2022
5 bước hướng tới sự giao tiếp tốt đẹp hơn
5 BƯỚC HƯỚNG TỚI SỰ GIAO TIẾP TỐT ĐẸP HƠN
Colleen Arnold, MD[1]
Kinh thánh có lời khuyên về mọi thứ dưới ánh mặt trời, ngay cả những lời chúng ta nói. Chúng ta có thể sử dụng thao tác của lời nói để tạo ra những tương tác ôn hòa hơn với người khác.
Trong thế giới ngày nay, thật tuyệt vời để nói lên suy nghĩ và tranh luận về lý lẽ của bạn, và đôi khi điều này là phù hợp. Tuy vậy, gần đây, tôi đã có một vài dịp để đưa ra những lời bình luận nhanh trí và thông minh của mình mà khi nhìn lại đó lại là những nhận xét thiếu tử tế và khoan dung.
Tôi biết là không chỉ mình tôi như vậy. Thoạt đầu, tất cả chúng ta đều đã nói những lời khiến chúng ta cảm thấy mình siêu đẳng và dí dỏm nhưng sau đó những lời này khiến chúng ta tự hỏi: Tại sao tôi lại nói như vậy? Và không chỉ những lời phê bình mang tính châm chọc ấy làm cho chúng ta phải lo nghĩ mà ngay cả những lời nói của chúng ta cũng có thể dẫn chúng ta vào đường mòn của sự tầm phào và tán dóc.
Hóa ra miệng lưỡi của chúng ta có thể là vũ khí, và trong thời điểm xung đột chính trị và COVID-19 này, điều quan trọng hơn là chúng ta phải học cách sử dụng những vũ khí đó một cách cẩn thận. Sau đây là một phương pháp 5 bước tuy đơn giản nhưng lại rất hữu ích.
- Sự tạm ngưnghoàn hảo
Đôi khi miệng của chúng ta đi trước bộ não của chúng ta, và chúng ta phát ra những nhận xét khó nghe trước khi chúng ta đuổi kịp chính mình. Hoặc tệ hơn, chúng ta thậm chí không nhận ra những gì chúng ta đã nói cho đến hàng giờ sau, khi mà thiệt hại đã xảy ra rồi.
Bước đầu tiên trong việc huấn luyện miệng lưỡi của chúng ta là hoàn thiện khoảng dừng; mọi điều khác phát sinh từ đây. Nếu chúng ta dừng lại trước khi nói, Chúa Thánh Thần có thể giúp chúng ta chọn từ ngữ tốt đẹp. Im lặng không phải là một điều xấu và chúng ta không cần phải lấp đầy mọi khoảng trống trong cuộc trò chuyện bằng từ ngữ.
Việc tạm ngưng giúp chúng ta đưa ra những quyết định tốt đẹp hơn. Bằng cách suy nghĩ trước khi trả lời một cách tự động, tôi tránh nói “có” khi tôi không có ý như vậy. Tôi tránh nói “không” về điều gì đó mà tôi đã đồng ý với sự cân nhắc kỹ lưỡng hơn.
Một ích lợi khác của việc tạm ngưng là nó có thể giúp chúng ta trở thành người lắng nghe tốt hơn. Một thói quen phổ biến là ngắt lời người khác trong cuộc trò chuyện: “Tôi biết bạn đang nói về điều gì rồi! Đây là những gì đã xảy ra với tôi“. Và ngay cả khi chúng ta không nói ra, chúng ta đang nghĩ về điều đó, sẵn sàng lao vào ngay khi người kia lấy hơi. Việc biết tạm ngưng trước khi nói cho phép một cách tiếp cận khác. Tôi có thể lắng nghe một cách cẩn thận và dành toàn bộ sự chú ý của mình khi người khác đang nói. Tôi có thể ngưng việc suy nghĩ trước câu trả lời của mình. Khi người đó nói xong, tôi có thể tạm dừng, cẩn thận lựa chọn từ ngữ trước khi nói.
- Kiểm tra dựtính của bạn
Khi tôi đã tạm ngưng một chút và sau đó quyết định nói, bước thứ hai là xem xét “lý do tại sao” của từ ngữ và đánh giá ý định của tôi. Tôi đang tìm cách trả thù hay trả miếng chăng? Nếu vậy, tốt nhất tôi nên giữ miệng lưỡi của mình. Tôi đang khoác lác chăng? Tội kiêu ngạo thường là một tội rất tinh tế. Nếu tôi đưa ra lời khuyên, đó có phải là để làm cho bản thân thấy tốt đẹp hơn — hoặc có thể cố làm cho người khác trông tệ hơn chăng? Nếu vậy, tôi nên bỏ qua các lời nhận xét.
Và ngay cả khi câu trả lời của tôi là có mục đích tốt, liệu nó có được mong muốn không? Liệu lời nói của tôi có thực sự giúp ích cho tình huống ấy không? Lời khuyên không được yêu cầu thường có thể trở thành lời chỉ trích. “Lần sau khi nấu món này, bạn nên nấu kỹ hơn” nghe giống như là “Bạn nấu món này chưa chuẩn”. Tôi tự hỏi mình, tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu ai đó nói câu này với tôi?
- Giám sát phương pháp của bạn
Bước thứ ba là xem xét cách chúng ta đưa ra nhận xét của mình, bao gồm từ ngữ, cử chỉ và thời điểm. Nhận xét của chúng ta phải luôn nhẹ nhàng, tôn trọng, và cần lưu tâm đến cảm xúc của người khác. Đôi khi động cơ của chúng ta là tốt, nhưng việc dùng từ ngữ của chúng ta lại thiếu tế nhị. Những lời nói cay nghiệt hiếm khi có hiệu quả và thường khiến người khác phải phòng thủ. Một lần nữa, tôi sẽ cảm thấy thế nào nếu ai đó nói như vậy với tôi?
Chúng ta giao tiếp không chỉ bằng lời nói mà còn thông qua ngôn ngữ cơ thể và nét mặt. Tôi có đang nói điều gì đó có ý nghĩa nhưng lại thể hiện qua một nụ cười giả tạo không? Tôi có đang nói điều gì đó tốt đẹp nhưng lại để lộ những suy nghĩ thực sự của mình bằng vẻ mặt khinh khỉnh chăng? Người khác có thể dễ dàng đọc được cảm xúc thật của chúng ta, và khi lời nói và cảm xúc của chúng ta trái ngược nhau, chúng ta sẽ không được tin tưởng. Lời nói của chúng ta sẽ không ích lợi.
Cuối cùng, chúng ta nên xem xét thời điểm của mình. Ví dụ: tôi không cần phải chia sẻ chi tiết về sự thăng cấp tuyệt vời của mình ngay sau khi người hàng xóm của tôi mất việc. Tôi không cần phải nói với một người bạn về phần thưởng học bổng của con gái tôi sau khi con trai cô ấy nhận được thư từ chối nhận vào đại học. Thật vậy, những người tôi yêu thương sẽ muốn chúc mừng tin vui của tôi, nhưng cần cân nhắc hơn khi chọn thời điểm thích hợp để chia sẻ.
- Xây dựng một cầunối
Lời nói có sức mạnh gây tổn thương và xúc phạm, nhưng cũng có sức truyền cảm hứng và chữa lành. Những lời nhận xét tử tế của chúng ta có thể làm nên điều tốt lành vô hạn trong thế giới đầy thương tổn này. Mỗi ngày đều có những cơ hội để chúng ta nhìn nhận và cảm kích lẫn nhau.
Chúng ta có thể dùng lời nói của mình để thể hiện lòng biết ơn đối với sự tử tế thay vì coi đó là điều hiển nhiên. Hãy nói lời cảm ơn dù chỉ là với những hành vi nhỏ bé. Chúng ta có thể dùng lời nói của mình để khen ngợi sự tận tâm và khó nhọc của người khác thay vì lờ đi như không có việc gì. Hãy cố gắng đưa ra ít nhất một lời khen chân thành mỗi ngày. Chúng ta có thể dùng lời nói của mình để nhắc những người chúng ta yêu quý rằng họ có ý nghĩa với chúng ta biết bao.
Hãy dành thời gian để nói với vợ / chồng hoặc con bạn rằng bạn yêu họ. Không chỉ là một câu “Yêu em! Yêu anh! Yêu con!” khi chúng ta chạy ra khỏi cửa để đi làm hoặc đi học, nhưng với sự quan tâm chân thành trong một khoảnh khắc yên tĩnh. Sự ân cần phát sinh điều tử tế và sự cảm kích của chúng ta đối với người khác cũng xoa dịu con tim của chính chúng ta.
- Họcbiết lúc nào nên rời đi
Đôi khi, sự lựa chọn tốt nhất chỉ đơn giản là bỏ đi. Bất chấp thói quen xã hội là chúng ta cần phải nói lời cuối cùng. Chúng ta có thể rời khỏi cuộc trò chuyện mà không vướng vào những câu nói châm chọc tinh vi và không cần phải thuyết phục mọi người về ý kiến của mình.
Chúng ta có thể học cách nhận ra các cuộc trò chuyện mà tốt hơn là chúng ta không nên tham gia. Một số người có tính tranh luận và thích bàn cãi; một số người có tính phàn nàn nên tìm ra khuyết điểm trong mọi việc, và một số người khác thì lại có tính hay mỉa mai hoặc thích nói tầm phào. Bằng cách giữ miệng lưỡi của mình, chúng ta tránh góp phần và cổ vũ những lời nói, chỉ trích và phàn nàn tiêu cực đó.
