2021
Bình thường mới
Mệt mỏi sau những “trận chiến” “chống dịch như chống giặc” để “dập dịch” với rất nhiều thứ “vũ khí”… Thế mà “tên giặc” này nó cứ lí lắc – lì lợm – lạnh lùng – lây lan! Cho nên, người ta bắt đầu phải nói đến cụm từ “sống chung với dịch!”, phải bắt đầu cuộc sống “bình thường mới” và coi đây là mục tiêu cần đạt tới, vì biết chắc khó có thể “quét sạch nó đi” được!
- Bình thường mới có gì“mới”?
Chỉ cần lướt qua các trang báo chính thống, chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều những bài viết, những nhận định về tình trạng xã hội “bình thường mới” mà nhiều người đang mong chờ hiện nay.
Lẽ dĩ nhiên “bình thường mới” không phải là “bình thường cũ”. Chúng ta có thể tóm tắt tình trạng này trong một số điểm “mới” sau đây:
– Ý thức trách nhiệm với bản thân và cộng đồng: Hơn lúc nào hết, sự liên đới trong cộng đồng nhân loại lại cần được mỗi cá nhân quan tâm thực hiện như thời điểm hiện nay.
– Khả năng “tự lực cánh sinh”: Dịch bệnh không chừa một ai, “không có vùng cấm” nào cả. Ai cũng có thể là “F0” và ai cũng phải đối diện với nguy cơ nghèo đói và bệnh tật. Vì thế cần phải biết tự bảo vệ mình, tự chăm sóc cho mình… phải biết vượt qua thái độ ỷ lại, dựa dẫm!
– Tập những kỹ năng cần thiết: tập thói quen tuân thủ 5K, sống lành mạnh, quý trọng môi trường sinh thái và bầu khí quyển, siêng vệ sinh nhà cửa, năng tập thể dục, sắp xếp không gian nhà cửa cho thoáng mát tiện ích…
– Có khả năng thích ứng với thay đổi trong xã hội : thanh toán điện tử, chuyển khoản bằng nhiều hình thức khác nhau (trả thẻ, e-banking, ví điện tử…) thay vì chỉ sử dụng tiền mặt, học hành – trao đổi – làm việc trực tuyến…
– Trở về với mái ấm gia đình: ý thức tình thân và sự liên đới trong gia đình được chú trọng trở lại. Nhiều người có nhiều thời gian sống và chăm sóc nhau trong một mái nhà. Nhiều người cảm nhận và trân quý tương quan yêu thương gắn kết giữa các thành viên trong một gia đình.
Thực ra những điều vừa được nói tới trên đây chẳng hề “mới”, nhưng vì chúng đã bị “quên” do sự tự cao tự đại của con người, nên thiếu khả năng sử dụng “những cái cũ, mới trong kho mình” (Mt 13,52).
- Bình thường mới có“bình thường”?
Chúng ta có thể nhận định ngay rằng : “bình thường mới” chẳng “bình thường” tí nào. Bởi vì :
– Dù cho không có con số thống kê đầy đủ, nhưng có thể khẳng định rằng có rất nhiều người lao động phải thất nghiệp và lâm vào cảnh đói nghèo! Bằng chứng là chỉ trong vòng 2 tháng, Giáo xứ Rạch Súc đã phân phối 41.063 phần cơm trưa, trên 11 tấn gạo, 600 thùng mì, 500 túi nhu yếu phẩm… cho người nghèo trong địa bàn thành phố Cần Thơ. Mà chúng ta biết : ngoài Giáo xứ Rạch Súc, còn có nhiều mạnh thường quân, nhiều cơ sở tôn giáo, nhiều hội đoàn cũng làm những điều tương tự.
– Hệ thống y tế quá tải vì phải dồn tổng lực điều trị những bệnh nhân covid, khiến cho nhiều người mang những bệnh lý khác như tim mạch, ung thư, gan thận… không được chữa trị kịp thời, đầy đủ và hiệu quả. Tâm lý chung của người dân là sợ đến bệnh viện trong thời điểm hiện tại vì sợ lây nhiễm, nên có những trường hợp đã tử vong vì không được cấp cứu kịp thời.
