2023
TÌM HIỂU VỀ CƠ CẤU TỔ CHỨC VÀ PHẨM TRẬT TRONG GIÁO HỘI CÔNG GIÁO
Nói đến một tôn giáo, người ta thường quan tâm ngay đến vấn đề liên quan đến cơ cấu tổ chức, phẩm trật cũng như giáo lý, luật lệ, lễ nghi của tôn giáo đó. Đối với đạo Công giáo, Giáo hội Công giáo là một tổ chức có quyền lực chặt chẽ và thống nhất trên toàn thế giới. Giáo hội Công giáo có 04 đặc điểm là: duy nhất, thánh thiện, công giáo, tông truyền. Theo cách hiểu thì: duy nhất là chỉ có 01 giáo hội Công giáo Rô Ma trong đó các tín hữu sẽ cùng đức tin, cùng chịu các bí tích, cùng phục quyền giáo hoàng; thánh thiện là giáo hội thiêng liêng do chúa Giê Su tạo lập, là cội nguồn của sự thánh thiện; Công giáo là ý nghĩa chung phổ quát; tông truyền là giáo hội được truyền thừa từ thời các tông đồ. Từ các đặc điểm trên, Giáo hội công giáo xây dựng một hệ thống tổ chức và phẩm trật trong giáo hội vô cùng chặt chẽ.
Về cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo gồm có ba cấp hành chính chính thức là: Giáo triều Vatican, địa phận (hay còn gọi là giáo hội địa phương) và giáo xứ (hay còn họi là giáo hội cơ sở). Ngoài ra, Giáo hội Công giáo còn có các cấp trung gian mang tính chất liên hiệp như giáo tỉnh, giáo miền, giáo hạt.
Về phẩm trật: Giáo hội Công giáo phân các chức vụ theo chức thánh gồm: Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục, Phó tế. Ngoài các chức vụ này còn có thêm tước vị Hồng Y. Những người được nhận các chức vụ nói trên là nhận các chức Thánh để thực hiện các hoạt động mục vụ và bí tích của Giáo hội.
Và sau đây xin giới thiệu khái quát về một số nét chính liên quan đến cơ cấu tổ chức, phương thức hoạt động cũng như phẩm trật trong giáo hội Công giáo gắn với cơ cấu điều hành giáo hội như sau:
Đối với Giáo hoàng (hay còn gọi là Giáo chủ)
Giáo hoàng là người được tín đồ xưng là Đức thánh cha. Giáo hoàng được coi là vị kế thừa thánh tông đồ Phê-Rô, là đại diện của chúa Giêsu nơi trần gian, là vị chủ chăn tối cao đối với toàn thể tín đồ đạo Công giáo. Giáo hoàng là người có quyền tối thượng, toàn diện và trực tiếp đối với Giáo hội, từ giáo triều Vatican đến giáo hội địa phương và giáo hội cơ sở. Sau cộng đồng Vatican II (1890), Giáo hoàng có thêm một ân sủng đặc biệt làm tăng thêm quyền lực của mình đó là ” Không bao giờ sai lầm về đức tin”, tức là không bao giờ sai lầm khi ban bố một tín điều hay một mệnh lệnh nào của Giáo hội trên cương vị Giáo hoàng.
Giáo hoàng do Hội đồng Hồng y bầu ra khi tòa thánh trống ngôi (tức là khi vị Giáo hoàng trước qua đời) và giữ nguyên chức vị đó cho đến chết. Phẩm phục của Giáo hoàng là màu trắng[1]. Giáo hoàng thực hiện quyền lực của mình thông qua Giám mục đoàn, Hội đồng Hồng y và bộ máy giáo triều Vatican.
(Giáo hoàng Phanxicô – vị Giáo hoàng thứ 266 và hiện
là đương kim Giáo hoàng của Giáo hội Công giáo Rôma)
Đối với Giám mục đoàn và Thượng Hội đồng Giám mục:
Giám mục đoàn bao gồm tất cả các Giám mục trên thế giới hợp với Giáo hoàng để duy trì sự hiệp thông và cai quản toàn Giáo hội. Do vậy, Giám mục đoàn là thiết chế quan trọng nhất để hỗ trợ cho quyền lực của Giáo hoàng.
Trước những vấn đề quan trọng của Giáo hội liên quan đến đức tin, đường hướng hoạt động, chấn chỉnh tổ chức… thì Giám mục đoàn được nhóm họp để bàn định dưới sự triệu tập, điều hành của Giáo hoàng và các cuộc họp này Giáo hội gọi là công đồng chung. Tất cả những quyết định của Công đồng chung chỉ có hiệu lực thực hiện khi Giáo hoàng cùng các thành viên của Công đồng chung chấp thuận và do chính Giáo hoàng phê chuẩn, công bố.
Đối với những việc xét thấy không đến mức triệu tập Công đồng chung thì Giáo hoàng triệu tập Thượng hội đồng Giám mục để giải quyết. Định chế của Thượng hội đồng Giám mục được thiết lập ngày 15/9/1965 vào đời Giáo hoàng Phao – Lô VI và duy trì cho đến ngày nay. Thượng hội đồng Giám mục là hội nghị các Giám mục được lựa chọn từ các khu vực trên thế giới. Thượng hội đồng Giám mục được họp theo định kỳ thông thường hoặc bất thường để bàn định những việc liên quan đến lợi ích Giáo hội hoặc là hội nghị đặc biệt để bàn về một vấn đề quan trọng hay công việc liên quan đến từng khu vực. Chỉ có Giáo hoàng là người được triệu tập, phê chuẩn thành viên Thượng hội đồng Giám mục và ấn định nội dung cuộc họp. Giữa hai kỳ họp của Thượng hội đồng Giám mục có một văn phòng làm việc và văn phòng này hoạt động dưới sự điều hành của Tổng thư ký do Giáo hoàng chỉ định.
Như vậy, với tính chất, cách thức hoạt động như trên thì Thượng hội đồng Giám mục được xem là cơ quan thường trực của Giám mục đoàn.
Đối với Hồng y và Hồng y đoàn
Hồng y là một chức sắc cao cấp trong Giáo hội Công giáo, được xếp ngay dưới Giáo hoàng[2]. Theo quy định của Giáo luật thì các vị Hồng y của Giáo hội thành lập một cộng đoàn riêng, gọi là Hồng y đoàn. Nhiệm vụ của Hồng y đoàn là bầu Giáo hoàng và giúp Giáo hoàng điều hành Giáo hội, nhất là trong điều khiển công việc hàng ngày. Cơ chế các Hồng y bầu Giáo hoàng được hình thành từ thế kỷ XII, dưới thời Giáo hoàng A Lếch xăng III (1159-1181) và duy trì cho đến ngày nay.
Hồng y có ba bậc: Bậc Giám mục, bậc Linh mục và bậc Phó tế. Hồng y bậc Giám mục được Giáo hoàng ban tước hiệu cho một nhà thờ xung quanh Rôma; Hồng y bậc linh mục và Phó tế được Giáo hoàng ban trước hiệu cho một nhà thờ ở nội ô Rô Ma. Người được tiến cử Hồng y phải nổi trội về tác phong, đạo đức và khôn ngoan trong cách xử sự. Các Hồng y được tấn phong bằng một quyết định của Giáo hoàng và được công bố trước Hồng Y đoàn. Trước đây các Hồng y chủ yếu là người Italia và làm việc trong Giáo triểu Vatican. Tuy nhiên, từ thời Giáo hoàng Pi-ô V (giữa thế kỳ XVI), tước vị Hồng y có ở nhiều nước trên thế giới. Theo quy định, các Hồng y là quan chức trong Giáo triều nghỉ hưu ở tuổi 75 và các Hồng y trên 80 tuổi sẽ không được tham gia bầu cử Giáo hoàng.
Đối với Giáo triều Vatican
Giáo triều Vatican là cơ quan đầu não của Giáo hội Công giáo (cấp hình chính đạo lớn nhất), được tổ chức như một bộ máy nhà nước thế quyền. Lúc đầu, Giáo triều Vatican chỉ là Văn phòng Chưởng ấn Tòa thánh, có nhiệm vụ soạn thảo và ban hành các sắc chỉ, văn thư của Giáo hoàng; sau đó giáo triều Vatican được tổ chức quy củ mô phỏng theo nhà nước phong kiến La Mã.
Sau Công đồng Vatican II (khai mạc ngày 11/10/1962 và bế mạc ngày 08/12/1965)[3], bộ máy của Giáo triều Vatican được cải tổ gọn nhẹ và năng động hơn để phù hợp với yêu cầu mới về cả hai mặt tôn giáo và xã hội. Từ năm 1989, Giáo triều Vatican xây dựng tổ chức gồm có: Phủ Quốc khanh, 09 bộ, 11 Hội đồng, 03 tòa án và 03 văn phòng. Các bộ là cơ quan điều hành, Hội đồng là cơ quan cổ vũ, Tòa án là cơ quan tư pháp, Văn phòng là cơ quan phục vụ chuyên môn. Ở đây, chúng ta sẽ tìm hiểu sơ bộ về Phủ Quốc khanh, các bộ, Hội đồng, tòa án và văn phòng để hiểu rõ hơn vai trò, chức năng của các tổ chức này trong Giáo triều Vatcan.
Thứ nhất: Phủ vụ quốc khanh gồm có 02 bộ là Bộ Thường vụ và Bộ Ngoại giao. Trong khi Bộ thường vụ là đơn vị xét duyệt các công việc hàng ngày của Tòa thánh, cố vấn cho các cơ quan truyền thông và văn phòng thống kê thì Bộ Ngoại giao lại giải quyết các vấn đề liên quan đến quan hệ với chính quyền dân sự.
Thứ hai: về 09 bộ của Tòa thánh: (1) Bộ Giáo lý đức tin có trách nhiệm bảo vệ và xem xét giáo lý đức tin; bộ này có quan hệ chặt chẽ với Ủy ban về kinh thánh và ủy ban thần học của Giáo hoàng. (2) Bộ Giáo hội địa phương có trách nhiệm liên quan đến Giáo hội Phương đông tại các nước trên thế giới. (3) Bộ phụng tự kỷ luật và bí tích có trách nhiệm giám sát những việc liên quan đến hoạt động phụng vụ, nhất là các bí tích; bộ này có quan hệ chặt chẽ với Ủy ban chuyên xử lý các vấn đề về hôn phối. (4) Bộ truyền thánh chuyên giải quyết các vấn đề liên quan đến việc tuyên phong chân phước, thánh nhân và lưu giữ các bí tích. (5) Bộ Giám mục chuyên lo các việc liên quan đến các Giám mục và quyền tài phán của các Giám mục kể cả việc các Giám mục đi chầu Giáo hoàng và viếng đền thánh Phêrô, Phaolô theo quy định. (6) Bộ truyền giảng phúc âm cho các dân tộc có trách nhiệm hướng dẫn và phối hợp các công việc truyền giáo trên thế giới; có thẩm quyền bao trùm lên các vùng truyền giáo mới được hình thành, kể cả việc thiết lập hàng giáo phẩm. (7) Bộ Giáo sĩ chuyên lo các công việc liên quan đến đời sống, quyền lợi, bổn phận và kỷ luật của giáo sĩ. (8) Bộ tu sĩ chuyên lo công việc của dòng tu và việc duy trì các tu sĩ, từ việc thành lập, bãi bỏ, chuyển đổi đến xây dựng nội quy, quy chế, việc hiệp thông giữa các dòng. (9) Bộ Giáo dục công giáo chuyên lo việc tổ chức và hoạt động giáo dục công giáo, phụ trách các vấ đề liên quan đến chủng viện…
Thứ ba: về 11 hội đồng Giáo hoàng: (1) Hội đồng Giáo hoàng về giáo dân; (2) Hội đồng Giáo hoàng cổ vũ sự hợp nhất kitô hữu; (3) Hội đồng Giáo hoàng về gia đình; (4) Hội đồng Giáo hoàng về công lý và hòa bình; (5) Hội đồng Giáo hoàng đồng tâm; (6) Hội đồng Giáo hoàng về mục vụ cho người di dân và du mục; (7) Hội đồng Giáo hoàng về mục vụ cho nhân viên y tế; (8) Hội đồng Giáo hoàng về giải thích các văn bản giáo luật; (9) Hội đồng Giáo hoàng về đối thoại liên tôn; (10) Hội đồng Giáo hoàng về văn hóa; (11) Hội đồng Giáo hoàng về truyền thông xã hội.
Thứ tư: về các Tòa giảng của Giáo hoàng: (1) Tòa ân giải tối cao có quyền phán quyết những vấn đề về lương tâm; miễn trừ nghĩa vụ, tháo gỡ những lời khấn và ban các ân xá; (2) Tòa tối cao pháp viện là tòa án tối cao của Giáo hội để giải quyết những vụ việc liên quan đến thủ tục tố tụng, việc tuân thủ luật lệ, lễ nghi và quyền lợi. Tòa tối cao pháp viện cũng là tòa tối cao của quốc gia Vatican; (3) Tòa thượng thẩm là tòa án phúc thẩm đối với mọi vụ việc kháng án lên tòa thánh Vatican
Thứ năm: về 03 văn phòng: (1) Văn phòng quản lý tông tòa; (2) văn phòng quản trị tài sản tông tòa; (3) văn phòng kinh tế tông tòa. Ngoài ra, còn có một số văn phòng khác như: Văn phòng quản gia Giáo hoàng, văn phòng báo chí Tòa thánh; văn phòng thông tin Vatican, văn phòng thống kê… và các ủy ban của Giáo hoàng như: ủy ban Giáo hoàng về khảo cổ học, ủy ban Giáo hoàng về lịch sử, ủy ban Giáo hoàng về di sản văn hóa của Giáo hội…
Theo quy định, các Bộ, ủy ban của Giáo triều Vatican phải thường xuyên có những cuộc họp để bàn định công việc. Có hai loại hội nghị, trong đó hội nghị thông thường chỉ triệu tập những ủy viên có mặt tại Roma để giải quyết những việc thông thường và hội nghị toàn thể là mời các ủy viên trên toàn thế giới về dự họp. Theo quy định, mỗi năm các Bộ, các ủy ban họp ít nhất một lần phiên họp toàn thể, tuy nhiên thực tế không phải năm nào cũng họp được mà thường ba năm họp phiên toàn thể một lần.
Đối với địa phận và các nhóm Giáo hội địa phương.
Địa phận còn gọi là Giáo hội riêng hay Giáo phận; đây là một cộng đoàn tín hữu giới hạn trong một phạm vi địa lý nhất định. Địa phận là cấp hành chính đạo chính thức của Giáo hội trực thuộc tòa thánh Vatican trên mọi phương diện. Có những nơi, có một cộng đoàn tín hữu nhất định nhưng vì lý do riêng nên chưa được Tòa thánh quyết định thành lập hàng địa phận thì được gọi là các Phủ doãn tông tòa và Giám quản tông tòa – đây cũng là đơn vị hành chính tương đương cấp địa phận. Việc thành lập, bãi bỏ, thay đổi địa phận và các nhóm giáo hội địa phương đều do Tòa thánh quyết định.
Cai quản địa phận là một Giám muc. Ngoài địa phận của mình, Giám mục cũng có thể kiêm những địa phận khác kể cả khi với danh hiệu Giám quản. Theo Giáo luật, Giám mục có tất cả quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp trong phạm vi quản lý của mình. Giám mục có quyền thành lập những quy định trong địa phận theo Giáo luật; có quyền thành lập, bãi bỏ, thay đổi các giáo hội cơ sở (giáo xứ); có quyền phong chức, bổ nhiệm, điều chuyển, kỷ luật linh mục trong địa phận; có quyền triệu tập Công đồng địa phận (gồm những linh mục đã được bầu ra và đại diện một số giáo dân). Cũng theo giáo luật, Giám mục phải tiến hành kinh lý tất cả các giáo xứ trong địa phận; định kỳ 05 năm một lần Giám mục phải đến Vatican viếng mộ hai thánh tông đồ Phaolô và Phêrô và yết kiến Giáo hoàng.
Tiêu chuẩn của một Giám mục theo quy định của Giáo hội phải là người có đức tin vững chắc, hạnh kiểm tốt, nhiệt thành, khôn ngoan, có danh tiếng tốt; phải là người có ít nhất 35 tuổi đời trở lên và chịu chức Linh mục ít nhất 05 năm. Việc phong Giám mục thuộc thẩm quyền của Tòa thánh Vatican.
Trợ giúp việc mục vụ và cai quản địa phận cho Giám mục là một Giám mục phó, Giám mục phụ tá, Hội đồng tư vấn, Hội đồng Linh mục…Giám mục phó là người có quyền kế vị Giám mục; Giám mục phụ tá có thể là một hay nhiều người nhưng Giám mục phụ tá không có quyền kế vị Giám mục. Khi Tòa Giám mục trống ngôi, Giám mục phó đương nhiên trở thành Giám mục địa phận. Nếu không có Giám mục phó thì việc cai quản địa phận thuộc quyền của Giám mục phụ tá cho đến khi có Giám mục mới. Nếu có nhiều Giám mục phụ tá thì chọn người có nhiều thâm niên chức vụ lâu năm nhất làm người cai quản; trường hợp không có Giám mục phụ tá thì chọn cử trong các linh mục ra một giám quản. Bên cạnh đó, Tòa Giám mục còn có một số chức danh khác như: Đại diện, tổng đại diện, văn phòng, thư ký, văn thư lưu trữ, hội đồng hành chính quản trị…để giúp công việc cho Giám mục.