Tôi không cần phải công kích trước mỗi bình luận nhẫn tâm mà tôi nghe thấy; không phải mọi thứ đều nhằm để xúc phạm tôi. Người nói đôi khi thường thiếu ý thức. Và những người cố tình gây khó chịu hoặc xúc phạm tôi thường làm như vậy chỉ để bản thân họ cảm thấy tốt hơn. Tôi không cần phải biện minh về mình với họ — quan điểm duy nhất của tôi rằng đó là vấn đề của Chúa!
Những bài học kinh nghiệm
Đây là những bài học khó nhưng rất đáng để học hỏi. Matthêu đưa ra một lời cảnh báo mạnh mẽ trong Tin Mừng: “Ngày phán xét, người ta sẽ phải trả lời về mọi điều vô ích mình đã nói. Vì nhờ lời nói của anh mà anh sẽ được trắng án; và cũng tại lời nói của anh mà anh sẽ bị kết án” (12, 36–37). Đặc biệt là trong những thời điểm khó khăn hiện nay, việc áp dụng những lời khuyên phong phú của Kinh Thánh có thể cải thiện khả năng tương tác và xoa dịu tâm hồn khô cằn của chúng ta.
Khi lời nói của chúng ta tử tế và nhẹ nhàng, tinh thần của chúng ta cũng sẽ như vậy. Chúng ta sẽ ít hối tiếc hơn, khoan dung hơn và hòa bình hơn. Hôm nay, chúng ta hãy sử dụng tốt lời nói của mình, và tin tưởng vào sự hướng dẫn của lời Chúa.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: St. Anthony Messenger 3. 2022
[1] Bà Colleen Arnold, MD là một bác sĩ, một nhà văn và có bằng thạc sĩ về mục vụ, hiện sống tại Lexington, Virginia, Hoa kỳ.
2022
Ba cách bảo vệ con bạn khỏi nội dung khiêu dâm
Ba cách bảo vệ con bạn khỏi nội dung khiêu dâm
Một nhà trị liệu – trong lãnh vực trẻ em và gia đình – trình bày dưới đây những gì anh ta đã gợi ý cho các bậc làm cha mẹ, cũng như những gì anh đã thực hiện ngay trong chính gia đình của anh.
Ngày nay ở Hoa Kỳ, lợi nhuận của các trang có nội dung khiêu dâm đạt được bằng tổng cộng lợi nhuận của các hãng ABC, CBS và NBC; lợi nhuận của ngành công nghiệp khiêu dâm ước tính khoảng 12 tỷ đô la. 1/5 lượt tìm kiếm trên thiết bị di động là để tìm kiếm nội dung khiêu dâm. Kể từ năm 2016, 17 tiểu bang đã đưa ra nghị quyết tuyên bố: nội dung khiêu dâm đã tạo ra khủng hoảng cho sức khỏe cộng đồng.
Nếu trong những thập kỷ trước, các mối đe dọa về lệch lạc tình dục phần lớn chỉ có thể tìm được trong in ấn, video hoặc gặp gỡ trực tiếp, thì ngày nay, internet và các thiết bị di động đã khiến cho việc truy cập nội dung khiêu dâm chỉ cần một cú nhắp chuột. Với tư cách là một nhà tâm lý học trẻ em, tôi đang ngày càng phải làm việc nhiều hơn với những thanh thiếu niên nhỏ tuổi hơn – là những em thừa nhận rằng phim khiêu dâm đã tác động tiêu cực đến cuộc sống của họ.
Khi thảo luận về các cách khác nhau để làm giảm bớt những nguy cơ của khiêu dâm, trước tiên tôi phải bàn đến những gì tôi thường nghe từ các bậc cha mẹ có thiện chí nhưng lại khó chịu về chủ đề này. Họ thường nói: “Tôi thực sự không muốn con trai hoặc con gái mình xem nội dung bất hợp pháp, nhưng dù sao nó vẫn cứ xảy ra, vậy tại sao lại cứ phải nỗ lực tìm biện pháp bảo vệ để ngăn chặn điều không thể tránh khỏi?”
Mặc dù có thể hiểu được điều này, nhưng câu trả lời của tôi là: Đang khi cơ hội khiến thanh thiếu niên xem nội dung khiêu dâm vào một thời điểm nào đó trong đời là khá cao, nhưng có một sự khác biệt rất lớn trong sự phát triển thần kinh và tâm lý khi nói đến tần suất, cường độ và thời lượng xem nội dung xấu này. Nói cách khác, ngẫu nhiên xem nội dung khiêu dâm vào những thời điểm khác nhau, tuy vẫn đáng buồn và có khả năng gây hại, nhưng không có nguy cơ lớn lao cho bằng việc xem nhiều lần, với cường độ cao, dẫn đến hậu quả lâu dài. Điều quan trọng là cha mẹ phải nhận ra sự khác biệt này.
Tôi muốn tập trung ngắn gọn vào 3 loại biện pháp bảo vệ chính yếu khi nói đến nội dung khiêu dâm.
Về kỹ thuật
Các biện pháp bảo vệ mang tính kỹ thuật sẽ không thể thay thế cho các biện pháp bảo vệ khác, nhưng chúng cung cấp một số lựa chọn nhất định để giảm thiểu rủi ro, ít nhất là khi con cái vẫn còn sống trong nhà của cha mẹ.
Trước tiên là các biện pháp bảo vệ dành cho việc sử dụng điện thoại và internet. Các biện pháp này ngày càng được cung cấp nhiều hơn (thường là miễn phí) cho các bậc làm cha mẹ. Ví dụ, dịch vụ Verizon Smart Family cho phép cha mẹ tắt tính năng internet và thậm chí tắt cả tin nhắn và gọi điện, ngay cả khi có wifi cùng với bộ lọc nội dung.
Còn ứng dụng Covenant Eyes là một bộ lọc internet có thể chặn các trang web bất hợp pháp, giám sát các thiết bị tìm kiếm và gửi báo cáo về các hoạt động ấy cho cha mẹ. Mặc dù không hoàn hảo, nhưng chúng cung cấp một biện pháp bảo vệ hợp lý lúc khởi đầu.
Ngoài các các biện pháp bảo vệ này, điều quan trọng là cha mẹ không bao giờ cung cấp cho con cái của mình những mật khẩu để mua các nội dung bất hợp pháp. Về mặt pháp lý, Đạo luật bảo vệ quyền riêng tư của trẻ em trên mạng (COPPRA) phần lớn cấm trẻ em dưới 13 tuổi tiết lộ thông tin riêng tư và nhiều trang mạng xã hội không cho phép trẻ em sử dụng nền tảng của họ; cha mẹ nên nhận thức và nắm vững các quy định pháp lý được thiết kế để bảo vệ con cái của họ.
Cha mẹ cũng nên biết về các ứng dụng và trang web mà trẻ em ngày càng tìm kiếm nhiều hơn, trong đó có những ứng dụng (như ứng dụng máy tính khét tiếng) cho phép chúng chôn giấu tài liệu khiêu dâm trên thiết bị của mình.
Hơn nữa, nếu cha mẹ không biết về máy chủ proxy và web đen, thì điều quan trọng là phải tự học hỏi để biết về các mối đe dọa khủng khiếp nhưng thực sự tồn tại trên internet.
Cuối cùng, cần lưu ý rằng: mối đe dọa lớn nhất của nội dung khiêu dâm chính là việc đưa các thiết bị cho thanh thiếu niên khi các em chưa được chuẩn bị về mặt trí tuệ và thần kinh để có thể sử dụng các thiết bị này cách đúng đắn.
Về môi trường
Phần lớn việc tiếp xúc với nội dung khiêu dâm xảy ra không phải là ngẫu nhiên. Mặc dù việc xem thấy nội dung khiêu dâm có thể ngẫu nhiên xảy ra bất cứ lúc nào, nhưng những người trẻ tuổi sử dụng thiết bị ở nơi riêng tư sẽ có nhiều nguy cơ hơn.
Việc có một thiết bị, đặc biệt là điện thoại cá nhân, trong phòng ngủ vào ban đêm, đã được chứng minh là một yếu tố hấp dẫn để sử dụng phim khiêu dâm. Như tôi đã nghe nhiều thanh thiếu niên nói với tôi, đây chính là cách thức cụ thể họ dùng để xem hầu hết các tài liệu khiêu dâm.
Các bậc làm cha mẹ đã nghiêm túc về việc hạn chế sử dụng phim khiêu dâm, thì cũng phải nghiêm túc xác định các nơi được phép sử dụng các thiết bị trong nhà của họ.
Hơn nữa, rõ ràng rằng việc xem nội dung “khiêu dâm nhẹ nhàng” sẽ là một cửa ngõ dẫn đến việc xem những nội dung sai lệch và có hại nhiều hơn nữa. “Khiêu dâm nhẹ nhàng”, theo ý tôi, đó là video hay hình ảnh trên TV, điện ảnh và internet, mô tả các cá nhân và cảnh tượng có bản chất khiếm nhã, lạm dụng và sai lạc.
