2020
350 năm Dòng Mến Thánh Giá: Lịch sử thời kỳ tử đạo (thế kỷ XVIII – XIX)
350 NĂM DÒNG MẾN THÁNH GIÁ
Bài 3: LỊCH SỬ DÒNG MẾN THÁNH GIÁ THỜI KỲ TỬ ĐẠO (THẾ KỶ XVIII – XIX)
Nhóm Nghiên Cứu Linh Đạo Mến Thánh Giá
- Tình hình chung
Nếu người ta ví thế kỷ XVIII và XIX như một bức phông nền, thì hiện trên phông nền ấy là bức tranh Giáo Hội Việt Nam với màu sắc u buồn và đen tối bởi những cuộc bách hại đạo, bởi các cuộc chiến tranh và thiên tai, và còn bởi sự tranh chấp nội bộ giữa các thừa sai. Tuy nhiên, trong bức phông nền ảm đạm ấy, lại bừng lên ánh sáng bởi những tâm hồn quả cảm, chấp nhận tù tội, đòn roi, gông cùm, ngay cả cái chết để minh chứng niềm tin vào Đức Giêsu Kitô Cứu Thế.
1.1. Bị bách hại
Từ thời Chúa Trịnh đến Chúa Nguyễn, sang Nhà Tây Sơn, đặc biệt là dưới các triều đại của Vua Minh Mạng, Thiệu Trị và Tự Đức, những sắc chỉ cấm đạo được liên tục ban hành, gây nên những đợt bách hại kéo dài và đưa đến những hậu quả bi thương cho Giáo Hội Công Giáo Việt Nam[1].
Cũng vậy, từ những ngày đầu của Giáo Hội địa phương, nữ tu Mến Thánh Giá được diễm phúc chịu bách hại hoặc hiến dâng mạng sống để làm chứng cho đức tin trên mảnh đất quê hương của mình.
1.2. Chiến tranh và thiên tai
Việc cai trị ở Đàng Ngoài, trên danh nghĩa thuộc Vua Lê nhưng thực quyền lại là Chúa Trịnh. Những cuộc xung đột giữa Chúa Trịnh và Chúa Nguyễn, rồi cuộc nổi dậy của anh em Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII, thảm cảnh nội chiến xảy ra liên miên và lan rộng khắp nơi. Cuối cùng, vào cuối thế kỷ XIX, nước Việt lại phải đối diện với cuộc chiến chống ngoại xâm, khiến dân nước chìm vào trong chiến tranh khói lửa. Cũng trong thời kỳ này, nhiều trận lũ lụt, rồi hạn hán kéo dài, khiến đời sống của người dân rất khốn cùng.
Cuộc chiến càng lan rộng, thiên tai càng nhiều thì cuộc sống của nữ tu Mến Thánh Giá càng bấp bênh và khó khăn.
1.3. Tranh chấp giữa các thừa sai
Tại Đàng Ngoài, lúc bấy giờ, có các thừa sai thuộc nhiều quốc tịch và dòng tu khác nhau như Hội Thừa Sai Hải Ngoại Paris, Dòng Đa Minh, Dòng Tên, Dòng Augustinô và Dòng Phanxicô. Chính vì sự đa dạng này đã nảy sinh những cuộc tranh chấp, chủ yếu từ vấn đề quyền hành và quản trị địa hạt[2]. Đầu tiên là sự tranh chấp giữa các thừa sai của Thánh Bộ và các thừa sai của chế độ Bảo Trợ; tiếp đến là giữa các thừa sai cùng Dòng Đa Minh nhưng khác quốc tịch và Tỉnh Dòng; cuối cùng là các thừa sai khác Dòng, khác quốc tịch.
Tương tự như vậy, tại Đàng Trong, những bất hòa giữa các thừa sai trong việc cai quản, về sự khác biệt quốc tịch, phân biệt giữa linh mục triều và dòng, dẫn đến việc tố cáo lên Tòa Thánh và những cuộc kinh lý sau đó[3]. Những bất hòa giữa các thừa sai vẫn còn âm ỉ cho đến một ngày Võ Vương Nguyễn Phúc Khoát trục xuất tất cả thừa sai nước ngoài, trừ một linh mục Dòng Tên là ngự y của triều đình[4].
Ngoài những tranh chấp như đã kể, các thừa sai thời đó còn tranh chấp cả về thẩm quyền trên Dòng Mến Thánh Giá, khiến các nữ tu trở thành nạn nhân của việc tranh chấp ấy.
- Dòng Mến Thánh Giá thế kỷ XVIII
Trải qua thế kỷ XVIII đầy khó khăn, Dòng Mến Thánh Giá đã gánh chịu nhiều nỗi gian truân, có lúc tưởng như không còn đất sống. Hầu như cộng đoàn nào cũng gánh chịu tai hoạ, có khi bị xoá sổ. Nhưng như một mầm sống mạnh mẽ, nếu phần ngọn bị bão tố vùi dập, thì ngay khi có thể, chồi non lại mọc lên. Các nữ tu Mến Thánh Giá, từ thế hệ này đến thế hệ khác, kiên trì với đặc sủng Mến Thánh Giá, không phải chỉ trên danh xưng nhưng bằng chính cuộc sống của mình.
2.1. Tại Đàng Ngoài
Năm 1679, Tòa Thánh chia Địa Phận Đàng Ngoài thành Tây Đàng Ngoài và Đông Đàng Ngoài. Dòng Mến Thánh Giá cũng được phân chia như vậy.
Tại Tây Đàng Ngoài – Sự hợp tan của nữ tu Mến Thánh Giá
Dòng Mến Thánh Giá ở Tây Đàng Ngoài đã phát triển đáng kể. Tuy nhiên, cuộc sống của nữ tu Mến Thánh Giá gặp nhiều khó khăn, khi bình an, các chị quy tụ lại trong các Nhà Mến Thánh Giá; khi bị bách hại, các chị phân tán đi nhiều nơi, chờ ngày đoàn tụ.
Những năm đầu thế kỷ, các chị đã được Đấng Bản Quyền quan tâm cách đặc biệt, vì thế, các Nhà Mến Thánh Giá tiếp tục gia tăng. Ngày Lễ Đức Mẹ Lên Trời năm 1714, Đức Cha Bélot quy tụ 50 nữ tu Mến Thánh Giá về Trang Nứa để cầu nguyện cho Đức Cha Jacques de Bourges vừa mới qua đời[5].
Trong bản báo cáo ngày 08/06/1751, Đức Cha Louis Néez cho biết, Dòng có khoảng “400 thiếu nữ nghèo, chia thành 25 Nhà”[6], trong đó 18 Nhà thuộc tỉnh Nghệ An, số còn lại thuộc các tỉnh Thanh Hóa Nội, Thanh Hóa Ngoại và Nam Định[7].
Thế nhưng, sau đó không lâu, Đức Cha Reydellet mô tả rằng, sắc chỉ cấm đạo 1765 đã khiến “chúng ta không còn cộng đoàn, không còn chủng viện, không còn nhà ở, không còn nhà thờ, tất cả đều bị triệt hạ. Các nữ tu Mến Thánh Giá bị giải tán, những người trẻ tuổi về nhà cha mẹ, những người lớn tuổi trốn ẩn nơi nhà các tín hữu”[8].
Chị em Mến Thánh Giá Tây Đàng Ngoài đã chịu những khó khăn cùng với Giáo Hội trong vùng lúc bấy giờ. Với thời gian, những khó khăn ấy giảm dần. Vào thập niên cuối của thế kỷ XVIII, trong báo cáo ngày 14/03/1795 gửi Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, Đức Cha Longer Gia cho biết Dòng Mến Thánh Giá hiện đã có 30 Nhà, mỗi Nhà có 15 đến 40 chị[9]; và vào năm 1797, hai Nhà nữa cũng đã được xây dựng, mỗi Nhà có hơn 20 chị[10].
Mặc dù chị em Mến Thánh Giá đã góp phần không nhỏ trong việc sống “tốt đạo đẹp đời”, thế nhưng, cuộc bách hại trong thời kỳ 1795-1798 tại Nghệ An và Thanh Hóa lại khiến “các nữ tu Mến Thánh Giá có những Thánh Giá mà các chị không vác nổi”. Dẫu vậy, Dòng vẫn có nhiều thanh thiếu nữ nhiệt thành xin gia nhập, thừa sai La Mothe Hậu đã nêu con số gần 1.000 nữ tu trong bức thư đề ngày 31/03/1795[11].
Tại Đông Đàng Ngoài – Việc nữ tu Dòng Mến Thánh Giá chuyển sang Dòng Ba Đa Minh tại viện
Từ khi Địa Phận Đông Đàng Ngoài được giao cho các thừa sai Dòng Đa Minh cai quản, đời tu của các chị Mến Thánh Giá không còn được bình an bởi chính quyền bính trong Giáo Hội địa phương gây nên.
Chủ trương của các thừa sai Dòng Đa Minh là muốn chuyển các nữ tu Mến Thánh Giá ở Đông Đàng Ngoài thành các nữ tu Dòng Ba Đa Minh với những cách thức như: chiêu dụ bỏ kiêng thịt, dùng áp lực bắt buộc phải chuyển dòng, hoặc ra thời hạn nếu chị em nào không tuân theo ý các ngài sẽ bị đuổi ra khỏi nhà. Trong tình hình như thế, nhiều rắc rối đã xảy ra cho các chị Mến Thánh Giá. Việc này cũng làm cho các Đấng Bản Quyền phải bận tâm[12].
Do những vấn đề trên, Đức Cha Hilario Costa Hy, thuộc Dòng Augustinô, triệu tập Công Nghị Đàng Ngoài lần thứ hai tại Lục Thủy Hạ, nhằm ổn định tình thế. Công Nghị này đã đưa ra 21 quyết định, trong đó, có các điều liên quan đến Dòng Mến Thánh Giá, cụ thể như: “Cấm các nữ tu Mến Thánh Giá chuyển sang Dòng Ba Đa Minh; […] Các Giám Mục có quyền lập Tu Viện Mến Thánh Giá bất cứ ở đâu trong Địa Phận; và các ngài có quyền giải quyết các vụ tranh chấp giữa hai Dòng nữ [Dòng Mến Thánh Giá và Dòng Ba Đa Minh], mà mọi người phải tuân theo cho đến khi Tòa Thánh quyết định cách khác”[13]. Tuy nhiên, Công Nghị này không được Tòa Thánh công nhận.
Chị em Mến Thánh Giá lại phải đối diện với những khó khăn như trước. Các chị bị vu khống, bị đe doạ, và điều tệ hại nhất là các chị còn bị hành hạ về mặt thiêng liêng như không được xưng tội, rước lễ, vì các chị không chịu tố cáo cha Adriano[14]là kẻ rối đạo và đã bị mắc vạ. Không nản chí, ngày 16/08/1759, các chị đại diện cho sáu Nhà Mến Thánh Giá tiếp tục làm đơn khiếu nại lên Tòa Thánh[15].
Sau khi phái vị Kinh Lược đến Đàng Trong để điều tra và nhận được báo cáo về tình trạng của các nữ tu tại đó, năm 1764, Thánh Bộ gửi cho các nữ tu Mến Thánh Giá một chỉ dụ cam kết bảo vệ và ưu đãi các chị. Tuy thế, các chị Mến Thánh Giá vẫn còn bị ép chuyển sang Dòng Ba Đa Minh[16]. Vì vậy, ngày 05/03/1787, Thánh Bộ đưa ra quyết định dứt khoát:
– Các chị Mến Thánh Giá Trung Lao đã gia nhập Dòng Ba Đa Minh, nay ai muốn thì có thể tự do trở lại Dòng Mến Thánh Giá;
– Từ đây, việc chuyển từ Dòng Mến Thánh Giá sang Dòng Ba Đa Minh là điều bất hợp pháp, “nếu đi ngược lại quyết định trên đều bất thành sự và sẽ có hình phạt riêng do Thánh Bộ áp đặt”[17].
Tuy Thánh Bộ đã đưa ra quyết định như thế, nhưng vào cuối thế kỷ XVIII, Đông Đàng Ngoài chỉ còn ba Tu Viện Mến Thánh Giá: Kiên Lao, Trung Linh và Bùi Chu[18].
2.2. Tại Đàng Trong
Vào năm 1711, Đàng Trong có 20 cộng đoàn nữ tu Mến Thánh Giá. Vài năm sau đó, đạo bị bách hại dữ dội, nên tất cả các cộng đoàn trên bị giải tán và tàn lụi[19] đến độ người ta không tìm được bản luật nào của Đức Cha Pierre Lambert de la Motte[20]. Sau thời gian ngưng trệ, các Đấng Bản Quyền đã tìm cách phục hồi, và nhờ đó mà Dòng Mến Thánh Giá ở Đàng Trong được khôi phục và phát triển một cách kỳ diệu. Những Tu Viện Mến Thánh Giá tiêu biểu thời bấy giờ là Thợ Đúc, Hà Dừa, Nha Ru và Chợ Mới.
Tuy vậy, nhiều cuộc cấm đạo lại liên tiếp xảy ra, đó là lý do khi Đức Cha Guillaume Piguel trả lời những câu hỏi của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin về Địa Phận Đàng Trong vào ngày 19/07/1765 cho biết: “hoàn toàn không có một dòng nữ nào cả”[21]. Tưởng như sẽ không còn tồn tại, vậy mà Dòng Mến Thánh Giá ở Đàng Trong lại được hồi sinh dù các khó khăn vẫn còn đó. Nhờ lòng nhiệt thành giúp đỡ của Đức Cha Labartette, Dòng Mến Thánh Giá đã phát triển trở lại khá nhanh. Như một điệp khúc, Dòng được phục hồi chưa bao lâu sau một cuộc bách hại thì cuộc bách hại khác lại đến.
2.3. Số nữ tu Mến Thánh Giá vào cuối thế kỷ XVIII
Về con số nữ tu Mến Thánh Giá, chúng ta không có những bản thống kê chính xác, chỉ dựa vào bản báo cáo của các thừa sai. Con số này thường bị dao động bởi các cuộc bắt đạo.
Vào cuối thế kỷ XVIII, ở Địa Phận Tây Đàng Ngoài còn tới 30 cộng đoàn với hàng trăm nữ tu. Số ơn gọi xin vào Dòng nhiều đến độ Giám Mục Đại Diện Tông Tòa phải ra lệnh tuyển chọn kỹ lưỡng.
Còn ở Địa Phận Đông Đàng Ngoài, nơi Dòng Mến Thánh Giá không được các thừa sai Đa Minh ưu ái, khoảng năm 1777, còn năm cộng đoàn với 84 nữ tu; và cuối thế kỷ XVIII, còn ba cộng đoàn Kiên Lao, Trung Linh và Bùi Chu[22].
Tính chung cả Đàng Ngoài, con số nữ tu Mến Thánh Giá đã có lúc lên tới khoảng 1.000 người[23]. Còn ở Đàng Trong, có tám cộng đoàn với khoảng 200 nữ tu[24].
- Dòng Mến Thánh Giá thế kỷ XIX
3.1. Tình hình chung
Bước sang thế kỷ XIX, Giáo Hội Công Giáo Việt Nam được tạm ổn trong ba thập niên đầu dưới thời Vua Gia Long; sau đó là thời kỳ bị bách hại tàn khốc kéo dài hơn 50 năm dưới các triều Vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức, tiếp đến là phong trào Văn Thân và Cần Vương với chủ trương Bình Tây Sát Tả đã gây ra những tổn thất rất to lớn về nhân mạng và tài sản cho Giáo Hội[25]; vào thập niên cuối, Giáo Hội được bình yên và mở ra các triển vọng tươi sáng cho tương lai.
Trước năm 1844, cả Việt Nam chỉ có ba Địa Phận Đại Diện Tông Tòa: Tây Đàng Ngoài, Đông Đàng Ngoài và Đàng Trong. Trong thời kỳ gian khó nhất và bị bách hại ác liệt nhất, Giáo Hội Việt Nam vẫn có những tiến triển đáng kể, cụ thể là sự gia tăng con số các Địa Phận.
Ở Đàng Ngoài có các Địa Phận: Tây Đàng Ngoài (1679), Đông Đàng Ngoài (1679), Nam Đàng Ngoài (1846), Trung (1848), Bắc Đàng Ngoài (1883), và Thượng Bắc Kỳ (Đoài) (1895).
Ở Đàng Trong có các Địa Phận: Đông Đàng Trong (1844), Tây Đàng Trong (1844) và Bắc Đàng Trong (1850).
Cho đến thời kỳ này, Dòng Mến Thánh Giá đã hiện diện hầu như trên tất cả các Địa Phận tại Việt Nam.
3.2. Thống kê chung về Dòng Mến Thánh Giá
Vì các Địa Phận độc lập với nhau nên chúng ta không có được con số thống kê chung cho Giáo Hội Việt Nam. Riêng Dòng Mến Thánh Giá, chúng ta biết được con số nữ tu như sau:
– Năm 1838: Đông Đàng Ngoài có 21 Nhà Dòng với khoảng 400 nữ tu, nhưng phần lớn là nữ tu của Dòng Ba Đa Minh tại viện; Tây Đàng Ngoài có 40 Nhà Dòng; Ở Đàng Trong, 20 Nhà đã biến mất một phần dưới sự tàn phá của những kẻ bách hại[26].
– Năm 1850: dựa theo Niên Giám của Thánh Bộ Truyền Bá Đức Tin, linh mục Đinh Thực cho biết: có 72 Nhà Dòng với 1.600 nữ tu trong cả nước Việt Nam[27].
– Năm 1859: Linh mục Migne cung cấp số thống kê về các cộng đoàn và nữ tu Mến Thánh Giá trên khắp các Địa Phận của Việt Nam: “Ngày nay, các nữ tu Mến Thánh Giá gồm 72 cộng đoàn, với khoảng 1.680 nữ tu. Ở Đông Đàng Trong, có sáu cộng đoàn Mến Thánh Giá với khoảng 120 nữ tu; ở Tây Đàng Trong có sáu cộng đoàn với khoảng 160 nữ tu, và tại Bắc Đàng Trong có tám cộng đoàn với 300 nữ tu. Ở Tây Đàng Ngoài có 24 cộng đoàn với 509 nữ tu, ở Trung (Nam) Đàng Ngoài có 23 cộng đoàn và 556 nữ tu, và ở Đông Đàng Ngoài có một cộng đoàn với 37 nữ tu”[28].
