nhưng bánh lễ hiện đại bắt nguồn từ khi nào?
Để trả lời câu hỏi này, ta có thể nại đến một truyền thuyết hay vài nguồn tài liệu lịch sử. Và vì truyền thuyết thì luôn có tính hấp dẫn, nên chúng ta sẽ bắt đầu bằng lựa chọn này trước khi chuyển sang lựa chọn thứ hai để có câu trả lời chặt chẽ hơn.
Bánh lễ hiện đại:
Do một tu sĩ phát minh khi đưa ra quyết tâm cho Mùa Vọng (theo truyền thuyết)
Nhân vật chính trong câu chuyện của chúng ta là Thánh Wandregisel, người thành lập tu viện Fontanelle ở Pháp. Vào thời ấy (tiền bán thế kỷ VII), gia đình quý tộc của ngài được coi là quan trọng: thật thú vị khi biết rằng bác của Wandregisel là ông tổ của vương triều Caroling. Nhưng, bất cần đến những vinh dự của gia đình (và nói thẳng ra là không quan tâm đến những thứ mà ngài có thể kiếm chác được từ đó), Wandregisel đã chọn cuộc sống sám hối và hãm mình, mặc áo tu sĩ.
Truyền thuyết kể rằng ngài được giao nhiệm vụ chuẩn bị những ổ bánh mì sẽ được thánh hiến trong Thánh lễ Giáng Sinh. Lúc đó là giữa mùa đông, và đó là tháng 12 lạnh nhất. Vài tuần trước, ngay đầu Mùa Vọng, Wandregisel đã quyết tâm chịu lạnh mà không làm bất cứ điều gì để sưởi ấm mình, dâng hiến việc hãm mình đó để đền tội mình và vì lợi ích của Giáo hội.
Vì thế, khi được chỉ định ngồi lò để chuẩn bị bánh cho phần Rước lễ, ngài ta thấy mình trong một tình thế khó xử: làm sao có thể nướng bánh mà không hưởng lấy hơi ấm của lò mà ngài đã hứa là phải nhịn? Chắc chắn ngài không thể từ chối nhiệm vụ đã nhận (vì việc hãm mình có ảnh hưởng đến những người lựa chọn chúng mà không được ảnh hưởng đến những người khác, tạo ra một phản ứng dây chuyền về các vấn đề liên quan); tuy nhiên, Wandregisel tìm cách để không vi phạm quyết tâm của mình trong Mùa Vọng đó, điều mang lại cho ngài rất nhiều lợi ích.
Sau khi xoay trở vấn đề, vị tu sĩ này ra ý tưởng dùng chiếc kẹp sắt dài, giống như những chiếc kẹp mà người thợ rèn dùng để cầm những vật nóng chảy trong lò rèn. Ngài gắn vào lưỡi kẹp hai dĩa kim loại thích hợp để giữ hỗn hợp bột và nước; và rồi cầm cán dài của dụng cụ đó, đứng ở một khoảng cách an toàn với lò sưởi, vị ẩn tu đã xoay sở để nướng hàng trăm ổ bánh mì mà không hề “bị” ấm một chút nào!
Vấn đề phức tạp đã xảy ra: những chiếc bánh quy giòn ra khỏi lò nướng thay vì những ổ bánh mì. Khi bị ép bằng kẹp, bánh mì có hình tròn và dẹt, thành một chiếc bánh xốp giòn. Nhưng kết quả đã không làm phật lòng các tu sĩ trong tu viện chút nào, họ thực sự đánh giá cao loại bánh mì mới này vì giữ được lâu và dễ bảo quản. Trong vòng vài năm, khám phá của Wandregisel đã được chấp nhận đến mức nó trở thành quy chuẩn cho toàn thể Giáo hội Công giáo: tất cả là nhờ một tu sĩ không muốn phá vỡ quyết tâm Mùa Vọng của mình!
Bánh lễ phổ biến tại Âu châu thời Caroling
Câu chuyện về Wandregisel chỉ là một truyền thuyết – tuy nhiên, một truyền thuyết có cơ sở xác thực, ít nhất là từ quan điểm niên đại. Vị tu sĩ người Pháp này qua đời năm 665, và chính xác là vào cuối thế kỷ đó, ý tưởng cho rằng bánh được truyền phép trong Thánh lễ tốt nhất nên là bánh dẹt và không men dần bắt đầu được áp dụng trong các giáo phận ở Pháp. Cũng có thể không phải Wandregisel là người đầu tiên đã phát minh ra những tấm bánh thánh Rước lễ, mà là một số “đồng sự” của ngài đã nghĩ ra chúng, những người sống cùng thời và cùng địa hạt với ngài.