(Tòa Giám mục Kon Tum)
Đối với Giáo tỉnh và giáo miền
Giáo tỉnh, Giáo miền là các nhóm giáo hội riêng được Tòa thánh Vatican lập ra nhưng lại không được xem là cấp hành chính đạo chính thức của Giáo hội.
Về Giáo tỉnh, theo quy định tại Điều 413 của Bộ giáo luật Công giáo 1983 thì “Để cổ vũ hoạt động mục vụ chung giữa nhiều giáo phận gần nhau, tùy theo hoàn cảnh con người và địa phương, cũng như để thắt chặt mối quan hệ tương trợ giữa các Giám mục Giáo phận hơn nữa, các Giáo hội địa phương gần nhau phải được kết hợp thành các giáo tỉnh được giới hạn trong một địa hạt nhất định“. Giáo tỉnh tuy không phải là một cấp hành chính đạo chính thức nhưng Giáo tỉnh có tư cách pháp nhân theo Luật trong tổ chức giáo hội. Người đứng đầu Giáo tỉnh là một Tổng Giám mục và Tổng Giám mục sẽ có các quyền hạn chất định như: Liệu sao để đức tin và kỷ luật Giáo hội được tuân giữ cách chu đáo, nếu có những lạm dụng xảy ra thì thông báo cho Đức Giáo hoàng Roma biết; Thực hiện việc kinh lý theo Giáo luật; đề cử Giám mục địa phận sau tám ngày trống ngôi mà chưa có Giám quản; Tổng Giám mục có quyền cử hành mọi nghi lễ tại các nhà thờ trong Giáo tỉnh sau khi báo cho Giám mục địa phận biết. Nếu là tại nhà thờ Chính tòa của địa phận thì Tổng Giám mục có thể cử hành nghi lễ như một Giám mục trong chính địa phận của mình.
Về Giáo miền, theo quy định tại Điều 439 của Bộ giáo luật Công giáo thì “Công đồng Giáo miền là công đồng tập hợp tất cả các Giáo hội địa phương thuộc cùng một Hội đồng Giám mục, phải được tổ chức mỗi khi Hội đồng Giám mục ấy xét thấy cần thiết hay hữu ích với sự phê chuẩn của Tông tòa”. Giáo miền không phải là cấp hành chính đạo của Giáo hội nên không nhất thiết có tư cách pháp nhân trong hệ thống tổ chức của Giáo hội. Thực chất của Giáo miền chính là một hình thức liên hiệp các Giáo hội địa phương để tăng cường sự hợp nhất giữa các Giám mục nhằm hỗ trợ cho việc truyền giáo, quản lý hoạt động mục vụ và thiết lập mối quan hệ giữa tổ chức giáo hội với chính quyền nhà nước. Thông thường các Giám mục trong Giáo miền sẽ lập ra Hội đồng Giám mục; Hội đồng Giám mục này sẽ có nhiệm vụ triệu tập công đồng toàn miền để bàn thảo và định ra những nghị quyết, đường hướng hoạt động trong khuôn khổ giáo hội cho phép.
Đối với Giáo xứ và Giáo hạt
Giáo xứ còn được gọi là giáo hội cơ sở; là cộng đồng tín hữu có tổ chức được thiết lập một cách bền vững trong địa phận. Giáo xứ là đơn vị cuối cùng có tư cách pháp nhân trong giáo hội. Theo Điều 518 của Bộ giáo luật Công giáo năm 1983 thì “… Giáo xứ phải có tính chất tòng thổ, nghĩa là bao gồm tất cả các Kitô hữu thuộc một địa hạt nhất định. Tuy nhiên, ở đâu thấy thuận lợi, thì phải thiết lập các giáo xứ tòng nhân, xét theo lễ điển, ngôn ngữ, quốc tịch của các Kitô hữu trong một địa hạt và còn xét theo bất cứ một lý do nào khác”.
Mỗi Giáo xứ có một Linh mục Chính xứ đứng đầu. Tuy nhiên, trong điều kiện thiếu linh mục thì một linh mục có thể cai quản nhiều giáo xứ; linh mục Chính xứ được Giám mục địa phận bổ nhiệm và là người duy nhất có quyền trong việc cai quản giáo xứ. Quyền hạn của linh mục Chính xứ là: Thực hiện các phép bí tích cho giáo dân trong giáo xứ (trừ bí tích thêm sức và bí tích truyền chức thánh); lập và lưu giữ cẩn thận sổ rửa tội, sổ hôn phối, sổ tử và các sổ sách khác để báo cáo thường kỳ cho Giám mục những vẫn đề đó; cử hành các nghi lễ tôn giáo ngày chủ nhật và những ngày lễ buộc; cử hành nghi lễ an táng cho các giáo dân qua đời trong giáo xứ.
Trợ giúp cho linh mục Chính xứ có linh mục Phó xứ và các Phó tế. Mỗi giáo xứ lập ra một hội đồng giáo xứ gồm đại diện các giáo dân để hỗ trợ việc cai quản giáo xứ của linh mục Chính xứ. Theo truyền thống, mỗi xứ lập ra Ban hàng phủ nay gọi là Ban Chấp hành Giáo xứ, đứng đầu là chức Chánh trương, ở những xứ có họ lẻ thì lập chức trùm họ. Giáo xứ được Giáo hội Công giáo quan tâm củng cố vì đó là cơ sở làm nền tảng cho giáo hội; nơi diễn ra các sinh hoạt tín ngưỡng của giáo dân, là nơi thiết lập mối quan hệ chặt chẽ giữa giáo quyền và giáo dân.
Giáo hạt thực chất là một đơn vị liên hiệp giữa các giáo xứ trong phạm vi địa phận do Giám mục thiết lập. Giáo hạt không có pháp nhân trong cơ cấu tổ chức giáo hội. Mỗi Giáo hạt có một Linh mục đứng đầu gọi là hạt trưởng. Hạt trưởng có thể do các linh mục bầu ra, hoặc do Giám mục chỉ định. Quyền hạn của Hạt trưởng là cổ vũ sự liên hiệp các hoạt động mục vụ trong hạt; tổ chức, đôn đốc việc trao đổi kiến thức thần học cho các linh mục; theo dõi, lo liệu tình hình đời sống giáo sĩ về vật chất và tinh thần lúc bình thường cũng như ốm đau; linh mục hạt trưởng không có thẩm quyền cai quản trên các giáo xứ trong hạt.
Như vậy qua tìm hiểu cho thấy hệ thống tổ chức và phẩm trật trong giáo hội Công giáo là vô cùng chặt chẽ; đến nay người Công giáo vẫn tin rằng Giáo hội chính là một cộng đồng hữu hình, có tổ chức mà Chúa Giê Su tạo lập ra trước khi về trời để lưu tồn sự hiện diện của Thiên chúa ở nơi trần thế.
[1] Hiện nay, Giáo hội Công giáo trải qua thời kỳ trị vì của 265 vị giáo hoàng, trong đó có 206 vị là người Italya; 13 vị người Pháp; 03 vị người Tây Ban Nha; 01 vị người Bồ Đào Nha; 10 vị người Hy lạp; 03 vị người Châu phi
[2] Theo Điều 351 của Bộ giáo luật năm 1983, để tuyển cử Hồng Y, đức Giáo hoàng Roma tự do chọn lựa những người thuộc nam giứoi, ít là phải có chức Linh mục, trổi vượt về học thuyết, tác phong, đạo đức và khôn ngoan xử lý công việc. Tuy nhiên, những vị chưa là Giám mục phải được thu phong Giám mục.
[3] Công đồng là hội nghị gồm các Giám mục và các chức vị trong Giáo hội Công giáo chính thứ nhóm họp để bàn thảo và quyết định các vấn đề thuộc Giáo luật, lễ nghi, đường hướng hoạt động của Giáo hội.
2023
QUY LUẬT SỐNG DÀNH CHO LINH MỤC GIÁO PHẬN
QUY LUẬT SỐNG
DÀNH CHO LINH MỤC GIÁO PHẬN
TRUNG TÂM MỤC VỤ
VIỆT NAM – ITALIA
AD 2008
NỘI DUNG
Lời giới thiệu
- TẦM QUAN TRỌNG CỦA QUY LUẬT SỐNG
- Cuộc đối thoại tình yêu làm chúng ta trở thành mục tử
- Một quy luật để ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu
- Quy Luật hỗ trợ linh mục trong việc dấn thân cho
Giáo Phận
- Quy luật sống nhắc lại sự khác biệt giữa đức ái mục
tử của Đức Kitô và ý hướng tốt lành của thế gian
- Quy luật sống giúp chúng ta biết sử dụng thời giờ
cách tốt đẹp trước Mặt Chúa
và theo thứ tự ưu tiên của tác vụ
- Quy luật sống giúp chúng ta trung thành với
truyền thống đức ái mục tử của linh mục đoàn
- Quy luật sống là điểm quy chiếu cho việc xét mình
- Một quy luật được chia sẻ nhằm lợi ích
cho dân Chúa đã được ủy thác cho chúng ta
- Quy luật sống giúp cho việc sửa sai huynh đệ
- QUY LUẬT SỐNG CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN
- Thánh Thể “nguồn mạch và chóp đĩnh”
của đời sống linh mục
- Thừa tác vụ Lời Chúa
- Thừa tác vụ Thứ Tha trong bí tích Thống Hối
- Kinh Nguyện Thần Vụ và cá nhân
- Đặc sủng sống độc thân và các mối tương quan:
Tương quan với giám mục
Tương quan với anh em linh mục
Tương quan trong những cộng đoàn
Vun trồng đặc sủng độc thân
Một lối sống biểu lộ căn tính của mình
Tương quan với thân nhân
- Tổ chức thời giờ
- Sử dụng của cải theo những đòi hỏi
của đức khó nghèo
- Kết luận
GIỚI THIỆU
Anh em linh mục thân mến,
Tôi vui mừng gởi đến anh em Quy Luật sống của linh mục giáo phận, một Quy Luật đã được Công Nghị giáo phận vào năm 2000 đề nghị thực hiện, và bản Hướng Dẫn giáo phận về việc thường huấn linh mục cũng đã nhắc lại việc làm này vào năm 2002.
Trong hai năm cuối này, nhờ sự cộng tác của Hội Đồng Linh Mục cũng như của tất cả linh mục trong giáo phận, chúng ta đã nhận ra được những động lực và nội dung về một Quy Luật sống đã ăn sâu vào mọi chiều kích của thừa tác vụ linh mục trong hoàn cảnh sống hiện tại của chúng ta.
Ờ đây, tôi không nói đến tầm quan trọng của một Quy Luật sống dành cho linh mục giáo phận, bởi vì điều này đã được quảng diễn khá rộng rãi trong phần đầu của bản văn. Tôi chỉ muốn nói thêm rằng đây là một ân huệ của Chúa ban, cũng như những Quy Luật trước đây dành cho các cộng đoàn đan tu và tu sĩ của các hội dòng trong lịch sử của Giáo Hội.
Trong Quy Luật sống này, mỗi linh mục sẽ tìm thấy sự hỗ trợ quý báu trên hành trình nên thánh qua thừa tác vụ của mình. Nhờ vậy, linh mục đoàn chúng ta có thể cùng chia sẻ một năng lực mạnh mẽ hướng về căn tính tin mừng và noi gương Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Nhân Lành.
Tôi mời gọi mỗi anh em hãy thẩm định và nhận ra trong Quy Luật này một hướng đi bảo đảm cho linh đạo và cho thừa tác vụ của mình, và tôi nghĩ rằng nó cũng có thể là đề tài học hỏi và chia sẻ giữa các linh mục qua các buổi gặp gỡ, mỗi lần cùng thảo luận một vài chủ đề.
Tự bản chất của nó, Quy Luật sống này có thể được bổ túc và thay đổi, bởi vì hoàn cảnh sống và thừa tác vụ linh mục giáo phận cũng hay thay đổi.
Tôi gởi đến anh em Quy Luật sống này đúng vào dịp kỷ niệm 150 năm thụ phong linh mục của Đức Piô X, một gương sáng sống động và cụ thể của việc nên thánh đối với linh mục đoàn giáo phận Treviso của chúng ta. Ngài sẽ cầu bàu cho tất cả chúng ta, giám mục và các linh mục, cùng với Chân Phước Andrea Giacinto Longhin và các linh mục gương mẫu khác đang sống trong sự hiệp thông của các Thánh.
+ Andrea Bruno Mazzocato
Treviso, 18.09.2008
Kỷ niệm 150 năm thụ phong linh mục của Đức Piô X
TẦM QUAN TRỌNG
CỦA QUY LUẬT SỐNG
- Cuộc đối thoại tình yêu làm nên người mục tử
- Gv 21,15-19:Khi các môn đệ ăn xong, Đức Giê-su hỏi ông Si-môn Phê-rô : “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? ” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su nói với ông: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.” Người lại hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy có, Thầy biết con yêu mến Thầy.” Người nói: “Hãy chăn dắt chiên của Thầy.” Người hỏi lần thứ ba: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có yêu mến Thầy không?” Ông Phê-rô buồn vì Người hỏi tới ba lần: “Anh có yêu mến Thầy không?” Ông đáp: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.” Đức Giê-su bảo: “Hãy chăm sóc chiên của Thầy.Thật, Thầy bảo thật cho anh biết: lúc còn trẻ, anh tự mình thắt lưng lấy, và đi đâu tuỳ ý. Nhưng khi đã về già, anh sẽ phải dang tay ra cho người khác thắt lưng và dẫn anh đến nơi anh chẳng muốn.” Người nói vậy, có ý ám chỉ ông sẽ phải chết cách nào để tôn vinh Thiên Chúa. Thế rồi, Người bảo ông: “Hãy theo Thầy.”
Đây là ơn gọi thứ hai Phêrô: Đức Giêsu sống lại mời gọi Phêrô và đưa ông vào một cuộc đối thoại tình yêu. Chúng ta nhớ lại trong lần thứ nhất ở bên bờ hồ, Chúa Giêsu đã kêu gọi Phêrô và người em của ông là Anrê từ bỏ người cha của mình và cả nghề chài lưới để trở thành tông đồ khi Ngài nói với họ: “Các anh hãy theo tôi”. Và Ngài còn báo trước cho họ rằng: “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Giờ đây, lời mời gọi đó trở nên gần gũi hơn, Phêrô không trả lời cùng với em mình, nhưng chỉ riêng ông với cả ý thức. Lần này, Chúa Giêsu không cố ý trao thêm trách vụ mới cho ông trong Giáo Hội mai ngày, nhưng Ngài chỉ mời gọi ông trả lời cho một câu hỏi: “Này anh Si-môn, con ông Gio-an, anh có mến Thầy hơn các anh em này không? “(Gv 21,15).
Lúc này Phêrô đang đứng trước mặt Đấng sống lại từ cõi chết để tìm kiếm chính ông. Chúa Giêsu biết rằng Phêrô đã không mệt mỏi, không thất vọng về sự khốn khổ của con nguời, về đêm dài đen tối, về sự bất trung của mình. Thật vậy, trong tâm trí, Phêrô luôn nghĩ đến Thầy của mình đang chịu chết để không cảm thấy mình bị xa mất. Đấng Sống Lại chẳng những không lên án Phêrô mà còn ban cho ông một đặc ân cao cả hơn, đó là đi vào cuộc đối thoại tình yêu với Ngài. Chúa Giêsu đã lặp lại đến ba lần câu hỏi “anh có yêu mến Thầy không?” và mời gọi sự đáp trả của Phêrô từ con tim đến con tim, như một nguời bạn đối với một Người Bạn. Đó chính là sự đáp trả Tình Yêu cao cả và cá biệt của Con Thiên Chúa đối với con người Phêrô.
Con tim của Phêrô đã mở ra. Chúng ta có thể tưởng tượng một Vị Tông Đồ đang quỳ gối với nước mắt thống hối không những trong đôi mắt mà cả trong con tim của mình. “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy”.
Sau mẻ cá lạ lùng, Phêrô đã sụp lạy trước mặt Thầy mình và van xin “Lạy Cha, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Giờ đây nỗi sợ hãi đã qua đi và chỉ còn lại Người Bạn chân tình và là Chúa của mình, Phêrô đi vào cuộc đối thoại tình yêu để nối kết cuộc đời mình với Chúa Giêsu luôn mãi. Phêrô cảm nghiệm được nỗi sợ này khác với nỗi sợ trước mẻ cá lạ lùng cũng như trước mặt người phụ nữ trong đêm Chúa chịu nạn (x. Lc 5,8-9; Mt 26,69-70). Ngài cảm nghiệm được một nỗi sợ thánh thiện khi đứng trước sự bất cân xứng giữa Tình Yêu cao cả mà Chúa đang dành cho mình và sự mỏng dòn yếu đuối của con người tội lỗi. Với cả tấm lòng khiêm tốn, Phêrô đã đáp trả lời mời gọi ấy rằng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.”.
Khi biết chắc chắn rằng Phêrô đã thực sự đi vào cuộc đối thoại tình yêu này với mình thì Chúa Giêsu mới trao cho ông ta nhiệm vụ tông đồ và mục tử trong Giáo Hội: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy”. “Hãy chăn dắt chiên mẹ của Thầy.” Hay nói cách khác, Ngài căn dặn Phêrô rằng: “Anh hãy ra đi và mang trong con tim của anh chính Con Tim của Thầy, Con Tim của một Mục Tử Tốt Lành giữa đoàn chiên đã được ủy thác cho anh; hãy mang lấy những lo lắng và những tâm tình mà anh đã cảm nghiệm được qua cuộc đối thoại tình yêu mà Thầy đã dành cho anh.