Thực ra, điều quan trọng không phải là sự chính xác của số lượng các nhà hay con số các nữ tu, vì như chúng ta biết trong hoàn cảnh khó khăn và đầy bất trắc trong các thời kỳ bách hại, thì sự hợp tan của các cộng đoàn là điều dễ hiểu. Tan đó rồi lại hợp đó. Khi tan, các chị trở về nhà cha mẹ hay tìm nơi ẩn trốn; khi tạm yên, các chị lại tìm về bên nhau, gầy dựng lại cộng đoàn. Cơ sở của cộng đoàn chỉ là những căn nhà tranh vách đất thô sơ như bao nhà của dân quê nghèo khó, bỏ đi cũng chẳng mấy tiếc mà xây dựng lại cũng không mấy khó khăn.
Điều quan trọng là ơn gọi Mến Thánh Giá, đặc sủng Mến Thánh Giá từ khi được thành lập, không bao giờ biến mất hoàn toàn trong đời sống Giáo Hội tại Việt Nam. Từ thế hệ này đến thế hệ khác, các chị vẫn kiên trì trong ơn gọi của mình, ứng phó linh hoạt với hoàn cảnh. Do vậy, có thể nói rằng nữ tu Mến Thánh Giá luôn luôn hiện diện trên mảnh đất quê hương này.
3.3. Đời tu
Các nữ tu Mến Thánh Giá ít được học vì “người ta không có thói quen dạy cho trẻ nữ học đọc, học viết”, các chị sống không có nội vi, các Nhà độc lập với nhau tuy cùng theo một Bản Luật. Chứng từ của các thừa sai ghi nhận rằng các nữ tu Mến Thánh Giá “sống một cuộc đời rất vất vả, rất siêng năng và rất hãm mình […]; giữ các nhân đức chính là khiết tịnh, nghèo khó và vâng phục, họ không thua kém gì các cộng đoàn nữ tu Châu Âu. Lại nữa, họ chỉ khấn đơn […] từng năm một”[29]. Các chị đã “cảm hóa nhiều người bằng cuộc sống ngay lành”. Bên cạnh đó, các chị năng đi thăm viếng và an ủi những người đau yếu, dạy dỗ các phụ nữ dự tòng, tìm kiếm các trẻ em ngoại trong cơn nguy tử để tái sinh các em trong nước Thánh Tẩy[30].
Trong thời kỳ đạo Công Giáo bị bách hại, ngoài những công việc được kể trên, các nữ tu Mến Thánh Giá còn giúp các thừa sai có nơi trú ẩn; chuyển thư từ và đem lương thực cho các ngài. Khi cần, các chị đã tìm cách vào tận các nhà giam để thăm nuôi và động viên các tù nhân đức tin. Can đảm hơn, các chị còn đồng hành cùng các chứng nhân đức tin từ tòa án đến pháp trường. Chính vì lẽ đó, các chị là một trong các đối tượng bị truy bức một cách đặc biệt, đã có rất nhiều chị là nạn nhân của chính sách cấm đạo, và không ít chị đã hiến thân chịu chết vì đức tin.
- Nữ tu Mến Thánh Giá trong cơn thử thách bách hại
Điểm lại những biến cố trong suốt chiều dài lịch sử Dòng Mến Thánh Giá mới thấy rằng, hầu như không lúc nào đời sống các nữ tu của Dòng vắng bóng Thánh Giá, nhất là trong thời bị bách hại.
Trong các thời kỳ Công Giáo bị cấm cách, đối tượng được triều đình và quan quân truy nã gay gắt là các Giám Mục và các thừa sai, kế đó là các linh mục người Việt, theo chủ trương “đánh rắn đập đầu”, nhưng các tín hữu nhiệt tình cũng chẳng được tha. Các nữ tu Mến Thánh Giá, vì là nữ giới nên có khi được châm chước, nhưng cũng là đối tượng bị truy lùng và nhà của các chị cũng bị triệt phá. Đến một lúc mà triều đình nhận thấy vai trò của nữ tu trong việc che giấu các thừa sai, các linh mục; nhà của các chị là nơi cất giấu các đồ đạo, và các chị lại là những người thông tin liên lạc cho những người phải lẩn trốn hay là người tiếp tế cho những kẻ phải tù đày, thì triều đình đã xếp các chị vào một loại đối tượng đặc biệt phải theo dõi. Quả vậy, chỉ dụ ngày 17/01/1859 của Vua Tự Đức đã nói đến việc phải truy lùng và bắt giam cả những phụ nữ mang thư từ và tin tức. Hơn một năm sau, trong chỉ dụ tháng 07/1860, các phụ nữ này được xác định rõ là những phụ nữ đồng thân, nghĩa là những phụ nữ khấn giữ đồng trinh, ám chỉ cụ thể các nữ tu Mến Thánh Giá, và truyền lệnh phải bắt giam những phụ nữ này[31]. Hậu quả, có nhiều nữ tu Mến Thánh Giá trở thành nạn nhân của các chính sách cấm đạo, và có nhiều chị phải tù tội hoặc đã hiến thân chịu chết vì đức tin.
4.1. Ở Đàng Ngoài
Ngay từ đầu thế kỷ XIX, trong năm 1800, chúng ta đã có được chứng từ về việc các nữ tu Mến Thánh Giá bị bắt vì đức tin, qua thư của thừa sai La Bissachère gửi cho thừa sai Chaumont và Blandin: “Trong số khoảng 50 phụ nữ bị dẫn tới quan, chỉ có hai nữ tu trẻ Mến Thánh Giá đã đồng ý bước qua Thánh Giá và chúng tôi đã đuổi ngay cả hai ra khỏi cộng đoàn, […] tất cả các nữ tu và các phụ nữ có đạo khác đã làm cho cánh đàn ông phải xấu hổ vì lòng can trường của họ”[32].
Sau khi có lệnh cấm đạo của Vua Minh Mạng năm 1833, tình hình ngày càng trở nên khó khăn hơn cho các nữ tu.
– Trong thư ngày 29/03/1839, thừa sai Jeantet cho biết: . bốn nhà của các nữ tu bị phá huỷ. Các nữ tu đáng thương của chúng ta, sau khi mất hết ruộng, vườn, nhà cửa và hầu như tất cả những gì họ có, […] mặc cho tình trạng đó, họ vẫn tuân giữ tu luật và tinh thần cộng đoàn”[33].
– Vào lễ Phục Sinh, ngày 11/04/1841, dưới thời tổng đốc Nam Định là Trịnh Quang Khanh, bà Anê Lê Thị Thành và hai nữ tu Mến Thánh Giá là Anna Khiêm và Anê Thanh cùng bị bắt, bị đeo gông, bị tra khảo, bị thả rắn vào quần áo, nhưng cả ba luôn kiên vững trong đức tin. Tuy nhiên, do bị lừa nên hai chị Khiêm và Thanh đã in dấu tay lên tờ giấy chối đạo mà các chị không biết. Còn bà Anê Thành, sau đó, chết trong tù và được tôn phong Hiển Thánh[34].
– Tại Đông Đàng Ngoài, trong phúc trình ngày 23/04/1839, thừa sai Hermosilla cho biết: “Các cư sở của các thừa sai bị triệt hạ. Hai chủng viện, 22 tu viện của các nữ tu Dòng Ba Đa Minh, ba nhà của các nữ tu Mến Thánh Giá cùng chung một số phận”[35].
4.2. Ở Đàng Trong
So sánh với Đàng Ngoài, các nữ tu Mến Thánh Giá ở Đàng Trong chịu nhiều thiệt hại hơn trong các thời kỳ bách hại đạo Công Giáo.
– Qua thừa sai Delamothe, trong thư ngày 14/01/1834, chúng ta được biết tình hình chung của các Nhà Dòng Mến Thánh Giá: “Có thể nói rằng nhà của các nữ tu đã bị phân tán hoàn toàn, các nữ tu về nhà cha mẹ. Tại những nơi có ba nhà, người ta phá bỏ đi hai, và tại những nơi có hai nhà, người ta phá bỏ đi một…”[36]. Tuy nhiên, vào những lúc cao trào của cuộc bách hại, tất cả các nhà này không còn nữa[37], 18 nhà nữ tu bị phân tán[38], bị phá đổ[39], có nhà bị san bình địa[40].
– Sau khi Pháp đánh chiếm Sài Gòn, sự bách hại càng gay gắt hơn. Chỉ trong ba năm, từ tháng 09/1859 đến tháng 06/1862, đạo Công Giáo Việt Nam đã trải qua một giai đoạn đau thương, với những tổn thất hết sức nặng nề về nhân mạng và tài sản. Trong đó, chỉ riêng Dòng Mến Thánh Giá “80 Tu Viện bị triệt phá với 2.000 nữ tu người Việt của chúng ta đã bị phân tán và khoảng 100 đã hiến mạng sống vì đức tin”[41].
– Số nữ tu nạn nhân chưa dừng lại đó, vì vào thời Văn Thân và Cần Vương, “khoảng 50% tổng số tín hữu của Địa Phận Đông Đàng Trong bị sát hại một cách thảm thương”, trong đó có “270 nữ tu bị thảm sát”[42].
Một tổng kết bi thương cho các nữ tu Mến Thánh Giá ở Đông Đàng Trong được ghi lại: “Trước lúc xảy ra cuộc thảm sát năm 1885, ở Địa Phận Đông Đàng Trong có 12 cộng đoàn với 442 nữ tu; sau các cuộc tàn sát năm 1885, chỉ còn ba cộng đoàn: một ở Trà Kiệu và hai ở Qui Nhơn, tổng cộng 120 nữ tu”[43]. Như vậy, có đến chín cộng đoàn đã bị triệt phá và 322 nữ tu đã bị sát hại hoặc chạy trốn.
- Nữ Tu Mến Thánh Giá: Chứng nhân đức tin
Như đã trình bày trên đây, rất nhiều nữ tu Mến Thánh Giá đã chấp nhận tù tội, gông cùm, tra tấn, để trung thành với đức tin Kitô Giáo. Tuy thế, chỉ có một số ít trường hợp được ghi vào sổ sách. Sau đây, xin được nêu lên một số trường hợp điển hình mà các nữ tu Mến Thánh Giá đã chung phần tô điểm thêm cho bức tranh chứng nhân đức tin của Giáo Hội Việt Nam.
5.1. Tại Đàng Ngoài: Bà Paula
Bà Paula có thể là một trong hai nữ tu Mến Thánh Giá tiên khởi tại Đàng Ngoài, được đặt làm “Bà Mụ Cả” của một Nhà Mến Thánh Giá (có thể là Nhà Kiên Lao) từ khi Nhà này được thành lập. Bà bị bắt và bị giải lên tận Phố Hiến vào một ngày trong tháng 06/1686. Tuy bị tra khảo nhiều lần, bà không tỏ vẻ sợ hãi nhưng luôn ứng xử rất can đảm. Quan đã ra lệnh cho lính đánh bà 30 roi và đốt tất cả sách vở và đồ dùng trong việc đạo được tìm thấy trên chiếc thuyền mà bà Paula tự nhận là của mình, để những người có liên quan không bị bách hại[44].
5.2. Tại Đàng Trong
Các nữ tu Mến Thánh Giá Thợ Đúc-Huế
Cuộc nội chiến giữa Nhà Tây Sơn và Chúa Nguyễn gây biết bao tang thương cho người dân Việt. Song song đó, việc bách hại đạo vẫn tiếp tục xảy ra. Các nữ tu Mến Thánh Giá vẫn là mục tiêu của các cuộc truy lùng và phân tán[45]. Năm 1795, tình hình trở nên gắt gao hơn, tại Tu Viện Mến Thánh Giá Thợ Đúc-Huế, các chị bị bắt, bị canh giữ, bị đánh đập một cách tàn nhẫn vì đã che giấu cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu[46]. Trong số đó, có Bà Bề Trên Thục[47], 72 tuổi, và 10 chị em trẻ bị trói, bị đem về đồn Phú Xuân. Nhờ thân nhân lo lót tiền cho lính canh, nên sau năm ngày bị canh giữ, các chị được tha và bị đuổi ra khỏi Tu Viện với vỏn vẹn y phục trên mình. Toàn bộ tài sản của các chị bị tịch thu, nhà cửa thì bị phá bình địa.
Nữ Tu Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu[48]
Khi nói về nữ tu Mến Thánh Giá, chứng nhân đức tin can trường và anh dũng trong thời gian đạo Công Giáo bị bách hại khốc liệt thời Vua Minh Mạng, không thể không nhắc đến chị Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu, một nữ tu Mến Thánh Giá trẻ trung và kiên cường, thuộc Tu Viện Nhu Lý-Huế. Đêm 12 rạng ngày 13/04/1839, chị Maria Mađalêna Hậu đã bị bắt cùng với cha Delamotte Y và một số người khác trên thuyền khi đang đi trốn. Chị bị giải về nhà tù Trấn Phủ, Huế. Tại đây, chị bị đưa ra tra khảo, chịu nhiều đòn vọt và nhiều trò tra tấn dã man. Dù rất đau đớn và sợ hãi, nhưng chị vẫn can trường, kiên trung trong đức tin. Chị bị kết án làm nô tỳ, rồi đổi thành lưu đày. Đầu năm 1841, sau khi được giáo dân giải cứu và lén đưa về Tu Viện Mến Thánh Giá Phủ Cam-Huế, chị trở bệnh nặng và đã bình an đi về Nhà Cha ngày 20/01/1841, lúc mới 27 tuổi. Chị Maria Mađalêna Hậu đã được công nhận là chết vì đạo, vì chị đã chết do hậu quả những cực hình phải chịu trong tù vì đức tin[49].
Hai nữ tu Anê Soạn và Anna Trị[50]
Khi chiếu chỉ Phân Tháp[51] của Vua Tự Đức được ban hành[52], người Công Giáo bị phân tán hoặc phải lẩn trốn khắp nơi. Các nữ tu Mến Thánh Giá không chỉ bị cô lập trong làng, mà còn bị nghiêm cấm không cho đi lại để ngăn ngừa việc đưa thư cho các thừa sai từ tỉnh này sang tỉnh khác[53]. Nhiều chị đã chịu chết vì Danh Chúa Kitô, nhất là vào những năm 1860-1862. Trong số đó, có hai nữ tu Anê Soạn và Anna Trị, cùng bị bắt ở Nhà Phước Bình Thuận. Dù là chốn lao tù, hay nhục hình, bao tra tấn, gông cùm, đòn roi, cũng không khuất phục được hai chị giẫm đạp lên Thánh Giá. Ít lâu sau đó, khi bản án từ triều đình gửi về, hai chị cùng bị xử giảo với 12 vị tử đạo khác tại Phan Rí, năm 1862.
Bà Nhất Matta Lành và nữ tu Ysave Ngọ[54]
Lịch sử Hội Dòng Mến Thánh Giá Cái Mơn cũng ghi nhận hai chứng nhân đức tin đã từng bị bắt bớ, tra tấn và tù tội trong thời cấm cách, đó là Bà Nhất Matta Lành và chị Ysave Ngọ. Ngày 09/12/1858, binh lính ập vào Nhà Phước Cái Mơn, bà Matta Lành và chị Ysave Ngọ bị bắt cùng với một vài kỳ hào bên cạnh Nhà Phước, vì bị phát hiện đang cất giấu các đồ đạo. Tất cả bị đeo gông và bị giải về nhà giam Vĩnh Long. Hơn ba năm trong chốn lao tù, bà Matta và chị Ysave phải chịu nhiều tra tấn, đòn vọt, đến độ da thịt bị rách nát, với những vết thương hằn sâu. Mang trên mình sự đau đớn khó có thể diễn tả hết thành lời, thế mà Bà Nhất Matta còn chinh phục được nhiều tù nhân trở lại đạo Chúa. Ngày 28/03/1862, khi thành Vĩnh Long thất thủ, quân Pháp tràn vào phá cửa ngục, bà Matta và chị Ysave được trả tự do cùng với các tù nhân khác. Tuy không được phúc đón nhận cành thiên tuế tử đạo, nhưng hậu quả của những tra tấn, đòn roi đã để lại thương tật nơi thân thể mà bà Matta và chị Ysave phải mang suốt đời, đã nói lên sự kiên trung và là một dấu chứng về sự can trường của những chứng nhân đức tin, sẵn sàng hiến tế thân mình vì Đức Kitô.
5.3. Các cuộc tàn sát dưới thời Văn Thân và Cần Vương
Cuộc tàn sát các Kitô hữu càng trở nên khốc liệt, dã man hơn trong thời Văn Thân và Cần Vương. Nhất là, trong Năm Kinh Hoàng từ tháng 07/1885 đến tháng 07/1886, khắp 12 tỉnh thành miền Bắc, Trung, Nam xứ Việt, biết bao tín hữu, trong đó có ba nữ tu Maria Hồi, Anna Nhiên, Matta Mến thuộc Nhà Phước Mến Thánh Giá Lưu Mỹ[55] và hàng trăm nữ tu Mến Thánh Giá vô danh khác đã dùng máu đào để minh chứng niềm tin của mình[56].
Riêng Đàng Trong, có khoảng 270 nữ tu bị sát hại vì đức tin tại Qui Nhơn, và khoảng 60 chị Mến Thánh Giá Nhu Lý bị thiêu sống với giáo dân trong nhà thờ Dương Lộc, Triệu Phong, Quảng Trị[57].
Một cuộc tàn sát man rợ xảy ra ở Tu Viện Mến Thánh Giá Phú Hoà, Quảng Ngãi: có 40 nữ tu bị lột quần áo và bị tàn sát ngay dưới mắt cha Louis Guégan. Ngay sau đó, cha cũng bị tra tấn và hành quyết[58].
Trên đây chỉ là một vài sự kiện điển hình. Còn những cuộc tàn sát tập thể cùng với giáo dân xảy ra nhiều nơi khác như Trí Bưu – Quảng Trị, Gia Hựu – Bình Định, Phương Chuối – Quảng Ngãi… Thật đáng tiếc, hầu hết những cái chết can trường của các chị không được sử liệu ghi lại một cách đầy đủ.
5.4. Thời kỳ kháng chiến (1945-1954)
Năm 1945, đất nước đang trong bom đạn chiến tranh thì quân đội Nhật lật đổ chính quyền bảo hộ Pháp tại Việt Nam, sau đó đầu hàng Đồng Minh, rồi nhiều phong trào cách mạng nổi dậy, làm cho tình hình lại càng trở nên bất ổn, gây nhiều tang thương và chết chóc hơn.