Cũng giống như việc sử dụng rượu sớm, những đứa trẻ được cha mẹ cho phép xem nhiều nội dung này, đặc biệt là không có hướng dẫn và trò chuyện kèm theo, sẽ có nhiều khả năng tìm kiếm nội dung khiêu dâm nhiều hơn nữa trong tương lai. Khi thanh thiếu niên thấy rằng cha mẹ họ mặc nhiên ‘phê chuẩn’ các tài liệu này, họ có thể cho rằng nội dung khiêu dâm là có thể chấp nhận được.
Về nhận thức
Cuối cùng, và có thể là quan trọng nhất, chính là những cách chúng ta rèn luyện thái độ con em chúng ta về thân xác và tình dục của con người.
Điều quan trọng đầu tiên chính là: khi lớn lên, con em chúng ta cần phải coi thân xác và tình dục là những món quà đẹp đẽ, xứng đáng được tôn trọng. Nếu không thừa nhận và tán dương thực tế này thì sẽ tạo tiền đề cho một quan điểm lệch lạc cho rằng thân xác là hàng hóa được tiêu thụ, chứ không phải là ân phước cần được gìn giữ.
Tuy nhiên, ngoài việc đề cao thái độ tôn kính thân xác, điều quan trọng không kém là con em chúng ta phải nhận ra được cách chúng ta, trong tư cách là cha mẹ, biết thể hiện nét đẹp cho nhau. Tôi tin rằng: khi thấy cha mẹ coi trọng việc thể hiện nét đẹp và sự hấp dẫn dành cho nhau, như là cách bảo vệ chống lại việc tìm kiếm nội dung khiêu dâm, con em họ sẽ ít có khả năng tìm kiếm những nguồn khoái cảm không lành mạnh.
Thông thường, khi vợ chồng và những người quan trọng cùng già đi, có nhiều yếu tố khiến họ không còn quan tâm đến việc làm cho mình trở thành hấp dẫn cho nhau một cách lành mạnh như trước đây. Mặc dù có nhiều lý do để thông cảm cho điều này, nhưng nó vô tình gửi một thông điệp đến tất cả mọi người (kể cả trẻ em) rằng: niềm vui và vẻ đẹp ngày càng không còn nữa trong các mối tương quan lành mạnh này, nên đành phải tìm kiếm chúng theo những cách khác thôi.
Đây không phải là lời biện minh cho việc tìm kiếm nội dung khiêu dâm, nhưng tôi tin rằng đấy chính là một yếu tố quan trọng cần phải xem xét. Cuối cùng, sẽ không có gì thay thế được khi trẻ thấy cha mẹ vẫn thu hút và hào hứng với nhau khi họ cũng bắt đầu xem xét đến những điểm thu hút và sự quan tâm lãng mạn của riêng mình.
Nội dung khiêu dâm là một vấn đề phức tạp và nghiêm trọng mà chúng ta không thể bỏ qua. Thật đáng buồn khi nó bóp méo bản chất của tình dục, không coi tình dục là một trong những món quà tuyệt vời nhất do Chúa ban tặng cho chúng ta. Điều đó có nghĩa là, cách chúng ta đối xử với nó chính là điều quan trọng nhất.
Jim Schroeder / Vi Hữu chuyển ngữ
2022
“GIA ĐÌNH TRƯỚC THÁCH ĐỐ CỦA MỘT XÃ HỘI VẮNG BÓNG THIÊN CHÚA”
“GIA ĐÌNH TRƯỚC THÁCH ĐỐ
CỦA MỘT XÃ HỘI VẮNG BÓNG THIÊN CHÚA”
Đình Vượng (Nhóm HTXH)
Bạn cũng như chúng tôi, là người Việt Nam, tất cả đều cảm nhân giá trị linh thiêng của hai tiếng gia đình. Tính linh thiêng đó thấy rất rõ ở khoảnh khắc gia đình đoàn tụ đón Giao thừa. Cho dù ở đâu, làm gì, và cho dù có buồn lòng ai đó trong gia đình, ai cũng mong về nhà. Nhà – hay gia đình – là tổ ấm, mái ấm, chiếc nôi của ‘sự sống và tình yêu’. Ai cũng mong gia đình luôn có nhiều yêu thương, chia sẻ, quan tâm lẫn nhau và nhà nhà ‘đầy ắp nụ cười’ yêu thương… nhưng ước mong để có một gia đình hạnh phúc nơi xã hội Việt Nam ngày hôm nay không hề dễ dàng. Gia đình Việt Nam đang đứng trước nhiều thách đố, nhiều cạm bẫy nguy hiểm, chịu nhiều tổn thương trong tiến trình biến đổi của xã hội và văn hóa, đặc biệt hơn khi xã hội hiện nay đang tìm cách xóa bỏ sự hiện diện của Thiên Chúa.
Những thách đố nói trên cần tìm hiểu nguyên nhân để trả lại cho gia đình ý nghĩa linh thiêng được nhìn nhận như một định chế tự nhiên, vì đó là cấu trúc căn bản của xã hội “Trong đó con người tiếp nhận những ý tưởng đầu tiên mang tính giáo dục về sự thật và sự tốt lành, học được thế nào là yêu và được yêu, biết được làm người thực ra là gì”[1], như vậy, trách nhiệm ‘xây dựng gia đình hạnh phúc’ là của cộng đồng và của mỗi người. Phát triển xã hội tốt đẹp tùy thuộc vào gia đình bởi “Tương lai nhân loại sẽ đến ngang qua gia đình!”[2]
I. THÁCH ĐỐ VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH Ở NGƯỜI CÔNG GIÁO VÀ Ở XÃ HỘI VIỆT NAM NGÀY NAY
1. Hôn nhân và gia đình Công giáo
Chưa có một thống kê chính thức của Giáo hội Việt Nam, nhưng tình trạng ly dị, ly thân, ngoại tình và nhiều nguyên nhân khác gây ra đổ vỡ trong các gia đình Công giáo không phải không có. Thực trạng nói trên có thể thấy rõ ở mỗi xứ đạo.
Bạn đọc có thể tham khảo thực trạng gia đình Công giáo ở GP Xuân Lộc. “Theo ghi nhận của Tòa Giám mục, hôn nhân Công giáo trong giáo phận năm 2013 là 9207 cặp, trong đó có 269 đôi chuẩn khác đạo và 642 đôi được hợp thức hóa, ngoài ra có 793 đôi ly dị (nếu năm 2012 tăng 119 đôi thì năm 2013 tăng thêm 195 đôi); 28 đôi ly thân; 1274 đôi bỏ nhau (nếu năm 2012 tăng 197 đôi thì năm 2013 tăng thêm 172 đôi); 2.102 đôi chung sống bất hợp pháp (nếu năm 2012 tăng 365 đôi thì năm 2013 lại tăng thêm 228 đôi). Tổng số các gia đình trong toàn giáo phận là 239.861, tăng 29.396 gia đình, trong đó, có 212.401 gia đình hợp pháp, 1.666 gia đình không hợp pháp (mắc ngăn trở). Dù các gia đình mắc ngăn trở chỉ chiếm tỷ lệ 0,078% nhưng trong cuộc sống, đây là những hình ảnh tác động âm thầm và gây lung lạc đối với các gia đình Công giáo, nhất là với các gia đình trẻ.”[3]
2. Hôn nhân và gia đình của xã hội Việt Nam hiện nay
Nhìn vào thực trạng gia đình hiện nay nhiều vấn đề đáng lo, quan niệm về tình yêu hôn nhân và giá trị gia đình đang bị phá vỡ do ảnh hưởng của môi trường sống đáng được báo động “Thật thà thẳng thắn thường thua thiệt. Lừa lọc, lươn lẹo lại lên lương”.
“Gia đình đang bị đe dọa bởi nhiều lực hủy diệt của văn hóa sự chết. Mối đe dọa từ bên trong là lối sống hưởng thụ ích kỷ, là sự hời hợt trong lời cam kết dấn thân. Mối đe dọa từ bên ngoài là nỗi vất vả của đời sống lao động, kinh tế, là sự cuốn hút của những phương tiện truyền thông, là lối sống buông thả đang nhen nhúm trong xã hội”[4]. Thật không ngạc nhiên khi giới trẻ quan niệm về tình yêu hôn nhân một cách hời hợt, dễ đồng hóa với tình dục; tình trạng ngoại tình, lấy nhau không cần giá thú, bạo lực gia đình, ly dị, ly thân, quan hệ tình dục và nạo phá thai trước hôn nhân… rồi các tệ nạn xã hội, mại dâm, ma túy và sự nhiễu loạn trong các chuẩn mực văn hóa đang từng bước thâm nhập vào các gia đình, tạo nên những mâu thuẫn và xung đột gay gắt. Sự xung đột giữa các thế hệ đang diễn ra trong nhiều gia đình và đặt ra những thách thức mới cho xã hội. Tiền bạc như ‘chuẩn mực’ của hạnh phúc, và nếp sống truyền thống gia đình, tôn ti trật tự bị đảo ngược: do chủ trương bình đẳng giới, do sự thiếu quan tâm của cha mẹ dành cho con cái, do quá trình mở cửa, hội nhập, mặt trái của cơ chế thị trường và các sản phẩm văn hóa độc hại từ bên ngoài tràn vào hằng ngày, hằng giờ tiến công vào mỗi gia đình, hủy hoại lối sống đạo đức của mỗi người; do coi tự do cá nhân là tối thượng dẫn đến mối quan hệ gia đình không còn giữ được sự bền vững chặt chẽ.