Trong thế kỷ thứ VIII, tục lệ truyền phép bánh lễ bắt đầu lan rộng dần. Năm 798, Alcuin thành York đã lên tiếng ủng hộ, nhấn mạnh sự giống nhau của bánh lễ với bánh không men mà Đức Giêsu đã ăn trong Bữa Tiệc Ly. Vài năm sau, Thánh Rabanus Maurus chỉ ra rằng Cựu Ước nghiêm cấm việc sử dụng bánh mì có men làm của lễ hy tế. Hẳn nhiên, Giao ước mới đã cho phép Kitô hữu bỏ đi nhiều luật cấm trong Cựu ước, nhưng vị thánh ở Mainz này vẫn giữ quan điểm cho rằng bánh lễ không men nên được ưu tiên hơn trong bối cảnh đó.
Đến thế kỷ thứ IX, tập tục này coi như đã xác định: nhiều nhà phụng vụ dường như xem đó là điều hiển nhiên, và các văn khố của giáo hội bắt đầu ghi lại nhiều thương vụ về các khuôn đúc bánh lễ, thường được trang trí để in các hình ảnh có chủ đề thánh thiêng trên tấm bánh lễ xốp. Đáng kể hơn nữa, các bản văn của thế kỷ X và XI ghi lại những phản đối của một số “người theo chủ nghĩa truyền thống” (hăng hái nhất trong số họ là Tu viện trưởng Eccard IV và Thánh Gallen), những người không đánh giá cao cách tân này và muốn tiếp tục thánh hiến những ổ bánh mì có men thông thường; và chính những lời chỉ trích lẻ tẻ này cho phép chúng ta đoán được mức độ phổ biến của thực hành mới đã hiện diện vào thời điểm đó.
Dù Eccard có nói gì thì nói, các tấm bánh lễ đã tự khẳng định mình cách dễ dàng trên khắp Giáo hội Tây phương. Chúng được giới giáo sĩ độc quyền chuẩn bị, theo một nghi thức long trọng mà một số người thậm chí mô tả là có “mùi thánh”: các hạt ngũ cốc được chọn ra từng hạt, trút vào những chiếc bao được làm đặc biệt cho mục đích này rồi được các tu sĩ đem đi xay trong thinh lặng thánh, họ dùng những khoảnh khắc này để cầu nguyện. Ngược lại, công việc nướng bánh đi kèm với hát kinh và các bài thánh ca: sau đó những chiếc bánh lễ sẵn sàng được mang đến các tu viện và phân phát cho các nhà thờ có nhu cầu.
Như những đồng xu nhỏ làm phong phú tâm hồn
Đây chưa phải là những tấm bánh lễ xốp mà chúng ta biết ngày nay: thẩm định từ những gì mà các nguồn tài liệu của thời đại ấy đã viết, mọi thứ đều khiến chúng ta tưởng tượng được rằng những tấm bánh lễ đầu tiên dùng trong nghi lễ vẫn giữ nguyên kích thước đường kính của những chiếc bánh được mang lên bàn ăn. Chẳng hạn, chúng ta biết rằng người ta thường lấy chúng để đậy lên trên chén lễ (cho thấy rõ ràng là các tấm bánh phải lớn hơn miệng chén lễ); một vài nguồn tài liệu còn cho chúng ta biết về những chiếc bánh Thánh Thể thậm chí còn đủ lớn để bẻ ra thành những miếng bánh nhỏ đủ cho cả tuần.
Tuy nhiên, chẳng bao lâu sau, người ta nhận ra rằng hình thức của những chiếc bánh thánh lớn như vậy khiến chúng trở nên cực kỳ dễ vỡ: để tránh khả năng khi bẻ bánh nhiều lần, những mảnh nhỏ có thể vô tình bị rơi vãi, các tu sĩ thấy cần phải chuyển sang dạng một phần nhỏ, có thể nói như vậy. Do đó, những chiếc bánh lễ xốp tròn nhỏ mà ngày nay chúng ta vẫn nhận được khi Rước lễ đã ra đời như thế đó; và ngay cả trong trường hợp này, một số nhà luân lý vẫn nhíu mày: nhìn từ xa, những tấm bánh lễ đó trông giống như những đồng xu, phù hợp với quầy đổi tiền hơn là nơi cầu nguyện!