– Tình trạng “stress” gia tăng do thiếu cơm ăn, mất việc làm, ngột ngạt tù túng vì không được ra ngoài, không được làm việc, không có những sinh hoạt giải trí… Trong khi đó, trên truyền thông đa phần là những tin xấu, tin buồn, tin giả, tin tiêu cực… mà rất thiếu những tin tốt, tin vui, tin thật, tin truyền năng lượng tích cực.
Như vậy, xã hội loài người đang đầy những “bất thường” chứ chẳng “bình thường” tí nào, và nếu không khéo, chúng ta sẽ rơi vào vòng xoáy của “bất ổn – bất minh – bất hoà – bất an”! Và nó không chỉ ảnh hưởng đến đời sống xã hội mà còn ảnh hưởng đến đời sống tôn giáo nữa.
- Sống Đạo trong tình trạng “bình thường mới”
Đã rõ là đời sống đạo của người Công giáo cũng như nhưng tín đồ của các tôn giáo khác đang rơi vào trạng thái chẳng bình thường chút nào. Đã có rất nhiều những suy tư, những cảm nghiệm, những kinh nghiệm… qua việc đọc dấu chỉ của thời đại dưới ánh sáng Lời Chúa.
Ở đây, người viết chỉ xin mạo muội đưa ra một vài thao thức và gợi ý mang tính cách cá nhân, với mong ước mọi thành phần Kitô hữu không chỉ ngồi đó “thở vắn than dài”, “được chăng hay chớ”, cũng không chỉ nói suông… mà phải cùng nhau bàn và cùng nhau làm trong bổn phận và khả năng Chúa trao, để không bỏ lỡ phút sống nào mà Chúa đang thương tặng ban.
– Với cá nhân : ý thức cuộc đời mỏng manh và hư ảo để thành tâm sám hối quay về; vượt qua lối sống ảo để liên đới sẻ chia với tha nhân bên cạnh mình; loại trừ lòng tham lam ích kỷ để quan tâm giúp đỡ những anh chị em thiếu thốn vật chất cũng như tinh thần; giải phóng khỏi sự nô lệ vào tiến bộ khoa học kỹ thuật để biết khiêm nhu tín thác vào Lòng Thương Xót của Chúa; thoát khỏi những thú vui phù phiếm để dành nhiều thời gian cho cầu nguyện, suy niệm, tĩnh tâm.
– Với gia đình : biết buông điện thoại xuống để cùng nhau đọc kinh hôm kinh mai trong gia đình; chia sẻ cho nhau những công việc cụ thể trong một mái nhà; dành nhiều thời gian để cùng ăn, cùng trò chuyện, cùng học hỏi Lời Chúa; gợi ý khích lệ nhau hướng ánh mắt để thấy những mảnh đời khốn khó và mở đôi tai để nghe được những âm thanh yếu ớt của anh chị em nghèo đói quanh mình; nhất là cùng nhau hun đúc lòng khao khát đón rước Thánh Thể qua những Thánh lễ trực tuyến cách nghiêm trang sốt sắng.
– Với giáo xứ : vượt qua những trở ngại ngăn cản không chỉ bên ngoài xã hội mà ngay trong tâm hồn để “sống Thánh lễ” trong đời thường, nghĩa là chấp nhận hy sinh và hiến tế chính mình vì tha nhân; vượt qua những định kiến và óc hẹp hòi cổ hủ để tin tưởng giao việc, để khích lệ và bổ trợ những sáng kiến trong việc thực thi bác ái đối với anh chị em đồng loại; vượt qua ranh giới “đạo – đời”, “lương – giáo”… để có thể đồng hành, hợp tác trong hành trình trao gởi yêu thương cho những anh chị em đau khổ xung quanh mình; vượt qua lối mòn chờ đợi và “lục bình trôi” để học hỏi và ứng dụng công nghệ trong việc loan báo Tin Mừng và tương tác với giáo dân.