Thực trạng gia đình VN thấy rõ hơn qua Cuộc điều tra gia đình năm 2006 của chính phủ[5] “Gia đình VN đang phải đối mặt với nhiều thách thức to lớn: vấn đề thiếu việc làm, thu nhập chưa ổn định và những rủi ro từ nền kinh tế thị trường; gia tăng tỷ lệ các cặp ly hôn, ly thân, những người chung sống không đăng ký kết hôn; bạo lực gia đình; các vấn đề liên quan đến chức năng giáo dục – chăm sóc trẻ em; người già cô đơn / không nơi nương tựa; mâu thuẫn giữa các thế hệ (…) thiết chế gia đình lỏng lẻo, các tệ nạn xã hội ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình.v.v.”
Điều tra cho thấy, số vụ ly hôn đang tăng nhanh. Nếu năm 2000 chỉ có 51.361 vụ ly hôn thì năm 2005 đã tăng lên 65.929 vụ. Người vợ đứng đơn ly hôn hiện gấp 2 lần so với người chồng đứng đơn. Người tốt nghiệp đại học, cao đẳng có tỷ lệ ly hôn từ 1,7 – 2%, thấp hơn tỷ lệ 4 – 6% của người không có bằng cấp. Số năm sống trung bình trước khi ly hôn của các cặp vợ chồng 18 – 60 tuổi là 9,4 năm; còn riêng ở các khu vực nội thành, các thành phố lớn, chỉ 8 năm. Có 4 nguyên nhân thường xảy ra nhiều là: Mâu thuẫn về lối sống: (chiếm 27,7%); ngoại tình (25,9%); kinh tế (13%); bạo lực gia đình (6,7%).
Đặc điểm của ly hôn, ly thân theo Điều tra nói đây: tăng dần do quan niệm xã hội không khắt khe như trước – Chiếm số nhiều ở nhóm: có học vấn thấp, nhóm người tự quyết định hôn nhân không hỏi ý kiến cha mẹ, rõ ràng cha mẹ có vai trò lớn trong việc duy trì, củng cố bền vững cho gia đình trẻ; Người vợ chủ động đứng đơn ly dị cao hơn người chồng (47% trên 28,1%)chứng tỏ người phụ nữ ý thức quyền của mình, sự chủ động của họ trong cuộc hôn nhân tăng lên.
Những vấn đề gây bất hòa trong đời sống hôn nhân: bất hòa về ứng xử và khó khăn về kinh tế nam giới nhấn mạnh về ứng xử (nam 76,6% / nữ 40,5%) khó khăn kinh tế đối với nữ giới quan trọng hơn (nữ 46,1% / nam 29,4%). Có khoảng trên dưới 10% nói đến sự không hòa hợp sinh lý và sự không chung thủy. Người chồng nhấn mạnh nhiều về việc không hòa hợp sinh lý (17,7% so với 6,7% của vợ) Vợ nhấn mạnh đến vấn đề không chung thủy (12,4% so với 0% của chồng) Bất kỳ lĩnh vực nào của đời sống gia đình như chăm sóc dạy dỗ con cái, công việc làm ăn, quan hệ ứng xử nội ngoại hai bên, hay giữa vợ và chồng, đều có thể nảy sinh sự bất đồng ý kiến dẫn đến mâu thuẫn bất hòa – các lĩnh vực khác như việc quản lí chi tiêu, cách thức làm ăn kinh tế.v.v.
Điều tra dẫn 4 lý do mâu thuẫn, xung đột, bạo lực ở gia đình: say rượu, ý kiến khác nhau trong làm ăn, trong sinh hoạt tính dục, khó khăn kinh tế. Thường xảy ra ở thành phố hơn nông thôn. Tình trạng dẫn đến bạo lực thường xảy ra ở cả chồng lẫn vợ nhưng thường người chồng là nguyên nhân chính: đánh, mắng, chửi, ép quan hệ tình dục. Điều nhận định ở điều tra về thực trạng gia đình Việt Nam đáng phải nói ở đây “Nguyên nhân gốc rễ của bạo lực gia đình là nếp sống gia trưởng…”
Quan niệm về tình dục trước và ngoài hôn nhân: nhìn chung từ cuộc điều tra, “Đại bộ phận không chấp nhận sống chung với nhau mà không có kết hôn. Họ xem đây là lối sống buông thả, đi ngược lại với giá trị văn hóa truyền thống, và có thể gây ra hậu quả nặng nề về nhiều mặt cho người phụ nữ.” Nếu có tình trạng thanh thiếu niên hiện nay có quan hệ tình dục trước hôn nhân là do sự thiếu quan tâm của gia đình, sự thiếu hụt trong giáo dục sức khỏe sinh sản, mức độ tiếp xúc với văn hóa phẩm không lành mạnh… lý do khác mà phần đông không chấp nhận hiện tượng này “là bởi những hậu quả có thể xẩy ra: tan vỡ hạnh phúc gia đình, những tác động tiêu cực truyền thống văn hóa”
Rất nhiều vấn đề khác về gia đình VN được đưa ra như: ai làm chủ của gia đình; kinh tế gia đình như thế nào mới đem lại hạnh phúc; các thế hệ gia đình; trình độ học vấn và giáo dục con cái; người cao tuổi .v.v. Cuộc điều tra gia đình đầu tiên được thực hiện trên phạm vi toàn quốc trong tổng số 24.079 người từ 18-60 tuổi của 9300 hộ có 8573 người (trong đó có 4025 nam và 2548 nữ) được phỏng vấn các thông tin về hôn nhân hiện tại, các nhận định cũng như các quan niệm xung quanh vấn đề gia đình, tuy chưa hoàn thiện nhưng đủ cơ sở cho những nhà quản lý tìm hướng giải quyết. Cuộc điều tra, rất tiếc, không nêu những vấn đề tín ngưỡng có liên quan đến giá trị gia đình! Số Gia đình Việt Nam, nhìn tổng thể đều có tôn giáo và còn thực hành tôn giáo. Vấn đề tâm linh, tín ngưỡng cũng chi phối cuộc sống gia đình VN, góp phần xây dựng hạnh phúc gia đình!
II. GIA ĐÌNH TRƯỚC THÁCH ĐỐ CỦA MỘT XÃ HỘI VẮNG BÓNG THIÊN CHÚA
Để gia đình có được hạnh phúc, trở thành điểm tựa cho mọi người, gia đình thực sự là “chiếc nôi cuộc sống và tình yêu, nơi mà con người được sinh ra và lớn lên[6]” cần phải khẳng định sự hiện hữu của tôn giáo là cần thiết, không chỉ cho gia đình mà chung cho toàn xã hội con người. Tại sao nhiều người ‘tu tâm dưỡng tánh’, ‘ăn chay niệm phật’, thích làm lành lánh dữ, sợ lương tâm cắn rứt khi làm điều ác…? Tất cả chỉ vì con người tin có Trời Phật, có thần linh, có ‘một sự sống khác sau cuộc đời này’, và đó là khởi điểm của tôn giáo. Các tôn giáo chân chính[7] chỉ muốn đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Các tôn giáo, cách riêng Thiên Chúa giáo luôn nhấn mạnh, đề cao sự thật vì chính “Sự thật sẽ giải phóng anh em” (Ga 8,32)
Khi chủ trương duy vật vô thần, quan niệm tự do và chủ nghĩa cá nhân len lỏi vào cuộc sống gia đình làm thay đổi diện mạo: thay vì là mái ấm, điểm tựa, chiếc nôi…gia đình trở thành ‘nhà tù chung’ ở đó mỗi người sống ích kỷ, tự thu mình lại. Khi không còn tin vào những giá trị siêu nhiên, con người sẽ bị chệch hướng cuộc đời. Chối bỏ Thượng Đế là nguyên nhân của bạo lực. Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI[8] đã nhiều lần quả quyết như thế. “Sự chối bỏ Thiên Chúa làm băng hoại con người, khiến con người không còn mẫu mực nữa, và dẫn họ đến bạo lực”. Đề cập đến sự cần thiết của tôn giáo Tiến sĩ Nguyễn Quang Hưng[9], thuộc Viện Nghiên cứu Tôn giáo đã viết: “Sự khủng hoảng đạo đức Việt Nam hiện nay do nhiều nguyên nhân, trong đó có việc truyền bá chủ nghĩa duy vật và vô thần, hạ thấp vai trò của tôn giáo, nhất là thời kỳ trước Đổi mới. Việc phủ nhận các giá trị tôn giáo, đề cao chủ nghĩa duy vật vô thần tới mức cực đoan vô hình trung cổ vũ cho cái ‘văn hóa’ tiêu dùng phàm tục”. Rồi tác giả kết luận: “Khủng hoảng đạo đức xã hội ở Việt Nam đã tới mức báo động và có thể còn kéo dài, đòi hỏi nỗ lực của các cấp chính quyền, các tổ chức tôn giáo và từng người dân để khắc phục”. Hy vọng ước mong của một trí thức ngoài công giáo được nhiều người để ý quan tâm.
1. Giá trị của tình yêu hôn nhân dưới góc nhìn Thiên Chúa giáo.
Nhiều, rất nhiều người không tin có Thiên Chúa và luôn cả người tin, hiểu giáo lý hôn nhân qua ‘những luật cấm’. Bạn cầm trên tay tấm Thiệp Hồng của người Công giáo luôn đọc thấy “Điều gì Thiên Chúa kết hợp, loài người không được phân ly” Câu này nói lên điều gì? Luật cấm ư? Quá khắt khe, mất tự do… và thực tế thì bạn đã rõ, lấy nhau của Công giáo ‘phải qua nhiều khê!