Từ giây phút đó và bằng cách thế đó Đấng Sống Lại đã làm cho Phêrô trở thành “Tông Đồ và Mục Tử của Giáo Hội” (x. Gioan Phaolô II, Pastores dabo vobis, 23).
- Cùng một thể thức ấy, Đấng Sống Lại tiếp tục mời gọi những người kế vị Thánh Phêrô và các Tông Đồ, nghĩa là các giám mục và các linh mục cùng liên kết với các ngài. Cùng một thể thức ấy, Ngài đã kêu gọi mỗi người chúng ta. Ngài cũng mời gọi chúng ta vào trong cuộc đối thoại tình yêu mà từ muôn thuở Ngài đã mở ra cho mỗi người và đừng để chúng ta phải hư mất, Ngài đã mang chúng ta vào trong Con Tim của Ngài trên thập giá.
Đáp trả lời mời gọi này tức là phó mặc cả cuộc đời mình cho cuộc đối thoại tình yêu ấy, bằng cách từ bỏ tất cả, từ bỏ mọi kiểm soát và mọi chiếm hữu trên cuộc đời chúng ta (x. Mt 16,24). Trong mối tương quan cá nhân và nhưng không mà Chúa Giêsu đã dành cho chúng ta, chúng ta có thể nhận ra chính mình, tìm thấy ý nghĩa của cuộc đời và sứ mạng mà chúng ta đã được tạo dựng và cứu chuộc: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy.”
Trong những năm thụ huấn ở Chủng Viện, chúng ta cũng đã cảm nghiệm được những giây phút như Thánh Phêrô. Mối tương quan với Chúa Giêsu đã trở thành hiện thực và cá biệt hơn. Nhiều lúc chúng ta cũng đã phải ngạc nhiên về những lần đối thoại tình yêu mà Thần Trí Chúa thúc đẩy chúng ta hiến dâng cuộc đời mình để trở thành mục tử trong Giáo Hội. Chúng ta cũng đã nhận ra được phẩm giá cao trọng ấy và sự bất xứng của chúng ta khi trở thành bạn hữu và cộng sự viên của Chúa để Ngài tiếp tục mang cuộc thương khó của Vị Mục Tử tốt lành cho các chiên trong ràn cũng như những con chiên chưa thuộc về cùng một đoàn chiên.
- Một Quy Luật sống để ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu
- Với tâm tình sợ hãi và khiêm tốn Phêrô xưng thú cùng Chúa rằng: “Thưa Thầy, Thầy biết rõ mọi sự; Thầy biết con yêu mến Thầy.”. Thái độ thiêng liêng này không thể không theo đuổi suốt cả cuộc đời chúng ta, vì sự bất cân xứng bao la giữa Con Tim của Chúa hằng yêu thương chúng ta và những yếu đuối mỏng dòn của con tim chúng ta bằng nhiều cách làm cho chúng ta bất trung.
Với tâm tình sợ hãi và khiêm tốn ấy, chúng ta cũng hãy xưng thú như Phêrô trước hết là phó dâng vào công trình của Thần Khí Chúa, Đấng không ngừng trao ban Tình Yêu của Ngài xuống trong tâm hồn chúng ta (x. Rm 5,5) và thưa với Ngài rằng: “Lạy chúa, con yêu mến Chúa” và rồi chúng ta hãy dâng hiến lại cho Chúa chính tình yêu mà Ngài đã trao ban cho chúng ta bằng Thần Trí của Ngài.
- Tình yêu mà chúng ta dâng hiến lại cho Chúa và Giáo Hội nhiều lúc không còn trong sáng, vì đã bị ô nhiễm bởi những yếu đuối và tội lỗi của mình. Bởi vậy, ngoài việc phó thác cho Thần Trí Chúa, chúng ta được mời gọi đến việc hoán cải liên tục để được ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu với Chúa Giêsu phục sinh và để trở thành người tôi tớ và mục tử trung thành của Ngài.
Trở về với tình yêu là một bổn phận cụ thể bởi vì tình yêu cũng rất cụ thể. Điều này chúng ta có thể nhận ra được nơi nhiều vợ chồng và các bậc làm cha làm mẹ, nơi rất nhiều bà mẹ với lòng trung thành mỗi ngày, đòi hỏi họ tất cả mà nhiều khi vượt cả sức lực và khả năng của họ.
Cả chúng ta, những linh mục và mục tử của Giáo Hội, chúng ta cũng được mời gọi đến với một tình yêu dành cho Chúa Giêsu, cho cộng đoàn và cho nhiều người phát xuất từ con tim, chứng tỏ bằng việc làm và cách sống của chúng ta.
Để trở nên chân thực và trung thành, tình yêu cần phải tuân theo một số “quy luật” với cả nổ lực và kiên trì. Quy luật này không chống lại tự do của tình yêu. Có thể nó chống lại tính nhất thời của các nhu cầu và cảm xúc của con người, nhưng đó là đòi hỏi của tình yêu, nếu muốn trở nên thực tế và nhập thể vào trong con người và trong hành động của con người chúng ta.
Nếu không có một quy luật sống thì chúng ta dễ bị nô lệ bởi tính ích kỷ, là ông chủ luôn đe dọa (x. Rm 7,6), và trở thành những kẻ chăn thuê, vì giá phải trả không cao lắm.
Bởi vậy, Quy Luật này có thể được gọi là “luật tình yêu”, bởi vì nó nhắc nhở một số điều kiện chính yếu để ở lại trong cuộc đối thoại tình yêu với Đấng Sống Lại và yêu mến Giáo Hội bằng chính đức ái của Vị Mục Tử Tốt Lành.
- Quy Luật hỗ trợ linh mục trong việc dấn thân cho Giáo Phận
- Trong cuộc đối thoại bên bờ hồ Tiberiade, Chúa Giêsu Sống Lại đã dẫn đưa ông Phê-rô đến với hai cuộc tình bất khả phân ly: tình yêu đối với Chúa và tình yêu đối với đoàn chiên. Đó là đức ái mục tử đòi hỏi người tông đồ tiếp tục làm cho Vị Mục Tử Tốt Lành hiện diện giữa đoàn chiên của Ngài, đức ái mà những người kế vị các tông đồ đã được thánh hiến, nghĩa là các giám mục, cùng kết hiệp với các linh mục của mình trong linh mục đoàn duy nhất của giáo phận.
Trong bí tích truyền chức thánh, Chúa Thánh Thần đã làm cho các linh mục trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Giêsu và hiến mình cho Giáo Hội như người đứng đầu, hôn phu và mục tử.
Đối với giám mục và linh mục giáo phận, yêu mến Chúa Giêsu cũng đồng nghĩa với yêu mến Giáo Hội cách vô điều kiện.
Đó cũng là ý nghĩa thiêng liêng sâu xa của việc “nhập giáo phận” trên pháp lý: linh mục hiến mình cho Giáo Hội hoàn vũ và cho Giáo Hội địa phương. Chính trong Giáo Hội đó và vì Giáo Hội đó mà mình được thụ phong.
Vì giáo hội địa phương đó mà linh mục dấn thân trọn cuộc đời, nhờ thừa tác vụ đã lãnh nhận, để anh chị em tín hữu được đón nhận những phương tiện thiêng liêng dẫn đến ơn cứu độ. Bởi vậy, linh mục giáo phận yêu mến Chúa Giêsu bằng cách yêu mến Giáo Hội với chính sự hiến mình như Chúa đã trở nên người tôi tớ của mọi người đến nỗi phải trao ban cả mạng sống mình.
- Tông HuấnPastores dabo vobiscũng đã diễn tả về linh mục như sau: “Sự quy hướng về Giáo Hội đã được khắc ghi vào trong cùng sự quy hướng duy nhất của linh mục vào Đức Ki-tô, theo nghĩa linh mục là người “đại diện bí tích” của Đức Ki-tô thiết lập và làm cho việc quy hướng của linh mục vào Giáo Hội được sinh động. Cũng trong ý nghĩa này các Nghị Phụ đã viết: “Với tư cách người đại điện cho Đức Ki-tô là đầu, là mục tử và là vị hôn phu của Giáo Hội, linh mục không chỉ tự đặt mình trong Giáo Hội, mà cả trước mặt Giáo Hội. Bằng việc kết hiệp với Lời Chúa và với các dấu chỉ bí tích mà mình phục vụ, linh mục thuộc về những yếu tố làm nên Giáo Hội. Thừa tác vụ linh mục hoàn toàn nhằm mưu ích cho Giáo Hội, thăng tiến việc thực thi chức linh mục cộng đồng của toàn thể dân Chúa, được thụ phong không những cho Giáo Hội địa phương, mà còn cho Giáo Hội hoàn vũ” (số 16).
Quy Luật này mang lại cho linh mục những chỉ dẫn để áp dụng vào đời sống mỗi ngày chính việc hiến mình cho Giáo Hội địa phương. Khi tuân theo những chỉ dẫn ấy linh mục thật sự nhằm mưu ích cho Giáo Hội, đồng thời cũng nói lên mình là người đại diện cho Chúa Giêsu và công trình cứu độ của Ngài ở giữa các tín hữu.
- Quy luật sống nhắc nhở sự khác biệt giữa đức ái mục tử của Chúa Giêsu và đường lối của thế gian.
- Cách thế yêu thương và hiến mình của Chúa Giêsu trong sự mới mẻ khôn lường đã trở nên cớ vấp phạm cho tâm thức của con người. Điều này cũng làm cho Phêrô vấp phạm đến nỗi Chúa Giêsu phải quở trách, vì ông đã không nghĩ theo đường lối của Thiên Chúa, nhưng theo loài người (x. Mt 16,23).
Nhờ sự đặc tuyển và được mời gọi chia sẻ đức ái của Mục Tử, chúng ta trở thành những chứng nhân sống động bằng chính kinh nghiệm sống của chúng ta giữa lòng đời và làm cho chúng ta trở nên “khác biệt” mặc dù chúng ta vẫn sống bình thường như mọi người: “Nếu thế gian ghét anh em, anh em hãy biết rằng nó đã ghét Thầy trước. Giả như anh em thuộc về thế gian, thì thế gian đã yêu thích cái gì là của nó. Nhưng vì anh em không thuộc về thế gian và Thầy đã chọn, đã tách anh em khỏi thế gian, nên thế gian ghét anh em”.
Sự khác biệt không thể loại bỏ này cần được chiếu tỏa trong cuộc đời mục tử chúng ta theo cội nguồn của Tin Mừng đã được tóm kết trong Bài Giảng Trên Núi: “Anh em thường nghe nói… nhưng Thầy nói với anh em”.
- Cuộc sống độc thân cho phép chúng ta tự do hơn trong việc sắp xếp thời giờ, sử dụng tiền bạc và tổ chức các mối tương quan. Ngày nay lối sống này cũng đã quen thuộc đối với nhiều người trong nhiều nghề nghiệp khác nhau. Người ta không còn ngạc nhiên khi thấy một người không lập gia đình. Tuy nhiên, không mấy ai thật sự nhận ra được sự khác biệt trong con người linh mục và mục tử sống độc thân. Sự khác biệt mà chính Đức Kitô đã chứng tỏ bằng việc trao hiến thân mình cho đến cuộc khổ nạn trên thập giá vì đoàn chiên là Giáo Hội.
Quy luật nhắc nhở đến một số điểm cụ thể trong cuộc sống và tác vụ của linh mục tạo nên sự khác biệt giữa cách sống và thi hành tác vụ theo đức ái mục tử và tâm thức hiện nay. Quy luật cũng giới thiệu “những hoa trái của Tin Mừng” cần được chứng tỏ trong đời sống của linh mục. Chỉ có những hoa trái đó mới có thể chứng tỏ cuộc đối thoại tình yêu của chúng ta với Đấng Sống Lại là chân thực và cho thấy lòng trung thành của chúng ta giữa cộng đoàn Kitô hữu: “cứ xem họ sinh hoa quả nào, thì biết họ là ai” (Mt. 7,20).
Như vậy, Quy luật thật sự là một ân sủng cho đức giám mục, cho mỗi linh mục và cả linh mục đoàn. Hơn nữa, đó cũng là một sự giúp đỡ quý giá cho việc thường huấn linh mục.
- Quy luật sống giúp chúng ta sử dụng tốt thời giờ trước mặt Chúa và theo tính ưu tiên của thừa tác vụ.
- “Lạy Chúa, Chúa biết con yêu mến Chúa và con sẵn sàng chăn dắt đoàn chiên của Chúa”: Đó là câu trả lời mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi chúng ta. Trong câu trả lời này bao gồm cả trách nhiệm sử dụng tốt thời giờ mà Chúa ban cho cúng ta.
Giữa những người đã được rửa tội, chúng ta được mời gọi cách đặc biệt để trở thành những người tôi tớ: “Và ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ anh em. Cũng như Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mt. 20,27-28).
Tôi tớ không phải là người làm chủ thời giờ của mình, nhưng biết sử dụng nó cho những việc bổn phận đã được trao phó. Chúng ta là những người tôi tớ mà chính Chúa đã tin tưởng cách đặc biệt: “Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy” (Mt 24. 45-46).
Chúa Giêsu đã tin tưởng đến nỗi muốn chúng ta dâng hiến cuộc đời cho Ngài và cắt đặt chúng ta làm người quản gia để đến giờ thì ban phát “của ăn” Lời và Mình Máu của Ngài.
Lòng tin tưởng này chỉ trong một thời gian nhất định nào đó mà chúng ta không biết nó sẽ kéo dài bao lâu, vì không ai biết lúc nào Chúa trở lại. Chúng ta chỉ có trách nhiệm sử dụng tốt thời giờ giới hạn ấy, không làm mất thời giờ, nhưng cần thánh hóa nó bằng đức ái mục tử theo tính ưu tiên của thừa tác vụ mà chúng ta được mời gọi thực hiện.
Thật vậy, cuộc sống đời đời của chúng ta sẽ tùy thuộc vào việc sử dụng thời giờ hôm nay như thế nào: “Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình. Nhưng nếu tên đầy tớ xấu xa ấy nghĩ bụng: “Còn lâu chủ ta mới về”, thế rồi hắn bắt đầu đánh đập các đồng bạn, và chè chén với những bọn say sưa, chủ của tên đầy tớ ấy sẽ đến vào ngày hắn không chờ, vào giờ hắn không biết, và ông sẽ loại hắn ra, bắt chung số phận với những tên giả hình: ở đó, người ta sẽ phải khóc lóc nghiến răng” Mt 24,46-51).
- Trong tình huynh đệ, chúng ta có thể nhắc nhở cho nhau rằng ngày nay chúng ta có được tự do hơn trước trong việc sử dụng thời giờ. Hầu như chúng ta không mấy bận tâm cho ngày sống của mình. Bởi vậy, chúng ta cần ý thức về trách nhiệm của mình hơn và đó cũng là lý lo cần có một Quy Luật Sống.
Một tâm thức ngày nay khá phổ biến là mỗi người dùng thời giờ như một của riêng tùy theo sở thích. Điều này nghịch lại với cách mà Chúa Giêsu làm để thi hành sứ mạng đã được Chúa Cha trao phó. Bởi vậy, Quy Luật hằng ngày nhắc nhở chúng ta đừng rơi vào tâm thức thế gian, nhưng phải biết dùng thời giờ như ân huệ nhưng không để làm phát triển những tài năng mà chúng ta đã lãnh nhận.
Và rồi Quy Luật còn giúp chúng ta tổ chức ngày sống cho thừa tác vụ. Thật vậy, linh mục cũng có thể hoang phí thời giờ của mình không những trong các việc vô bổ mà có khi ngay cả trong những việc không thuộc tác vụ của mình. Thật vậy, là người tôi tớ trung thành nếu vì thiện ích cho Giáo Hội, linh mục làm sinh hoa kết trái những hồng ân và quyền năng mà mình đã lãnh nhận vào ngày thụ phong. Ngoài ra, linh mục còn có nhiều công việc lớn nhỏ khác nữa. Trách vụ này không mấy dễ dàng chu toàn đối với linh mục khi một mình phải gánh nhiều việc khác nhau.
- Quy Luật sống giúp chúng ta trung thành với truyền thống đức ái mục tử của linh mục đoàn.
- “Như thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta, mắt hướng về Đức Giê-su là Đấng khai mở và kiện toàn lòng tin” (Dt 12,1-2). Lịch sử của linh mục đoàn chúng ta có khá nhiều gương mặt sáng ngời, có một số vị còn hiện diện trong tâm khảm và trong sự biết ơn của chúng ta vì đời sống chứng tá của các ngài còn để lại. Các ngài đã tạo nên truyền thống đạo đức của linh mục đoàn giáo phận.
Đó là một gương lành đáng tin cho các linh mục giáo phận đi vào cuộc đối thoại tình yêu với Đấng Sống Lại và mang lấy Con Tim của Vị Mục Tử Tốt Lành cho Giáo Hội. Đó là một sự phong phú cần được gìn giữ và làm sống lại hôm nay trong cuộc sống và tác vụ của chúng ta. Những linh mục tiền bối này cho chúng ta thấy đâu là những điều kiện cụ thể làm cho đời sống chúng ta được nên thánh. Đó là cần có một Quy Luật Sống! Thật vậy, có nhiều linh mục đã làm chứng cho chúng ta thấy chỗ đứng ưu tiên của Chúa trong cuộc sống, sự quân bình khôn ngoan trong việc dùng thì giờ cho việc cầu nguyện và cho việc phục vụ, tình huynh đệ linh mục, tiết kiệm trong việc tiêu dùng, quan tâm đến người nghèo. Một Quy Luật sống sẽ giúp cho giám mục và các linh mục bảo vệ được con đường nên thánh mà truyền thống của linh mục đoàn giáo phận đã để lại cho chúng ta.