– Một cách đặc biệt, với các mục tử đang chăm sóc đoàn chiên nơi các Giáo xứ : Chúng ta có cơ sở để tin rằng Quý Cha luôn thao thức, luôn trăn trở và có nhiều sáng kiến thật thiết thực và hiệu quả. Để thời gian rất khác biệt này, không chỉ là cơ hội để anh em chúng ta “lánh riêng ra đến một nơi thanh vắng mà nghỉ ngơi đôi chút” (Mc 6,31), mà còn là sẵn sàng đáp lại sự đòi buộc khẩn thiết của Chúa Giêsu : “Chính anh em hãy cho họ ăn” (Lc 9,13). Vâng, lời khuyên “nghỉ ngơi” thì chỉ “đôi chút” thôi. Còn mệnh lệnh “cho họ ăn” lại thật dứt khoát : “chính anh em”!!!
Chúng ta có thể nhìn và nghe thấy những sáng kiến tuyệt vời: những chuyến xe nhu yếu phẩm đong đầy yêu thương của Đức Cha và Quý Cha; những lần “dốc hết tình” cho anh chị em nghèo; những liên đới hỗ trợ tìm đến mọi ngõ ngách để tiếp cận được những anh chị em đang thiếu thốn nhất; những sáng kiến mục vụ chỉ có trong thời đại dịch : thăm viếng online, tư vấn về niềm tin lẫn tâm lý online, dạy giáo lý online, dọn mình chết lành online…
Dẫu cho đã có nhiều sáng kiến, đã có nhiều ứng dụng mang lại nhiều hiệu quả, nhưng ước gì những điển hình ấy được nhân rộng, được lan toả, được kết nối… chắc chắn tính hiệu quả và giá trị sẽ được nhân lên. Ví dụ như chúng ta sẽ có những “Cuộc họp online” để nhận định và đưa ra những thực hành mục vụ trong tình trạng “bình thường mới”; chúng ta liên đới với nhau để có thêm các “Thánh lễ trực tuyến” dành cho các Giới; có các Sinh hoạt online cho các Hội đoàn; có chương trình Giáo lý online cho các độ tuổi, nhất là chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân và gia đình; có các chương trình Lần Chuỗi Lòng Thương Xót online, Chầu Thánh Thể online, Giờ kinh gia đình online…
Để “bình thường mới” không là “bất thường” và “tầm thường” thì cần phải nhanh chóng “thích nghi” và “thích ứng” trong công tác Mục vụ sao cho “thích hợp” với những điều mới mẻ mang tính tích cực lẫn tiêu cực do đại dịch đem lại. Điều này đòi chúng ta phải “một tay nắm lấy tay Chúa và một tay vươn tới con người”! Vâng, chỉ trong tình yêu của Thiên Chúa, chúng ta mới có thể có những sáng kiến Mục vụ phù hợp với hoàn cảnh mới, và chỉ trong ân sủng của Người chúng ta mới có đủ sức mạnh và can đảm để ứng dụng trong bối cảnh hiện nay hầu đem lại lợi ích hồn xác cho tha nhân. Và như thế, tình trạng “bình thường mới” sẽ thực sự trở thành cơ hội để chúng ta “làm mới” cái “bình thường” bằng chính những điều “phi thường” nhờ những trái tim biết yêu thương! Lm. Phêrô Vũ Văn Hài
2021
Đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên
Đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên
Giáo phận Kon Tum được khai sinh trong trường hợp khá đặc biệt và đa dạng vì là miền truyền giáo cho các sắc tộc vùng Tây Nguyên bắt đầu từ thế kỷ XVIII-XIX, với những nỗ lực có thể nói đầy gian nan, nhưng thật can trường và không ngừng nghỉ.
Thật vậy, Tây Nguyên từ lâu đời là nơi sinh sống của các dân tộc bản địa như: Bahnar, Jơlơng, Rơngao, Jrai, Sêđăng, Hlăng, Jeh-Triêng…Cho đến đầu thế kỷ XIX, vùng đất này hầu như vẫn còn “khép kín” so với thế giới bên ngoài và chưa có bóng dáng người Kinh nào lui tới.