Trong thời gian này, Hội Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán đã hy sinh hai nữ tu là chị em ruột, Maria Nguyễn Thị Nương và Catarina Nguyễn Thị Trượng. Gắn bó cuộc sống của mình với người dân Cái Bèo chân lấm tay bùn từ tháng 02/1943 đến ngày 23/09/1946, hai chị đã san sẻ với họ những vất vả, những khó khăn thiếu thốn trong hoàn cảnh chiến tranh loạn lạc. Mặc cho tình cảnh nguy hiểm và khắc nghiệt, hai chị vẫn trung thành với sứ mạng của người nữ tu Mến Thánh Giá và kiên vững cho đến cùng trong niềm tin Kitô Giáo.
Ngày 23/09/1946, hai chị Maria Nương và Catarina Trượng bị bắt với tội danh nấu cơm cho linh mục sở tại, người bị coi là Việt gian. Họ đem hai chị vào nhà làng tra khảo, rồi giải ra chân cầu xử bắn. Chị Nương chết ngay bởi loạt đạn đầu tiên. Bị thêm lưỡi lê đâm vào bụng, chị Trượng chịu sự đau đớn kéo dài đến khoảng 7 giờ tối hôm đó mới trút hơi thở cuối cùng[59].
5.5. Hai Chân Phước Mến Thánh Giá Tử Đạo Thái Lan[60]
Thái Lan, phần đất được xem là nơi được tự do tôn giáo, nhất là thời Đức Cha Pierre Lambert de la Motte. Chính vì thế mà khi các Giám Mục Đại Diện Tông Tòa và các thừa sai được gửi đến vùng Viễn Đông thì Thái Lan luôn là điểm dừng chân an toàn, vì vùng truyền giáo thuộc thẩm quyền các ngài đang trong tình trạng đạo bị cấm cách và bắt bớ.
Thế nhưng, những thời kỳ sau Đức Cha Lambert[61], và cả vào đầu thập niên 40 của thế kỷ XX, đạo Công Giáo cũng bị đàn áp tại Thái Lan, nhiều vị thừa sai bị bắt bớ, tù đày, tra tấn và trục xuất; nhiều Kitô hữu, trong đó có các nữ tu Mến Thánh Giá bị tù tội hoặc phải trốn tránh.
Hai nữ tu Mến Thánh Giá là Agnès Phila Thipsuc và Lucia Khambang Sikhampong[62] được sai đến phục vụ tại nhà thờ Đức Mẹ Cứu Chuộc Nô Lệ thuộc Songkhon, hiện nay thuộc Tổng Giáo Phận Tharae-Nongsaeng,Thái Lan.
Năm 1940, ở Thái Lan, cuộc bách hại đạo Công Giáo lan đến nhiều nơi. Tại giáo xứ Songkhon, sau khi cha sở bị trục xuất và một giáo lý viên là anh Philip Siphong bị bắn chết vì đức tin, hai nữ tu Agnès và Lucia trở thành trụ cột cho giáo dân, với trách nhiệm dẫn dắt, trấn an, chăm sóc cho cộng đoàn Công Giáo và điều hành ngôi trường làng, dù bị nghiêm cấm và đe dọa. Cuối cùng, vì từ chối mệnh lệnh phải loại bỏ Danh Thiên Chúa, không được giảng dạy về Chúa Giêsu, hai nữ tu cùng với bốn phụ nữ khác đã bị cảnh sát đem ra nghĩa trang xử bắn ngày 26/12/1940 tại Songkhon.
Ngay sau khi tự do tôn giáo trở lại trên đất Thái Lan, các Đấng Bản Quyền địa phương bắt đầu lập hồ sơ xin tuyên thánh cho bảy anh hùng tử đạo Thái Lan. Chúa Nhật Truyền Giáo, ngày 22/10/1989, Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II tuyên phong Chân Phước cho bảy vị tử đạo Thái Lan trong đó có hai nữ tu Mến Thánh Giá là Agnès Phila Thipsuc và Lucia Khambang Sikhampong.
Qua dòng lịch sử trải dài trong suốt thế kỷ XVIII-XIX, các nữ tu Mến Thánh Giá đã được các Đấng Bản Quyền xem là “phần tốt nhất của đoàn chiên” và là “một trong những trang sức xinh đẹp nhất của Đạo Công Giáo”[63]. Sự hiện diện và hoạt động của các chị đã đóng vai trò quan trọng trong đời sống của Giáo Hội Việt Nam, đặc biệt là trong những lúc khốn cùng nhất của thời kỳ đạo bị bách hại. Đời sống phục vụ lẫn tinh thần tu trì của các chị Mến Thánh Giá đã được xây nên bằng máu, nước mắt và đức hạnh. Nền móng các chị xây dựng vẫn còn vững bền cho đến hôm nay và chắc chắn đến tận mai sau. Các chị luôn là niềm tự hào của các thế hệ nữ tu Mến Thánh Giá.
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN số 116 (Tháng 1 & 2, năm 2020)
[1] X. Vũ Thành, Giòng Máu Anh Hùng – Lịch Sử Những Cuộc Bách Hại Đạo Công Giáo Trong Thế Kỷ XVII – XVIII, tập I, Hoa Kỳ, 1987.
[2] Cf. M. Gispert, Historia de las Missiones Dominicanas en Tungkin, Avila, 1928, pp.189-191.
[3] Cf. L. E. Louvet, La Cochinchine religieuse, tome I, Paris, Ernest Leroux, p.341.
[4] X. Trương Bá Cần, Lịch Sử Phát Triển Công Giáo Ở Việt Nam, tập I, Tp.HCM, nxb Tôn Giáo, 2008, tr.267.
[5] Cf. AMEP, vol. 685, pp.230-232.
[6] Néez, Documents historiques sur le clergé Tonkinois aux XVIIe et VIIIe siècles, Paris, Téqui, 1925, p.237.
[7] Cf. AMEP, vol 690, p.464.
[8] Nouvelles Lettres Édifiantes des Missions de la Chine et des Indes Orientales (NLE), Paris, Le Cler, 1821, vol. VI, p.273.
[9] Cf. AMEP, vol. 692, p.595.
[10] Cf. Ibib., p.811.
[11] Cf. Ibib., vol. 701, p.102.
[12] Cf. A. Launay, Histoire de la mission du Tonkin: Documents Historiques I,Paris, Téqui, 1894, pp.462-463.
[13] Bùi Đức Sinh, Dòng Đa Minh Trên Đất Việt, Sài Gòn, 1993, tr.64-65.
[14] Cha Adriano còn được gọi là Cụ Chính Tri, đã bị cha Campos, Bề Trên các thừa sai Dòng Tên ở Đàng Ngoài, với tư cách là thẩm phán thừa ủy của các cha Đa Minh, ra vạ tuyệt thông cuối năm 1758, nhưng vạ này bị Tòa Thánh bác bỏ năm 1761, điều này chứng tỏ các chị Mến Thánh Giá đã hành động đúng.
[15] X. Kỷ Yếu Giáo Phận Bùi Chu, 1533-1999, tr.69.
[16] X. Đào Quang Toản, Cái Nôi Dòng Mến Thánh Giá, Lịch Sử Hội Dòng Mến Thánh Giá Kiên Lao-Bùi Chu, 2017, tr.126-136.
[17] X. nt., tr.140.
[18] X. Đinh Thực, Les Soeurs Amantes de la Croix au Vietnam – Các Nữ Tu Mến Thánh Giá Tại Việt Nam, Sài Gòn, 1994, tr.151.
[19] Nhóm NCLĐMTG, Lịch Sử Dòng Mến Thánh Giá, 2017, tr.259.
[20] X. Đinh Thực, sđd., tr.65-66.
[21] A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome II, Paris, Téqui, 1923, p.401.
[22] Gispert, Historia de las Missiones Dominicanas en Tungkin, Avila, 1928, p.287.
[23] Cf. AMEP, vol. 701, p.102; x. Trương Bá Cần, tập II, sđd., tr.192-283.
[24] Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome III,op.cit., p.275.
[25] Cf. Compte Rendu des Travaux du Séminaire des Missions Étrangères de Paris (CRTSMEP),1886.
[26] Cf. APF, Acta CP, vol. 12, 1838, pp.121-122.
[27] X. Đinh Thực, sđd., tr.99.
[28] Abbé Migne, “Religieuses annamites des Amantes de la Croix”, dans Dictionnaire des Ordres religieux, tome IV, Paris, Éditeur Migne, 1859, col. 94-95.
[29] Cf, AMEP, vol. 749, p.222.
[30] Cf. Ibib., vol. 693, pp.1059-1060.
[31] X. Đại Nam Thực Lục, tập 115, tr.232-235.
[32] AMEP, vol. 693, p.318.
[33] Ibib., vol. 701, p.1269.
[34] X. Trương Bá Cần, tập II, sđd., tr.85.
[35] APF, vol. 12, pp.397-398.
[36] Ibid., vol. 1259, p.138A.
[37] Cf. Archives des Oeuvres Pontificales Missionnaires (AOPM), vol. E-80, p.E13651.
[38] Cf. AMEP, vol. 805, p.182.
[39] Cf. Ibib.,vol. 748, p.688.
[40] Cf. Ibib.,vol. 748, p.819.
[41] L. E. Louvet, La Cochinchine religieuse, tome II, op,cit., p.295.
[42] Trương Bá Cần, tập II, sđd., tr.285.
[43] Trương Bá Cần, tập II, sđd., tr.382.
[44] X. Đỗ Quang Chính, Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu, sđd., tr.78.
[45]Cf. A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome III, op.cit.,p.271.
[46] Cha Emmanuel Triệu đã được phúc tử đạo ngày 17/09/1798, được tuyên phong Hiển Thánh ngày 19/06/1988 (x. Nguyễn Văn Ngọc, Lịch Sử Các Phước Viện Chị Em Mến Thánh Giá Địa Phận Huế, 1970, tr.17).
[47] Theo Lịch sử Hội Dòng Mến Thánh Giá Huế, thì bà Bề Trên này tên là Thục, nhưng theo A. Launay, thì Bà tên là “Thoc” (cf.A. Launay, Histoire de la mission de Cochinchine, tome III, op.cit., p.253).
[48] Những chi tiết về chị Maria Mađalêna Nguyễn Thị Hậu được trích trong Đào Quang Toản, Nữ Tu Nguyễn Thị Hậu (1814-1841), lưu hành nội bộ, Toulouse, 2000.
[49] X. Nguyễn Văn Ngọc, sđd., tr.28.
[50] Những chi tiết về hai chị Anê Soạn và Anna Trị được trích trong Đào Quang Toản, Cha Durand và Dòng Mến Thánh Giá – Anê Soạn Và Anna Trị, sđd., tr.13-27; 123-126.
[51] Chiếu chỉ Phân Tháp do Vua Tự Đức ban hành năm 1860, theo đó: tất cả người Công Giáo buộc phải bỏ quê quán đến tháp nhập vào các làng lương dân, năm người lương canh giữ một người Công Giáo, các làng Công Giáo bị phá huỷ, tài sản phải chia cho những người lương, gia đình phải phân tán mỗi người một nơi, trước khi đi phải khắc vào má phải 2 chữ “Tả Đạo”, khắc vào má trái tên tổng và huyện họ phải đày tới để họ không thể trốn đi.
[52] X. Cao Thế Dung, Việt Nam Công Giáo Sử Tân Biên 1553-2000, tập III, Dân Chúa, 2005, tr.1980.
[53] Nt., tr.1956.1960.
[54] X. Đào Quang Toản, Cha Durand Và Dòng Mến Thánh Giá – Anê Soạn Và Anna Trị, sđd., tr.45-48.
[55] Theo sử liệu của giáo xứ Lưu Mỹ, Giáo Phận Vinh.
[56] X. Đỗ Quang Chính, Dòng Mến Thánh Giá Những Năm Đầu, sđd., tr.145.
[57] X. Jabouille, Một Trang Huyết Lệ Tỉnh Quảng Trị, Trung Hòa, Hà Nội, 1941.
[58] X. Đào Quang Toản, Cha Durand Và Dòng Mến Thánh Giá – Anê Soạn Và Anna Trị, sđd., tr.64.
[59] Theo sử liệu Hội Dòng Mến Thánh Giá Chợ Quán.
[60] Theo tài liệu của The Finance Committee of the Seven Blessed Martyrs of Thai.
[61] Năm 1688, cuộc cách mạng xảy ra, Vua mới là Pra Petracha, có thái độ chống Pháp nên ra lệnh bách hại đạo Công Giáo tại Thái Lan (x. F. F. Buzelin, Tìm Về Nguồn Gốc Hội Thừa Sai Hải Ngoại, sđd.,tr.353-354).
[62] Hai nữ tu này là người Thái Lan, gia nhập Dòng Mến Thánh Giá Xieng Wang, Lào, được sai đến phục vụ tại một cộng đoàn ở Thái Lan.
[63] Đinh Thực,sđd., tr.85-86.
2020
6 vật mà một người Công Giáo nên có trong nhà
6 vật mà một người Công Giáo nên có trong nhà
Thật ra thì không có một giới hạn nào về những đồ vật tôn giáo đẹp đẽ mà một người Công Giáo có thể có trong nhà. Tuy nhiên, có thể đây là 6 món đồ mà người Công Giáo nên có trong nhà nhất, với một giải thích ngắn.
- Cây Thánh giá
Biểu tượng nổi bật và đặc trưng nhất của đức tin Kitô Giáo chính là cây Thánh giá, ngay từ thời kỳ đầu tiên của đức tin. Quả vậy, cây Thánh giá của Chúa Giêsu Kitô chính là khí cụ cứu độ chúng ta. Những tín hữu thời đầu vẽ Thánh giá lên cả cơ thể họ. Ngày nay, chúng ta lưu lại truyền thống này bằng dấu Thánh giá mà ta kêu cầu lên Ba Ngôi Thiên Chúa: Chúa Cha và Chúa Con và Chúa Thánh Thần.
Trong nhà chúng ta, cây Thánh giá đóng vai trò là vật nhắc nhở về ân huệ Chúa Giêsu đã ban cho chúng ta trên Thánh giá. Đó là một á bí tích của Giáo Hội mà nhờ chiêm ngắm nó bằng con mắt thể xác, con mắt linh hồn chúng ta cũng mở ra với thác nguồn ân sủng của Thiên Chúa.
- Ảnh tượng đức tin
Một vật nhắc nhở đức tin tuyệt vời là các tác phẩm nghệ thuật tôn giáo. Tượng, tranh vẽ, ảnh icon có ý nghĩa sâu sắc hơn là các vật lưu niệm hay trang trí đơn thuần.
Một điều chắc chắn là chúng ta không bao giờ “thờ” các ảnh tượng này; sự thờ phượng chỉ hướng về một Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Nhưng các ảnh tượng giúp ta tưởng nhớ và bắt chước các Đấng mà ảnh tượng ấy mô tả. Điều đó có nghĩa là, nếu trong nhà chúng ta có một bức ảnh Thánh Giuse, việc treo ảnh làm chứng rằng chúng ta tin vị Thánh vĩ đại này đang ở trên Thiên đàng với Thiên Chúa, Thánh Giuse đang sống động thực sự trong Chúa Kitô. Do vậy, chúng ta có thể thưa chuyện với ngài, và học theo các nhân đức mà ta biết từ ngài. Đây không phải là đi đường vòng, không đến trực tiếp Thiên Chúa, nhưng thật ra là chính trong ân sủng của Thiên Chúa mà một người ở dưới đất và một người ở Thiên đàng có thể kết nối với nhau. Ảnh thánh đại diện cho sự hiện diện của vị Thánh, người đang ở trên Thiên đàng, và giúp cảm quan thể xác chúng ta tôn kính mà hướng đến vị Thánh để cầu nguyện.
- Móc treo tường
Mỗi người Công Giáo cũng nên có móc treo tường trong không gian sống. Trong vấn đề đạo, móc treo tường phục vụ như nơi treo xâu chuỗi Mân Côi. Với người Công Giáo thuộc truyền thống Byzantine thì có thể treo chuỗi chotkis hoặc dây cầu nguyện. Treo xâu chuỗi ở một không gian chung, dễ thấy có thể là cách hiệu quả để nhắc nhở mọi người trong gia đình cầu nguyện, đôi khi là cầu nguyện cùng nhau.
- Bình đựng nước thánh
Nước thánh là một á bí tích nhắc nhở về phép Rửa tội. Nhờ nước của phép Rửa, chúng ta được tẩy sạch vết nhơ tội lỗi, và được tháp nhập vào thân mình Chúa Giêsu Kitô, được đóng ấn tín Thánh Thần, và được nhận ơn thánh hoá linh hồn từ Thiên Chúa toàn năng.
Khi chúng ta chấm nước thánh và làm dấu Thánh giá, chúng ta cho phép ân sủng Chúa chỉnh đốn con người chúng ta, củng cố mối liên kết sự sống của chúng ta với sự sống của Thiên Chúa, và tuyên xưng lại trong lòng về bí tích Rửa tội mình đã lãnh nhận. Hội Thánh cũng ban ơn tiểu xá cho việc này.
- Tượng đài Đức Mẹ Maria
Một khung cảnh đẹp đẽ khác mà gia đình chúng ta nên có, nếu có điều kiện, là đặt tượng Đức Trinh Nữ Maria trong vườn nhà và trồng cây xanh quanh tượng đài ấy. Đó cũng là một cách truyền giáo tốt nếu tượng được đặt ở sân trước nhà, nơi dễ nhìn thấy từ ngoài đường.
Nhiều người, với tư tưởng rất con người, sợ rằng mình đã tôn kính Đức Mẹ nhiều quá mức. Thực chất, chúng ta không bao giờ có thể tôn kính và yêu mến Mẹ Maria nhiều hơn Con Một Mẹ là Chúa Giêsu Kitô, Đấng không ngừng muốn chúng ta yêu mến Mẹ ngày một hơn. Thật vậy, càng tôn kính Đức Trinh Nữ là càng tôn vinh và chúc tụng Chúa Giêsu. Đức Mẹ dẫn ta đến Chúa. Đức Mẹ trông nom và bảo vệ ta. Đức Mẹ kéo mọi ơn Chúa Thánh Thần cho con cái trên thế gian. Trong mầu nhiệm Hội Thánh là Thân Mình Chúa Kitô, Đức Mẹ chính là cái cổ để thông chuyển mọi sự tốt lành của Đầu xuống thân mình.