- Quy Luật sống là một điểm quy chiếu cho việc xét mình cá nhân.
- “Hãy cân nhắc mọi sự: điều gì tốt thì giữ;còn điều xấu dưới bất cứ hình thức nào thì lánh cho xa” (1Thes 5,21-22).
Việc xét mình hằng ngày là một việc thiêng liêng không thể thiếu đối với linh mục. Việc làm này giúp chúng ta nhận ra những dấu chỉ của Chúa Thánh Thần hoạt động trong chúng ta và chung quanh chúng ta. Ngoài ra, nó còn bảo vệ cho lương tâm mình khỏi mối nguy nhầm lẫn luân lý mà các cơn cám dỗ thường gây nên khi chúng ta không nhận ra hoặc không chống trả chúng.
Xét mình là cuộc hẹn hò thông thường vào cuối ngày sống mà giờ Kinh Tối mời gọi chúng ta luôn thực hiện. Việc làm này cũng chuẩn bị cho chúng ta gặp gỡ Chúa Giêsu bằng một lương tâm chân thành và thống hối trong bí tích Hòa Giải.
Quy luật sống là một điểm quy chiếu rất hữu ích và đầy năng lực để đối chiếu lối sống của chúng ta trước lời mời gọi gìn giữ con tim trong cuộc đối thoại tình yêu với Chúa Giêsu và dấn thân bằng chính đức ái của Ngài cho anh chị em.
Việc đối chiếu này nếu được thực hiện với lòng khiêm tốn sẽ luôn giúp chúng ta nhận ra nhiều sự thiếu sót. Như vậy, mỗi buổi tối, chúng ta lặp lại lời thánh Phêrô: “Lạy Chúa, Chúa biết rõ mọi sự; Chúa biết con yêu mến Chúa” và đoan hứa việc hoán cải về những lầm lỗi mà mình đã phạm.
- Một Quy Luật sống được chia sẻ là góp phần xây dựng dân Chúa đã được ủy thác cho chúng ta.
- “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi, và chăm chú nhìn vào những ai sống theo gương chúng tôi để lại cho anh em” (Phil 3,17).
Người giáo dân nhìn vào việc làm của các linh mục để tìm thấy một bằng chứng cho những lời giảng dạy của các ngài. Chúng ta được đặt để trước cộng đoàn như những người của Chúa và những người phân phát các mầu nhiệm thánh. Bởi vậy, chúng ta không thể không nói lên lời này: “Thưa anh em, xin hãy cùng nhau bắt chước tôi”.
Ngoài mỗi linh mục, người tín hữu giáo dân còn chờ đợi nơi giám mục và các linh mục cùng hiệp nhất với ngài một chứng tá tập thể để thúc đẩy họ bước theo Tin Mừng. Dân chúng biết nhận ra qua lối sống và hành động chúng ta có biểu lộ đức ái mục tử của Chúa Giêsu hay không. Họ cũng chờ đợi xem chúng ta sống hài hòa với nhân đức ấy. Người ta sẽ đánh giá tận căn về mỗi linh mục biết bày tỏ từ thâm tâm về lòng trung thành với thiên chức linh mục của mình.
Quy Luật sẽ đề ra cách thế sống cách cụ thể về những lời cam kết mà chúng ta đã nói lên trước mặt giám mục trong ngày thụ phong. Bởi vậy, nếu cả linh mục đoàn chia sẻ cùng một Quy Luật thì chúng ta có thể nói với toàn thể dân Chúa rằng: “Thưa anh em, xin hãy bắt chước chúng tôi, như chúng tôi đã noi theo Đức Kitô”. Như vậy các tín hữu sẽ được xây dựng nhờ đời sống chứng tá của chúng ta.
- Quy Luật sống giúp cho việc sửa sai huynh đệ
- “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã chinh phục được người anh em”(Mt 18,15).
Sửa sai huynh đệ là một trong những việc bác ái cần thiết mà chúng ta cò thể thực hiện để giúp nhau sống trung thành với sứ vụ linh mục của mình. Là “bạn đồng nghiệp”, chúng ta cùng đồng hành trên con đường cứu rỗi, với sự tế nhị cần có, cùng trách nhiệm cho nhau, làm sao cho linh mục đoàn trở nên một cộng đoàn cứu rỗi thật sự và đừng để một ai phải hư mất.
Việc sửa sai huynh đệ trong bước đầu chỉ được thực hiện giữa tôi với bạn. Nếu không mang lại kết quả, như Chúa Giêsu dạy, thì cùng những người bạn khác, nhất là với giám mục là người có trách nhiệm trên mỗi linh mục của mình. Sửa sai huynh đệ cũng có thể trở thành một việc làm chung nếu cả một nhóm linh mục (cùng giáo hạt, bạn cùng lớp, bạn hữu) thật sự cảm thấy cần phải thực hiện.
Quy Luật sống này nếu được linh mục đoàn chia sẻ thì sẽ trở nên một sự trợ giúp cho việc sửa sai huynh đệ rất tốt. Thật vậy, đây là một điểm quy chiếu có thế giá đã được chính Giám Mục cùng với Hội Đồng Linh Mục đề ra và đã được tham khảo ý kiến của linh mục đoàn.
QUY LUẬT SỐNG
CỦA LINH MỤC GIÁO PHẬN
- Thánh Thể là « nguồn mạch và chóp đĩnh » của đời sống linh mục
- “Thưa Thầy, bỏ Thầy thì chúng con biết đến với ai? Thầy mới có những lời đem lại sự sống đời đời. Phần chúng con, chúng con đã tin và nhận biết rằng chính Thầy là Đấng Thánh của Thiên Chúa.”(Ga 6,68-69).
Lời Chúa Giêsu là “sự sống đời đời” bởi vì đó là Lời loan truyền và thực hiện ân huệ Mình và Máu Thánh của Ngài để mang lại sự sống cho thế gian. Chính chúng ta có bổn phận loan truyền Lời Chúa để cùng với cộng đoàn đi vào trong sự hiệp thông mật thiết nhất với Chúa Sống Lại.
Công Đồng Vaticanô II đã tái đề nghị trọng tâm của bí tích Thánh Thể đối với đời sống của mỗi người đã được rửa tội bằng chính thành ngữ “nguồn mạch và chóp đĩnh”, mạch sống và viên mãn cuộc đời của mỗi Kitô hữu và của cả cộng đoàn.
Đặc biệt trong đời sống linh mục, điều đó càng phải rõ ràng hơn. Chúa Giêsu đã thiết lập một tương quan đồng bản tính thật sự giữa Thánh Thể và vị chủ tế. Ngài đã đặt trong tay các tông đồ và những người kế vị chính Mình và Máu của Ngài, nghĩa là cả Con Người của Ngài trở nên toàn hảo nhờ Tình Yêu tự hiến trên thập giá và trong bí tích Thánh Thể (x. Dt 5,9). Để họ có quyền bính thiêng liêng làm cho Mầu Nhiệm Mình và Máu Ngài hiện diện qua việc tưởng niệm, Ngài đã dành cho họ một ân huệ đặc biệt của Chúa Thánh Thần bằng bí tích Truyền Chức Thánh.
- Để trở thành người tôi trung của Đức Kitô và của cộng đoàn trong việc chủ sự bí tích Thánh Thể, chúng ta được mời gọi hoán cải liên tục theo chương trình mà đức giám mục đã trao ban trong ngày thụ phong linh mục, khi ngài đặt vào đôi tay chúng ta bánh và rượu để được thánh hóa: “Con hãy nhận lễ vật của dân thánh mà dâng lên Thiên Chúa. Con hãy ý thức việc con làm, noi theo điều con cử hành và rập đời sống con theo khuôn mẫu thánh giá Chúa”.
Đó là cả một chương trình tổng hợp cách sâu xa giữa hành trình nên thánh cá nhân và việc thực hành chức vụ thừa tác mà qua đó chúng ta được mời gọi để so chiếu đời sống với hy tế của Chúa Giêsu, và rồi đến lượt chúng ta phải trở nên “của lễ tựa hương thơm ngào ngạt” (Eph 5,2; Phil 4,18).
- Những chỉ dẫn thực hành:
– Việc cử hành thánh lễ là thừa tác vụ quan trọng nhất mà chúng ta cống hiến cho cộng đoàn tín hữu (x Presbyterorum ordinis, 5). Bởi vậy, đó là thời gian quý báu nhất của ngày sống chúng ta, cách riêng vào Chúa Nhật và các ngày Lễ Trọng của năm phụng vụ. Vào những ngày ấy, khi không phải chủ sự hoặc không đồng tế, chúng ta vẫn được mời gọi tham dự vào việc cử hành cùng với cộng đoàn tín hữu, nhất là khi không phải bận rộn với những việc mục vụ quan trọng khác.
– Ngoại trừ những trường hợp không thể được, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải cố gắng trung thành với việc cử hành thánh lễ hằng ngày (x. Giáo Luật số 276; Bênêđictô XVI, Sacramentum caritatis, 80) bởi vì trong thánh lễ “chứa đựng tất cả của cải thiêng liêng của Giáo Hội” (Presbyterorum ordinis, 5).
– Điều quan trọng phải làm là chúng ta luôn dành thời gian để chuẩn bị cá nhân cho việc cử hành và cầu nguyện cám ơn sau thánh lễ.
– Chuẩn bị phụng vụ Lời Chúa theo các Bài Đọc, nhất là khi cần phải giảng giải.
– Luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ban ơn trợ giúp cho đức tin chúng ta trước khi bắt đầu cử hành và cho chúng ta được sốt sắng trong khi cử hành.
– Ngay cả trong phòng thánh cần giữ một bầu khí thinh lặng cầu nguyện, tránh những gì làm chúng ta lo ra chia trí.
- Thừa tác vụ Lời Chúa
- Điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi, mà chúng tôi thì hiệp thông với Chúa Cha và với Đức Giê-su Ki-tô, Con của Người” (1Ga 1,3)
Một thừa tác vụ khác thường được ủy thác cho các giám mục và linh mục là việc rao giảng Lời Chúa. Ngay từ buổi sơ khai, các tông đồ đã xem thừa tác vụ này như một bổn phận riêng, bằng việc ủy quyền cho các thừa tác viên trong cộng đoàn Ki-tô hữu (x Cv 6,2-4). Thật vậy, mỗi người đã được rửa tội và cả Giáo Hội “không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa cũng như từ bàn tiệc Mình Thánh Chúa Kitô” (Dei Verbum, 21).
Nhờ việc rao giảng hạt giống Lời Chúa rơi vào tâm hồn của người nghe và với hoạt động của Chúa Thánh Thần, hạt giống sẽ trổ sinh và làm cho cuộc sống người Ki-tô hữu được sinh nhiều hoa trái (x Mt 13,3-23).
Qua thừa tác vụ rao giảng, Thiên Chúa sẽ làm cho Vinh Quang của Gương Mặt Chúa Ki-tô được rạng ngời lên trong tâm trí của mỗi người đã được rửa tội cũng được đầy ánh sáng (x 2Cor 4,5-6).
- Những chỉ dẫn thực hành:
– Để thực thi thừa tác vụ rao giảng Lời Chúa, trước hết thừa tác viên phải là người trung thành lắng nghe Lời Chúa.
– Giám mục và linh mục cần được nuôi dưỡng tại bàn tiệc Lời Chúa mỗi ngày cũng như nơi bàn tiệc Mình Máu Thánh Chúa. Cách thế tốt nhất là tiếp sau giờ Kinh Sách, cần dành thời giờ để đọc và suy niệm Lời Chúa. Nhờ vậy, mỗi ngày chúng ta càng thân thiện với Lời Chúa hơn. Cũng cần lưu ý đến các Bài Đọc của thánh lễ hằng ngày, nhất là khi phải chuẩn bị bài giảng. Cần xem lại chương trình sống mỗi ngày: tốt hơn cả là khởi đầu bằng việc lắng nghe Lời Chúa và mở lòng trí chúng ta cho Chúa Thánh Thần hoạt động.
– Nếu được thì nên có giờ đọc và suy niệm chung về Lời Chúa giữa các linh mục với nhau, cũng như với các tu sĩ và giáo dân. Việc cầu nguyện chung với Chúa Thánh Thần và cùng chia sẻ về những cảm nghiệm thiêng liêng sẽ làm cho việc lắng nghe Lời Chúa phong phú hơn.
– Việc lắng nghe Lời Chúa có thể được bổ túc bằng việc suy niệm và lắng nghe những bản văn mang tính chất tu đức, nhất là của các Tiến Sĩ trong Giáo Hội.
– Đặc biệt cần chú trọng đến việc soạn bài giảng, nhất là vào các ngày Chúa Nhật và Lễ Trọng. Việc chuẩn bị cần lưu ý đến bản chất của bài giảng là giúp cho cộng đoàn hiểu các Bài Lời Chúa, dẫn vào việc cử hành Phụng Vụ Thánh Thể và thúc đẩy việc hoán cải đời sống.
– Trong mọi trường hợp, linh mục luôn có trách nhiệm về một sự chuẩn bị kỹ càng cho bất cứ một cuộc gặp gỡ nào mang tính chất huấn luyện để người Ki-tô hữu trưởng thành hơn nhờ việc lắng nghe Lời Mặc Khải.
- Thừa tác vụ Tha Thứ trong bí tích Hòa Giải
- “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ”(Ga 20,22-23).
Chúa Giêsu Sống Lại thổi Thần Khí của Ngài trên các tông đồ để ban cho các ông quyền tha tội (x Mc 2,7). Chính vì tội lỗi nhân lạoi mà Ngài đã phải đổ Máu mình ra để cứu chuộc. Đây là một ân huệ cao cả nên chúng ta phải làm thế nào để các Ki-tô hữu dễ dàng gặp gỡ được lòng nhân từ của Chúa, đặc biệt qua bí tích Hòa Giải để họ được giao hòa với Chúa, với Giáo Hội và lớn lên trong sự thánh thiện.
- Những chỉ dẫn thực hành:
– Để xứng đáng hơn trong thừa tác vụ tha thứ của Đức Ki-tô, chúng ta đừng bao giờ quên rằng chính chúng ta là những người tội lỗi như mọi anh chị em khác. Bởi vậy, chúng ta nên thường xuyên, ít nữa là hằng tháng, đến với bí tích Hòa Giải, để cầu xin Chúa tha thứ tội lỗi. Chúng ta đến với bí tích này với lòng khiêm nhượng chân thành, nếu có những lỗi phạm nặng nề, để lãnh nhận từ Chúa Thánh Thần ơn tha thứ và tiếp tục thừa tác vụ của mình, trong sự hiệp thông trọn vẹn với Chúa Giêsu là Đầu và với Giáo Hội là Thân Thể của Ngài.
– Để có một sự huấn luyện và biện biệt lương tâm thì cần phải được hướng dẫn của một cha linh hướng. Thật vậy, không một ai có thể tự mình lớn lên trong đời sống Ki-tô hữu.
– Trong thời đại mà con người đang suy giảm ý thức về tội lỗi và ít đến với bí tích Hòa Giải, thì chúng ta càng phải cảm thấy mình được mời gọi luôn sẵn sàng để cử hành bí tích này, trung thành với thời giờ đã được ấn định và thông báo cho giáo dân. Nơi nào vì nhu cầu mục vụ thật sự thì có thể giải tội ngay cả trong khi cử hành thánh lễ.
– Nên có một thời gian chuẩn bị cho thừa tác vụ này bằng việc cầu nguyện và cùng thông hiệp cách sâu xa với Con Tim của Chúa Giêsu và lòng nhân từ của Ngài. Khả năng liên kết lòng nhân từ và sự thật thường giúp cho hối nhân thật sự hoán cải.
– Bí tích Hòa Giải gồm những giai đoạn cử hành cần được quan tâm để hối nhân có thể thấu hiểu và sống bí tích này cách hiệu quả. Là thừa tác viên, chính chúng ta phải biết chuẩn bị cho việc cử hành này, ít ra là những yếu tố cần thiết, ngay cả lễ phục cũng đóng vai trò rất quan trọng.
- Thần vụ và việc cầu nguyện riêng
- “Còn chúng tôi, chúng tôi sẽ chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Thiên Chúa”(Cv 6,4).
Các tông đồ đã chọn thiết lập các phó tế ngoài việc phục vụ Lời Chúa, còn phục vụ cho việc cầu nguyện trong Giáo Hội và cho Giáo Hội cũng như cho toàn thể nhân loại. Cầu nguyện là việc ưu tiên đối với mỗi giám mục và linh mục, trong đó liên quan đến cả cộng đoàn như thánh Phao-lô đã viết cho Ti-mô-tê-ô: “Trước hết, tôi khuyên ai nấy dâng lời cầu xin, khẩn nguyện, nài van, tạ ơn cho tất cả mọi người” (1Tim 2,1).
- Việc cầu nguyện hữu hiệu nhất mà Giáo Hội đã gìn giữ suốt bao thế kỷ làPhụng Vụ Giờ Kinh, với việc làm này “thánh hiến trọn ngày đêm bằng lời ngợi khen Thiên Chúa”. Cầu nguyện không chỉ là một việc đạo đức riêng tư nhưng “còn là lời cầu nguyện của Chúa Ki-tô và thân thể Người dâng lên Thiên Chúa Cha” (Sacrosanctum concilium, 84). Cầu nguyện cũng là sự lan tỏa trong thời gian chính việc Tưởng Niệm bí tích Thánh Thể.