Khi hai người nam nữ yêu nhau rồi quyết định tiến đến hôn nhân, ai cũng mong hôn nhân bền vững, nhiều yêu thương và điều mong ước nhất là có được người bạn đời tâm đầu ý hợp. Nhưng thật đáng buồn, rất nhiều người thất vọng vì cuộc sống hôn nhân, họ than thân trách phận: có người dễ dàng ly hôn và có người âm thầm chịu đựng vì áp lực tôn giáo và dư luận xã hội. Sai lầm trong tình huống này phát xuất từ thứ tình yêu sớm nở tối tàn, thứ tình yêu ích kỷ được xây dựng từ một phía, tôi lấy anh, lấy chị “vì…”, đủ thứ “vì…”. Có không ít chuyện hôn nhân, sau ngày đám cưới linh đình, đôi bạn sống với nhau chưa bao lâu, thì hôn nhân của họ biến thành ‘đám ma’. Quan niệm ‘tình yêu’ ở đây đã bị biến dạng, hiểu sai.
Tình yêu không phải là ý niệm quá trừu tượng đến nỗi không thể diễn tả được. Nó hiện diện trong cuộc sống và người ta không thể sống hạnh phúc nếu vắng bóng tình yêu. Tình yêu không phải là món quà đổi chác; là rung cảm lần đầu từ ánh mắt, nụ cười và cả đam mê về thể xác khi mới gặp nhau; là những lời hứa ngọt ngào… tất cả đều phảng phất nét lãng mạn.
Tình yêu phải là quà tặng linh thiêng, vô giá mà hai người sẵn sàng dâng hiến quên mình. Đó là tình yêu chân chính, nền tảng để hôn nhân sung mãn – bền vững – hạnh phúc “Yêu có nghĩa là cho và nhận một điều gì đó không thể mua cũng không thể bán, mà chỉ có thể cho một cách tự nguyện và hỗ tương”[10]
Điều kỳ diệu của tình yêu chân thật là nó phát triển cùng với quá trình tiến đến hôn nhân. Nó làm cho hôn nhân ‘thăng hoa’ cả trong thuật ân ái vợ chồng và quan trọng hơn cả là tình cảm, là cung cách đối xử ‘sống cho người mình yêu’ để đem lại niềm vui cho người bạn đời. Chỉ có như vậy bạn mới nhận thấy giá trị, nét đặc thù của đời sống hôn nhân: “Hợp nhất thể lý cũng như tinh thần, trở nên “một xương một thịt” (St 2,24), bất khả phân ly và trung tín và hướng mà chính hôn nhân tiến tới là việc sinh con cái”[11]. Nhưng việc không có con cái, không phải là lý do của ly thân, ly hôn, trái lại, tính bất khả phân ly và giá trị của hiệp nhất vẫn còn nguyên vẹn, trong trường hợp này, vợ chồng “có thể diễn tả lòng quảng đại của mình bằng cách nhận nuôi những đứa trẻ bị bỏ rơi hay bằng cách thực hiện những công tác phục vụ theo nhu cầu cần thiết của người khác”[12]
Tình yêu chân thật dẫn đến hôn nhân và gia đình rõ ràng có giá trị linh thiêng không thể phủ nhận. Tình yêu đó không do xã hội con người làm ra, người Công giáo tin rằng chính Thiên Chúa là tác nhân của tình yêu hôn nhân. Ngay từ tạo dựng, Chúa đã lập nên một gia đình, Chúa chúc phúc, Chúa muốn họ hạnh phúc (X. St việc tạo dựng con người 1,26-28; 2,7-24 – Mt 19, 5-6) và rồi, cũng từ khởi nguyên, gia đình Ông Bà Edong & Eva không hạnh phúc vì chối từ sự hiện diện của Thiên Chúa (St 3,1-7) nhưng Thiên Chúa luôn yêu thương và trung tín “Bởi vì Chúa nhân hậu, muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương, qua bao thế hệ, vẫn một niềm thành tín.” (Tv 99, 5) Niềm xác tín được minh chứng nơi từng trang Kinh Thánh. Dẫu cho loài người có bất tín bất trung, thì tình yêu thương và lòng thành tín của Thiên Chúa vẫn không hề đổi thay. Qua các tổ phụ và các ngôn sứ, Thiên Chúa không ngừng lặp lại lời hứa cứu độ cho đến khi mọi sự được hoàn tất nơi Đức Giêsu Kitô. Đây cũng chẳng phải là “thuốc phiện[13]” nhằm ru ngủ những người đang đau khổ trong hôn nhân, gia đình; trái lại, là lẽ sống và nguồn trợ lực cho những ai luôn gắn bó với Chúa.
Hôn nhân của một người nam và một người nữ là sự phản chiếu giao ước yêu thương của Thiên Chúa với dân riêng của Ngài, và “Cả đến tội lỗi, có thể làm tổn thương khế ước hôn nhân cũng trở thành hình ảnh cho sự bất trung của dân đối với Thiên Chúa. Việc thờ ngẫu tượng là một sự mãi dâm, bất trung là ngoại tình, và không nghe luật Chúa là một sự chối bỏ hôn ước tình yêu của Chúa. Nhưng sự bất trung của dân Israel không hủy diệt lòng trung tín đời đời của Chúa và bởi thế, tình yêu trung thành mãi mãi của Thiên Chúa được giới thiệu như kiểu mẫu cho những tương quan tình yêu trung thành phải có giữa vợ chồng.”[14]
Tình yêu dẫn đến hôn nhân và làm nên một gia đình, đó là sự chuyển hóa tự nhiên và hoàn toàn không phải “là kết quả của những thỏa thuận con người đến nhau, cũng không phải là kết quả của những quy định pháp lý, nhưng có được sự ổn định như thế là do quyết định của Thiên Chúa. Đó là một định chế[15] được khai sinh” – kể cả trước mắt xã hội – ‘do một hành vi nhân linh, qua đó hai bên trao phó bản thân mình cho nhau’ và được xây dựng dựa trên chính bản tính của tình yêu vợ chồng, một tình yêu được xem như là một sự trao tặng toàn vẹn và độc quyền mà người này dành cho người kia, khiến hai bên dứt khoát dấn thân cho nhau, và điều này được biểu lộ qua việc hai bên bày tỏ sự ưng thuận với nhau cách công khai và không thể rút lại”[16].
2. “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mt 19, 3-12)
Các kinh sư luật sĩ Do Thái muốn biết lập trường của Chúa Giêsu về vấn đề ly dị, Ngài đã dứt khoát trả lời như vậy.
Ngày hôm nay tình trạng ly dị xẩy ra quá dễ dàng, luật thừa nhận hiện tượng này, tuy nhiên không phải mọi người đều dễ dàng chấp nhận ly dị (cả tòa án, trước khi đưa ra phán quyết, quan tòa đều muốn giải hòa). Kết quả ly dị luôn đáng thương, gây xáo trộn gia đình, để lại tâm lý khủng hoảng bất an cho con cái, và gánh nặng cho xã hội… Bạn có thể tham khảo đầy đủ hơn hiện tượng này ở internet.
Tình yêu, một cách tự do, hai người nam và nữ chưa từng biết nhau, không nợ gánh nhau, nhưng rồi họ yêu nhau, tự nguyện đến với nhau và dâng hiến cuộc sống riêng của mình cho người mình yêu, trở thành “một xương một thịt”. Người nam và người nữ được tạo dựng theo hình ảnh Thiên Chúa. Họ bình đẳng nhau về nhân phẩm. Trong hôn nhân họ không còn phải là hai, nhưng là một xác thịt. Vậy, điều mà Thiên Chúa phối hợp thì con người không được phân ly, và đó là đặc tính của tình yêu vợ chồng: hôn nhân bền vững và bất khả phân ly. Chính đặc tính quý báu này Giáo hội lên tiếng “Đưa ly dị vào trong pháp chế dân sự là tiếp sức thêm cho quan niệm tương đối hóa sự ràng buộc của hôn nhân và việc nó được phổ biến khắp nơi trở thành ‘một nạn dịch thực sự cho xã hội”[17]
Trách nhiệm gìn giữ đặc tính này không chỉ phía vợ chồng mà còn của xã hội phải “đem đến hôn nhân tính cơ chế, dựa trên một hành vi công khai được xã hội và luật pháp nhìn nhận”[18] Bạn không ngạc nhiên khi Lời Chúa Giêsu nói ở đây được lập lại trước cộng đoàn Kitô hữu khi cử hành Bí tích hôn nhân. Hôn nhân Công giáo thành sự khi có sự hiện diện của cộng đoàn, họ cầu nguyện, họ chung vui và họ ôm ấp bảo vệ cho đôi bạn để hôn nhân trở nên bền vững. Hình ảnh sự hiện diện của cộng đoàn cũng thấy rất rõ ở những ngày cưới và đều mang một ý hướng yêu thương như vậy, đó là định chế hôn nhân rất tự nhiên của xã hội. Ly dị, kết quả đáng buồn, bạn có bao giờ tự hỏi: “Khi tôi làm đơn ly dị đưa ra tòa xét xử, tự chính tôi đã làm quan tòa xét đoán người bạn đời? Chúa Giêsu không đến để kết án ai mà để cứu chuộc, yêu thương mọi người. Ngài muốn hai người phối ngẫu trở về với lương tâm. Chính lương tâm làm chúng ta cảm nghiệm chân lý của tình yêu chân chính ở hôn nhân và gia đình.