Một khi đã “xin vâng”, Đức Mẹ không ngừng trở thành người mang Chúa cho thế giới. Nhìn ngắm Mẹ chính là nhìn ngắm sự kiện Thiên Chúa Ngôi Lời làm người và giáng sinh. Ở với Chúa là ở Thiên đàng, vì thế, Mẹ chính là người mang Thiên đàng đến cho tất cả chúng ta.
- Lịch Công Giáo
Ở nhiều nơi, các nhà thờ phát lịch Công Giáo đến các tín hữu mỗi tuần hoặc mỗi tháng. Lịch Công Giáo là quyển lịch ghi thông tin các ngày lễ Công Giáo trong suốt năm. Quyển lịch này nên được để ở giữa nhà, chỗ dễ thấy, để mọi người đều có thể xem.
Là một điều tốt lành khi các tín hữu biết điều gì đang diễn ra trong niên lịch Giáo Hội để có thể giữ đức tin luôn sống động. Chẳng hạn, gia đình có thể đặt một cái bánh kem để ăn mừng lễ Đức Mẹ Vô Nhiễm Nguyên Tội hoặc Hồn Xác Lên Trời. Đến lễ Thánh bổn mạng hoặc một vị Thánh mình yêu thích, gia đình có thể trang trí những biểu tượng của vị Thánh đó hoặc cầu nguyện đặc biệt với ngài.
Theo Catholic-link.org
Gioakim Nguyễn biên dịch
2020
Giới trẻ và Văn hóa khiêu dâm – tình dục qua mạng Internet
GIỚI TRẺ VÀ VĂN HÓA KHIÊU DÂM – TÌNH DỤC QUA MẠNG INTERNET: MỘT NHẬN ĐỊNH TRÊN PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI VÀ LUÂN LÝ CÔNG GIÁO
-
Ngày Truyền Thông Thế Giới đầu tiên được thực hiện cách nay nửa thế kỷ (07/05/1967), do Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI khởi xướng, khi Ngài muốn Giáo hội quan tâm đến truyền thông với sức mạnh đáng kể của nó, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với sự biến đổi văn hóa và ảnh hưởng trên cuộc sống con người, và đến cả sứ mạng truyền giảng Tin Mừng của Giáo hội. [1]
Nhận định về chủ đề Ngày Truyền Thông Thế Giới năm 2018, Bộ Trưởng Truyền Thông Vatican đã cho biết rằng thông tin giả bóp méo dữ kiện, tác động trên những cá nhân và tập thể trên đường tìm kiếm chân lý và sống theo chân lý.[2] Trong bối cảnh này, bài viết gợi mở một khía cạnh quan trọng mà mạng lưới internet đã và đang tác động đến đời sống cá nhân và xã hội, cách riêng các bạn trẻ, đó là bóp méo sự thật về tính dục con người qua lan truyền văn hóa khiêu dâm và một trong các hậu quả trầm trọng là tình dục qua mạng, làm thoái hóa nhân cách của người sử dụng.
- VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI
- Hiện trạng vấn đề và cảnh báo nguy cơ
Kleponis, phụ tá giám đốc của Comprehensive Counseling Services, nhận định sự lan tràn của văn hóa khiêu dâm đã đến mức báo động nghiêm trọng. Các con số thống kê hiện nay thực ra chưa nói đủ được tình trạng ấy. Ông giải thích vì đây là điều thường diễn ra về đêm, trong cõi riêng tư của các gia đình. Nhưng điều rõ ràng đây là một kỹ nghệ trị giá tới 97 tỷ Mỹ Kim, riêng Mỹ chiếm 13 tỷ. [3] Tạp Chí Time có một bài viết cho thấy thế hệ thanh thiếu niên ngày nay truy cập phổ biến vào phim khiêu dâm “hạng nặng” trên mạng Internet. Thống kê về việc này gây lo lắng cho các nhà giáo dục và tất cả những ai thao thức xây dựng một xã hội và thế giới tốt đẹp. Phần lớn giới trẻ bắt đầu xem hình ảnh khiêu dâm ở tuổi 11; khoảng 107 triệu lượt truy cập hằng tháng vào các trang mạng dành cho người lớn ở Hoa Kỳ; 12 triệu giờ mỗi ngày trên toàn cầu được dành cho việc xem những hình ảnh khiêu dâm; 40% các trẻ nam ở Anh Quốc nói rằng, chúng thường xem phim ảnh khiêu dâm, và nhiều chuyện khác như thế. [4]
Theo UNICEF, trung bình mỗi ngày có khoảng 720.000 hình ảnh mang tính khiêu dâm, bạo lực… được đưa lên internet. Tại Việt Nam, từ 2011 đến 2015, có 9.920 trẻ em bị xâm hại bởi các chiêu thức dụ dỗ qua mạng xã hội, Internet, trong đó 65% là xâm hại tình dục. Các con số này báo động về nguy cơ xâm hại tình dục ở trẻ em phát sinh từ mạng internet. [5] Phó Giám đốc Ban Bảo vệ trẻ em của UNICEF, Cornelius William cho rằng: “Internet và điện thoại di động đã tạo ra một cuộc cách mạng và thay đổi việc tiếp cận thông tin của giới trẻ. Nhưng kết quả thăm dò cho thấy nguy cơ bị xâm hại trực tuyến đối với các trẻ em gái và trẻ em trai là có thật”. [6]
Đây là một vấn đề thời sự cần được quan tâm đúng mức, và thậm chí xảy ra cả trong giới tu trì: nghiện mạng, nghiện văn hóa khiêu dâm qua mạng và thậm chí tình dục qua mạng. Đã có cặp vợ chồng ly dị vì chồng nghiện mạng, không quan tâm gia đình. Đã có người phải rời bỏ đời tu vì có hành vi tình dục qua mạng. Giống như các thành quả khoa học kỹ thuật khác, sử dụng truyền thông mạng là con dao hai lưỡi, đòi hỏi người sử dụng phải đủ trưởng thành để làm chủ thời gian sử dụng mạng internet, phân biệt nội dung đúng sai, tốt xấu, tự chủ trước các cám dỗ tình dục qua mạng. Nhà cung cấp Internet, Chính phủ sẽ không bảo vệ bạn. Gia đình cũng khó bảo vệ bạn hiệu quả. Bạn trẻ phải tự bảo vệ chính mình khi sử dụng internet. [7]
- Sự khác biệt giới tính
Theo Kleponis hiện nay khoảng 83% người nghiện văn hóa khiêu dâm là nam giới, nữ giới chỉ chiếm 17%. Người nam và người nữ được kích thích một cách khác nhau. Người nam thường dễ bị kích thích bằng thị giác. Khi nhìn một hình ảnh khiêu dâm, một phản ứng hóa học lập tức diễn ra, chất dopamine được tiết ra, gây ra hiện tượng phấn khích (euphoria) mạnh, và khi phối hợp với việc kích dục và khoái ngất, nó dễ dẫn tới ghiền văn hóa khiêu dâm. Đối với phụ nữ, việc ghiền loại văn hóa này chủ yếu diễn ra dưới hình thức tán gẫu (chat rooms). Phụ nữ nghiêng về tương quan. Họ thường ưa thích vào các “phòng chat” nơi họ có thể tự tạo cho mình một nhân vật giả (false persona). Ở đấy, họ có thể giả dạng bất cứ người nào họ muốn, và dấn thân vào các liên hệ gợi dục với đàn ông trên mạng bằng lời. Như thể họ đang cùng người đàn ông này viết ra câu truyện tiểu thuyết đầy lãng mạn giữa họ. Đó chính là điều làm họ ghiền! Nhất là đối với phụ nữ không hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Cũng có một số phụ nữ ghiền theo nghĩa thị giác. Một số thiếu nữ bị buộc vào con đường tình dục qua mạng chỉ vì bạn trai của họ nài nỉ, coi đó như một điều kiện cho mối liên hệ giữa họ với nhau. Chứ thật tâm họ không muốn thế. Đây là một vấn đề khác. [8] Và dù sao các việc này đều gây hậu quả nghiêm trọng và khó lường.
- Hậu quả của việc nghiện mạng [9]
Ngày nay xã hội phải đối diện với các nạn nhân của nhiều hình thức nghiện mạng. Các hình thức nghiện mạng có thể là cờ bạc, mua sắm, xem phim, trò chơi online, trao đổi cổ phiếu, đọc tin lung tung, nghiên cứu lung tung, và nghiện tình dục mạng (tình dục ảo).
Khi rơi vào nghiện mạng, nạn nhân có thể gặp các hậu quả sau:
– Xa rời tương tác xã hội thật.
– Thúc đẩy và làm tăng thêm cô lập và rút lui xã hội.
– Có thể đưa đến trầm cảm.
– Dễ mất tập trung khỏi những vấn đề quan trọng khác của đời sống thực.
– Thậm chí có người đã “mất mạng sống” khi “lướt mạng” nhiều giờ quên cả ăn ngủ. [10]
- Các hình thức tình dục qua mạng [11]
Tình dục qua mạng có thể dưới nhiều hình thức
– Sưu tập các hình ảnh hay câu chuyện mang tính kích dục
– Trao đổi thư điện tử với nội dung tình dục.
– Xem các loại phim khiêu dâm.
– Đưa lên mạng những hình ảnh gợi dục.
– Nói chuyện trao đổi kích dục bằng “phòng chát”
– Liên lạc với các cư dân mạng, chia sẻ những tưởng tượng cuồng loạn về tình dục, có thể dẫn đến tình dục ảo, điện thoại tình dục hay đưa đến việc gặp mặt thực sự.
Hoạt động tình dục mạng thường diễn ra vô danh, nên người ấy thường an tâm đi vào thực hành mà không e ngại người khác biết. Tuy nhiên trên thực tế, điều này cũng không thể giữ bí mật lâu dài.
Người sử dụng mạng để trao đổi tình dục có thể:
– Tạo lý lịch giả, che giấu hay thay đổi căn tính.
– Tạo hình tượng mới, thay đổi sở thích.
– Tạo nên một thế giới của tưởng tượng cuồng loạn về tình dục.
– Tương tác tình dục ảo bị hạn chế vào hình ảnh truyền tải, thay vì tương tác mặt đối mặt, với tiếp xúc mắt, tiếng nói, ngôn ngữ thân xác.
– Qua tưởng tượng cuồng loạn người ta có thể đưa ra bất cứ cái gì và có thể tạo được một sự thân mật tức thời.
Tình dục qua mạng được bao bọc bởi sự bí mật – kín đáo:
– Người nghiện không nói về điều đó cho ai cả.
– Nó trở thành một cách để đối phó với những đối kháng vô thức và ý thức trong lãnh vực tính dục.
– Có thể khám phá đề tài liên quan đến tình dục mà không phải tỏ lộ danh tánh, gốc gác.
– Cảm thấy được an toàn bởi tại phòng riêng và tính chất vô danh trên mạng.
Tình dục ảo hay mạng có thể trở thành nghiện khi cá nhân sử dụng hành vi tình dục ảo để thay đổi tâm trạng của mình, dù ý thức hay không ý thức. Các đặc tính nghiện tình dục ảo không khác với các loại nghiện khác:
– Có thể cảm thấy “hứng thú”, và cảm thấy trầm cảm khi hết hoạt động
– Có thể cố gắng dứt bỏ nhưng không thể.
– Ảnh hưởng đến công việc, đời sống gia đình, cộng đoàn, xã hội, và cầu nguyện.
– Cảm giác tội lỗi, xấu hổ.
– Trải qua nhiều thời gian trước máy vi tính, mất ngủ…
– Tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi không kết nối được mạng.
Thường có sự tiến triển từ nghiện ít, thấp đến các hành động cao hơn: bắt đầu xem phim khiêu dâm miễn phí, rồi đến phim trả tiền, sau đó tìm cách liên lạc, thực hiện điện thoại tình dục, có thể thực hiện hành vi tình dục qua mạng bằng lời trao đổi, hình ảnh, kể cả gặp gỡ thật.
- TRÊN PHƯƠNG DIỆN LUÂN LÝ CÔNG GIÁO
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2354 dạy rằng:
Hình ảnh khiêu dâm cốt tại việc đem những hành vi tình dục, có thật hay giả vờ, ra khỏi vòng thân mật của những người trong cuộc, chủ ý phơi bày cho những người khác. Hình ảnh khiêu dâm xúc phạm đến đức khiết tịnh, bởi vì làm biến chất hành vi phu phụ, sự tự hiến thân mật cho nhau của đôi phối ngẫu. chúng xúc phạm cách nghiêm trọng đến phẩm giá của những người tham gia vào đó (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), bởi vì người này trở thành đối tượng mua vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người khác. Hình ảnh khiêu dâm dìm hết người này đến người khác vào sự ảo tưởng của thế giới giả trá. Đó là một trọng tội. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những hình ảnh khiêu dâm này.
Giám mục Robert Emmet Barron nhận định sự thật đáng buồn là, đối với những người trẻ thực hiện tình dục qua mạng internet, sự kích thích tình dục không còn gắn liền với con người bằng xương bằng thịt nữa, nhưng gắn liền với những hình ảnh nhấp nháy của những con người có diện mạo hoàn hảo trong một thực tại ảo. Ngoài ra, bởi vì họ bắt đầu từ khi còn quá trẻ, nên khi lớn lên, họ bị thôi thúc hướng về các phim ảnh khiêu dâm hoang dại và mức độ bạo lực ngày càng lớn hơn, nhằm để đạt được thỏa mãn cảm xúc thèm khát. Và điều này, đến lượt nó làm cho họ mất khả năng tìm thấy sự hứng thú trong tình dục bình thường, tức là nhẹ nhàng, không hoang dại bạo lực. [12]
Các lãnh vực cần quan tâm [13]
– Tình dục ảo đẩy mạnh thái độ “nhìn trộm” (voyeuristic) về tình dục – dần dần đi xa tình dục tương quan lành mạnh.
– Tình dục ảo tiếp thị kinh nghiệm phân mạng về tình dục: các phần của thân thể, y phục, xem người khác chỉ là “đồ vật”, đưa đến lệch lạc “sùng bái đồ vật” (fetishism).
– Tình dục ảo cô lập cá nhân và tính dục của mình. Không có sự trao đổi trực tiếp hay phản hồi khách quan. Đưa đến một sự phát triển nhân cách không lành mạnh.
– Hoạt động tình dục ảo cô lập cá nhân khỏi những giao tiếp xã hội với đồng lứa.
– Có thể đưa đương sự vào những nguy cơ như trơ lì về những gì liên quan đến tính dục một cách đúng đắn, hoặc làm lương tâm và ý thức trở nên mờ nhạt và tăm tối về các vấn đề tính dục hay tương quan với người khác.
– Hoạt động tình dục mạng tạo nên và mở rộng mọi thể loại văn hóa khiêu dâm.
– Hoạt động tình dục mạng ở các môi trường tôn giáo như trong cộng đoàn, giáo xứ, giáo phận có thể đưa đến nguy hại luân lý và thanh danh, vì người ta có thể truy ra nơi sử dụng.
Tác hại của nền văn hóa khiêu dâm [14]
Giáo hội Công Giáo, và tất cả xã hội đứng đắn, đều coi phim khiêu dâm:
– Là “một sự phương hại về đạo đức”.
– Một sự “xuyên tạc sâu sắc tính dục con người”.
– Một sự “chà đạp lương tâm con người ”tới mức, “coi họ không hơn một đồ vật” nhằm thỏa mãn khao khát dục vọng.
Sự xuyên tạc này tạo nên nhiều vấn đề trên phương diện thể lý, tâm lý, luân lý và thiêng liêng. Những hậu quả đi kèm theo vấn nạn này sẽ không được tiếp cận đến đầy đủ, nếu vấn nạn tiềm ẩn chưa được giải quyết thỏa đáng.[15]
III. MỤC VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN VĂN HÓA KHIÊU DÂM VÀ TÌNH DỤC QUA MẠNG
- Thành phần có nguy cơ cao [16]
– Các vấn đề thông thường dẫn tới việc ghiền văn hóa khiêu dâm là: lòng vị kỷ, một số hình thức cô đơn, bất an về nam tính nên tìm cách khẳng định nam tính qua hành vi tình dục, áp lực nặng nề của công việc, khủng hoảng tương quan vợ chồng, khủng hoảng đời tu.
– Kỹ năng giao tiếp và thân mật kém: xa lánh bạn bè, có vấn đề với bạn bè, khuynh hướng sử dụng internet để tránh lúng túng trong giao tiếp xã hội.
– Có tiền sử về những khó khăn tình dục chưa giải quyết. Tiền sử về chấn thương tâm lý.
– Trầm cảm, hay bất ổn cảm xúc (dysthymia) ở một mức độ nào đó.
– Đời sống thiêng liêng nghèo nàn.
- Phòng ngừa thanh thiếu niên rơi vào bẫy tình dục qua mạng internet
Một phương án cực đoan là một số phụ huynh cấm đoán con cái sử dụng internet. Đây không phải là một giải pháp hay, bởi internet ngày nay là một phương tiện quan trọng cung cấp kiến thức và học hỏi, nghiên cứu, trao đổi, làm việc…
Thay vì cấm đoán, cha mẹ nên trang bị cho con những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình như: không để lộ thông tin cá nhân, không nói chuyện trên mạng về tình dục, chia sẻ ngay với cha mẹ, người thân nếu ai đó cố tình nói về vấn đề tình dục, không hẹn hò gặp mặt với người mới quen qua mạng mà không có sự chia sẻ thông tin và cho phép của cha mẹ… Cha mẹ nên có quy định rõ ràng về việc sử dụng internet của con. Chẳng hạn thời gian sử dụng internet mỗi ngày, các trang mạng nào được cho phép và trang nào thì không. Để làm được điều này, bố mẹ cũng có thể sử dụng các phần mềm kiểm duyệt, để cài đặt thời gian sử dụng hoặc áp dụng tính năng như chặn linh hoạt, cho phép chặn các trang mạng xấu được phân loại sẵn. [17]
Tuy nhiên để con cái có thể cởi mở thông tin, cần thiết phải xây dựng mối quan hệ gần gũi, tin cậy giữa cha mẹ và con cái ngay từ nhỏ. Các trẻ em phải sống trong cảnh gia đình cha mẹ ly hôn, thiếu sự quan tâm của cha mẹ thường có xu hướng tìm bạn trên mạng để khỏa lấp nỗi buồn, dễ trở thành con mồi của kẻ xấu. [18]
- Phương cách giúp đỡ người nghiện văn hóa khiêu dâm
– Quan tâm đến những người có nguy cơ cao, nhất là trong lúc bị stress, những người tương giao kém, và có các vấn đề tình dục.