Phụng Vụ Giờ Kinh là một trong những cách biểu hiện của thừa tác vụ linh mục cho Giáo Hội. Nó đặt chúng ta hiệp thông với Đức Ki-tô, Đấng cầu bàu cho chúng ta trước mặt Thiên Chúa Cha như thư gởi tín hữu Do Thái khẳng định: “Người có thể đem ơn cứu độ vĩnh viễn cho những ai nhờ Người mà tiến lại gần Thiên Chúa. Thật vậy, Người hằng sống để chuyển cầu cho họ” (Dt 7,25).
Vào ngày chịu chức chúng ta đã nhận lãnh bổn phận cử hành hằng ngày toàn bộ Phụng Vụ Giờ Kinh để làm cho cộng đoàn thừa tác vụ ngợi khen và cầu thay nguyện giúp của chúng ta không bị suy giảm (x Giáo Luật, 276).
Tuy nhiên, chúng ta đừng vì luật buộc nhưng vì lòng yêu mến tham dự thật sự vào việc cầu nguyện của Đức Ki-tô và của Giáo Hội khi thi hành bổn phận này. Chính Chúa Giêsu đã dẫn đưa nhóm môn đệ vào mối tương quan cầu nguyện với Chúa Cha bằng gương sáng của Ngài (ngày và đêm) cũng như bằng những chỉ dẫn rõ ràng về việc cầu nguyện (x Mc 1,35; Lc 6,12; 9,18; 11,1-13…).
Mỗi khi có cơ hội chúng ta hãy đọc Phụng Vụ Giờ Kinh chung với anh em linh mục khác, vì đó là một trong những cách thế sâu xa nhất chứng tỏ tình huynh đệ linh mục. Ngay cả việc đọc chung với các tu sĩ và giáo dân cũng được cổ võ vì Phụng Vụ Giờ Kinh là lời cầu nguyện của cả Giáo Hội.
- Chầu Mình Thánh Chúa:Cầu nguyện trước mặt Chúa Giêsu đang hiện diện trong bí tích Thánh Thể là kéo dài sự hiệp thông cách thiêng liêng với Ngài khi cử hành và là sự chuẩn bị tốt nhất cho việc cử hành. Ngay cả việc lắng nghe và suy niệm Lời Chúa cũng tìm thấy khung cảnh thuận lợi nhất trước sự hiện diện thật sự của Chúa Giêsu. Trong khi ngày nay nhiều giáo dân khám phá ra sự phong phú thiêng liêng của việc cầu nguyện này thì chính các mục tử cũng phải biết làm gương.
- Mẹ Maria, Mẹ của Chúa Giêsu và của Giáo Hội, yêu mến cách đặc biệt các linh mục bởi vì các ngài nối tiếp giữa loài người hành động cứu rỗi của Con Mẹ. Do đó, các linh mục cần vun trồng mối tương quan đặc biệt này với Mẹ bằng việc lần chuỗi mân côi mà sự khôn ngoan của truyền thống giáo hội đã để lại cho chúng ta và lời kinh này có thể được đọc vào bất cứ giờ nào trong ngày.
Việc tôn kính Đức Mẹ cũng đặt chúng ta sống hòa hợp với biết bao nhiêu người Ki-tô hữu và với truyền thống của nhiều cộng đoàn đã có những hình thức thờ phượng và cầu nguyện với Mẹ Maria.
- Linh mục cũng cần vun trồng việctôn kính các thánhbởi vì các ngài làm cho đức tin vào mầu nhiệm các thánh cùng thông công thêm sống động. Chính chúng ta đang sống và đang tiến đến sự hiệp thông cùng các thánh. Các ngài hằng theo dõi trên cuộc hành trình của chúng ta, cầu bàu và làm cho đức tin và niềm hy vọng thêm vững mạnh bằng chính gương sáng của các ngài: “Như thế, phần chúng ta, được ngần ấy nhân chứng đức tin như đám mây bao quanh, chúng ta hãy cởi bỏ mọi gánh nặng và tội lỗi đang trói buộc mình, và hãy kiên trì chạy trong cuộc đua dành cho ta” (Dt 12,1).
Lòng đạo đức quần chúng được nuôi dưỡng bằng việc tôn kính các thánh sẽ luôn cảm thấy các ngài gần gũi hơn trong những khó khăn của cuộc sống.
Qua việc tôn kính này, chúng ta có học hỏi được rất nhiều nơi các thánh, nhờ tìm hiểu những tiểu sử và các bút tích thiêng liêng của các ngài.
- Việc linh thao và tỉnh tâmdành cho các linh mục là những cuộc gặp gỡ cần phải đặc biệt quan tâm để chia sẻ với những anh em linh mục khác trong khi cùng theo một cuộc hành trình chung. Chỉ được vắng mặt khi co lý do chính đáng.
Ngoài ra, chúng ta cũng cần có thêm những ngày thinh lặng và tỉnh tâm khác tại những nơi thích hợp.
- Đặc sủng độc thân và các mối tương quan
- “Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người. Với người Do-thái, tôi đã trở nên Do-thái, để chinh phục người Do-thái. Với những ai sống theo Lề Luật, tôi đã trở nên người sống theo Lề Luật, dù không còn phải sống theo Lề Luật nữa, để chinh phục những người sống theo Lề Luật. Đối với những kẻ sống ngoài Lề Luật, tôi đã trở nên người sống ngoài Lề Luật, dù tôi không sống ngoài luật Thiên Chúa, nhưng sống trong luật Đức Ki-tô, để chinh phục những người sống ngoài Lề Luật. Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người”(1Cor 9,19-22).
Thừa tác vụ rao giảng Tin Mừng và mục tử đặt chúng ta trong một điều kiện ngoại thường sống với nhiều mối tương quan khác nhau. Đặc sủng độc thân, ân huệ của Chúa Thánh Thần, cho chúng ta ơn sống trọn vẹn những tương quan ấy, đồng thời cũng giữ cho con tim mình được tự do và không chia sẻ.
Con người chúng ta cũng như cách thế đón nhận và yêu mến người khác là lối diễn tả của con người làm cho anh chị em khác có được kinh nghiệm về đức ái mục tử của Chúa Giêsu. Nhiều người chờ đợi nơi các linh mục sự tiếp đón và yêu mến họ bằng con tim của Chúa Giêsu, với cả sự tế nhị, lắng nghe, tự do và trung tín. Họ sẽ cảm thấy đau khổ và nghịch lý khi gặp thấy nơi linh mục ít quan tâm, thiếu tôn trọng và không mấy sẵn sàng tiếp đón họ.
Ân huệ độc thân, nếu được vun trồng, thì dần dần linh mục sẽ có được con tim của người mục tử với những đức tính làm cho mình có khả năng sống các mối tương quan và đức ái mục tử cách tốt đẹp.
Để anh chị em tín hữu có thể gặp được Nhân Tính của Chúa Giêsu trong nhân tính mục tử độc thân của chúng ta, thì cả cuộc sống chúng ta phải luôn luyện tập để ngày càng trở nên giống Chúa Giêsu Mục Tử hơn. Với ơn Chúa và với một nổ lực hoán cải thật sự, thì không có giai đoạn nào trong cuộc đời mà không thể làm thay đổi tính tình của mình trở nên tốt hơn.
Có những thái độ và những việc làm có thể tạo nên những tương quan tốt đẹp: chẳng hạn như chúng ta nghĩ đến tầm quan trọng của việc nhìn nhận nhau với cả những ưu khuyết điểm của mỗi người; quảng đại tiếp đón người khác với cả nhu cầu của họ trong con tim và trong cuộc đời chúng ta; truyền thông rộng mở và tin tưởng đối với người khác mà vẫn giữ được thế giá của mình; sẵn sàng cộng tác bằng cách chia sẻ những mục tiêu và tôn trọng lãnh vực của mỗi người; xây dựng tình tương thân tương ái.
Nếu linh mục biết luyện tập những thái độ này, thì thừa tác vụ của mình sẽ được tăng trưởng trong sự thánh thiện, nghĩa là trong một đức ái mục tử và trung trinh luôn được thanh luyện.
- Trong Giáo Hội, những tương quan huynh đệ ngoài khả năng con người, còn được hun đúc nhờ sự thông hiệp với Chúa Giêsu trong bí tích Thánh Thể và nhờ sự hoạt động của Chúa Thánh Thần. Có một sựtương trợ siêu nhiênmà con mắt phàm trần chúng ta không thể thấy được. Sự thánh thiện của những người đã được rửa tội có một ảnh hưởng tốt lành trong cả Giáo Hội cũng như những bất trung và tội lỗi của họ gây nặng nề cho những anh chị em khác.
Sự thánh thiện của giám mục và linh mục sẽ nâng đỡ cộng đoàn tín hữu mà các ngài được sai đến và cho cả giáo phận.
– Một tương quan được xây dựng trên đức ái sẽ là lời nguyện cầu cho những ai cùng chúng ta đang lữ hành trên dương thế, cũng như cho những anh chị em đã qua đời. Chống lại chủ nghĩa hiệu năng của người đời, linh mục luôn biết tin tưởng vào hiệu năng của lời cầu nguyện ngợi khen và chuyển cầu cho Giáo Hội và cho riêng mỗi người. Ngoài ra, chúng ta biết rằng lời cầu nguyện và những đau khổ của anh chị em bệnh hoạn, tật nguyền cũng góp phần cho sự thánh thiện của anh chị em khác và cho sự hiệp thông trong Giáo Hội.
– Cả việc rao giảng cũng tạo nên một mối tương quan thiêng liêng giữa mục tử và cộng đoàn. Việc rao giảng Tin Mừng của linh mục, nhờ Chúa Thánh Thần tác động, đến với lương tâm của các tín hữu và dẫn đưa họ đến với việc hoán cải. Hơn nữa, còn xây dựng cộng đoàn trên nền tảng cùng một niềm tin vào Chúa Giêsu Ki-tô.
– Ngày nay, chúng ta cần củng cố niềm tin vào sự tương trợ siêu nhiên mà Giáo Hội gọi là “các thánh cùng thông công”. Thật vậy, đó chính là mối dây mạnh nhất nối kết những người đã được rửa tội với Chúa Giêsu và giữa họ với nhau, một sự liên kết không thể bị cắt đứt ngay cả bởi sự chết.
- Những mối tương quan nhân bản quan trọng nhất đối với một linh mục giáo phận đó là tương quanvới giám mục của mình và với tất cả anh em linh mục. Cách thức mà Chúa Giêsu chỉ dẫn cho nhóm mười hai có thể áp dụng cho linh mục đoàn quanh giám mục. Như đối với các tông đồ quanh Chúa Giêsu, thì đối với linh mục cũng vậy, linh mục đoàn là “gia đình” mới không bởi xác thịt mà do bởi Thần Khí (x Mc 3,31-35; Mt 12,46-50; Lc 8,19-21…). Vì lý do đó, linh mục đoàn được xây dựng trên ân sủng của bí tích Truyền Chức Thánh, sẽ là nơi chốn cụ thể nhất để làm tăng trưởng mối tương quan huynh đệ trong các nhân đức.
- Tương quan với giám mục. Giám mục có được nơi các linh mục như là những người anh em đầu tiên và là những cộng tác viên của mình: “Chính vì sự hiệp thông trong cùng một chức tư tế và thừa tác vụ, các giám mục phải coi các linh mục như anh em và bạn hữu, và phải hết sức lo lắng đến lợi ích vật chất và nhất là thiêng liêng của các ngài” (Presbysterorum ordinis, 7).
Mối liên hệ bí tích và trách nhiệm mục vụ chung cần được sống và vun trồng bằng một tương quan cởi mở và thân thiện giữa giám mục và linh mục.
– Giám mục có bổn phận như một người cha đối với mỗi linh mục của mình, luôn mở rộng cửa để gặp gỡ và đối thoại, đặc biệt quan tâm đến những anh em đang gặp khó khăn, sẵn sàng lắng nghe những góp ý, đồng thời cũng mong muốn sự vâng phục nơi các linh mục khi đã cảm thông được với nhau.
– Linh mục yêu mến giám mục của mình bằng cách cầu nguyện cho ngài trong mỗi thánh lễ, luôn vâng phục những đòi hỏi của sự cam kết riêng cũng như những đường lối mục vụ giáo phận, sẵn sàng cộng tác và chia sẻ những thao thức của giáo phận.
– Giám mục luôn giữ sự hiệp thông với mọi linh mục và với mỗi linh mục, nhờ cả những người cộng tác luôn sẵn sàng giúp đỡ các anh em mình.
- Tương quan với anh em linh mục. Bí tích Truyền Chức Thánh và đồng sứ mạng trong Giáo Hội làm cho các linh mục trở thành anh em với nhau không phân biệt người nào và cũng không loại trừ một ai.
– Chia sẻ việc cầu nguyện, lắng nghe Lời Chúa và cùng cử hành Thánh Lễ mỗi khi có dịp, sẽ nuôi dưỡng tình huynh đệ giữa linh mục với nhau.
– Mối tương quan này sẽ cụ thể hơn trong sự hiệp thông đời sống và sứ vụ tùy theo những hình thức và mức độ khác nhau. Mọi chương trình mục vụ trong giáo phận và trong Giáo Hội đều tùy thuộc trước hết vào sự hợp tác của các linh mục. Đó cũng là một trong những mục tiêu mà mỗi người cần nhìn nhận sự thiếu sót của mình để có được một sự hoán cải theo lời mời gọi của Chúa.
– Nơi nào các linh mục có thể sống chung, thì phải tổ chức làm sao cho nhà xứ trở nên nhà của mọi người để có được sự hiệp thông và cộng tác trong việc mục vụ. Chẳng hạn như giờ cầu nguyện chung, trung thành giữ giờ cơm chung, những buổi gặp gỡ để xếp đặt và kiểm điểm lại chương trình, sử dụng những phương tiện chung là bổn phận của mỗi người và là dấu chỉ cụ thể của tình huynh đệ.
– Những cơ hội hiệp thông giữa các linh mục đều được khuyến khích, chẳng hạn như họp hạt, ăn chung, chia sẻ Lời Chúa và cùng nhau dọn bài giảng, gặp gỡ giữa các bạn hữu và bạn cùng lớp. Mỗi người đều góp phần của mình.
– Một hình thức tốt đẹp và đòi hỏi nhất đối với đức ái là sửa lỗi cho nhau. Việc làm này cần có một tình yêu chân thành đối với người anh em ngay cả trong những lỗi lầm và yếu đuối của họ. Trước hết, giữa cá nhân với nhau cách tế nhị, kín đáo. Nếu không đạt được kết quả thì sau đó mới nhờ đến những anh em khác.
Việc sửa sai cho nhau cũng giúp chữa lành xu hướng “nói hành nói xấu” và phê bình chỉ trích các bề trên và anh em mình mà không lãnh nhận một trách nhiệm nào trong việc sửa sai.
– Để đóng vai trò tích cực vào sự hiệp thông trong hang ngũ linh mục, mỗi linh mục đều được mời gọi đến một sự hoán cải liên tục để được trưởng thành hơn trong các đức tính. Một trong các đức tính, đó là tính lạc quan thực tiễn, bởi vì thông thường chúng ta bị thấm nhiễm bởi một loại bi quan dẫn đến việc nhận ra gay lập tức “cái xà trong mắt của người anh em” và cả những thất bại của nhiều hình thức huynh đệ và hợp tác đang có giữa chúng ta. Sự hiệp thông chỉ được xây dựng bởi những ai biết thẩm định cả từng nửa bước đã thực hiện được và khuyến khích tiến thêm nửa bước khác.
– Một dấu chỉ tình yêu đối với linh mục và đối với Giáo Hội địa phương là việc chăm sóc ơn gọi linh mục và đời sống thánh hiến. Giúp các bạn trẻ được mời gọi đến chức linh mục biết phân định ơn gọi của mình và nâng đỡ họ tiến bước là bổn phận trước nhất của giám mục và các linh mục.
- Những mối tương quan trong các cộng đoàn. Sự hiện diện và hoạt động của mục tử rất quan trọng trong các cộng đoàn Ki-tô hữu để tạo nên những mối tương quan huynh đệ và tiếp nhận nhau. Những mối tương quan này có nguồn gốc trong việc cử hành phụng vụ, nhất là trong thánh lễ. Ngày nay người ta cảm thấy cần phải có những mối tương quan này bởi vì xã hội hiện tại ngày càng làm cho con người xa cách hơn là gần gũi nhau.
Chúng ta được mời gọi để trao ban chính con người chúng ta, như những mục tử tốt lành ở giữa đoàn chiên (x Ga 10,11-13) để làm cho các mối tương quan huynh đệ tăng trưởng hơn trong các cộng đoàn.
Về bổn phận này, Thánh Phê-rô cũng đã để lại những chỉ dẫn cho các linh mục như sau: “Cùng các bậc kỳ mục trong anh em, tôi xin có mấy lời khuyên nhủ, vì tôi cũng thuộc hàng kỳ mục, lại là chứng nhân những đau khổ của Đức Ki-tô và được dự phần vinh quang sắp tỏ hiện trong tương lai. Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tuỵ. Đừng lấy quyền mà thống trị những người Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi Vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ được lãnh triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1P 5,1-4).