Tóm lại, còn rất nhiều điều phải đề cập về “Gia đình trước thách đố của xã hội vắng bóng Thiên Chúa”, khuôn khổ của một bài báo không cho phép chúng tôi đào sâu. Tuy nhiên, cần làm sáng tỏ vấn đề cốt lõi khi đề cập đến gia đình, đó là định chế và cấu trúc gia đình không phát xuất từ xã hội, nhưng do chính Thiên Chúa thiết lập ngay từ khởi nguyên khi tạo dựng. Xác định chân lý này tức là trả lại cho hôn nhân và gia đình sự sống và tình yêu:
Hiến pháp Nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội năm 1991, cũng như ở nhiều văn kiện của Đảng và chính sách xã hội có nhấn mạnh tầm quan trọng của gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội…Học thuyết Xã hội Công giáo, chương V : Gia đình là tế bào sống động[19] của xã hội. Có gì khác biệt ở đây ? Rất rõ, gia đình là tế bào hay là gốc, căn nguyên của sự sống và sự sống đó được hình thành từ tình yêu hôn nhân làm nên gia đình. Chính vì sự sống này, các phần tử trong gia đình liên đới yêu thương, có trách nhiệm làm cho gia đình ‘sống động’ trở nên hạnh phúc. Lúc Gia đình là tế bào sống động của xã hội, hay ‘chiếc nôi của sự sống và tình yêu’, bạn ý thức : mỗi thành viên trong gia đình là mỗi con người có phẩm giá, là hình ảnh của Thiên Chúa, bạn thấy có bổn phận phải quý trọng, kính trọng, yêu thương và những điểm chính của HTXH chúng tôi đề cập sau đây là cần thiết để gia đình được bền vững:
– Sự thật: gia đình không phải là sân khấu, mỗi thành viên sống thật với vai trò tự nhiên của mình là cha mẹ, vợ chồng, con cái. Cho dù bạn là ai, là chức sắc tôn giáo hay địa vị ở đời, khi về nhà, vai vế kia sẽ không cần thiết nữa, không có khoảng cách, địa vị bỏ ngoài cửa. Tình yêu chân thực thì tôn trọng sự thật ở cung cách xử sự, ở lời nói và ở cách sống. Tình yêu chân chính trong gia đình yêu cầu bạn không diễn tuồng! Khi sự thật là lẽ sống, mọi người biết trân trọng cái chung từng mong muốn là của nhau: chung nhà, chung giường chiếu, chung bếp… và khi sự thật vắng bóng, ngôi nhà biến thành “nhà tù chung!”
– Gia đình một cộng đoàn tình yêu của sự liên đới. Họ liên đới cùng chịu trách nhiệm trước thành công, thất bại, vật chất cũng như tinh thần. Họ liên đới chia sẻ cho nhau buồn vui, hạnh phúc và bất hạnh…Với người Việt Nam, tính liên đới này thấy rõ hơn trong những dịp đám cưới, đặc biệt ở đám ma (dù đám ma ở cuộc ly hôn) với câu nói rất tình nghĩa “Một con ngựa đau cả tàu chê cỏ”. “Liên đới cũng là một đức tính luân lý thực sự, không phải là một cảm giác thông cảm mơ hồ hay đau buồn hời hợt trước những bất hạnh của nhiều người, gần gũi cũng như xa lạ. Ngược lại, liên đới là có một quyết tâm vừa chắc chắn vừa kiên định muốn dấn thân lo cho công ích.” Tức là lo cho ích lợi của mọi người và mỗi người, vì tất cả mọi thành viên trong gia đình thật sự đều phải chịu trách nhiệm về tất cả mọi người. “Liên đới được nâng lên hàng đức tính xã hội căn bản, vì đó là đức tính nằm trong phạm vi của công bằng. Đó là một đức tính ưu tiên nhắm tới công ích và được tìm thấy nơi những người dấn thân lo cho ích lợi của người thân cận tới mức, theo nghĩa của Tin Mừng, sẵn sàng ‘liều mất bản thân mình’ vì người khác thay vì khai thác người khác, và sẵn sàng ‘phục vụ người khác’ thay vì áp bức người khác vì ích lợi riêng (x. Mt 10,40-42; 20,25; Mc 10,42-45; Lc 22,25-27)”[20].
Hôn nhân và gia đình như vậy mang một giá trị hoàn toàn linh thiêng như những gì chúng tôi chia sẻ ở trên. Tình yêu hôn nhân làm nên gia đình và phát sinh sự sống, nuôi dưỡng sự sống. Sự sống của mỗi thành viên gia đình luôn phải ‘động’ và hạnh phúc chỉ có khi mọi người chung tay, nỗ lực vun trồng làm cho nó ‘sống động’, trở nên tổ ấm yêu thương, mái ấm che chở mọi người. Nhà, không phải chỉ là nơi dừng chân, quê quán để trở về, mà còn là điểm tựa bình yên. Gia đình là môi trường giáo dục nhân bản tốt nhất, góp phần cho xã hội những công dân có ích. Gia đình Công giáo không tự họ nhờ Bí tích hôn nhân đã tốt đẹp hạnh phúc, nhưng vẫn thấy rõ nhiều gia đình Công giáo giữ được bình yên, thủy chung, vượt được sóng gió, vì sức mạnh yêu thương và luôn phó thác vào Chúa. Giáo huấn xã hội của Giáo hội có lý khi coi gia đình là “cộng đồng yêu thương và liên đới, nơi duy nhất thích hợp để dạy dỗ và truyền đạt các giá trị văn hoá, đạo đức, xã hội, tâm linh và tôn giáo, rất cần cho các thành viên của gia đình và xã hội được phát triển và hạnh phúc.”[21]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 99 (Tháng 3 & 4 năm 2017)
__________
[1] Tóm lược Học thuyết Xã hội của Giáo hội Công giáo (TLHTXHCG), số 212
[2] Tông huấn Familiaris consortio
[3] X. http://www.cgvdt.vn/cong-giao-viet-nam/xay-dung-gia-dinh-kito-giao_a4277
[4] X. Số 18, Thư chung HĐGMVN ngày 29.9.2001, tại https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-chung-2001-cua-hoi-ong-giam-muc-viet-nam-de-ho-duoc-song-va-song-doi-dao-ga-10-10-17877
[5] Được sự hỗ trợ của UNICEF, Bộ trưởng, Chủ nhiệm UBDSGĐTE đã ra quyết định số 765/QĐ-DSGĐ ngày 20.12.2005 thành lập Ban chỉ đạo Điều tra Gia đình VN gồm đại diện UBDSGĐTE và các bộ ngành hữu quan (Ngày 6,11,2007 Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao Du lịch ra quyết định số 1243/QĐBVHTTDL kiện toàn Ban chỉ đạo nói trên) nhằm tổ chức toàn bộ các hoạt động chuẩn bị, nghiên cứu và điều tra gia đình VN, Tổng cục Thống kê là cơ quan chịu trách nhiệm tổ chức điều tra và định lượng ĐTGĐVN, Viện Gia đình và Giới là cơ quan chịu trách nhiệm thiết kế bảng câu hỏi điều tra.
[6] TLHTXHCG, số 212
[7] Có rất nhiều ‘đạo’ hay tôn giáo ở VN, nhưng chúng tôi muốn nói đến ‘các tôn giáo chân chính vì có giáo lý, có tổ chức rõ ràng như Thiên Chúa giáo (Công giáo, Tin Lành), Phật giáo, Cao Đài Hòa Hảo, Hồi giáo và ngay cả ‘Đạo thờ kính Ông Bà’. Suốt dòng lịch sử, các tôn giáo luôn bị ‘kẻ xấu lợi dụng vì mục đích chính trị’ làm nhiều người hiểu sai chân lý của đạo, IS hiện nay của đạo Hồi.v.v.
[8] Diễn từ tại Assisi, nhân ngày các đại diện tôn giáo cùng cầu nguyện cho hòa bình 27-11-2011
[9] x. Công giáo và Dân tộc, số 211, tr. 29 và 33
[10] TLHTXHCG, số 221
[11] Ib, số 217
[12] Ib, số 218
[13] Nguyên văn như sau: “Tôn giáo là tiếng thở dài của chúng sanh bị áp bức, là trái tim của một thế giới không có trái tim, cũng giống như nó là tinh thần của trạng thái không có tinh thần, tôn giáo là thuốc phiện của nhân dân.” C.Mác, lời nói đầu của “Phê phán triết học pháp quyền của Heghen” 1843-1844, NXB Sự Thật Hà Nội, 1962, trang 5-7.
[14] Familiaris consortio, số 12, bản dịch của Lm Agostino Nguyễn Văn Dụ
[15] Định chế hôn nhân (institution du marriage) – định chế : những quy tắc, chuẩn mực mang tính ràng buộc.
[16] TLHTXHCG, số 215
[17] Ib, số 225
[18] Ib.