– Đặt vấn đề hoạt động tình dục mạng tại các buổi hội thảo, tạo cơ hội để bàn thảo về đề tài này và các đề tài liên hệ đến tính dục.
– Khuyến khích chứng tỏ sự đáng tin cậy trong việc sử dụng thời gian, thời gian giao tiếp xã hội, giảm thiểu cơ hội sử dụng vi tính một mình.
– Đặt vi tính ở những nơi công cộng hay công khai. Chú ý kiểm soát việc loan truyền sản phẩm khiêu dâm qua đường điện thoại di động.
- Tiến trình chữa lành người ghiền văn hóa khiêu dâm [19]
Trước hết cần xác định, ai là người ghiền văn hóa khiêu dâm? Theo Kleponis, người thường tiếp xúc với văn hóa khiêu dâm không nhất thiết là người ghiền các sản phẩm đó. Cần đặt thêm cho họ các câu hỏi này: bạn có bị lôi cuốn vào đó hay không, bạn có hay nghĩ nhiều tới nó hay không? Bạn có trông chờ mau chóng về nhà để được vào mạng, coi các sản phẩm khiêu dâm cho thỏa thích không? Bạn có mong nó sẽ giải quyết các căng thẳng của bạn phát sinh do sự cô đơn, cảm thức bất ổn phái tính hay do áp lực công việc hay không? Bạn có thấy thật khó khăn khi phải đi vắng một thời gian mà không được xem các sản phẩm khiêu dâm hay không? Nếu các câu trả lời là “có”, thì hầu như là bạn đã ghiền văn hóa khiêu dâm rồi!
Tiến trình chữa lành phải bắt đầu bằng việc nhìn nhận mình có vấn đề đối với văn hóa khiêu dâm, rồi cố gắng tìm hiểu mình cũng như các nguyên nhân tạo ra tình trạng ghiền sản phẩm khiêu dâm kia. Để được chữa lành, nạn nhân không thể hành động một mình được. Kleponis đề nghị phương thức sáu điểm như sau: che chở của gia đình; hỗ trợ của những người cùng trang lứa; tư vấn hay tự tìm hiểu nguyên nhân gây ra việc ghiền khiêu dâm; lớn lên trong đức tin và thực hành nhân đức; tình bạn; và giáo dục.[20]
Đối với các thanh niên độc thân, Kleponis nhắc rằng khi bước chân vào con đường ghiền văn hóa khiêu dâm, họ thực sự đã đi vào chủ nghĩa vị kỷ sâu xa, một trở ngại sẽ phá hủy khả năng tương quan lành mạnh với phụ nữ trẻ. Các người này phần lớn thiếu tự tin trong giao tiếp với phụ nữ và do đó, thường lo âu. Các phụ nữ họ thấy trong sản phẩm khiêu dâm không có cảm xúc, nhu cầu hay ý kiến. Vì thế, khi ra khỏi thế giới ảo và gặp gỡ phụ nữ trong thực tế, là những người có cảm xúc, có ý kiến, họ lúng túng không biết cách cư xử đúng mực, nên đành rút lui trong bất an và giận dữ. Kleponis khuyên các bậc cha mẹ nên lưu ý tới cuộc khủng hoảng này và dạy cho con cái sự thật về luân lý tính dục và các nguy hiểm của văn hóa khiêu dâm cũng như các thói quen thủ dâm tai hại.
Cần nhận định các yếu tố dẫn đến ghiền khiêu dâm và giải quyết từng yếu tố. Việc gia tăng sự trợ giúp của những người đồng trang đồng lứa hay tình bạn đều mang hiệu quả tích cực. Chia sẻ với người phối ngẫu hay với một người bạn thân các khó khăn của mình là điều hữu ích. “Người anh được em giúp đỡ là một thành vững chắc và cao ngất” (Cn 18,19).
- Các nhân đức đặc thù
Tập luyện nhân đức góp phần thoát khỏi cạm bẫy này. Người tập luyện lớn lên trong nhân đức, thường ít bị thương tổn bởi nạn khiêu dâm. Các nhân đức giúp ta chống lại sự cô đơn là chia sẻ, nhìn nhận phận người yếu đuối, không quá cậy dựa vào chính mình, là tín thác và tin vào tình yêu Thiên Chúa. Tuy ở vài thời điểm tăng trưởng nhất định nào đó, ta có thể cảm thấy mình không được yêu thương.
Các nhân đức giúp ta thoát khỏi lòng vị kỷ là quảng đại dâng hiến cho người thân, cho tha nhân, cho quê hương, là khai triển tình bạn cởi mở với người phối ngẫu, là hãm mình, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm, sự điều độ, lòng khiêm nhường. Kính yêu Chúa Giêsu nhiều hơn. Tất cả các nhân đức ấy động viên ta đừng gây thêm hại và đau đớn nữa, bằng cách xa lánh văn hóa khiêu dâm.
Ngoài ra, các nhân đức giúp người thanh niên lớn lên trong niềm tự tin vào nam tính của mình là sự biết ơn đối với các ân ban của Chúa, trong đó có thân xác mình, là tha thứ cho những ai đã gây hại đến niềm tự tin của chính mình, là tình bạn lành mạnh. Lớn lên trong niềm tin sẽ giúp người trẻ biết trông cậy vào sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa và của Đức Maria.
Các nhân đức giúp giảm bớt sự giận dữ thái quá phát sinh do cô đơn và buồn bực, là lòng tha thứ, biết cảm thương, lòng tốt, biết tôn trọng người khác và khiêm tốn. Các nhân đức giúp chống lo âu xao xuyến là tín thác, dứt bỏ, không quyến luyến lệch lạc, khôn ngoan đủ để thấy được sự tốt lành nơi người phối ngẫu, người thân và tin vào tình yêu chữa lành của Thiên Chúa cũng như khả năng của Thiên Chúa có thể cất các gánh nặng cũng như lo âu của đời sống hằng ngày. Lớn lên trong nhân đức, người trẻ sẽ cảm nhận được một hạnh phúc và thỏa mãn hơn trong việc tự hiến bước theo ơn gọi làm người của mình.
Để chống lại sự cô đơn ngăn cách giữa vợ chồng, vợ chồng cần bảo vệ tình yêu lãng mạn của họ, xây dựng tình bạn phu thê, tình yêu lúc mới đính hôn trong đó có biết bao là thân mật gần gũi. Họ phải dành càng nhiều thì giờ cho nhau càng tốt, vào những buổi tối cùng nhau và phải chuyện trò, chia sẻ với nhau. Chia sẻ là điều cốt yếu trong bất cứ tình bạn phu thê nào.
Đối với trẻ em, cần làm cha mẹ có trách nhiệm, không buông thả mà cũng đừng kiểm soát quá đáng. Buông thả là thái độ thường thấy trong nền văn hóa ngày nay, từng góp phần tạo ra nạn khiêu dâm. Cha mẹ thuộc loại này thường không chịu sửa phạt tính vị kỷ nơi con cái, mà đôi khi còn làm gương xấu cho chúng nữa. Họ thường yếu về đức tin và không hướng dẫn con cái một cách hữu hiệu về phương diện thiêng liêng để chúng tránh không bị ám ảnh bởi thân xác và tình dục quá phổ biến trong nền văn hóa hiện nay. Họ cũng thường thất bại, không cảnh giác con cái về các nguy hiểm của nạn khiêu dâm, thói quen thủ dâm và nền văn hóa trụy lạc.
Việc làm cha mẹ có trách nhiệm khiến họ cam kết đào luyện con cái mình trong nhân đức, cảnh giác chúng về các nguy hiểm của việc dùng người khác như đối tượng thỏa mãn tình dục, yêu thương sửa dạy con cái và dạy chúng vẻ đẹp tính dục con người trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho bí tích hôn phối. Cha mẹ cho các con thấy và dạy chúng biết rằng tình yêu có tính bí tích của vợ chồng làm cho tình yêu và vẻ đẹp của Chúa Ba Ngôi hiện diện trong thế giới.
Phần quan trọng khác của tiến trình chữa lành là giáo dục. Ảnh hưởng của não trạng ngừa thai trong 50 năm qua liên quan tới tình yêu vợ chồng và tính dục. Não trạng này khiến nhiều người nam coi người nữ như đối tượng để thỏa mãn tình dục. Nó góp phần rất nhiều vào nạn dịch khiêu dâm. Đức Cha Paul Loverde của Giáo Phận Arlington, Virginia, trong một lá thư mục vụ viết về nạn khiêu dâm, đã nhắc nhở giáo dân: “Con người tiệm tiến bồi đắp hay hủy diệt nhân cách mình bằng từng và mỗi một quyết định luân lý. Khi cái nhìn của con người hướng vào chỗ lầm lạc, họ trở nên loại người sẵn sàng sử dụng người khác làm đối tượng để thỏa mãn khoái cảm”.
Đức tin có vai trò rất quan trọng. Nhiều người đang khốn khổ vì cơn ghiền văn hóa khiêu dâm, tình dục qua mạng này cảm thấy được nâng đỡ và đầy ơn sủng khi biết nhìn nhận sự bất lực của mình và phó thác cho Chúa. Bí tích hòa giải, Bí tích Thánh thể, việc linh hướng, đọc Thánh Kinh, cầu nguyện, đặt kế hoạch thiêng liêng cho đời sống sẽ giúp ta dễ dàng trong giải quyết các khó khăn đã dẫn ta vào con đường đam mê các sản phẩm khiêu dâm.
- Vấn đề sử dụng mạng internet trong các cộng đoàn tu và đại chủng viện
Sau đây là vài suy tư của một số nhà đào luyện:
– Việc sử dụng vi tính, sử dụng mạng ngày nay rõ ràng là một nhu cầu, đặc biệt cho các dòng tu tông đồ và đại chủng viện.
– Nhưng mức độ của nhu cầu ấy cần phải được lượng định cách trung thực.
– Thời gian sử dụng mạng và việc sử dụng vi tính trong phòng riêng là vấn đề cần được thảo luận.
– Hiện nay, các cộng đoàn huấn luyện ở các dòng tu và đại chủng viện đều hạn chế và kiểm soát việc sử dụng internet của ứng sinh, với các mức độ khác nhau. Vấn đề đặt ra là sau khi vĩnh khấn hoặc chịu chức phó tế, linh mục, hay thời gian về thăm gia đình dịp hè hay tết, họ lại được tự do khá nhiều trong việc sử dụng mạng. Người huấn luyện cũng không thể có mặt khắp nơi để “canh chừng” ứng sinh. Lo rằng khi ấy họ lại “quá đà” sử dụng cho “đã thèm” thì lại phản tác dụng. Có lẽ quan trọng và hữu hiệu hơn hết là huấn luyện cho người ứng sinh được trưởng thành, biết sử dụng tự do cách đúng đắn, biết phân định lợi ích và tác hại của việc sử dụng mạng. Người thụ huấn sẽ là người quyết định ơn gọi của chính mình triển nở và thăng tiến hay không. Người huấn luyện chỉ đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn, không thể “tu thế” cho người thụ huấn. [21]
KẾT
Trong Buổi Triều Yết Chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô, suy tư đoạn Tin Mừng trong ngày về câu hỏi của một thanh niên trẻ hỏi Chúa Giêsu: “Con phải làm gì để được sự sống đời đời?” Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói người Kitô hữu phải theo đuổi con đường của đời sống thật, tình yêu thật, sự giàu có thật của Nước Trời! [22]
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN Số 108 (tháng 9 & 10, năm 2018)
__________
[1] Đan Sĩ (Theo Vatican Radio), “Đức Giáo Hoàng Tập Trung Vào Vấn Đề ‘Tin Giả’ Trong Thông Điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông 2018”, 30/09/2017, Tại <http://masimpress.com>
[2] “Đức Giáo Hoàng Tập Trung Vào Vấn Đề ‘Tin Giả’ Trong Thông Điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông 2018”.
[3] X. Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”, tại <http://vietcatholic.org>
[4] X. Gm Robert Emmet Barron, “ Porn and the curse of total sexual freedom”, <http://www.wordonfire.org>
[5] X. PV/VOV.VN “Giới trẻ có nguy cơ bị lạm dụng tình dục trên mạng”, 07/06/2016 <http://vov.vn>
[6] X. PV/VOV.VN “Giới trẻ có nguy cơ bị lạm dụng tình dục trên mạng”.
[7] Theo Bizlive, “Sử dụng Internet phải như ‘quan hệ tình dục an toàn’!” 2/7/2015, <https://viettimes.vn>
[8] Trích trong Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”.
[9] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[10] Đ. Hà, K, Giang, “Một thanh niên chết do chơi game kiệt sức?”,01/07/2017 <https://tuoitre.vn>
[11] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[12] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[3] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[4] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[5] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[6] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[7] “Xâm hại tình dục qua mạng: ‘Vaccine’ phòng ngừa nào cho trẻ?”, 02/08/17 <https://baomoi.com>
[8] Kim Thoa, “Báo động tình trạng trẻ bị xâm hại tình dục qua mạng”,19/01/2015 <https://tuoitre.vn>
[9] Trích trong Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và Văn Hóa khiêu dâm”.
[20] Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”.
[2] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[22] Đan Sĩ, (Theo Vatican News) “Đức Giáo Hoàng Trong Buổi Tiếp Kiến Chung: Người Kitô hữu Phải Đi Theo Con Đường Thật, Tình Yêu Thật, Sự Giàu Có Thật”, 14/06/2018, <http://masimpress.com>
WHĐ, 16-05-2020 – Ngày Truyền Thông Thế Giới đầu tiên được thực hiện cách nay nửa thế kỷ (07/05/1967), do Chân Phước Giáo Hoàng Phaolô VI khởi xướng, khi Ngài muốn Giáo hội quan tâm đến truyền thông với sức mạnh đáng kể của nó, cả tích cực lẫn tiêu cực, đối với sự biến đổi văn hóa và ảnh hưởng trên cuộc sống con người, và đến cả sứ mạng truyền giảng Tin Mừng của Giáo hội. [1]
Nhận định về chủ đề Ngày Truyền Thông Thế Giới năm 2018, Bộ Trưởng Truyền Thông Vatican đã cho biết rằng thông tin giả bóp méo dữ kiện, tác động trên những cá nhân và tập thể trên đường tìm kiếm chân lý và sống theo chân lý.[2] Trong bối cảnh này, bài viết gợi mở một khía cạnh quan trọng mà mạng lưới internet đã và đang tác động đến đời sống cá nhân và xã hội, cách riêng các bạn trẻ, đó là bóp méo sự thật về tính dục con người qua lan truyền văn hóa khiêu dâm và một trong các hậu quả trầm trọng là tình dục qua mạng, làm thoái hóa nhân cách của người sử dụng.
- VỀ PHƯƠNG DIỆN XÃ HỘI
- Hiện trạng vấn đề và cảnh báo nguy cơ
Kleponis, phụ tá giám đốc của Comprehensive Counseling Services, nhận định sự lan tràn của văn hóa khiêu dâm đã đến mức báo động nghiêm trọng. Các con số thống kê hiện nay thực ra chưa nói đủ được tình trạng ấy. Ông giải thích vì đây là điều thường diễn ra về đêm, trong cõi riêng tư của các gia đình. Nhưng điều rõ ràng đây là một kỹ nghệ trị giá tới 97 tỷ Mỹ Kim, riêng Mỹ chiếm 13 tỷ. [3] Tạp Chí Time có một bài viết cho thấy thế hệ thanh thiếu niên ngày nay truy cập phổ biến vào phim khiêu dâm “hạng nặng” trên mạng Internet. Thống kê về việc này gây lo lắng cho các nhà giáo dục và tất cả những ai thao thức xây dựng một xã hội và thế giới tốt đẹp. Phần lớn giới trẻ bắt đầu xem hình ảnh khiêu dâm ở tuổi 11; khoảng 107 triệu lượt truy cập hằng tháng vào các trang mạng dành cho người lớn ở Hoa Kỳ; 12 triệu giờ mỗi ngày trên toàn cầu được dành cho việc xem những hình ảnh khiêu dâm; 40% các trẻ nam ở Anh Quốc nói rằng, chúng thường xem phim ảnh khiêu dâm, và nhiều chuyện khác như thế. [4]
Theo UNICEF, trung bình mỗi ngày có khoảng 720.000 hình ảnh mang tính khiêu dâm, bạo lực… được đưa lên internet. Tại Việt Nam, từ 2011 đến 2015, có 9.920 trẻ em bị xâm hại bởi các chiêu thức dụ dỗ qua mạng xã hội, Internet, trong đó 65% là xâm hại tình dục. Các con số này báo động về nguy cơ xâm hại tình dục ở trẻ em phát sinh từ mạng internet. [5] Phó Giám đốc Ban Bảo vệ trẻ em của UNICEF, Cornelius William cho rằng: “Internet và điện thoại di động đã tạo ra một cuộc cách mạng và thay đổi việc tiếp cận thông tin của giới trẻ. Nhưng kết quả thăm dò cho thấy nguy cơ bị xâm hại trực tuyến đối với các trẻ em gái và trẻ em trai là có thật”. [6]
Đây là một vấn đề thời sự cần được quan tâm đúng mức, và thậm chí xảy ra cả trong giới tu trì: nghiện mạng, nghiện văn hóa khiêu dâm qua mạng và thậm chí tình dục qua mạng. Đã có cặp vợ chồng ly dị vì chồng nghiện mạng, không quan tâm gia đình. Đã có người phải rời bỏ đời tu vì có hành vi tình dục qua mạng. Giống như các thành quả khoa học kỹ thuật khác, sử dụng truyền thông mạng là con dao hai lưỡi, đòi hỏi người sử dụng phải đủ trưởng thành để làm chủ thời gian sử dụng mạng internet, phân biệt nội dung đúng sai, tốt xấu, tự chủ trước các cám dỗ tình dục qua mạng. Nhà cung cấp Internet, Chính phủ sẽ không bảo vệ bạn. Gia đình cũng khó bảo vệ bạn hiệu quả. Bạn trẻ phải tự bảo vệ chính mình khi sử dụng internet. [7]
- Sự khác biệt giới tính
Theo Kleponis hiện nay khoảng 83% người nghiện văn hóa khiêu dâm là nam giới, nữ giới chỉ chiếm 17%. Người nam và người nữ được kích thích một cách khác nhau. Người nam thường dễ bị kích thích bằng thị giác. Khi nhìn một hình ảnh khiêu dâm, một phản ứng hóa học lập tức diễn ra, chất dopamine được tiết ra, gây ra hiện tượng phấn khích (euphoria) mạnh, và khi phối hợp với việc kích dục và khoái ngất, nó dễ dẫn tới ghiền văn hóa khiêu dâm. Đối với phụ nữ, việc ghiền loại văn hóa này chủ yếu diễn ra dưới hình thức tán gẫu (chat rooms). Phụ nữ nghiêng về tương quan. Họ thường ưa thích vào các “phòng chat” nơi họ có thể tự tạo cho mình một nhân vật giả (false persona). Ở đấy, họ có thể giả dạng bất cứ người nào họ muốn, và dấn thân vào các liên hệ gợi dục với đàn ông trên mạng bằng lời. Như thể họ đang cùng người đàn ông này viết ra câu truyện tiểu thuyết đầy lãng mạn giữa họ. Đó chính là điều làm họ ghiền! Nhất là đối với phụ nữ không hạnh phúc trong đời sống vợ chồng. Cũng có một số phụ nữ ghiền theo nghĩa thị giác. Một số thiếu nữ bị buộc vào con đường tình dục qua mạng chỉ vì bạn trai của họ nài nỉ, coi đó như một điều kiện cho mối liên hệ giữa họ với nhau. Chứ thật tâm họ không muốn thế. Đây là một vấn đề khác. [8] Và dù sao các việc này đều gây hậu quả nghiêm trọng và khó lường.