Mục Tử Tốt Lành trước hết phải quan tâm đến mỗi người vì phẩm giá của họ là hình ảnh của Thiên Chúa. Không đối xử phân biệt với bất cứ một ai và đừng để mình bị lệ thuộc vào những điều kiện xã hội hay lợi lộc vật chất. Trong khi đón tiếp mọi hạng người, người mục tử biết mình đang dành thời giờ cho sứ mạng để đừng quá hẹp hòi cũng như quá lãng phí. Khiêm tốn làm những gì có thể được, không nhằm danh lợi và luôn nhớ rằng mình còn có trách nhiệm đối với cả cộng đoàn nữa.
– Theo gương Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tốt Lành, luôn quan tâm đến những người nghèo và đau khổ về thể xác cũng như tinh thần. Ngài không làm việc một mình, nhưng lôi kéo cả mọi thành phần trong cộng đoàn vào việc bác ái này.
– Vun trồng mối tương quan với các đôi vợ chồng và các gia đình trong sứ vụ của linh mục, cũng giúp cho đời sống độc thân của được phong phú hơn và cho đức ái mục tử của mình. Lòng trung thành của vợ chồng Ki-tô hữu và sự hy sinh của họ, có khi đến mức độ anh hùng nơi những người cha và người mẹ cho gia đình, là một chứng tá về đức ái rất cụ thể đối với linh mục. Khi có thể được, linh mục nên viếng thăm các gia đình và ban phép lành cho họ.
– Đặc biệt cha sở có trách nhiệm lãnh đạo cộng đoàn Ki-tô hữu trong mọi lãnh vực, bắt đầu từ việc cử hành Thánh Thể. Đồng thời, linh mục cũng có bổn phận cổ võ các đặc sủng và ơn gọi trong cộng đoàn, quan tâm đến các đoàn thể, hiệp hội, phong trào, những người khuyết tật, yếu đau, các gia đình… Nhìn nhận nơi người tín hữu giáo dân một sự cộng tác tích cực theo khả năng chuyên môn của họ, chứ không chỉ sai bảo họ từng công việc. Thành lập và canh tân Hội Đồng Mục Vụ và Hội Đồng Kinh Tế giáo xứ để cộng tác với mình trong việc điều hành cộng đoàn.
– Một dấu chỉ trung thành với cộng đoàn Ki-tô hữu là sự hiện diện thường xuyên của mình trong giáo xứ. Những lần vắng mặt, nhất là thời gian lâu, thì cần có lý do chính đáng và được sự đồng ý của cha quản hạt hoặc các bề trên trong giáo phận. Trong trường hợp một cha sở phải trông coi nhiều giáo xứ, thì cần phân phối thời gian cho đồng đều và thông báo chương trình rõ ràng cho giáo dân. Tuy nhiên, điều quan trọng là bảo đảm sự liên lạc khi cấn kíp.
- Vun trồng đặc sủng độc thân. Giáo Hội Công Giáo La-tinh vẫn tái khẳng định, cả trong thời gian gần nhất, có “nhiều điểm thuận lợi của sự độc thân đối với những thừa tác viên của Chúa” (Phao-lô VI,Sacerdotalis celibatus, 18). Giáo Hội tiếp tục tuyển chọn những linh mục của mình giữa những người nhìn nhận đặc sủng sống độc thân.
Ân huệ này của Chúa Thánh Thần mang lại trong nhân tính của mục tử một cách thế yêu thương bằng các phẩm tính của Tin Mừng nơi những ai biết từ bỏ tất cả để đón nhận tất cả nhân danh Chúa Giêsu. Cũng như mỗi ân huệ thiêng liêng khác, ân huệ độc thân cũng cần được gìn giữ và vun trồng để nó có thể trưởng thành hơn và không bị hư mất.
– Luật độc thân, trước hết, cần được gìn giữ trong mối tương quan với Chúa Giêsu với cả nhiệt tình, trọn vẹn và với cả con tim không chia sẻ. Cuộc đối thoại tình yêu với Chúa Giêsu Sống Lại mà chúng ta đã nói đến ngay từ đầu đối với linh mục sống độc thân vẫn mang một đặc tính hỗ tương sâu sắc đến nỗi nó được định nghĩa như là một “hôn ước”. Mọi người đều được yêu thương trong mối tương quan với Chúa Giêsu và thiện ích dành cho họ đều dẫn đến với Ngài, trong khi chúng ta vẫn yêu thương họ bằng cả con tim: “Thật thế, cho dầu anh em có ngàn vạn giám thị trong Đức Ki-tô, anh em cũng không có nhiều cha đâu, bởi vì trong Đức Ki-tô Giê-su, nhờ Tin Mừng, chính tôi đã sinh ra anh em” (1Cor 4,15).
– Tiếp đến, cần được vun trồng và vui sống rộng mở hằng ngày với anh chị em, bằng con tim luôn nhạy bén trong tự do, tế nhị, để hướng dẫn mọi người đến với Chúa Giêsu, chứ không phải dẫn đưa họ đến với mình. Tình bạn chân thành với người khác và với các gia đình đối với một linh mục là điều rất tốt đẹp và hữu ích. Tuy nhiên, tình bạn đó đừng trở nên một sự đối xử phân biệt và có thể làm cho người khác phải đau buồn.
– Sự độc thân trưởng thành được gìn giữ nhờ có đức khiết tịnh, sống tự trong tâm hồn, trong giác quan và trong cả thân xác. Cần có một tinh thần khiêm tốn, cảnh giác về những năng lực tình cảm và tính dục, đừng để mình rơi vào những mối tương quan không mấy tự do và thiếu tôn trọng phẩm giá của người khác, ngay cả khi người ấy không có một thỏa hiệp nào.
– Cách riêng, phải có lòng chân thành tế nhị trong các mối tương quan với nữ giới mà chúng ta thường tiếp xúc gặp gỡ trong khi phục vụ cộng đoàn. Lịch sử của Giáo Hội cho chúng ta thấy, nữ giới thường đóng góp rất nhiều cho các cộng đoàn với sự nhiệt tình của họ. Đồng thời, chúng ta phải làm sao để giữ được một tương quan trong sáng đối với mọi người, đừng để họ xa lánh Giáo Hội vì chính lối sống của chúng ta.
– Trong bối cảnh đầy quyến rũ trên lãnh vực tính dục như xã hội ngày nay, chúng ta cần lưu ý đến việc sử dụng các phương tiện truyền thông và luôn nhớ đến điều mà Chúa Giêsu đã cảnh giác cho các môn đệ: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (Mt 5,29-39).
Sự khôn ngoan của các bậc thầy linh hướng mời gọi chúng ta hãy xa lánh những cơ hội để khỏi phải sa chước cám dỗ dẫn đưa đến tội lỗi và quấy rối lòng ước muốn và bản năng của chúng ta.
Nơi nào có các linh mục sống chung, thì có thể giúp đỡ nhau trong việc sử dụng tốt các phương tiện truyền thông chung, chẳng hạn như truyền hình, internet và các dụng cụ truyền thông xã hội khác.
- Một lối sống biểu lộ căn tính của mình. Người ta thường nhìn linh mục như người đã dâng mình cho Thiên Chúa, người rao giảng Tin Mừng, người cử hành các Mầu Nhiệm Thánh, người tiếp nhận mọi người bằng đức ái và lòng kính trọng. Bởi vậy, họ chờ đợi nơi con người linh mục một lối sống xứng hợp hơn, ngay cả trong cách ăn mặc, nói năng và hành động.
Ngôn từ, cách diễn tả, những sở thích cá nhân, phong cách của linh mục phải biểu lộ sự trưởng thành giữa con người và thừa tác vụ, giữa vai trò và căn tính riêng.
- Tương quan với thân nhân. Với việc thụ phong chúng ta đã được thánh hiến cho Giáo Hội, do đó, những tương quan máu mủ với thân nhân cũng chịu thay đổi. Chúng ta từng biết rằng Chúa Giêsu đòi hỏi gì nơi những người muốn theo Ngài:“Một người khác nữa lại nói: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy, nhưng xin cho phép tôi từ biệt gia đình trước đã.” Đức Giê-su bảo: “Ai đã tra tay cầm cày mà còn ngoái lại đàng sau, thì không thích hợp với Nước Thiên Chúa.” (Lc 9,61-62).
– Các bậc phụ huynh thường đồng hành và cùng trưởng thành với con mình trong thời gian ở chủng viện, và các ngài cũng theo dõi người con linh mục của mình qua lời cầu nguyện cũng như nâng đỡ bằng cách này hoặc cách khác.
– Là con cái, linh mục cũng được mời gọi đáp trả những gì mình đã lãnh nhận được từ nơi cha mẹ bằng lòng yêu mến và chăm sóc đối với các ngài, nhất là trong những giai đoạn khó khăn của đời người, cùng hợp tác với những anh chị em và thân nhân khác.
– Tuy nhiên, mối tương quan này đòi hỏi một sự tự do thật sự để đừng gây ảnh hưởng nhiều đến trách nhiệm mà linh mục phải có đối với Giáo Hội. Sự tự do ấy tránh được những can thiệp của thân nhân vào những chọn lựa mục vụ và cả trong lãnh vực kinh tế.
- Tổ chức thời giờ
- Sử dụng thời giờ cách khôn ngoan là một việc làm rất quan trọng đối với đời sống thiêng liêng như Lời Chúa đã nhắn gởi chúng ta:“Xin dạy chúng con đếm tháng ngày mình sống, ngõ hầu tâm trí được khôn ngoan”(Tv 90,12). Bởi vậy, chúng ta cần có những nguyên tắc chính xác để sử dụng tốt thời giờ mà Chúa đã ban. Chúng ta là những người có toàn quyền tự do trong việc tổ chức thời giờ và cả trong những chọn lựa mà không một ai có thể hỏi lý do nếu không phải là Chúa.
– Phụng Vụ Giờ Kinh và cử hành Thánh Lễ phải là việc thánh hóa thời giờ của cả những hoạt động khác làm nên ngày sống của chúng ta.
Trung thành với việc cầu nguyện qua Phụng Vụ Giờ Kinh giúp chúng ta hiểu được ý nghĩa của thời gian mà Chúa Giêsu đã khai mạc bằng Việc Sống Lại của Ngài: “Thưa anh em, tôi xin nói với anh em điều này: thời gian chẳng còn bao lâu. Vậy từ nay […] kẻ hưởng dùng của cải đời này, hãy làm như chẳng hưởng. Vì bộ mặt thế gian này đang biến đi” (1Cor 7,29.31).
– Cần có một kỷ luật trong chương trình làm việc và ngủ nghỉ để có được một ngày sống quân bình. Bắt đầu ngày sống của mình sớm cũng là một dấu chỉ cụ thể cảm thông với những công nhân và những người cha gia đình thường phải thức khuya dậy sớm. Kỷ luật trong chương trình kết thúc ngày sống của mình với giờ Kinh Tối, cũng giúp mình khỏi phải mất thời giờ vào những chuyện vô bổ.
– Công việc hằng ngày cũng cần được sắp xếp theo tính chất ưu tiên của thừa tác vụ, không làm việc theo cảm hứng hoặc đột xuất. Xem lại chương trình sống hằng ngày với cha linh hướng hoặc với một người anh em bạn làm sao cho việc phục vụ của mình đối với cộng đoàn mang lại được kết quả tốt đẹp.
– Các phương tiện truyền thông xã hội (truyền thanh, truyền hình, dụng cụ âm nhạc, internet, điện thoại…) cần được sử dụng như những dụng cụ cần thiết theo một mực độ nào đó. Điều này đòi hỏi phải có một kỷ luật giúp chúng ta làm chủ các phương tiện ấy, đồng thời không mất nhiều thời giờ hoặc trở thành “nô lệ” của chúng.
– Để mang lại hiệu quả cho sứ mạng linh mục hôm nay, chúng ta cần tìm thời giờ học hỏi thêm, bởi vì những gì chúng ta đã học trong những năm ở chủng viện vẫn luôn được bổ túc và phong phú hơn qua những tài liệu của Huấn Quyền, những sách báo có giá trị, những tin tức về các biến cố trong xã hội. Không có việc học hỏi này thì kiến thức và việc giảng dạy của chúng ta ngày càng nghèo đi.
– Sự khôn ngoan còn mời gọi chúng ta chọn thời giờ nghỉ ngơi và giải trí. Nên dành một ngày nghỉ trong tuần và một thời gian nghỉ trong năm (không nên quá một tháng, liên tục hoặc gián đoạn), và thời gian nghỉ ngơi này cũng cần được sống theo tinh thần tin mừng, đồng thời cũng bồi dưỡng cho chúng ta về sức khõe cũng như mang lại lợi ích cho thừa tác vụ. Trong chiều hướng này, giáo phận cũng khuyến khích anh em chia sẻ những kỳ nghỉ với nhau. Ngoài thời gian ấy, anh em nào vắng mặt quá một tuần thì cần báo cho Cha Quản Hạt hoặc Đấng Bản Quyền biết.
– Bảo vệ sức khõe cũng là một bổn phận quan trọng để chúng ta có thể phục vụ hữu hiệu hơn. Điều kiện sống độc thân đôi lúc làm chúng ta không mấy quan tâm đến sức khõe của mình. Bởi vậy, cần phải có một sự quân bình khôn ngoan trong việc làm, kể cả việc ăn uống, cũng như khám sức khõe định kỳ.
- Sử dụng tiền của theo đòi hỏi của đức khó nghèo
- “Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được. Vì vậy Thầy bảo cho anh em biết: đừng lo cho mạng sống: lấy gì mà ăn; cũng đừng lo cho thân thể: lấy gì mà mặc. Mạng sống chẳng trọng hơn của ăn, và thân thể chẳng trọng hơn áo mặc sao? […] Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Người, còn tất cả những thứ kia, Người sẽ thêm cho”(Mt 6,24-25.31-33).
Một trong những dấu chỉ phân biệt mà Chúa Giêsu đòi hỏi nơi người môn đệ là thái độ không dính bén đến tiền của. Nhờ vậy, chúng ta được tự do để phục vụ Chúa và Vương Quốc của Ngài. Hơn nữa, nó còn chứng tỏ lòng tín thác của chúng ta vào Chúa Cha với sự Quan Phòng của Ngài, Đấng không bao giờ bỏ rơi con cái như Chúa Giêsu đã dạy chúng ta trong Kinh Lạy Cha.
Giáo dân rất nhạy bén nhận thấy nơi chúng ta dấu chỉ phân biệt này và thường chỉ trích linh mục nào quá ham mê tiền của. Bởi vậy, trong một xã hội tiêu thụ như ngày nay, chúng ta phải coi chừng đừng để mình bị ảnh hưởng và sống nghịch với Tin Mừng.
- Một vài chỉ dẫn:
– Đối với linh mục triều có một nguyên tắc căn bản này: tiền bạc mà linh mục nhận được từ nhiều nguồn khác nhau không phải là tài sản riêng để mình sử dụng vào bất cứ việc gì. Tất cả đều đến từ lòng bác ái của nhiều người ở nhiều nơi khác nhau trong Giáo Hội nhằm phục vụ cho Giáo Hội.
– Với tình trạng xã hội hiện nay, linh mục được xếp vào trong số những người có đời sống vật chất khá bảo đảm. So với nhiều giáo dân và gia đình của họ đang thiếu thốn về mọi mặt, thì chúng ta như những người được ưu đãi hơn. Cũng vì thế, chúng ta sẽ phải tính sổ trước mặt Chúa.
– Sau khi chi phí vào những gì cần thiết cho cuộc sống, linh mục phải biết dùng những tiền của để phục vụ cho cộng đoàn giáo xứ, cho công việc truyền giáo, đặc biệt chia sẻ cho những người đang gặp khó khăn, để tâm hồn chúng ta khỏi phải dính bén vào những kho tàng chóng qua: “Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, […] Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó”. (Mt 6,19.21). Đừng để người ta cho rằng một linh mục mà chỉ lo thu tích tiền của.
– Đối với linh mục cũng có thể áp dụng tâm thức tin mừng về người quản lý tốt trong việc chi dùng tiền của: “Phần Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: hãy dùng Tiền Của bất chính mà tạo lấy bạn bè, phòng khi hết tiền hết bạc, họ sẽ đón rước anh em vào nơi ở vĩnh cửu”(Lc 16,9).
– Chúa Giêsu cũng đòi hỏi nơi những người rao giảng Tin Mừng đừng mang theo bao bị hay áo choàng để thay (x Mt 10,10). Nếu không áp dụng được từng chữ thì ít nữa chúng ta cũng phải có một lối sống đơn giản trong các ăn mặc, trong phương tiện đi lại, trong những dụng cụ thông thường, trong cách giải trí và nghỉ ngơi. Ngay cả trong cách chưng bày tại nhà xứ và cách sống, linh mục cần chứng tỏ tính đúng mức và xứng hợp, đồng thời cũng tạo được sự tiếp đón cần thiết. Điều này càng cần phải lưu ý hơn khi có nhiều linh mục cùng chung sống. “Phải tránh tất cả những gì bằng cách này hay cách khác có thể làm mình xa cách người nghèo, và hơn các môn đệ khác của Đức Ki-tô, các linh mục phải loại bỏ mọi thứ khoe khoang trong các đồ dùng của mình. Các ngài phải xếp đặt chỗ ở của mình thế nào để không ai coi đó là nơi bất khả xâm phạm, và để không một ai dù nghèo hèn đến đâu phải sợ hãi không bao giờ dám lui tới” (Presbyterorum ordinis, 17).
– Cần phải lương thiện trong trách nhiệm đối với việc quản lý giáo xứ hay những công việc khác của giáo phận về mặt kinh tế. Cha sở, trong nghi thức nhậm chức, đã tuyên bố làm việc theo những nguyên tắc rõ ràng và nghiêm chỉnh. Cần chia sẻ những chọn lựa của mình với những cơ chế đã có và trình bày lý lẽ của những chọn lựa ấy cách rõ ràng. Ngoài ra, cần lưu ý đến những quy luật giáo phận về việc quản trị các tài sản.