[19] Tế bào sống động của xã hội “cellute vitale de la société” – vitale : adj (lat:vitalis, de vita, vie) liên quan đến sự sống
[20] Ib, số 193
[21] Ib, số 238
2022
Đi tìm một nền tảng: Hồng ân đời sống thánh hiến
Lời khấn của các linh mục dòng giúp ích gì cho các linh mục triều? Khi được phỏng vấn để trở thành một tu sĩ Đa Minh, tôi đã bị bối rối trước câu hỏi này.
Vị phỏng vấn tôi, một giáo sư tại Học Viện Đa Minh, nhìn tôi không chớp, chờ đợi câu trả lời. Dù tôi đã cố gắng để nêu rõ bất kỳ sự khác biệt nào giữa lối sống của các linh mục dòng và các linh mục triều. Tôi biết rằng ba lời khấn tu trì là khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục, nhưng tất cả những điều này dường như cũng áp dụng cho các linh mục triều. Rốt cuộc, các linh mục triều cũng không có được nhiều tiền, cũng sống độc thân và cũng phải giữ khiết tịnh và hứa vâng lời giám mục của các ngài.
Thấy sự lúng túng của tôi, vị phỏng vấn đã mủi lòng và giúp tôi tìm ra câu trả lời. Các tu sĩ sống khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục một cách rõ ràng hơn các linh mục triều, và do đó, giúp làm chứng cho giá trị của những thực hành ấy trong việc bước theo Đức Kitô.
Kể từ cuộc phỏng vấn đó, tôi đã học biết thêm về từng lời khấn và làm sao để sống những lời khấn ấy trong cuộc sống hàng ngày. Tôi hiểu được rằng mặc dù lời khấn thường không rõ ràng trên bề mặt, nhưng chúng tạo nên nền tảng cho căn tính của một linh mục dòng. Lời khấn đưa ra lời bảo đảm rằng việc đi theo và noi gương Đức Kitô là trung tâm của đời sống người tu sĩ, và giúp hỗ trợ việc thánh hiến và sứ mạng của thánh chức linh mục cho chính mình và cho cả các linh mục triều trong giáo phận.
Từ tính tuỳ phụ đến tính cốt yếu
Trong triết học Aristotle-Thomistic vốn rất gần gũi với tu sĩ Đa Minh, sự khác biệt giữa cái tuỳ phụ và cái cốt yếu diễn ra trong nhiều bối cảnh khác nhau. Chúng ta học cách suy tư theo những thuật ngữ này về mọi thứ, từ những kết cấu tự nhiên đến cách sống của chính mình.
Trong quá trình đào tạo sơ khởi, những khía cạnh tùy phụ của đời sống tu trì như: việc sống chung, việc tuân giữ kỷ luật, việc mặc tu phục và việc tìm hiểu về các vị thánh phong phú đã xuất hiện từ dòng của chúng ta trong quá khứ… thì nổi bật hơn cái cốt yếu.
Chúng ta cũng học về lời khấn, nhưng chúng ta trải nghiệm về lời khấn như những điều kiện tiên quyết để bước vào đời sống tu trì hơn là như những hy sinh cá nhân. Chúng ta đã chấp nhận trả giá khi bỏ lại đằng sau nghề nghiệp hoặc giấc mơ hôn nhân để bước vào Tập viện. Điều quan tâm nhất là thức dậy để suy gẫm và cầu nguyện vào buổi sáng, cố gắng tránh làm rớt nước sốt mì Ý vào tu phục, và kiềm chế những lời nói gắt gỏng đối với một anh em đang nói quá lớn tiếng hoặc đến họp trễ.
Điều đó không có nghĩa là việc nghiên cứu thần học về lời khấn không quan trọng. Chúng ta cần chuẩn bị cho cả việc tuyên khấn đơn lẫn khấn trọng để những giây phút thánh thiêng đó có thể là sự hiến dâng đích thực có chủ đích và tự do, thực sự tận hiến trọn vẹn bản thân cho Thiên Chúa. Chúng ta cần biết rằng những lời khuyên Phúc âm đã được Đức Kitô ban tặng như là những phương thế để chu toàn luật của đức ái, như là những sự trợ giúp việc lớn lên trong tình yêu trọn vẹn với Thiên Chúa và người lân cận (như Thánh Thomas mô tả trong Summa Theologiae II-II, Vấn nạn 184, Điều 3).
Chúng ta cần biết rằng tinh thần của các lời khuyên là bắt buộc đối với tất cả các Kitô hữu, nhưng việc tuân thủ cụ thể các lời khuyên đó phải được đón nhận cách tự nguyện. Chúng ta cần biết rằng các lời khuyên hoạt động bằng cách loại bỏ những tài sản hợp pháp thường gây trở ngại cho sự lớn lên trong đức ái. Chúng ta học hỏi các lời khấn để có thể nắm lấy chúng như là nền tảng của cuộc đời, cả trong giai đoạn giới hạn trong lời khấn đơn và suốt đời trong lời khấn trọng. Tôi đã được chuẩn bị kỹ lưỡng cho việc tuyên khấn của mình, và khi một người anh em trẻ hơn hỏi tôi là sau đó thì việc khấn trọng của tôi đã như thế nào, tôi có thể thành thật nói với thầy ấy rằng, đó là ngày hạnh phúc nhất trong đời tôi.
Hiểu được đặc tính thiết yếu của lời khấn là điều quan trọng đối với những tu sĩ đang trong giai đoạn đào tạo. Nhưng việc tuân giữ các lời khấn còn kèm theo những áp lực phải vượt qua các yêu cầu về đào tạo trong các lĩnh vực nhân bản, tâm linh, trí thức và mục vụ, vì vậy việc tuân giữ các lời khấn có xu hướng không chiếm vị trí ưu tiên trong nhận thức.
Về nhiều mặt, đời sống chủng viện giáo phận cũng tương tự như đời sống trong một tu viện lớn. Vì thế, không có gì ngạc nhiên khi các tu sĩ là ứng viên cho chức linh mục tập trung sự chú ý của họ vào những điều giống như các chủng sinh giáo phận làm.
Những yếu tố thiết yếu của đời sống tu trì – ba lời khấn – xuất hiện rõ ràng hơn đối với người tu sĩ sau khi kết thúc việc đào tạo sơ khởi, cho dù đó là với tư cách một trợ sĩ hay một linh mục. Một khi thầy/cha ấy không còn bị bỏ phiếu và có tự do hơn trong cách sử dụng thời gian của mình, thì việc tuân giữ lời khấn sẽ có nhiều khả năng giống như một sự hy sinh hơn. Vào những thời điểm khác nhau, việc từ khước tài sản, hoạt động tình dục và quyền tự quyết xuất hiện từ hậu cảnh và nhắc nhở người tu sĩ, cũng như những người xung quanh, rằng những lời khấn định hình cuộc sống của họ cách triệt để.
Học biết Tuân phục qua đau khổ
Tôi mới chịu chức chưa được ba năm, nhưng đặc tính triệt để của ba lời khấn đã bắt đầu xuất hiện đối với tôi. Chứng thư chấp thuận của Bề trên giám tỉnh cho việc khấn lần đầu của tôi phần nào mang tính tiên tri đối với tôi: Ngài nói với tôi rằng các đòi hỏi của lời khấn ngày càng khắt khe hơn theo thời gian, thường theo những cách mà chúng ta không mong đợi. Sau giai đoạn đào tạo sơ khởi, tôi mong chờ một sự bổ nhiệm may lành đầu tiên tại một trong những giáo xứ của chúng tôi, nhưng thay vào đó, tôi lại có cảm giác như Thiên Chúa đã giật tấm thảm dưới chân tôi.
Tôi đã trải qua mùa hè của mình với tư cách là một phó tế chuyển tiếp tại giáo xứ Thánh Patrick của chúng tôi ở Columbus, Ohio, vì vậy tôi rất vui mừng khi Bề trên giám tỉnh nói với tôi rằng ngài muốn bổ nhiệm tôi ở đó sau khi tôi hoàn tất việc học. Tôi đã dành năm đầu tiên của đời linh mục để hoàn tất bằng Thạc sĩ thần học, vì vậy trong khi tôi có một vài việc mục vụ và độc lập hơn trước khi thụ phong, tôi vẫn là một sinh viên toàn thời gian sống trong một ngôi nhà đào tạo.
Việc đến giáo xứ Thánh Patrick là cơ hội cho một khởi đầu mới và thực hiện đầy đủ tác vụ linh mục của tôi. Tôi nhanh chóng hòa nhập vào khuôn khổ hàng tuần của cuộc sống của một cha phó tại giáo xứ: những bổn phận hành chính, dâng lễ hàng ngày và ngồi toà giải tội, những cuộc gọi bệnh viện và những buổi sáng Chúa nhật thú vị nhưng mệt lử. Tôi nhận thức rõ mình là thành viên của một cộng đoàn tu trì, nhưng trọng tâm của tôi chủ yếu là về căn tính linh mục của mình.
Mặc dù tập trung vào thừa tác vụ linh mục, tôi đã ở một vị thế tốt hơn nhiều để hiểu sự khác biệt giữa việc trở thành một linh mục dòng và một linh mục triều hơn khi còn là một ứng viên ơn gọi.