- Hậu quả của việc nghiện mạng [9]
Ngày nay xã hội phải đối diện với các nạn nhân của nhiều hình thức nghiện mạng. Các hình thức nghiện mạng có thể là cờ bạc, mua sắm, xem phim, trò chơi online, trao đổi cổ phiếu, đọc tin lung tung, nghiên cứu lung tung, và nghiện tình dục mạng (tình dục ảo).
Khi rơi vào nghiện mạng, nạn nhân có thể gặp các hậu quả sau:
– Xa rời tương tác xã hội thật.
– Thúc đẩy và làm tăng thêm cô lập và rút lui xã hội.
– Có thể đưa đến trầm cảm.
– Dễ mất tập trung khỏi những vấn đề quan trọng khác của đời sống thực.
– Thậm chí có người đã “mất mạng sống” khi “lướt mạng” nhiều giờ quên cả ăn ngủ. [10]
- Các hình thức tình dục qua mạng [11]
Tình dục qua mạng có thể dưới nhiều hình thức
– Sưu tập các hình ảnh hay câu chuyện mang tính kích dục
– Trao đổi thư điện tử với nội dung tình dục.
– Xem các loại phim khiêu dâm.
– Đưa lên mạng những hình ảnh gợi dục.
– Nói chuyện trao đổi kích dục bằng “phòng chát”
– Liên lạc với các cư dân mạng, chia sẻ những tưởng tượng cuồng loạn về tình dục, có thể dẫn đến tình dục ảo, điện thoại tình dục hay đưa đến việc gặp mặt thực sự.
Hoạt động tình dục mạng thường diễn ra vô danh, nên người ấy thường an tâm đi vào thực hành mà không e ngại người khác biết. Tuy nhiên trên thực tế, điều này cũng không thể giữ bí mật lâu dài.
Người sử dụng mạng để trao đổi tình dục có thể:
– Tạo lý lịch giả, che giấu hay thay đổi căn tính.
– Tạo hình tượng mới, thay đổi sở thích.
– Tạo nên một thế giới của tưởng tượng cuồng loạn về tình dục.
– Tương tác tình dục ảo bị hạn chế vào hình ảnh truyền tải, thay vì tương tác mặt đối mặt, với tiếp xúc mắt, tiếng nói, ngôn ngữ thân xác.
– Qua tưởng tượng cuồng loạn người ta có thể đưa ra bất cứ cái gì và có thể tạo được một sự thân mật tức thời.
Tình dục qua mạng được bao bọc bởi sự bí mật – kín đáo:
– Người nghiện không nói về điều đó cho ai cả.
– Nó trở thành một cách để đối phó với những đối kháng vô thức và ý thức trong lãnh vực tính dục.
– Có thể khám phá đề tài liên quan đến tình dục mà không phải tỏ lộ danh tánh, gốc gác.
– Cảm thấy được an toàn bởi tại phòng riêng và tính chất vô danh trên mạng.
Tình dục ảo hay mạng có thể trở thành nghiện khi cá nhân sử dụng hành vi tình dục ảo để thay đổi tâm trạng của mình, dù ý thức hay không ý thức. Các đặc tính nghiện tình dục ảo không khác với các loại nghiện khác:
– Có thể cảm thấy “hứng thú”, và cảm thấy trầm cảm khi hết hoạt động
– Có thể cố gắng dứt bỏ nhưng không thể.
– Ảnh hưởng đến công việc, đời sống gia đình, cộng đoàn, xã hội, và cầu nguyện.
– Cảm giác tội lỗi, xấu hổ.
– Trải qua nhiều thời gian trước máy vi tính, mất ngủ…
– Tình trạng trở nên trầm trọng hơn khi không kết nối được mạng.
Thường có sự tiến triển từ nghiện ít, thấp đến các hành động cao hơn: bắt đầu xem phim khiêu dâm miễn phí, rồi đến phim trả tiền, sau đó tìm cách liên lạc, thực hiện điện thoại tình dục, có thể thực hiện hành vi tình dục qua mạng bằng lời trao đổi, hình ảnh, kể cả gặp gỡ thật.
- TRÊN PHƯƠNG DIỆN LUÂN LÝ CÔNG GIÁO
Giáo lý Hội Thánh Công Giáo số 2354 dạy rằng:
Hình ảnh khiêu dâm cốt tại việc đem những hành vi tình dục, có thật hay giả vờ, ra khỏi vòng thân mật của những người trong cuộc, chủ ý phơi bày cho những người khác. Hình ảnh khiêu dâm xúc phạm đến đức khiết tịnh, bởi vì làm biến chất hành vi phu phụ, sự tự hiến thân mật cho nhau của đôi phối ngẫu. chúng xúc phạm cách nghiêm trọng đến phẩm giá của những người tham gia vào đó (diễn viên, kẻ kinh doanh, khán giả), bởi vì người này trở thành đối tượng mua vui thô lỗ và là nguồn lợi nhuận bất chính cho người khác. Hình ảnh khiêu dâm dìm hết người này đến người khác vào sự ảo tưởng của thế giới giả trá. Đó là một trọng tội. Chính quyền phải ngăn cấm việc sản xuất và phổ biến những hình ảnh khiêu dâm này.
Giám mục Robert Emmet Barron nhận định sự thật đáng buồn là, đối với những người trẻ thực hiện tình dục qua mạng internet, sự kích thích tình dục không còn gắn liền với con người bằng xương bằng thịt nữa, nhưng gắn liền với những hình ảnh nhấp nháy của những con người có diện mạo hoàn hảo trong một thực tại ảo. Ngoài ra, bởi vì họ bắt đầu từ khi còn quá trẻ, nên khi lớn lên, họ bị thôi thúc hướng về các phim ảnh khiêu dâm hoang dại và mức độ bạo lực ngày càng lớn hơn, nhằm để đạt được thỏa mãn cảm xúc thèm khát. Và điều này, đến lượt nó làm cho họ mất khả năng tìm thấy sự hứng thú trong tình dục bình thường, tức là nhẹ nhàng, không hoang dại bạo lực. [12]
Các lãnh vực cần quan tâm [13]
– Tình dục ảo đẩy mạnh thái độ “nhìn trộm” (voyeuristic) về tình dục – dần dần đi xa tình dục tương quan lành mạnh.
– Tình dục ảo tiếp thị kinh nghiệm phân mạng về tình dục: các phần của thân thể, y phục, xem người khác chỉ là “đồ vật”, đưa đến lệch lạc “sùng bái đồ vật” (fetishism).
– Tình dục ảo cô lập cá nhân và tính dục của mình. Không có sự trao đổi trực tiếp hay phản hồi khách quan. Đưa đến một sự phát triển nhân cách không lành mạnh.
– Hoạt động tình dục ảo cô lập cá nhân khỏi những giao tiếp xã hội với đồng lứa.
– Có thể đưa đương sự vào những nguy cơ như trơ lì về những gì liên quan đến tính dục một cách đúng đắn, hoặc làm lương tâm và ý thức trở nên mờ nhạt và tăm tối về các vấn đề tính dục hay tương quan với người khác.
– Hoạt động tình dục mạng tạo nên và mở rộng mọi thể loại văn hóa khiêu dâm.
– Hoạt động tình dục mạng ở các môi trường tôn giáo như trong cộng đoàn, giáo xứ, giáo phận có thể đưa đến nguy hại luân lý và thanh danh, vì người ta có thể truy ra nơi sử dụng.
Tác hại của nền văn hóa khiêu dâm [14]
Giáo hội Công Giáo, và tất cả xã hội đứng đắn, đều coi phim khiêu dâm:
– Là “một sự phương hại về đạo đức”.
– Một sự “xuyên tạc sâu sắc tính dục con người”.
– Một sự “chà đạp lương tâm con người ”tới mức, “coi họ không hơn một đồ vật” nhằm thỏa mãn khao khát dục vọng.
Sự xuyên tạc này tạo nên nhiều vấn đề trên phương diện thể lý, tâm lý, luân lý và thiêng liêng. Những hậu quả đi kèm theo vấn nạn này sẽ không được tiếp cận đến đầy đủ, nếu vấn nạn tiềm ẩn chưa được giải quyết thỏa đáng.[15]
III. MỤC VỤ ĐỐI VỚI NGƯỜI NGHIỆN VĂN HÓA KHIÊU DÂM VÀ TÌNH DỤC QUA MẠNG
- Thành phần có nguy cơ cao [16]
– Các vấn đề thông thường dẫn tới việc ghiền văn hóa khiêu dâm là: lòng vị kỷ, một số hình thức cô đơn, bất an về nam tính nên tìm cách khẳng định nam tính qua hành vi tình dục, áp lực nặng nề của công việc, khủng hoảng tương quan vợ chồng, khủng hoảng đời tu.
– Kỹ năng giao tiếp và thân mật kém: xa lánh bạn bè, có vấn đề với bạn bè, khuynh hướng sử dụng internet để tránh lúng túng trong giao tiếp xã hội.
– Có tiền sử về những khó khăn tình dục chưa giải quyết. Tiền sử về chấn thương tâm lý.
– Trầm cảm, hay bất ổn cảm xúc (dysthymia) ở một mức độ nào đó.
– Đời sống thiêng liêng nghèo nàn.
- Phòng ngừa thanh thiếu niên rơi vào bẫy tình dục qua mạng internet
Một phương án cực đoan là một số phụ huynh cấm đoán con cái sử dụng internet. Đây không phải là một giải pháp hay, bởi internet ngày nay là một phương tiện quan trọng cung cấp kiến thức và học hỏi, nghiên cứu, trao đổi, làm việc…
Thay vì cấm đoán, cha mẹ nên trang bị cho con những kiến thức cần thiết để tự bảo vệ mình như: không để lộ thông tin cá nhân, không nói chuyện trên mạng về tình dục, chia sẻ ngay với cha mẹ, người thân nếu ai đó cố tình nói về vấn đề tình dục, không hẹn hò gặp mặt với người mới quen qua mạng mà không có sự chia sẻ thông tin và cho phép của cha mẹ… Cha mẹ nên có quy định rõ ràng về việc sử dụng internet của con. Chẳng hạn thời gian sử dụng internet mỗi ngày, các trang mạng nào được cho phép và trang nào thì không. Để làm được điều này, bố mẹ cũng có thể sử dụng các phần mềm kiểm duyệt, để cài đặt thời gian sử dụng hoặc áp dụng tính năng như chặn linh hoạt, cho phép chặn các trang mạng xấu được phân loại sẵn. [17]
Tuy nhiên để con cái có thể cởi mở thông tin, cần thiết phải xây dựng mối quan hệ gần gũi, tin cậy giữa cha mẹ và con cái ngay từ nhỏ. Các trẻ em phải sống trong cảnh gia đình cha mẹ ly hôn, thiếu sự quan tâm của cha mẹ thường có xu hướng tìm bạn trên mạng để khỏa lấp nỗi buồn, dễ trở thành con mồi của kẻ xấu. [18]
- Phương cách giúp đỡ người nghiện văn hóa khiêu dâm
– Quan tâm đến những người có nguy cơ cao, nhất là trong lúc bị stress, những người tương giao kém, và có các vấn đề tình dục.
– Đặt vấn đề hoạt động tình dục mạng tại các buổi hội thảo, tạo cơ hội để bàn thảo về đề tài này và các đề tài liên hệ đến tính dục.
– Khuyến khích chứng tỏ sự đáng tin cậy trong việc sử dụng thời gian, thời gian giao tiếp xã hội, giảm thiểu cơ hội sử dụng vi tính một mình.
– Đặt vi tính ở những nơi công cộng hay công khai. Chú ý kiểm soát việc loan truyền sản phẩm khiêu dâm qua đường điện thoại di động.
- Tiến trình chữa lành người ghiền văn hóa khiêu dâm [19]
Trước hết cần xác định, ai là người ghiền văn hóa khiêu dâm? Theo Kleponis, người thường tiếp xúc với văn hóa khiêu dâm không nhất thiết là người ghiền các sản phẩm đó. Cần đặt thêm cho họ các câu hỏi này: bạn có bị lôi cuốn vào đó hay không, bạn có hay nghĩ nhiều tới nó hay không? Bạn có trông chờ mau chóng về nhà để được vào mạng, coi các sản phẩm khiêu dâm cho thỏa thích không? Bạn có mong nó sẽ giải quyết các căng thẳng của bạn phát sinh do sự cô đơn, cảm thức bất ổn phái tính hay do áp lực công việc hay không? Bạn có thấy thật khó khăn khi phải đi vắng một thời gian mà không được xem các sản phẩm khiêu dâm hay không? Nếu các câu trả lời là “có”, thì hầu như là bạn đã ghiền văn hóa khiêu dâm rồi!
Tiến trình chữa lành phải bắt đầu bằng việc nhìn nhận mình có vấn đề đối với văn hóa khiêu dâm, rồi cố gắng tìm hiểu mình cũng như các nguyên nhân tạo ra tình trạng ghiền sản phẩm khiêu dâm kia. Để được chữa lành, nạn nhân không thể hành động một mình được. Kleponis đề nghị phương thức sáu điểm như sau: che chở của gia đình; hỗ trợ của những người cùng trang lứa; tư vấn hay tự tìm hiểu nguyên nhân gây ra việc ghiền khiêu dâm; lớn lên trong đức tin và thực hành nhân đức; tình bạn; và giáo dục.[20]
Đối với các thanh niên độc thân, Kleponis nhắc rằng khi bước chân vào con đường ghiền văn hóa khiêu dâm, họ thực sự đã đi vào chủ nghĩa vị kỷ sâu xa, một trở ngại sẽ phá hủy khả năng tương quan lành mạnh với phụ nữ trẻ. Các người này phần lớn thiếu tự tin trong giao tiếp với phụ nữ và do đó, thường lo âu. Các phụ nữ họ thấy trong sản phẩm khiêu dâm không có cảm xúc, nhu cầu hay ý kiến. Vì thế, khi ra khỏi thế giới ảo và gặp gỡ phụ nữ trong thực tế, là những người có cảm xúc, có ý kiến, họ lúng túng không biết cách cư xử đúng mực, nên đành rút lui trong bất an và giận dữ. Kleponis khuyên các bậc cha mẹ nên lưu ý tới cuộc khủng hoảng này và dạy cho con cái sự thật về luân lý tính dục và các nguy hiểm của văn hóa khiêu dâm cũng như các thói quen thủ dâm tai hại.
Cần nhận định các yếu tố dẫn đến ghiền khiêu dâm và giải quyết từng yếu tố. Việc gia tăng sự trợ giúp của những người đồng trang đồng lứa hay tình bạn đều mang hiệu quả tích cực. Chia sẻ với người phối ngẫu hay với một người bạn thân các khó khăn của mình là điều hữu ích. “Người anh được em giúp đỡ là một thành vững chắc và cao ngất” (Cn 18,19).
- Các nhân đức đặc thù
Tập luyện nhân đức góp phần thoát khỏi cạm bẫy này. Người tập luyện lớn lên trong nhân đức, thường ít bị thương tổn bởi nạn khiêu dâm. Các nhân đức giúp ta chống lại sự cô đơn là chia sẻ, nhìn nhận phận người yếu đuối, không quá cậy dựa vào chính mình, là tín thác và tin vào tình yêu Thiên Chúa. Tuy ở vài thời điểm tăng trưởng nhất định nào đó, ta có thể cảm thấy mình không được yêu thương.
Các nhân đức giúp ta thoát khỏi lòng vị kỷ là quảng đại dâng hiến cho người thân, cho tha nhân, cho quê hương, là khai triển tình bạn cởi mở với người phối ngẫu, là hãm mình, lòng biết ơn, tinh thần trách nhiệm, sự điều độ, lòng khiêm nhường. Kính yêu Chúa Giêsu nhiều hơn. Tất cả các nhân đức ấy động viên ta đừng gây thêm hại và đau đớn nữa, bằng cách xa lánh văn hóa khiêu dâm.
Ngoài ra, các nhân đức giúp người thanh niên lớn lên trong niềm tự tin vào nam tính của mình là sự biết ơn đối với các ân ban của Chúa, trong đó có thân xác mình, là tha thứ cho những ai đã gây hại đến niềm tự tin của chính mình, là tình bạn lành mạnh. Lớn lên trong niềm tin sẽ giúp người trẻ biết trông cậy vào sự hiện diện của tình yêu Thiên Chúa và của Đức Maria.
Các nhân đức giúp giảm bớt sự giận dữ thái quá phát sinh do cô đơn và buồn bực, là lòng tha thứ, biết cảm thương, lòng tốt, biết tôn trọng người khác và khiêm tốn. Các nhân đức giúp chống lo âu xao xuyến là tín thác, dứt bỏ, không quyến luyến lệch lạc, khôn ngoan đủ để thấy được sự tốt lành nơi người phối ngẫu, người thân và tin vào tình yêu chữa lành của Thiên Chúa cũng như khả năng của Thiên Chúa có thể cất các gánh nặng cũng như lo âu của đời sống hằng ngày. Lớn lên trong nhân đức, người trẻ sẽ cảm nhận được một hạnh phúc và thỏa mãn hơn trong việc tự hiến bước theo ơn gọi làm người của mình.