– Làm di chúc là một việc làm công minh, nhất là di chúc thiêng liêng để lại cho anh em linh mục và giáo dân những cảm nghiệm về chính đời linh mục của mình. Trong di chúc, cần ghi cách rõ ràng về tiền của riêng sẽ để lại cho những ai. Tuy nhiên, hãy luôn nhớ rằng những gì mình có, trước hết, nên nghĩ đến những nhu cầu của Giáo Hội, đặc biệt lưu ý đến những nơi cần thiết, chẳng hạn như cho công việc truyền giáo, chủng viện, nhà hưu dưỡng linh mục…
– Một điều khác cần lưu ý là thường có nhiều người đến với linh mục để xin trợ giúp về tiền bạc. Bên cạnh lòng quảng đại còn có đức khôn ngoan, đừng để mình phải sa vào cạm bẫy tình cảm hoặc bị lừa gạt. Cần phải rõ ràng và cẩn trọng trong việc quản lý tiền bạc, nhất là khi nó không phải tài sản riêng. Và ngay cả tiền của riêng cũng phải được sử dụng trước hết cho những việc cần thiết của cộng đoàn.
- Kết luận
- “Chúng tôi đã quý mến anh em, đến nỗi sẵn sàng hiến cho anh em, không những Tin Mừng của Thiên Chúa, mà cả mạng sống của chúng tôi nữa, vì anh em đã trở nên những người thân yêu của chúng tôi”(1Thes 2,8).
Lời này nói lên con tim của Thánh Phao-lô Tông đồ và người rao giảng Tin Mừng với cả đức ái mục tử của mình. Trong lời này, chúng ta cũng nghe được âm vang của lệnh truyền mà Chúa Giêsu Sống Lại đã nói với Phê-rô: “Hãy chăm sóc chiên con của Thầy” và “hãy chăn dắt chiên mẹ của Thầy”. Đối với linh mục, việc chăm sóc đoàn chiên của Đức Ki-tô có nghĩa là truyền đạt Tin Mừng của Ngài bằng cả cuộc sống của mình.
Chính con tim mục tử chúng ta cũng phải luôn trở nên giống con tim của Đức Ki-tô mỗi ngày một hơn, nhờ được đánh động bởi đức ái của Chúa Ki-tô và của Thần Trí Ngài.
Quy Luật sống sẽ giúp chúng ta trung thành trao ban Tin Mừng Cứu Độ bằng chính việc trao ban cả cuộc đời chúng ta.
2023
Một Ca Đoàn hiệp hành trong một Giáo Hội hiệp hành
Tổng Giáo phận Sàigòn – Tp.HCM
1. Ca đoàn – Ban hát – Ban hợp xướng: là một Đoàn thể Tông Đồ hiệp thông hiệp hành với nhau tạo nên một tập thể “Đồng tâm nhất trí hay Đồng thanh nhất trí” trong một giáo xứ.
“Ca đoàn như một Cộng đoàn trong Cộng đoàn các tín hữu hay Cộng đoàn Dân Chúa – Giáo Hội – Thân mình Đức Kitô. Là một hội đoàn, một hội hát, một ban hợp ca, đồng ca…, một “đoàn thể tông đồ” trong Cộng Đoàn Dân Chúa, trong Giáo xứ… có nhiệm vụ hay sứ mạng hát lễ, cất hát… những bài ca, các thánh thi, thánh vịnh, vinh tụng ca… trong nhà thờ, trong các cuộc cử hành phụng vụ…” (Hướng dẫn Mục vụ Thánh nhạc, số 29).
Ca đoàn được mời gọi, quy tụ lại với nhau như một Cộng đoàn, một lối sống Tin Mừng trong Cộng đoàn các tín hữu được các Kitô hữu, như các chi thể hợp thành Thân Mình Đức Kitô. Theo dòng lịch sử cứu độ Thiên Chúa tự tỏ lộ, mặc khải chính mình như là Đấng yêu thương con người, muốn kề cận gặp gỡ con người, nên đã mời gọi quy tụ, tuyển chọn, thánh hóa và thánh hiến con người bằng cách quy tụ con người vào một Cộng đoàn Dân Chúa, Cộng đoàn Giáo Hội.
Hay nói cách khác, Kinh Thánh mặc khải cho chúng ta biết trong lịch sử Thiên Chúa tìm mọi cách để cứu độ con người, không như những cá nhân lẻ loi, đơn độc, nhưng đưa con người vào trong một Cộng đoàn, kết giao thành một Cộng đoàn. Cộng đoàn các tín hữu là những người đã được rửa tội, được mời gọi, được quy tụ lại nhân danh Đức Kitô, để sống với nhau như một Giáo Hội.
Và Giáo Hội được thiết lập như một Cộng đoàn, nên được gọi là “Dân Thiên Chúa”, dân được thánh hiến cho Chúa, hoàn toàn thuộc về Chúa, dưới sự che chở phù trì, bảo trợ của Chúa – Giáo Hội cũng là “Thân Mình Đức Kitô”: Người là Đầu và tất cả đều là các chi thể hiệp thông cùng một sự sống và tình yêu, cùng hoạt động với nhau, hài hòa liên đới với nhau như các bộ phận mang trách nhiệm tương tác với nhau, hiệp thông với Đức Kitô và với nhau.
Và Giáo Hội là “Đền Thờ Chúa Thánh Thần”, để các tín hữu là một dân tư tế, tôn thờ, chuyên lo việc phụng tự, cử hành các mầu nhiệm thánh, hy lễ cứu độ, chúc tụng, ngợi khen, tạ ơn và cầu khấn.
Ca đoàn sống hiệp hành giữa lòng Cộng đoàn Giáo Hội, “đồng tâm nhất trí”, một lòng một ý với nhau (đồng nghị), cùng nhìn về một hướng, hiệp thông với nhau và đồng hành, cùng một dự án sinh hoạt, cùng nhau đi tới để thi hành sứ vụ thánh nhạc, thi hành ý Chúa, đúng với ơn gọi của mình.
Như chứng từ của các tín hữu tiên khởi trong Công Vụ Tông Đồ (Cv 4, 32); như trong từ ngữ hiệp hành, từ cội nguồn và lịch sử Giáo Hội, luôn hàm ý: Cùng nhau quy tụ – Cùng nhau hội nghị, trao đổi ý kiến, bàn luận và phân định – Để cùng tham gia, cộng tác và đồng hành với nhau, cùng nhau đi tới đích điểm – hướng tới Thiên Chúa, cùng đi với Đức Kitô, Đấng đã kêu mời và tập hợp chúng ta, để chúng ta cùng hành trình, đồng hành với Người và với nhau. Người cũng chính là con đường cho chúng ta đi, là “Đạo” của chúng ta. Người như ngọn đèn soi cho chúng ta bước nhờ sức mạnh thúc đẩy linh hứng của Chúa Thánh Thần.
Vì hiệp hành bởi tiếng hay nguyên ngữ “Synodos” = gồm “Syn”: cùng nhau, và “hodos”: con đường.
Ca đoàn sống đúng với định nghĩa, bản chất đích thực và lý do hiện hữu của mình, chẳng phải là “hiệp hành” đó sao? Như mọi thành viên được kêu mời và tập hợp lại trong cùng một lối sống Tin Mừng cách riêng biệt, đặc thù, hay ơn gọi chuyên biệt, đặc biệt, hay như là “đặc sủng”, là lòng yêu mến thánh nhạc và phụng vụ. Các Kitô hữu, các thành viên được tuyển chọn giữa Cộng đồng dân Chúa nhờ vào khả năng chuyên môn về âm nhạc để thi hành thừa tác vụ hát thánh ca trong các thánh lễ và các nghi lễ cử hành Phụng vụ. Ca đoàn hiệp hành sống động giữa lòng Cộng đoàn Dân Chúa, dùng lời ca tiếng hát mà thánh hóa chính mình và giúp thánh hóa các tín hữu khác.
2. Ca đoàn – Hiệp hành – “Hiệp nhất và Đa dạng”
Như thế, Ca đoàn được thiết lập, sinh hoạt và hiện hữu, hiện diện trong Cộng đoàn Giáo Hội như một hội đoàn, một đoàn thể Tông đồ với cùng một dự án thánh nhạc phụng vụ, cùng một tâm tình, một chí hướng trong sự “hợp nhất và đa dạng”.
Bởi lẽ, Ca đoàn như một Ban hợp xướng, có nghĩa là cùng hát, cùng xướng lên một ca khúc, gồm nhiều giọng ca, nhiều bè hát khác nhau, có các ca viên có chuyên môn, năng khiếu tự nhiên hay chịu khó luyện tập… Hợp xướng được cất lên bởi một “hội hát” mang sắc thái trình bày, diễn tả bằng giọng ca gồm nhiều bè, nhiều giọng cùng với tiếng đàn, nhịp trống.
Thánh nhạc là một loại hình diễn tấu tập thể, một môn nghệ thuật có khả năng liên kết thống nhất, tình cảm, ý chí và tư tưởng của con người, “hiệp nhất trong đa dạng” và “đa dạng trong sự hiệp nhất” các giọng ca bè hát trầm bổng, cao thấp để “hiệp hành” cùng nhau thể hiện sự hòa điệu, hợp âm và đi tới nội dung ý nghĩa đích thực của âm nhạc là siêu thoát, rung động, chạm tới cõi siêu việt, mênh mông vô biên vô tận, vào “trái tim” con người hay “nâng cao tâm hồn” lên tới Thiên Chúa qua một tác phẩm âm nhạc. Hợp xướng như thế được nhìn nhận như là “đỉnh cao” của nghệ thuật hát bè, hòa hợp với các cung giọng nam cao và nữ cao, hay nam trung và nam trầm, nữ trung và nữ trầm v.v…. làm phong phú màu sắc hòa âm, tấu lên các giai điệu truyền cảm khác nhau.
Ca đoàn như một ban hợp xướng, một “hợp âm” mỗi khi vang lên thì các thành tố trong hợp âm phải chuẩn xác về cao độ và âm thanh, dung hòa về âm lượng và đồng nhất về âm sắc. Hay có thể nói, các âm thanh và nốt nhạc giữa các giọng phải hòa quyện với nhau, sự đồng đều, hòa hợp.
Như các bè phải cân bằng dung hợp, bè này không lấn át, đè nén bè kia (còn phải biết nhường nhau). Tất cả mọi ca viên trong từng bè, mọi ca viên trong bản hợp xướng phải hiệp thông, tương tác, tương hợp với nhau, nghĩa là cho tiếng hát của mình “hiệp hành” với các ca viên khác để cùng hướng tới một sự thống nhất, hài hòa, đồng thanh tương ứng tuân theo những quy định của tác giả và tác phẩm, để hát đúng các yêu cầu… tạo nên bản hợp xướng
Để đạt tới nghệ thuật diễn tả và thể hiện, truyền cảm hứng và “nâng tâm hồn” con người lên tới chân trời mênh mông siêu thoát của thế giới tinh thần rộng mở, vẻ đẹp đích thực của thánh nhạc, là “gặp gỡ” với Thiên Chúa trong hợp xướng cần có những hiểu biết về kỹ thuật thanh nhạc, hiểu biết về thánh nhạc, phụng vụ…, phải có thời gian luyện tập cùng nhau thì mới có thể hát hay, hát đẹp và hòa điệu. Nói khác đi, đó chẳng phải là “hiệp hành” sao? Vì phải cùng nhau khởi hành, cùng nhau bước đi với, cùng nhau hòa chung một nhịp điệu, cùng hòa ca, cùng hòa âm, phối kết.
Như thế các thành viên trong Ca đoàn phải có tai nghe tốt để không hát sai, không hát chênh phô, không làm hỏng giai điệu… Lắng nghe nhau hát và để cho nhau hát những gì được phân chia hay từng phần hay đồng ca cũng là “hiệp hành” trong lời ca tiếng hát, cùng nhìn về một hướng…. Ca đoàn làm nên các ca viên và các ca viên làm nên Ca đoàn vì tinh thần và tính hiệp hành này.
Như từng người tín hữu, bất kể chức năng nhiệm vụ hay trách nhiệm của mình trong Giáo Hội đều là một chủ thể làm nên Giáo Hội và là con người của Giáo Hội, cùng nhau bước đi theo Đức Kitô và cùng đi trên một con đường là Đức Kitô, ca đoàn cũng thế.
Giáo Hội là Thân Mình mầu nhiệm của Đức Kitô, các ca viên trong một Ca đoàn trong Cộng đoàn Giáo Hội cũng diễn tả mầu nhiệm ấy, diễn tả không những bằng việc quy tụ quanh Đức Kitô nhưng còn bằng sự hiệp nhất nên một trong Người, trong Thân Mình của Người.
Nhờ tham dự Thánh Lễ, cử hành phụng vụ bí tích Thánh Thể, chúng ta được nâng lên đến sự hiệp thông với Người và với nhau, đó cũng là được “hiệp hành” với Người và với nhau mà chúc tụng ngợi khen cảm tạ Thiên Chúa.
Sự hiệp hành của Ca đoàn làm phát sinh và phát triển đức mến giữa các ca viên. Đức mến là dây liên kết trọn hảo. Đức mến chính là tâm điểm của “hiệp hành” làm nên Ca đoàn hiệp hành, đưa Ca đoàn thăng tiến và tới được đích điểm của thánh nhạc là “nâng tâm hồn” lên tới Chúa, làm vinh danh Chúa; là ra khỏi chính mình, xuất thần, vào cõi siêu việt, vào chân trời vô biên của Thiên Chúa…. Sự hiệp hành này sẽ chiến thắng mọi chia rẽ phàm nhân, để tất cả được nên một trong Chúa.
Thư 1Cr 12, 4-11: Đặc sủng tuy nhiều, nhưng chung một cội nguồn.
Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng vẫn chỉ có một Thiên Chúa làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được Thần Khí ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin; kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri; kẻ thì được ơn phân định thần khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được ơn giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí duy nhất ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tuỳ theo ý của Người….
Như thế, không có chia rẽ trong thân thể, trái lại các bộ phận đều lo lắng cho nhau. Nếu một bộ phận nào đau, thì mọi bộ phận cùng đau. Nếu một bộ phận nào được vẻ vang, thì mọi bộ phận cũng vui chung. Vậy anh em, anh em là thân thể Đức Kitô, và mỗi người là một bộ phận …
…. Trong các ân huệ của Thiên Chúa, anh em cứ tha thiết tìm những ơn cao trọng nhất. Nhưng đây tôi xin chỉ cho anh em con đường trổi vượt hơn cả…. (1Cr 12, 14-31)
… “Hiện nay đức tin, đức cậy, đức mến, cả ba đều tồn tại, nhưng cao trọng hơn cả là đức mến” (1Cr 13, 1-13).
3. Ca đoàn – Hiệp hành để xây dựng, kiến tạo sự hiệp hành trong Cộng đoàn Dân Chúa.
“Vậy, thưa anh em, phải kết luận thế nào? Khi anh em hội họp, người thì hát thánh ca, người thì chỉ huy, người thì đệm đàn, người thì giảng dạy, người thì nói lời mặc khải, người thì nói tiếng lạ, người thì giải nghĩa: tất cả những điều ấy đều phải nhằm xây dựng Hội Thánh” (x. 1Cr 14, 26-27). … “Nhưng hãy làm mọi sự cách trang nghiêm và có trật tự…” (1Cr 14, 40).
Vai trò và nhiệm vụ của Ca đoàn trong thời điểm này là hiệp hành để xây dựng, kiến tạo tinh thần hiệp hành trong Cộng đoàn Dân Chúa.
Vì góp phần trong công việc cử hành phụng vụ, thờ phượng Thiên Chúa, nên Ca đoàn có một vai trò và nhiệm vụ cao cả linh thánh như một đặc sủng. Mỗi ca viên đảm nhận tác vụ âm nhạc trong cử hành thánh như các tác viên không có chức thánh khác (đọc sách, giúp lễ, trao Mình Thánh Chúa trong thánh lễ …)
Ca đoàn thể hiện, diễn tả những hình thể nghệ thuật thánh nhạc sao cho thật hay, thật đẹp, theo các giai điệu cung giọng cung bậc xứng hợp, trang trọng để tôn vinh thờ phượng Thiên Chúa và thánh hóa các tín hữu – đây chính là “Hiệp hành” với hết tâm tình và lời cầu nguyện, vừa cảm động, vừa có lòng yêu mến, có hồn, có lửa sống động, có sức nâng tâm hồn các tín hữu lên cùng Thiên Chúa, lên tới đỉnh thiêng của sự gặp gỡ và hiệp nhất với Thiên Chúa.
Ca đoàn tỏa chiếu trên cộng đoàn các tín hữu họp nhau lại, nhân danh Đức Kitô và Giáo Hội, một nguồn sáng rực rỡ “như thấy được dung mạo” gương mặt “vinh quang” của Đấng Phục Sinh ngay “ở đây và lúc này” trong cuộc cử hành Thánh Lễ.
Nhờ sức mạnh “siêu hình” thanh thoát của nghệ thuật thánh nhạc, Ca đoàn có thể vươn lên, hiệp hành hướng tới vẻ đẹp rạng ngời của Phụng Vụ và đích điểm của cầu nguyện là khát mong tìm về gặp gỡ Thiên Chúa và kết hợp với Người. Đó chính là hiệu quả và đích điểm của ơn cứu độ. Như thế, họ có thể giúp cộng đoàn cử hành mầu nhiệm cứu độ trong những điều kiện thuận lợi khi chính họ thông phần mật thiết vào các ơn ích của mầu nhiệm đó.