Nhưng lời chỉ trích đó đã sớm được giải thích lại theo hướng tích cực. Vào thế kỷ XII, thần học gia Honorius thành Autun đã chỉ ra rằng sự so sánh đó là hoàn toàn thích hợp; và quả thực, nó có tính tượng trưng khi tên của Thiên Chúa được in trên bánh lễ, giống như tên của vị vua trị vì được in trên các đồng xu ở trần gian. Theo đánh giá của nhà thần học này, phép loại suy này thật hoàn hảo và đầy tính biểu tượng: ngay cả khi bánh thánh là những đồng xu, theo cách riêng của chúng, thì chúng cũng được Vua trên trời phân phát cách hào phóng. Chúng thực sự là những đồng xu, và nằm trong số những đồng tiền quý giá nhất: những đồng quý kim duy nhất mà nhờ đó ta có thể nếm hưởng đặc ân đối diện với Chúa, mặt đối mặt.
(Nguồn: https://aleteia.org)
2023
Sự khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ?
Tội trọng và tội nhẹ là những kiểu phân loại khác nhau về những hành vi phạm tội chống lại Thiên Chúa và tha nhân.
Tội lỗi không phải là điều mà chúng ta thích nhấn mạnh vì chúng nhắc chúng ta nhớ về những lỗi lầm và thiếu sót của mình.
Tuy nhiên, Giáo hội thúc giục chúng ta biết nhận ra mức độ nghiêm trọng của tội lỗi và trở về với Chúa Cha bằng cách xưng tội. Khi làm như vậy, chúng ta được hợp nhất với Thiên Chúa và mối tương quan giữa chúng ta với Chúa được phục hồi.
Khi nói về tội lỗi, Giáo hội Công giáo ghi nhận sự khác biệt giữa tội trọng và tội nhẹ.
Tội trọng
Sách Giáo lý Hội Thánh Công giáo định nghĩa, tội trọng là “phá hủy đức mến trong lòng con người do vi phạm nghiêm trọng luật Thiên Chúa. Khi phạm tội, con người quay lưng với Thiên Chúa là cùng đích và chân phúc của mình, bằng cách yêu chuộng một thụ tạo thấp kém hơn” (GLCG 1855).
Để được gọi là tội trọng, vốn cắt đứt mối liên hệ của chúng ta với Thiên Chúa, nó phải đáp ứng ba tiêu chuẩn cụ thể như Sách Giáo Lý đã nêu.
“Tội trọng đòi phải có nhận thức đầy đủ và hoàn toàn ưng thuận. Điều này giả thiết người phạm tội phải biết hành vi đó là tội, trái với luật Thiên Chúa. Tội trọng bao hàm một sự ưng thuận có suy nghĩ cặn kẽ để trở thành một lựa chọn cá nhân. Việc thiếu hiểu biết do lỗi mình và lòng chai đá không làm giảm bớt, mà còn gia tăng tính cách cố tình của tội lỗi” (GLCG 1859).
Tóm tắt ba phẩm chất của tội trọng: một tội là trọng phải liên quan đến vấn đề nghiêm trọng, vi phạm với sự hiểu biết đầy đủ và có sự đồng ý hoàn toàn của người đó.
Tội nhẹ
Tội nhẹ là xúc phạm đến đức ái, tình yêu của Thiên Chúa dành cho chúng ta và tình yêu của chúng ta đối với người lân cận. Mặc dù chúng không cắt đứt mối quan hệ của chúng ta với Thiên Chúa hoặc với đời sống ân sủng, nhưng tội nhẹ có thể gây ra những hậu quả sâu rộng. Thông thường khi phạm tội nhẹ nhiều lần, làm suy yếu quyết tâm của chúng ta và khiến chúng ta dễ phạm tội trọng hơn.
Giáo hội mời gọi chúng ta thú nhận những “tội nhẹ” này, vì chúng làm tổn hại mối tương quan của chúng ta với Thiên Chúa và với người khác. Hơn nữa, “việc năng xưng các tội nhẹ giúp chúng ta rèn luyện lương tâm, giúp ta chiến đấu chống lại các khuynh hướng xấu, sẵn sàng để Đức Kitô chữa lành và tiến tới trong đời sống theo Thánh Thần” (GLCG 1458).
Sự khác biệt cơ bản giữa tội trọng và tội nhẹ là khi đi xưng tội chúng ta buộc phải xưng tất cả các tội trọng, và tuy không bắt buộc nhưng chúng ta được khuyến khích xưng tất cả tội nhẹ.
Tội nhẹ thường là những yếu đuối hàng ngày của chúng ta, trong khi tội trọng là những điều chia cắt chúng ta với Thiên Chúa và Giáo hội.