Để chống lại sự cô đơn ngăn cách giữa vợ chồng, vợ chồng cần bảo vệ tình yêu lãng mạn của họ, xây dựng tình bạn phu thê, tình yêu lúc mới đính hôn trong đó có biết bao là thân mật gần gũi. Họ phải dành càng nhiều thì giờ cho nhau càng tốt, vào những buổi tối cùng nhau và phải chuyện trò, chia sẻ với nhau. Chia sẻ là điều cốt yếu trong bất cứ tình bạn phu thê nào.
Đối với trẻ em, cần làm cha mẹ có trách nhiệm, không buông thả mà cũng đừng kiểm soát quá đáng. Buông thả là thái độ thường thấy trong nền văn hóa ngày nay, từng góp phần tạo ra nạn khiêu dâm. Cha mẹ thuộc loại này thường không chịu sửa phạt tính vị kỷ nơi con cái, mà đôi khi còn làm gương xấu cho chúng nữa. Họ thường yếu về đức tin và không hướng dẫn con cái một cách hữu hiệu về phương diện thiêng liêng để chúng tránh không bị ám ảnh bởi thân xác và tình dục quá phổ biến trong nền văn hóa hiện nay. Họ cũng thường thất bại, không cảnh giác con cái về các nguy hiểm của nạn khiêu dâm, thói quen thủ dâm và nền văn hóa trụy lạc.
Việc làm cha mẹ có trách nhiệm khiến họ cam kết đào luyện con cái mình trong nhân đức, cảnh giác chúng về các nguy hiểm của việc dùng người khác như đối tượng thỏa mãn tình dục, yêu thương sửa dạy con cái và dạy chúng vẻ đẹp tính dục con người trong kế hoạch của Thiên Chúa dành cho bí tích hôn phối. Cha mẹ cho các con thấy và dạy chúng biết rằng tình yêu có tính bí tích của vợ chồng làm cho tình yêu và vẻ đẹp của Chúa Ba Ngôi hiện diện trong thế giới.
Phần quan trọng khác của tiến trình chữa lành là giáo dục. Ảnh hưởng của não trạng ngừa thai trong 50 năm qua liên quan tới tình yêu vợ chồng và tính dục. Não trạng này khiến nhiều người nam coi người nữ như đối tượng để thỏa mãn tình dục. Nó góp phần rất nhiều vào nạn dịch khiêu dâm. Đức Cha Paul Loverde của Giáo Phận Arlington, Virginia, trong một lá thư mục vụ viết về nạn khiêu dâm, đã nhắc nhở giáo dân: “Con người tiệm tiến bồi đắp hay hủy diệt nhân cách mình bằng từng và mỗi một quyết định luân lý. Khi cái nhìn của con người hướng vào chỗ lầm lạc, họ trở nên loại người sẵn sàng sử dụng người khác làm đối tượng để thỏa mãn khoái cảm”.
Đức tin có vai trò rất quan trọng. Nhiều người đang khốn khổ vì cơn ghiền văn hóa khiêu dâm, tình dục qua mạng này cảm thấy được nâng đỡ và đầy ơn sủng khi biết nhìn nhận sự bất lực của mình và phó thác cho Chúa. Bí tích hòa giải, Bí tích Thánh thể, việc linh hướng, đọc Thánh Kinh, cầu nguyện, đặt kế hoạch thiêng liêng cho đời sống sẽ giúp ta dễ dàng trong giải quyết các khó khăn đã dẫn ta vào con đường đam mê các sản phẩm khiêu dâm.
- Vấn đề sử dụng mạng internet trong các cộng đoàn tu và đại chủng viện
Sau đây là vài suy tư của một số nhà đào luyện:
– Việc sử dụng vi tính, sử dụng mạng ngày nay rõ ràng là một nhu cầu, đặc biệt cho các dòng tu tông đồ và đại chủng viện.
– Nhưng mức độ của nhu cầu ấy cần phải được lượng định cách trung thực.
– Thời gian sử dụng mạng và việc sử dụng vi tính trong phòng riêng là vấn đề cần được thảo luận.
– Hiện nay, các cộng đoàn huấn luyện ở các dòng tu và đại chủng viện đều hạn chế và kiểm soát việc sử dụng internet của ứng sinh, với các mức độ khác nhau. Vấn đề đặt ra là sau khi vĩnh khấn hoặc chịu chức phó tế, linh mục, hay thời gian về thăm gia đình dịp hè hay tết, họ lại được tự do khá nhiều trong việc sử dụng mạng. Người huấn luyện cũng không thể có mặt khắp nơi để “canh chừng” ứng sinh. Lo rằng khi ấy họ lại “quá đà” sử dụng cho “đã thèm” thì lại phản tác dụng. Có lẽ quan trọng và hữu hiệu hơn hết là huấn luyện cho người ứng sinh được trưởng thành, biết sử dụng tự do cách đúng đắn, biết phân định lợi ích và tác hại của việc sử dụng mạng. Người thụ huấn sẽ là người quyết định ơn gọi của chính mình triển nở và thăng tiến hay không. Người huấn luyện chỉ đóng vai trò hỗ trợ, hướng dẫn, không thể “tu thế” cho người thụ huấn. [21]
KẾT
Trong Buổi Triều Yết Chung tại Quảng Trường Thánh Phêrô, suy tư đoạn Tin Mừng trong ngày về câu hỏi của một thanh niên trẻ hỏi Chúa Giêsu: “Con phải làm gì để được sự sống đời đời?” Đức Giáo Hoàng Phanxicô nói người Kitô hữu phải theo đuổi con đường của đời sống thật, tình yêu thật, sự giàu có thật của Nước Trời! [22]
Trích Tập san Hiệp Thông / HĐGM VN Số 108 (tháng 9 & 10, năm 2018)
__________
[1] Đan Sĩ (Theo Vatican Radio), “Đức Giáo Hoàng Tập Trung Vào Vấn Đề ‘Tin Giả’ Trong Thông Điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông 2018”, 30/09/2017, Tại <http://masimpress.com>
[2] “Đức Giáo Hoàng Tập Trung Vào Vấn Đề ‘Tin Giả’ Trong Thông Điệp Ngày Thế Giới Truyền Thông 2018”.
[3] X. Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”, tại <http://vietcatholic.org>
[4] X. Gm Robert Emmet Barron, “ Porn and the curse of total sexual freedom”, <http://www.wordonfire.org>
[5] X. PV/VOV.VN “Giới trẻ có nguy cơ bị lạm dụng tình dục trên mạng”, 07/06/2016 <http://vov.vn>
[6] X. PV/VOV.VN “Giới trẻ có nguy cơ bị lạm dụng tình dục trên mạng”.
[7] Theo Bizlive, “Sử dụng Internet phải như ‘quan hệ tình dục an toàn’!” 2/7/2015, <https://viettimes.vn>
[8] Trích trong Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”.
[9] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[10] Đ. Hà, K, Giang, “Một thanh niên chết do chơi game kiệt sức?”,01/07/2017 <https://tuoitre.vn>
[11] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[12] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[3] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[4] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[5] X. Gm Robert Emmet Barron, “Porn and the curse of total sexual freedom”.
[6] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[7] “Xâm hại tình dục qua mạng: ‘Vaccine’ phòng ngừa nào cho trẻ?”, 02/08/17 <https://baomoi.com>
[8] Kim Thoa, “Báo động tình trạng trẻ bị xâm hại tình dục qua mạng”,19/01/2015 <https://tuoitre.vn>
[9] Trích trong Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và Văn Hóa khiêu dâm”.
[20] Vũ Văn An, “Tâm lý trị liệu và văn hóa khiêu dâm”.
[2] Trích trong Nguyễn Đình Vịnh, “Cảm tính và dục tính: Những vấn đề liên quan đến tính dục đối với các Tu sĩ/ Linh mục”.
[22] Đan Sĩ, (Theo Vatican News) “Đức Giáo Hoàng Trong Buổi Tiếp Kiến Chung: Người Kitô hữu Phải Đi Theo Con Đường Thật, Tình Yêu Thật, Sự Giàu Có Thật”, 14/06/2018, <http://masimpress.com> Trần Như Ý Lan, Dòng Đức Bà
2020
Các Hội đoàn Công giáo Tiến hành tham gia vào sứ mạng Phúc âm hóa tại Việt Nam
Tất cả chúng ta đều rõ Phúc Âm Hóa là sứ mạng được Chúa Giêsu trao phó cho toàn thể Giáo Hội (GH), cho mọi Kitô hữu. Sứ mạng này mãi mãi là quan trọng, cấp bách và không được phép sao lãng, và bản chất của Giáo Hội là ở đây. Ngày nào Giáo Hội không ưu tư và không ưu tiên cho việc Loan Báo Tin Mừng (LBTM) thì Giáo Hội không còn là Giáo Hội của Chúa Giêsu nữa!
Trong thời gian qua, Ủy Ban Loan Báo Tin Mừng trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam (UBLBTM/HĐGMVN) đã lần lượt tổ chức các cuộc hội thảo với các linh mục trưởng ban LBTM các giáo phận (2014), Đại hội LBTM toàn quốc lần thứ III (2015), hội thảo với các hội dòng đời sống thánh hiến (2016), và năm nay hội thảo với các hội đoàn Công Giáo Tiến Hành (CGTH).
Mục đích cuộc hội thảo này nhằm trao đổi, học hỏi lẫn nhau, tìm cách đẩy mạnh công cuộc LBTM với các hội đoàn CGTH. Chúng tôi không có tham vọng tổ chức quy mô, mà chỉ hạn hẹp với một số hội đoàn trong hai giáo phận mạnh về hội đoàn CGTH là Sài Gòn và Xuân Lộc. Thiết nghĩ với số tham dự viên hơn 200 vị như thế này cũng đủ để có thể vạch ra hướng hoạt động trong tương lai. Đối với những hội đoàn không được mời dự cuộc hội thảo này, chúng tôi xin thông cảm cho chúng tôi và xin cho biết những hoạt động LBTM và góp ý để bổ túc cho UBLBTM những việc có thể và nên làm.
Trong bài thuyết trình này, tôi xin trình bày với Hội nghị một vài vấn đề liên quan đến đề tài của cuộc hội thảo.
- Thuật ngữ
Khi đề cập đến sứ mạng cao cả và cấp bách này, người ta thường nghĩ đến việc loan báo Tin Mừng cho những miền xa xăm (ngoại vi) chưa hề biết Chúa, đến việc rửa tội cho người ngoại để họ gia nhập vào Hội Thánh. Vì thế mà trước đây có những thuật ngữ như “Truyền giáo”, “Truyền bá Đức Tin”, “Loan báo Tin Mừng”. Những thuật ngữ này không lột tả đúng hoặc hết ý nghĩa, lại có thể làm nhiều người dị ứng. Với thánh Giáo hoàng Gioan-Phaolô II, ta biết đến hai thuật ngữ khác là “Tái Phúc Âm Hóa” (Re-Evangelization) và Tân Phúc Âm Hóa (New Evangelization). Gần đây cha Antôn Nguyễn Mạnh Đồng, Antôn Nguyễn Ngọc Sơn đã có những bài viết phân tích ý nghĩa của các thuật từ chỉ về sứ mạng này, và đề nghị với Ủy ban nên sử dụng thuật ngữ “Phúc Âm Hoá” thay cho các thuật ngữ “truyền giáo”, “loan báo Tin Mừng”, (cũng thế, nên dùng từ “Ủy ban Phúc Âm Hoá” thay vì “Ủy ban Loan báo Tin Mừng”. Phúc Âm Hóa là để Phúc Âm Chúa Giêsu thấm nhập suy nghĩ, chi phối hành động và cuộc sống của toàn thể Giáo Hội cũng như mỗi Kitô hữu, sau đó Phúc Âm Chúa lại ảnh hưởng tốt đẹp đến xã hội và thế giới. Từ Phúc Âm Hóa gợi lên ý tưởng muối ướp mặn đời, men làm dậy thúng bột, ánh sáng chiếu tỏa ra chung quanh…
- Phúc Âm Hóa là quyền và trách nhiệm của mọi Kitô hữu
Có nhiều tài liệu của Huấn Quyền về vấn đề này, ở đây tôi chỉ xin trích hai khoản của Bộ Giáo Luật 1983 nói về quyền và trách nhiệm LBTM của mọi tín hữu.
Đ. 211: “Tất cả các tín hữu có nghĩa vụ và quyền lợi phải làm sao cho sứ điệp cứu độ của Thiên Chúa càng ngày càng được truyền tới hết mọi người, thuộc mọi thời và mọi nơi”.
Đ. 225 §1. Xét vì các giáo dân, cũng như mọi tín hữu khác, được Thiên Chúa ủy thác làm việc tông đồ do phép Rửa Tội và phép Thêm Sức, nên họ có nghĩa vụ tổng quát và có quyền lợi xét như từng cá nhân hoặc kết hợp thành hiệp hội, phải làm sao để sứ điệp cứu rỗi của Thiên Chúa được mọi người khắp thế giới biết đến và đón nhận. Nghĩa vụ này lại càng thôi thúc hơn trong những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc Âm và biết Đức Kitô.
- 2. Tùy theo điều kiện riêng của từng người, các giáo dân cũng có bổn phận riêng phải thấm nhập và kiện toàn trật tự trần thế với tinh thần Phúc Âm; và như vậy họ làm chứng cho Đức Kitô đặc biệt khi điều hành các sự việc thế trần cũng như lúc thi hành các chức vụ trên đời”. Chúng ta sẽ trở lại các khoản giáo luật này trong phần tiếp theo dưới đây.
Phúc Âm Hóa là bổn phận chung của mọi tín hữu, dựa trên việc họ lãnh nhận bí tích Rửa Tội và Thêm Sức. Bổn phận này không chỉ dành riêng cho những nhà thừa sai, hay linh mục, tu sĩ, mặc dù đây là nhóm người có tầm quan trọng đặc biệt trong công cuộc Phúc Âm Hóa (AG, 23-27). Không một Kitô hữu nào được miễn trừ sứ mạng này, mà mỗi người phải tham gia tùy theo bậc sống, hoàn cảnh, khả năng, điều kiện. Thánh Phaolô tông đồ dân ngoại đã nói: “Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (I Cr 9, 16). Chúng ta đừng dừng lại ở khía cạnh nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm đối với sứ mạng này, nhưng suy nghĩ tích cực về vinh dự, tự hào và niềm vui được Chúa giao phó sứ mạng này, cộng tác trong vườn nho hay cánh đồng của Ngài.
Sứ mạng Phúc Âm Hóa nhằm ba đối tượng:
- Những người chưa biết Chúa Giêsu và Tin Mừng của Ngài = người ngoại đạo (Missio ad Gentes);
- Những người đang giữ đạo tốt = tín hữu đạo đức (Missio inter Gentes). Họ cần được Phúc Âm Hóa qua việc chăm sóc mục vụ các mặt, hầu đức tin của họ sâu xa và sống động hơn.
- Những người hoặc mất đức tin, hoặc dửng dưng với đức tin, không còn gắn bó với Giáo Hội = người nguội lạnh, lơ là. Những người này cần được Tân Phúc Âm Hóa hay Tái Phúc Âm Hóa (cf. RM, 33; EG, 14).
- Phúc Âm Hóa không chỉ dành cho người ngoại, nhưng cho cả các Kitô hữu đang giữ đạo và Kitô hữu dửng dưng với đạo; không chỉ giới hạn trong việc rao giảng Tin Mừng đầu tiên (kérygma), nhưng bao gồm cả giảng thuyết, giáo lý và thần học; không chỉ nhằm rửa tội để gia nhập đạo, nhưng còn giúp cho mọi người gặp gỡ Chúa; không chỉ là đem người ngoại đạo vào Giáo Hội, nhưng còn là đem người trong Giáo Hội ra với thế giới; không chỉ là quảng bá mà còn là thăng tiến, là làm cho các giá trị Tin Mừng thấm nhập vào đời sống Kitô hữu, các hoạt động của Giáo Hội và xã hội. Trong ý hướng ấy, người ta nói đến Phúc Âm Hóa phụng vụ (evangelizing liturgy), giảng lễ (evangelizing homily), giáo lý (evangelizing catechism), nhân sự vàcơ cấu tổ chức của cộng đoàn đức tin (evangelizing community)…
III. Các hội đoàn và phong trào CGTH tại Việt Nam hiện nay
Công giáo tiến hành được hiểu là việc tông đồ giáo dân dưới sự lãnh đạo của hàng giáo phẩm, gồm các hội đoàn và các tổ chức (nhóm hay giới) hoạt động để thăng tiến xã hội và làm vinh danh Chúa. Trước năm 1975, các hội đoàn CGTH được tự do sinh hoạt tại miền Nam Việt Nam, trong khi tại miền Bắc không thể sinh hoạt gì. Sau năm 1975, các hội đoàn tại miền Nam cũng rơi vào tình trạng bế tắc như miền Bắc. Gần đây, các hội đoàn CGTH dần dần hồi sinh và hoạt động trở lại ở cả hai miền.
Các hội đoàn CGTH chia làm hai loại:
- Chuyên biệt, dành cho một giới tính, hạn tuổi, ngành nghề, môi trường hoạt động nào đó, như Sinh viên Công giáo, Thanh Sinh Công, Thanh Lao Công, Thanh niên Thánh nghiệp, Hiệp hội Giáo chức Công giáo, Pax Romana.
- Không chuyên biệt, chung cho mọi thành phần giáo dân, như Liên Minh Thánh Tâm, Bác Ái Vinh Sơn, Cursillo, Legio Mariae, Gia Đình Phạt Tạ, Huynh đoàn Đaminh, Huynh đoàn Phan Sinh Tại Thế.