Trong nhiều năm, tôi đã biết rõ về một số linh mục triều, và tôi biết rằng việc tuân giữ các lời khấn đòi hỏi về nhiều mặt. Mặc dù lương của một linh mục thì khiêm tốn, nhưng đó vẫn là thu nhập của ngài và không phải chuyển thẳng vào cộng đoàn. Linh mục triều có thể nhận và giữ những quà tặng mà không cần phải xin phép bề trên, và cũng không phải chuyển những món tiền biếu cho bề trên. Linh mục triều có thể tích lũy tài sản, sở hữu căn nhà nghỉ dưỡng và chi tiêu kha khá cho các sở thích.
Sự tiết dục hoàn toàn cũng tuyệt đối như đối với tu sĩ, nhưng có nhiều nguy cơ đi lạc đường hơn khi sống riêng lẻ thay vì sống trong một cộng đoàn. Việc vâng lời giám mục liên quan đến việc thực hiện thánh chức và việc mục vụ nhưng không mở rộng đến các chi tiết của cuộc sống hàng ngày. Không có hiến pháp nào để tuân giữ và không có bề trên trực tiếp để xin phép hoặc đồng ý với trong các vấn đề thực tế.
Các linh mục được mời gọi đến sự hoàn thiện của sự thánh thiện nhờ Bí Tích Truyền Chức Thánh (x. Sắc lệnh Presbyterorum ordinis, số 12), vì vậy linh mục vẫn phải giữ sao cho của cải thế gian không trở thành chướng ngại vật cho đức ái. Linh mục có nghĩa vụ tuân giữ tinh thần của các lời khuyên, và việc tuân thủ của các linh mục dòng, cũng như của các anh chị em tu sĩ, giúp nhắc nhở linh mục triều về những lời khuyên này.
Tôi đã cố gắng trở thành một tu sĩ biết vâng lời trong cộng đoàn, và một người anh em độ lượng để sống cùng, nhưng điều này vẫn không giúp tôi chuẩn bị cho sự vâng lời trọn vẹn trong vòng chưa đầy một năm sau khi tôi được bổ nhiệm.
Cùng với 2 thành viên khác của cộng đoàn, tôi bị nhiễm COVID-19 vào tháng 12 năm 2020. Các triệu chứng của tôi khá nhẹ và phần tồi tệ nhất là bị cách ly trong phòng vào dịp Giáng sinh và Năm mới. Tôi bị đau ngực kéo dài sau khi các triệu chứng khác biến mất, nhưng tôi đã trở lại thi hành thừa tác vụ.
Trong sự phấn khích vì có thể nhận được vaccine sớm trong đợt triển khai, tôi đã tiêm vaccine chỉ vài tuần sau khi bị ốm. Vào thời điểm đó, các bác sĩ nghĩ rằng điều này là ổn, nhưng nó khiến cơn đau ngực của tôi tăng đột biến. Một số loại thuốc ban đầu dường như làm cho nó tốt hơn, nhưng nó đã quay trở lại sau liều vaccine lần thứ hai của tôi. Mặc dù tôi đã cố gắng vượt qua nó, nhưng tôi dần nhận ra rằng cơ thể của tôi không thể tự hồi phục được. Tôi đã luôn khá khỏe mạnh và thích tập thể dục, vì vậy tôi tự tin rằng cuối cùng tôi sẽ tự chữa lành.
Đến giữa tháng 3, cơn đau ngực của tôi trở nên nghiêm trọng và liên tục đến mức tôi không thể làm việc toàn thời gian nữa. Bề trên của tôi và tôi đã quyết định là tôi nên nghỉ một vài tuần để tập trung vào việc nghỉ ngơi và chăm sóc y tế, và vào thời điểm đó, tôi đã không hình dung được rằng tôi sẽ không được cử hành Thánh Lễ với cộng đoàn trong 5 tháng.
Các bác sĩ của tôi đã cố gắng cách quyết liệt để tìm ra nguồn gốc có thể đo lường được của cơn đau nhưng không thành công. Nhiều người trong giáo xứ, cũng như anh em Đa Minh của tôi, cầu nguyện cho tôi. Tôi đã nghĩ rằng mình có thể có một kỳ nghỉ kéo dài ở một nơi nào đó, nhưng tôi dự trù là khi đã xong nhiệm kỳ được bổ nhiệm của mình ở Columbus.
Đó là vào cuối tháng 4, khi tôi cảm thấy giống như tấm thảm dưới chân bị kéo đi. Bề trên giám tỉnh của chúng tôi (một Bề trên giám tỉnh khác với vị thời tôi còn trong tập viện) đã gọi điện và nói với tôi rằng ngài muốn thuyên chuyển tôi tới giáo xứ của chúng tôi ở Youngstown. Những lời nói đó giáng vào tôi như một cú đánh, mặc dù tôi nhận ra rằng ngài có lý do chính đáng: giáo xứ ở đó đã có đủ nhân sự mà không cần có tôi, vì thế tôi có thể dành bao lâu có thể để phục hồi sức khoẻ mà không cảm thấy lo lắng về gánh nặng mà tôi đang đặt lên những người anh em hoặc các dự án còn dang dở của mình.
Tôi đã khóc sau cuộc điện thoại đó hơn một lần. Tôi đã gắn bó với cộng đoàn, với những vai trò của mình trong giáo xứ, và với nhiều gia đình ở đây. Đây là lúc mà những lời trong chứng thư chấp thuận việc khấn đơn trở lại với tôi: những đòi hỏi của lời khấn ngày càng khắt khe hơn theo thời gian, thường theo những cách mà chúng ta không ngờ tới. Một cuộc sống dường như trọn vẹn và có thể đoán trước được đã thay đổi hoàn toàn vì một đặc điểm thiết yếu: lời khấn vâng phục. Tôi biết rằng đây là nền tảng của cuộc đời mình, nhưng vì tôi đã lường trước tất cả các giai đoạn đào tạo, bao gồm cả lần bổ nhiệm đầu tiên của tôi, nên đây là lần đầu tiên sự vâng phục đi ngược lại với ý muốn tự nhiên của tôi.
Tôi phải tin cậy vào sự quan phòng của Thiên Chúa và noi gương lời cầu nguyện của Chúa Giêsu trong vườn Giêtsimani: “Không phải theo ý con, nhưng theo ý Cha” (Mt 26, 39). Mục đích của sự vâng phục là làm cho chúng ta nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô trong sự dâng hiến của Người cho Chúa Cha, và với sự tái bổ nhiệm đột ngột này, tôi bắt đầu học biết điều này có nghĩa là gì.
Như là sự phù hợp vừa cho một tu sĩ lẫn một linh mục, Thiên Chúa đã làm cho tôi nên giống Con của Ngài hơn, Đấng đã học vâng phục từ những gì Người phải chịu đựng. Thậm chí còn hơn cả cơn đau ngực của tôi, sự quy phục ý muốn của tôi là một đớn đau đối với tôi.
Sự hiểu biết lớn hơn
Câu chuyện của tôi có một kết thúc có hậu: Tôi đã hồi phục đủ ở Youngstown để đảm nhận một tác vụ mới tại Trung tâm Newman. Sự quan phòng của Thiên Chúa đã không thất bại, và như là một phần của điều đó, tôi hy vọng việc thực hành vâng phục của tôi là một chứng tá cho giáo dân của giáo xứ Thánh Patrick và các linh mục mà tôi đã gặp.
Bây giờ tôi hiểu rõ hơn rằng các linh mục triều có thể gặp khó khăn lớn trong việc thuyên chuyển của mình. Tôi biết ơn về hồng ân đời tu giúp tôi thấy sự cần thiết của hi sinh, nhưng tôi cũng ý thức rằng việc tuyên khấn các lời khuyên không có nghĩa là một tu sĩ thì có chút gì đó thánh thiện hơn một linh mục triều.
Lời khấn là những hỗ trợ mà chúng ta nắm lấy trong hành trình tìm kiếm sự hoàn thiện của đức ái, nhưng một linh mục triều tuân giữ tinh thần của những lời khuyên có thể vượt trội một tu sĩ khô khan, nguội lạnh. Điều quan trọng là những hành động chúng ta thực hiện để lớn lên trong đức ái.
Việc củng cố lẫn nhau giữa sự thánh hiến tu trì và căn tính linh mục, giữa các thể chế tu trì và các linh mục triều là điều thiện hảo mà Thiên Chúa là Cha của mọi người mong muốn. Thánh Tôma nói rằng các bậc sống khác nhau trong Giáo hội góp phần làm nên vẻ đẹp và phẩm giá của Giáo hội (x. Summa Theologiae II-II, Vấn nạn 183, Điều 2), và điều này đúng cách riêng đối với các dòng tu và linh mục triều.
Không có sự tuyên khấn khó nghèo, khiết tịnh và vâng phục của các tu sĩ, thì những lời khuyên Phúc âm sẽ nhạt nhoà trong hậu cảnh của đời sống Giáo hội. Không có các linh mục và các giám mục giáo phận, sẽ không có việc chăm sóc mục vụ cho các tu sĩ tham gia. Khi cả linh mục lẫn tu sĩ đều trung thành với bậc sống của mình, thì Giáo Hội trở nên đẹp đẽ hơn, và những nền tảng của Giêrusalem thiên quốc được củng cố.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
Chuyển ngữ từ: thepriest.com (15.01.2022)
_____
(*) Cha Norbert Keliher, OP, là một tu sĩ dòng Đa Minh thuộc Tỉnh Dòng Thánh Giuse và là giám đốc mục vụ khu Đại học tại Trung tâm Newman của trường Đại học Youngstown ở Ohio, Hoa Kỳ.