“Khi ta nâng chén chúc tụng mà cảm tạ Thiên Chúa, há chẳng phải là dự phần vào Máu Đức Kitô ư? Và khi ta cùng bẻ Bánh Thánh, đó chẳng phải là dự phần vào Thân Thể Người sao? Bởi vì chỉ có một Tấm Bánh, và tất cả chúng ta chia sẻ cùng một Bánh ấy, nên tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể” (1Cr 10,16-17).
4. Ca đoàn – Hiệp hành là tham gia và hòa nhập vào sứ vụ loan báo Tin Mừng của Giáo Hội
Sự hiệp thông hiệp hành trong Ca đoàn là dấu chứng nói lên rằng Đức Kitô là con đường dẫn tới Thiên Chúa – Vì hiệp hành là hiệp thông với nhau và đồng hành cùng nhau đi tới, hướng tới Thiên Chúa. Hiệp hành là con đường vươn tới, và đích điểm của hiệp hành chính là sự hiệp nhất trọn vẹn với Thiên Chúa.
Ca đoàn làm chứng cho Đức Kitô, đóng vai trò thâu kết và liên kết muôn người trong Giáo Hội, trong giáo xứ, trong gia đình, xã hội và thế giới. Ở bất cứ nơi đâu, người có tinh thần hiệp hành sẽ lan tỏa hiệp hành và thu hút người khác vào hiệp hành, vào Đạo, vào với chính Thân Mình Đức Kitô là Giáo Hội. Ca đoàn thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng bằng tinh thần hiệp hành và hiệp lực khi hát trong nhà thờ, trong gia đình, trong xã hội… để tất cả mọi người được trở nên con cái Thiên Chúa trong gia đình của Chúa, để tất cả mọi người được nhận biết chân lý và được ơn cứu độ… (1Tm 2, 3-4).
Qua đặc sủng hát thánh ca với tâm tình hiệp hành, Ca đoàn có thể như tiếng hát ngân lên trong thế giới, như tiếng mời gọi muôn dân tham gia vào con đường của Giáo Hội, vào Đạo dẫn đến sự sống vĩnh hằng, tới hạnh phúc đời đời, tới Thiên Chúa là Tình Yêu và là Sự Sống… là Chân Thiện Mỹ, là Quê Hương, là Cùng Đích…
Tiếng hát ngọt ngào của Ca đoàn có sức thu hút và có hiệu quả tỏa lan ảnh hưởng của sự hiệp hành ra thế giới chung quanh mình…
Muốn chạm tới tâm hồn người nghe, tiếng hát của Ca đoàn cần phải chất chứa tinh thần hiệp hành, hiệp lực, người hát cần phải có tâm hồn đạo đức và tâm tình cầu nguyện, yêu mến Chúa, có lòng thương yêu con người và biết rung cảm để diễn đạt tất cả bằng lời ca tiếng hát của một đời sống đức tin đích thực.
Ca đoàn cũng thi hành sứ mạng “Phúc âm hóa” âm nhạc, thánh hóa bài ca giọng hát trong phụng vụ, để thờ phượng, chúc tụng cảm tạ Thiên Chúa. Vì thế, Ca đoàn phải biểu lộ sự thánh thiện và diễn tả được đỉnh cao và vẻ đẹp nghệ thuật thánh nhạc. Để đạt được những điều đó, yếu tố quan trọng chính là tinh thần hiệp hành, không độc diễn, không lẻ loi đơn độc, độc điệu cá nhân, nhưng hài hòa phối kết, hòa điệu hiệp thông với mọi người đề hiệp hành cùng với mọi người hướng tâm hồn lên với Chúa.
Như hoa hướng dương… hướng về mặt trời, Ca viên cùng nâng tâm hồn lên, hiệp hành trong lời ca tiếng hát…như đưa cả nhân loại và muôn loài thụ tạo lên Thiên Chúa, là Đấng sáng tạo, thánh hóa và cứu độ muôn người.
Sứ mạng của ca đoàn là loan báo Tin Mừng cho muôn dân. Khởi đi từ cuộc cử hành phụng vụ trong nhà thờ ra đến xã hội, Ca đoàn hiện diện ở bất cứ nơi đâu có những con người hiệp hành và phát huy sự hiệp hành ấy. Ca đoàn loan báo và cổ vũ ý nghĩa của hiệp hành cũng là ý nghĩa căn bản của cuộc sống trên đời này, ý nghĩa và bản chất của Giáo Hội, của con đường Đức Kitô…. để trong Người mà tất cả có thể đạt tới sự hiệp nhất chung cuộc… Sự hiệp nhất vạn thể trong Thiên Chúa là tất cả mọi sự cho mọi người. Và như thế, mọi người được ở cùng Thiên Chúa, được tháp nhập vào mối tương quan tương thuộc cấu thành bản tính duy nhất của Người, nghĩa là được thông phần vào một sự sống đích thực với Thiên Chúa.
Thư Ep 1, 1- 11:
Người cho ta được biết thiên ý nhiệm mầu: thiên ý này là kế hoạch yêu thương Người đã định từ trước trong Đức Kitô. Đó là đưa thời gian tới hồi viên mãn là quy tụ muôn loài trong trời đất dưới quyền một thủ lãnh là Đức Kitô. Cũng trong Đức Kitô, Thiên Chúa là Đấng làm nên mọi sự theo quyết định và ý muốn của Người, đã tiền định cho chúng tôi đây làm cơ nghiệp riêng theo kế hoạch của Người…
Chúng ta có thể tìm thấy yếu tố cốt lõi làm nảy sinh căn tính và chân tính của Giáo Hội, cũng như bản chất của Đạo Kitô, đó chính là hiệp thông đồng hành, là “hiệp hành” cùng nhau đi tới Thiên Chúa, đạt tới Thiên Chúa. Và có Chúa là có Thiên Đàng và sự sống đời đời. Mất Chúa là mất tất cả.
Tất cả được quy tụ trong chân trời hiệp thông hoàn vũ của Nước Thiên Chúa, nơi Đấng là Cội Nguồn Sự Sống hiển trị và Tình Yêu siêu vượt tiếp đón tất cả để “vĩnh viễn ở cùng tất cả mọi người” (Kh 4,21).
Vì cuộc cử hành Thánh Lễ lôi kéo chúng ta vào hiệp hành, mà tự bản chất, hiệp thông đồng hành hay “hiệp hành”, cùng nhau đeo theo Đạo đến với Chúa, là truyền giáo, là Phúc Âm hóa.
Ca đoàn có thể tỏ cho mọi người thấy Đức Kitô một cách cụ thể nơi hoạt động thánh nhạc của Ca đoàn, nơi cuộc sống bản thân trong Cộng đoàn Giáo Hội. Hiệp hành và rao giảng Tin Mừng cứu độ là hai hoạt động luôn gắn kết mật thiết với nhau, tựa như sự thống nhất giữa truyền thống sống động giữa “quy luật đức tin” (lex credendi) với “quy luật cầu nguyện” (lex orandi) với nhau, giữa “quy luật cử hành” (lex celebrandi) với “quy luật sống” (lex vivendi) – tất cả hợp nhất trở thành một thực tại… Để rồi khi dân Thiên Chúa được quy tụ lại với nhau thành một Cộng đoàn đồng tâm nhất trí, hiệp hành với nhau, thì lúc đó mới có được sự khả tín thực sự, mới có thể thuyết phục được thế giới… và mời gọi được thế giới vào sự hiệp hành trong Giáo Hội…
Vì thế, chúng ta chẳng “mắc nợ gì ai ngoài món nợ tình yêu tương thân tương ái” (Rm 13,8). Tình yêu mời gọi tình yêu, nên sau khi được Thánh Thể biến đổi, chúng ta đi góp phần biến đổi thế giới xung quanh bằng chính ân huệ hiệp thông mà chúng ta lãnh nhận trong cuộc cử hành phụng vụ. Chúng ta vui mừng bước đi với niềm xác tín rằng mình đang theo chân Đức Kitô đến với mọi người để xây dựng tình hiệp thông như một lễ vật ngát hương trong Nước Thiên Chúa. Vì “điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông với chúng tôi” (1Ga 1,3)
Ca đoàn có thể kiến tạo và loan báo tình hiệp thông, hiệp hành như một lễ vật ngát hương dâng lên Thiên Chúa và như tiếng mời gọi mọi người tìm đến Nước Thiên Chúa. Vì “điều chúng tôi đã thấy và đã nghe, chúng tôi loan báo cho cả anh em nữa, để chính anh em cũng được hiệp thông… (hiệp hành) … với chúng tôi” (1Ga 1,3).
Ngày 14.05.2022
Trích: Tập san Hương Trầm của Ủy ban Thánh nhạc / Hội đồng Giám mục Việt Nam, số 34
2023
CHIA SẺ LỜI CHÚA THEO PHƯƠNG PHÁP 7 BƯỚC
CHIA SẺ LỜI CHÚA THEO PHƯƠNG PHÁP 7 BƯỚC
Để giúp anh chị em thấy rõ thứ tự những điều cần làm và cách thực hiện, của việc Chia sẻ Lời Chúa theo phương pháp 7 bước này. Chúng tôi xin tóm tắt phương pháp này như sau (theo hướng dẫn của Viện Mục Vụ HĐGM Châu Phi):
I. MỤC TIÊU
- Cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa Phục Sinh;
- Giúp mỗi thành viên trong nhóm mở rộng cõi lòng để Lời Chúa đánh động với riêng mình;
- Cổ võ việc giúp nhau sống đức tin cách sâu sắc bằng cách chia sẻ kinh nghiệm cá nhân;
- Tạo nên sự tin tưởng lẫn nhau trong nhóm;
- Tạo “bầu khí thiêng liêng” để hoạch định những hoạt động của cộng đoàn.
BƯỚC
|
NGƯỜI
|
NỘI DUNG CÔNG VIỆC
|
1. MỜI CHÚA |
Linh Hoạt Viên
|
«Xin mời Anh/Chị …… (nói tên người được đề nghị) thay mặt anh chị em trong Nhóm có lời mời Chúa Giêsu đến với chúng ta»
|
Người được đề nghị
|
Nói lời mời Chúa
|
|
——————–
2. ĐỌC LỜI CHÚA |
——————–
Linh Hoạt Viên |
———————-
«Xin mọi người mở sách… (nói tên sách rồi chờ một lát cho mọi người mở sách, rồi nói tiếp) chương… (nói số chương rồi chờ một lát cho mọi người tìm ra chương vừa nêu, rồi nói tiếp), chúng ta đọc từ câu… đến hết câu…» «Xin mời Anh/Chị… (nói tên người được đề nghị) đọc đoạn Kinh Thánh trên cho mọi người cùng nghe».
|
Người được đề nghị
|
Đọc đoạn Kinh Thánh vừa nêu
|
|
Linh Hoạt Viên
|
Xin mời Anh/Chị… (nói tên người được đề nghị) đọc lại đoạn Thánh Kinh trên một lần nữa».
|
|
Người được đề nghị
|
Đọc đoạn Kinh Thánh vừa nêu
|
|
——————–
3. RÚT RA MẤY CÂU NGẮN |
——————–
Linh Hoạt Viên |
———————-
«Chúng ta rút ra mấy câu ngắn, đọc lớn tiếng những câu ấy trong bầu khí thinh lặng, cầu nguyện.» |
ACE trong nhóm
|
(Mỗi anh chị em chọn một câu ngắn mà mình thích nhất, đọc lên một cách chậm rãi, rõ ràng, đọc đi đọc lại ba lần).
|
|
——————–
4. THINH LẶNG |
——————–
Linh Hoạt Viên |
———————-
«Chúng ta thinh lặng trong… phút (nói số phút và canh đồng hồ) để nghe Chúa nói với mình trong tâm hồn.» |
——————–
5. CHIA SẺ |
——————–
Linh Hoạt Viên
|
———————-
«Chúng ta chia sẻ điều mà chúng ta nghe được trong tâm hồn mình, cụ thể là chia sẻ: a) Lời nào đã đánh động tâm hồn mình?
b) Tại sao Lời ấy đánh động tâm hồn mình? Nói cách khác, chúng ta chia sẻ mình đã sống Lời Sự Sống như thế nào?»
|
ACE trong nhóm
|
(Lần lượt anh chị em trong nhóm chia sẻ điều mà mỗi người đón nhận được khi nghe Lời Chúa. Nói vắn gọn, rõ ràng. Trong khi một người chia sẻ thì tất cả đều chăm chú lắng nghe và trân trọng đón nhận. Linh hoạt viên nên khuyến khích mọi người chia sẻ, nhất là những người chưa quen hay nhút nhát).
|
|
——————–
6. THẢO LUẬN |
——————–
Linh Hoạt Viên
|
———————-
«Nội dung bước 6 là chúng ta thảo luận về một trách nhiệm mà nhóm được mời thực hiện. Trước khi thảo luận về điều ấy, xin mời mọi người cho biết mình đã thực hiện điều quyết tâm lần trước như thế nào.» |
ACE trong nhóm
|
(Lần lượt mỗi người báo cáo vắn gọn việc mình thực hiện quyết tâm lần trước: Nói đã thực hiện được hay không thực hiện được/ tại sao không thực hiện được/ gặp thuận lợi và khó khăn gì?)
|
|
Linh Hoạt Viên
|
(Sau khi mọi người báo cáo xong) «Bây giờ chúng ta thảo luận với nhau xem Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta làm gì trong tuần/tháng tới này.»
|
|
ACE trong nhóm
|
(Mỗi người nói lên điều mà mình cho rằng Lời Chúa mời gọi mình và nhóm thực hiện trong tuần/tháng tới. Ở đây nên áp dụng phương pháp tìm quyết định chung, tiến hành qua 5 bước như sau:
B1: Xác định mục tiêu cụ thể;
B2: Đề xuất nhiều giải pháp;
B3: Thảo luận về một vài giải pháp khả thi nhất;
B4: Quyết định chọn một giải pháp, tức một công việc chung cho Nhóm;
B5: Phân công thực hiện:ai làm/ làm thế nào/ làm khi nào?
(Ghi chú: Ở bước 6 này, thay vì thảo luận về việc áp dụng Lời Chúa vào Cuộc Sống, nhóm có thể bàn về một công tác chung sắp tới của nhóm).
|
|
——————-
7. CẦU NGUYỆN KẾT THÚC |
——————–
Linh Hoạt Viên |
———————-
«Để kết thúc buổi Chia sẻ Lời Chúa hôm nay, chúng ta dâng lên Thiên Chúa và Đức Giêsu Kitô những lời nguyện chân thành và tự phát của chúng ta.» |
ACE trong nhóm
|
(Lần lượt một số anh chị em nói lên tâm tình cảm tạ, ngợi khen, chúc tụng, xin lỗi, xin ơn hay quyết tâm của mình).
|
|
Linh Hoạt Viên
|
(Khi thấy không còn ai cầu nguyện nữa) «Chúng ta dâng lên
Chúa mọi tâm tình và lời cầu nguyện mà một số anh chị em vừa nói lên, và cũng dâng lên Chúa cả những tâm tình và lời cầu nguyện khác mà chúng ta không nói lên, bằng bài hát… … hay kinh… (nói tên bài hát hay kinh)».
(Ghi chú: Ở bước 7 này LHV có thể mời một vài thành viên trong nhóm nói lên lời nguyện tự phát, để khuyến khích người khác mạnh dạn cầu nguyện tự phát).
|
(Bản dưới đây được tóm tắt hơn nữa, in ra kẹp trong Kinh Thánh để dễ sử dụng mỗi khi Chia sẻ Lời Chúa:)
* Xin mời bạn (T)… dâng lời cầu nguyện mời Chúa đến.
2. CHÚNG TA ĐỌC BẢN VĂN KINH THÁNH
* Xin mở sách… chương… câu… (2 lần)
3. CHÚNG TA CHỌN NHỮNG TỪ, CÂU ĐÁNH ĐỘNG VÀ SUY NIỆM.
* Chúng ta chọn những lời hay những câu ngắn, đọc lớn tiếng với tâm tình cầu nguyện, và giữ thinh lặng trong lúc đó.
* Xin mời anh(chị)… đọc lại bản văn Kinh Thánh đó một lần nữa.
4. TRONG THINH LẶNG, CHÚNG TA ĐỂ CHÚA NÓI VỚI CHÚNG TA
* Chúng ta giữ thinh lặng trong… phút, và lắng nghe Chúa nói với chúng ta.
5. CHÚNG TA CHIA SẺ ĐIỀU CHÚNG TA NGHE ĐƯỢC TỪ TÂM HỒN.
* Điều gì đã đánh động bản thân chúng ta?
* Chúng ta đã sống thế nào “Lời Hằng Sống”?
(Chúng ta không tranh luận bất cứ điều gì, cả khi không có ai chia sẻ cũng như khi có ai phê bình chỉ trích bản văn).
6. CHÚNG TA TRAO ĐỔI CÔNG VIỆC MÀ CHÚNG TA CẢM THẤY ĐƯỢC MỜI GỌI THỰC HIỆN.
* Tường trình công việc lần trước ta quyết định thực hiện.
* Công việc mới nào chúng ta định thực hiện.
7. CHÚNG TA CẦU NGUYỆN TỰ PHÁT
(Kết thúc bằng một lời kinh hay bằng một bài hát quen thuộc)