Theo Niên giám 2016, tại Việt Nam hiện có 24 hội đoàn CGTH hoạt động:
- Hội đồng Mục vụ Giáo xứ
- Thiếu Nhi Thánh Thể
- Hùng Tâm Dũng Chí
- Thanh Sinh Công
- Hướng Đạo Công Giáo
- Giới Trẻ Con Đức Mẹ
- Hiệp Hội Thánh Mẫu (Hiệp Sống)
- Legio Mariae (Đạo Binh Đức Mẹ)
- Các Bà Mẹ Công giáo
- Gia đình Phạt tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu
- Huynh Đoàn Đaminh (Dòng Ba Đaminh)
- Phan Sinh Tại Thế (Dòng Ba Phan Sinh)
- Dòng Ba Cát Minh
- Hiệp hội Giáo Dân Bác Ái
- Caritas Việt Nam
- Khôi Bình Việt Nam
- Gia Đình Cùng Theo Chúa
- Gia Đình Chúa
- Hiệp hội Bác ái Quốc tế tại Việt Nam (AIC)
- Hiệp hội Mến Thánh giá Tại Thế
- Ca đoàn Công giáo
- Phong trào Cursillo
- Cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót
- Giáo lý viên
Ngoài hội đoàn, phong trào CGTH còn có các tổ chức theo giới, nhóm, bậc sống, sở thích hoặc nghề nghiệp:
- Chương trình Thăng tiến Hôn nhân
- Gia đình Phúc Âm
- Lòng Chúa Thương Xót
- Gia đình Tận Hiến
- Hội Mân Côi
- Gia đình Emmanuel
- Giới Trẻ
- Giới Gia Trưởng
- Giới Hiền Mẫu
- Giới Cao Niên
- Giới Doanh nhân Công giáo
- Giới Y tế Công giáo
- Giới Giáo chức
- Giới Văn nghệ sĩ Công giáo
- Nhóm Tác viên Tin Mừng (Xuân Lộc)
Danh sách trên đây còn thiếu sót, hoặc vì có hội đoàn mới được thành lập, và chỉ mới hoạt động trong phạm vi một vài giáo phận. Xin Hội nghị bổ túc cho chúng tôi.
Tất cả các hội đoàn CGTH, dù chuyên biệt hay không, đều phải quy về mục đích Phúc Âm Hóa, góp phần vào việc đem Tin Mừng Đức Kitô đến với mọi người, phát triển đời sống vật chất và tinh thần của người dân trong xã hội.
- Nhận định về các hội đoàn CGTH tại Việt Nam
- Tích cực:
Các hội đoàn CGTH tại Việt Nam được mọi người đón nhận, đáp ứng nhu cầu đạo đức của giáo dân Việt Nam, được tổ chức có hệ thống từ cấp giáo họ, giáo xứ đến giáo phận. Niên giám 2016 cho biết số hội viên các hội đoàn CGTH trong cả nước lên đến trên 500.000 người. Nhiều người tham gia hai ba hội đoàn một lúc.
Sinh hoạt của các hội đoàn đều đặn, từ việc hội họp đến việc đạo đức, công bằng xã hội, bác ái từ thiện, giáo dục, văn hoá… Có những hội đoàn sinh hoạt chặt chẽ với mức độ hằng tuần.
Các hội đoàn CGTH có vai trò đáng kể là bảo tồn và chấn hưng tinh thần đạo đức. Niên Giám năm 2016 ghi nhận như sau: . trong khi mức sống vật chất tăng cao, thì đạo đức tinh thần của một bộ phận người dân Việt Nam đang có nguy cơ bị sút giảm do sự cuốn hút của cuộc sống dễ dãi, hưởng thụ qua các phim ảnh xấu, sách báo đồi trụy, do tiến trình toàn cầu hóa về kinh tế và về cả văn hóa… Tình trạng sa sút này biểu lộ qua các tệ nạn xã hội như nghiện ngập, trộm cắp, mãi dâm, tội phạm hình sự, các án ly hôn, số người phá thai mỗi năm một tăng cao. Sự góp mặt của các phong trào CGTH thuần tuý đạo đức quả thật là một nhu cầu cần thiết để giúp cho xã hội Việt Nam ổn định và phát huy những nội lực quý giá của từng con người”.
Một số hội đoàn tích cực với hoạt động Phúc Âm Hoá, đem được nhiều người đến với Chúa. Nhờ nhiệt huyết tông đồ, các hội đoàn này gặp gỡ, đối thoại và dẫn dắt nhiều người đến với Chúa và Giáo Hội, kể cả những người nguội lạnh, dửng dưng với đức tin nay trở lại sống đạo.
- Tiêu cực:
Xem ra các hội viên CGTH tại Việt Nam dừng lại ở những việc đạo đức như kinh nguyện, dự lễ…, nhằm thánh hóa bản thân, giữ đạo sốt sắng, để sau khi chết được hưởng tôn nhan Chúa, mà quên rằng phải tham gia vào sứ mạng Phúc Âm Hoá.
Các hội đoàn CGTH còn nặng hình thức bên ngoài như đoàn ngũ hóa cho đông đảo, đồng phục lộng lẫy (màu cờ sắc áo), rước xách long trọng, tiệc tùng linh đình, hoành tráng… Có khi cạnh tranh ảnh hưởng, công kích, bình phẩm làm mất đức bác ái trong giáo xứ.
– Việc huấn luyện, đào tạo các hội viên CGTH về ý thức sứ mạng Phúc Âm Hóa còn sơ sài, nếu không muốn nói là không có. Có người gia nhập hội mà chẳng hiểu rõ linh đạo, đường hướng hoạt động của hội…, cho nên kết quả của việc Phúc Âm Hóa rất ít, không đáng kể! Niên giám 2016 cho biết như sau: “Với số lượng đoàn viên lên đến hơn 500.000 người, đáng lý các tổ chức này phải là những nguyên tố tích cực trong công cuộc Phúc Âm Hóa ở Việt Nam. Tuy nhiên trong cả trăm năm qua, tỷ lệ người Công giáo Việt Nam không phát triển được 1% dân số, điều này chứng tỏ các đoàn viên CGTH chưa tích cực đóng góp cho công cuộc truyền giáo. Phần trách nhiệm này thuộc về những vị lãnh đạo của các tổ chức và hội đoàn, nhưng trên hết vẫn là của Hội đồng Giám mục và các Ủy ban trực thuộc, trước khi nói đến trách nhiệm của từng tín hữu giáo dân hoặc những khó khăn do hoàn cảnh đất nước gây nên”. Trong cuộc hội thảo này, chúng ta sẽ được nghe Đức Cha Giuse Đinh Đức Đạo thuyết trình về việc đào tạo tinh thần Phúc Âm Hóa cho các hội đoàn CGTH tại các Giáo Hội ở Á Châu. Chúng ta cảm phục các Giáo Hội Hàn Quốc, Ấn Độ, Đài Loan, Nhật Bản. đã nỗ lực nhiều trong việc huấn luyện tông đồ cho giáo dân. Giáo hội tại Việt Nam phải chuyển mình trong việc huấn luyện giáo dân mới mong có kết quả trong sứ vụ Phúc Âm Hoá. (bảo thợ đi gặt lúa mà lại không cho họ cái liềm hoặc cho họ cái liềm cùn thì làm sao gặt được!).
– Từ chỗ ý thức không đủ, chẳng trách các hội đoàn CGTH dễ lấy những việc phụ làm chính yếu. Điểm lại những hoạt động của các hội đoàn CGTH giáo phận, giáo hạt., ta thấy ít có kế hoạch, đường hướng rõ ràng hướng đến việc Phúc Âm Hoá. Một nhận định: “Bước sang giai đoạn Tân Phúc Âm Hóa kể từ năm 2015 này, chúng ta hy vọng các người có trách nhiệm của CGTH biết liên kết và cộng tác với nhau cách chặt chẽ hơn, biết đưa vào trong chương trình huấn luyện đoàn viên các bài học sống động thực tế để thăng tiến con người và cộng đồng hơn là các sinh hoạt mang tính vui chơi, trình diễn hoặc thuần túy chỉ là những bài kinh ở nhà thờ, biết tổ chức những hoạt động cụ thể để đem Phúc Âm đến cho những người nghèo khổ, khuyết tật, mồ côi, bệnh hoạn hay bị gạt ra ngoài lề xã hội như ĐGH Phanxicô mời gọi trong tông huấn “Niềm vui Phúc Âm”.
– Trong khi thế giới và xã hội ngày nay chú trọng đến việc liên kết, hoạt động tập thể (liên doanh, tập đoàn) thì tại Việt Nam, các hội đoàn CGTH vẫn hoạt động riêng lẻ, cá thể, mạnh ai nấy làm, không kết hợp với nhau. Mỗi hội đoàn CGTH có cơ cấu tổ chức riêng, hoạt động riêng, không ngồi bàn bạc, trao đổi, khó hoặc không có những hoạt động chung. Chúng ta xem một nhận xét: “Mỗi tổ chức và hội đoàn Công giáo thực thụ không bao giờ mang hình thức tranh chấp với các đoàn thể khác trong lòng Giáo Hội hoặc với các tổ chức xã hội khác. Trái lại, các tham dự viên hay hội viên, đoàn viên, với tư cách là Kitô hữu, nhờ ân sủng của Chúa và sự cố gắng của bản thân, sẽ sống hết mình để trở thành men, thành muối, góp phần vào sự phát triển của xã hội và thế giới”.
– Các hội đoàn CGTH hoạt động mạnh hay yếu, kết quả nhiều hay ít, phần lớn tùy thuộc vào các vị lãnh đạo trong Giáo Hội, cụ thể là giám mục hay linh mục. Nếu linh mục quản xứ nhiệt tình chăm sóc, khích lệ, nâng đỡ, đồng hành với các hội đoàn, thì họ sẽ đem về nhiều kết quả tốt; ngược lại nếu linh mục quản xứ hờ hững, bỏ mặc, thậm chí ác cảm, không tạo điều kiện cho họ hoạt động thì sẽ không có nhiều kết quả tốt trong sứ vụ tông đồ.
- Một số đề nghị hướng về tương lai cho các hội đoàn CGTH trong tương quan với sứ mạng Phúc Âm Hóa tại Việt Nam
Công đồng Vatican II đã mở ra một chân trời mới cho sứ mạng Phúc Âm Hoá, đó là đề cao vai trò giáo dân tham gia vào sứ mạng này. Trong những thế kỷ qua, Giáo Hội đã để mất nguồn nhân lực rất lớn là giáo dân khi coi nhẹ vai trò của họ trong sứ mạng Phúc Âm Hoá. Nay, Giáo Hội tại Việt Nam đã ý thức về việc cộng tác của giáo dân, trong đó có các hội đoàn CGTH, về hình ảnh một Giáo Hội tham gia. Khoản giáo luật 225 §1 trích dẫn ở đầu bài này nhìn nhận rằng có “những hoàn cảnh mà chỉ có thể nhờ các giáo dân, người ta mới có thể nghe Phúc Âm và biết Đức Kitô”. Tông huấn Niềm vui của Tin Mừng nói đến thuật ngữ kép “Môn Đệ – Phúc Âm Hoá” (disciple-missionnaire). Giáo Hội, qua hàng giáo phẩm và giáo sĩ, cần khuyến khích giáo dân tham gia tích cực vào sứ mạng này, đồng thời tạo điều kiện để họ hoạt động.
Tông huấn Niềm Vui của Tin Mừng cho biết để sứ mạng Phúc Âm Hóa có kết quả, cần phải có những phẩm chất quan trọng sau đây:
Say mê Chúa Giêsu và say mê con người. Đó cũng là chủ đề sứ điệp ngày Phúc Âm Hóa thế giới năm 2015. Lòng say mê này đòi hỏi bản thân người Phúc Âm Hóa kết mối thâm tình với Chúa Giêsu. Khi say mê Chúa rồi, họ sẽ cảm thấy bị thôi thúc giới thiệu Chúa cho người khác. Bao lâu không có lòng say mê Chúa thì đừng mong nói về Chúa cho người khác. Phải chăng anh em Tin Lành đã có được niềm say mê này, nên công cuộc Phúc Âm Hóa của họ có kết quả rất lớn (tại tỉnh Điện Biên, trong cùng hoàn cảnh khó khăn mà nay có 100.000 tín đồ Tin Lành, còn Công giáo chỉ có khoảng 2.000- 3.000! Tại Lai Châu, trong khi Công giáo có 15 cộng đoàn (giáo họ) thì Tin Lành có đến 200 điểm nhóm).
Công cuộc Tân Phúc Âm Hóa đòi hỏi nhiệt huyết mới, phương pháp mới và cách diễn tả mới cho hợp thời đại. Mỗi hội đoàn CGTH cần phải hoạt động theo ba lăng kính trên:
Nhiệt huyết mới thật cần, bởi ngày nay, do ảnh hưởng trào lưu duy vật thực hành, lối sống hưởng thụ vật chất, tính toàn cầu hoá, chủ nghĩa tương đối, nhiều người trở thành “tín hữu vô thần” theo kiểu nói của ĐGH Phanxicô, đòi hỏi người tín hữu Phúc Âm Hóa có nhiệt huyết cách mạnh mẽ, đam mê, xác tín mới có thể thuyết phục, lôi cuốn người khác đến chỗ tin vào Chúa. Có những tín hữu cả đời không dám mở miệng giới thiệu Chúa cho người khác!
Phương pháp mới và thích hợp với thời đại hôm nay. Với sự tiến bộ chóng mặt của công nghệ thông tin, mạng lưới internet phủ khắp toàn cầu, ở đâu và lúc nào, người ta, nhất là giới trẻ, đều có thể lướt net để cập nhật thông tin, nối kết với người khác bằng các trang web, twitter, facebook, instagram, email… chúng ta cần vận dụng các tiến bộ khoa học này để PHÚC ÂM HOÁ. Một phương pháp mới thích hợp là “cộng đoàn cơ bản”, chúng ta sẽ được nghe cha Công thuộc giáo phận Xuân Lộc trình bày. Rất khuyến khích các hội đoàn CGTH vận dụng những tiến bộ của công nghệ thông tin vào hoạt động Phúc Âm Hóa như là phương pháp mới hợp thời đại.
Cách trình bày mới: Thời đại hôm nay cần cách trình bày mới, hấp dẫn hơn, để PHÚC ÂM HOÁ, ví dụ “Kể chuyện Chúa Giêsu tại Á Châu” được đề ra tại Hội nghị Phúc Âm Hóa Á Châu, tổ chức tại Chiang Mai (Thái Lan) năm 2006. Chúng ta cũng sẽ được học hỏi cách mà nhóm “Tác viên Ba-lô” của giáo phận Xuân Lộc, tổ chức Yao Phu của giáo phận Kontum (dùng anh em dân tộc rao giảng Phúc Âm cho người dân tộc) đã dùng để loan báo Tin Mừng; hay những cách thức giới thiệu Phúc Âm của cha Trương Thành Công tại giáo phận Cần Thơ.
Sứ mạng Phúc Âm Hóa là sứ mạng chung của mọi người, vậy phải liên kết với nhau trong hành động, không làm cách tùy tiện, theo sở thích xu hướng riêng. Tài liệu chuẩn bị Thượng Hội đồng (lineamenta) 2012 về Tân Phúc Âm Hóa cho chúng ta biết “Việc loan truyền đức tin không khi nào là một công việc cá nhân và biệt lập, nhưng là một biến cố cộng đồng và mang chiều kích Giáo Hội. Phúc Âm Hóa luôn là hành động của Giáo Hội để cùng một lúc ca tụng Thiên Chúa và đem đến cho con người niềm vui do “một cảm nghiệm về sự thông hiệp và tình anh chị em”, là cảm nghiệm duy nhất mạnh mẽ hơn mọi sức mạnh của việc cô lập trong thế giới”. Vậy, các hội đoàn CGTH hãy liên kết với nhau trong giáo xứ để cùng hoạt động.
– Vai trò quan trọng của các linh mục trưởng ban LBTM giáo phận trong việc điều phối hoạt động Phúc Âm Hóa của các hội đoàn CGTH trong giáo phận, cũng như tổ chức các khóa đào tạo về sứ mạng Phúc Âm Hóa cho các hội viên hội đoàn CGTH.
– Để Phúc Âm Hoá, nguyên lời nói không đủ mà phải sống điều mình nói, tức là chứng tá sống động của người Phúc Âm Hoá. Nếu không sống điều chúng ta rao giảng thì sẽ vô ích, không lôi cuốn được ai cả. Trong lễ phong chức linh mục, Đức giám mục nhắn nhủ các tiến chức: “Con hãy tin điều con đọc, dạy điều con tin, và thi hành điều con dạy”. Cũng như thế đối với người tín hữu hội đoàn CGTH khi muốn Phúc Âm Hóa người khác.
– Cần hướng dẫn cho các hội viên kỹ năng Phúc Âm Hóa, bao gồm tâm lý, kỹ thuật, cách ứng xử (đi thăm lương dân mà nói những lời xúc phạm, khinh thị niềm tin tín ngưỡng của họ). Thánh Phêrô dạy: “Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, thì chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống, bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, còn hơn là vì làm điều ác” (1 Pr 3, 15- 18).
- Kết luận
Dụ ngôn thợ làm vườn nho vào giờ thứ mười một có những lời đối đáp giữa ông chủ và thợ như sau: “Sao các anh đứng đây suốt ngày không làm gì hết? Họ đáp: “Vì không ai mướn chúng tôi”. Ông bảo họ: “Cả các anh nữa, hãy đi làm vườn nho cho tôi” (Mt 20, 6-7). Đúng vậy, Chúa mời mọi người vào làm vườn nho cho Ngài, không phân biệt ai, không loại trừ người nào. Mỗi người và mọi Kitô hữu hãy mạnh dạn bước vào cánh đồng của Chúa. ĐTC Phanxicô kêu gọi: “Những ai nhờ ân sủng của Thiên Chúa mà chấp nhận sứ mạng Phúc Âm Hóa, thì được kêu gọi sống sứ mạng này. Đối với họ, việc rao giảng Đức Kitô trong nhiều vùng ngoại vi của thế giới trở thành con đường của họ để theo Ngài, một con đường đem lại cho họ sự tưởng thưởng lớn lao vì những khó khăn và hy sinh họ trải qua”.
Ước mong cuộc hội thảo này sẽ giúp mỗi hội viên nói riêng và các Hội đoàn CGTH tại Việt Nam nói chung, ý thức sâu xa và mạnh mẽ hơn về sứ mạng Phúc Âm Hóa là sứ mạng chi phối sự hiện hữu và hoạt động của mình, để đồng tâm và chung tay thi hành sứ mạng cao cả này, đem về cho Chúa và Giáo Hội nhiều nhánh lúa trĩu hạt.
Gm. Anphong Nguyễn Hữu Long
Chủ tịch UB.LBTM / HĐGMVN
Trích Tập san HiệpThông / HĐGM VN số 104 (Tháng 1 & 2, năm 2018)