Năm 1848, thầy sáu Phanxicô Nguyễn Do, vâng lệnh Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể – Giám Mục Đông Đàng Trong (Qui Nhơn) đã hướng dẫn các vị thừa sai người Pháp cùng một số thầy giảng người Việt lên Kon Tum.
Năm 1851, Đức Cha Stêphanô Cuénot Thể đã thiết lập 4 Trung tâm Truyền giáo đầu tiên cho các sắc dân chính như: Bahnar, Rơngao, Jơlơng, Sêđăng, Jrai[1]. Như thế Miền Truyền Giáo Thượng (Mission des pays Moys) được hình thành. Và cũng từ đó, lịch sử – văn hóa – và cả văn học Công giáo Tây Nguyên được bắt đầu, song hành theo tiến trình phát triển của giáo phận Kon Tum, trong dòng chảy chung của nền văn học dân gian của các dân tộc bản địa, làm công cụ đắc lực cho công cuộc truyền giáo và phục vụ cho nhu cầu văn hóa của xã hội.
Trước khi tìm hiểu về đôi nét văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên trong giòng lịch sử của giáo phận Kon Tum từ buổi đầu cho đến ngày nay, chúng tôi xin phép trình bày một số giới hạn và nhận định sau:
- Tây Nguyên mà chúng ta muốn đề cập vào thời kỳ truyền giáo ban đầu bao gồm vùng rừng núi rộng lớn phía Tây dãy Trường Sơn, kéo dài cho đến Hạ Lào. Năm 1932, năm tách Giáo phận Tông tòa Kon Tum ra khỏi Giáo phận Tông tòa Qui Nhơn, Miền truyền giáo Kon Tum có diện tích 70.000 km2 gồm 3 tỉnh người sắc tộc là Kon Tum, Pleiku, Ban Mê Thuột của Việt Nam, và tỉnh Attopeu thuộc nước Lào. Đến năm 1944, tỉnh Attopeu tách khỏi giáo phận Kon Tum, nhập về Lào. Ngày 22.06.1967, Tòa Thánh tách tỉnh Dak Lak khỏi Kon Tum lập giáo phận mới Ban Mê Thuột. Giáo phận Kon Tum còn lại 3 tỉnh: Kon Tum, Pleiku và Phú Bổn. Hiện nay Giáo phận Kon Tum gói gọn trong phạm vi 2 tỉnh: tỉnh Kon Tum và tỉnh Gia Lai với khoảng 350.000 tín hữu mà 2/3 là đồng bào các sắc tộc thiểu số, chỉ 1/3 là dân tộc Kinh.
- Do tính chất đặc thù đa sắc tộc và nhiều yếu tố khác nên văn học, văn chương Tây Nguyên luôn gắn liền với văn hóa các bộ tộc Tây Nguyên. Văn học thường phản ánh nét văn hóa bản địa và ngược lại các tác phẩm viết về văn hóa bản địa tùy mức độ lại chứa đựng nhiều yếu tố văn học. Điều này không chỉ có đối với văn học Tây Nguyên mà cũng đúng với nhiều vùng miền khác.
- Do tính cách Công giáo của văn học cũng như tương quan giữa văn học và đức tin, đối tượng của Văn học Công giáo Việt Nam nói chung, Văn học Công giáo Tây Nguyên nói riêng rất đa dạng. Ngoài những tác phẩm thuần túy văn chương như văn thơ, các sách Kinh Thánh, giáo lý, huấn đức…; các tác phẩm biên khảo về phong tục, nghi lễ, sách dịch thuật.v.v. cũng là đối tượng của văn học Công giáo. Tương tự về ngôn ngữ văn học, chẳng hạn các tác phẩm bằng tiếng của các sắc tộc bản địa, tiếng Pháp, tiếng Việt…; về quốc tịch các tác phẩm và tác giả: Việt, Pháp (thừa sai người Pháp), Thượng.v.v. đều là đối tượng của văn học Công giáo Tây Nguyên[2].
- Và cuối cùng, bên cạnh những nét đặc sắc mà văn học Công giáo Tây Nguyên đã đóng góp, cũng đề cập đến đời sống văn học thường nhật diễn ra trong quá khứ cũng như hiện tại, để có thể hiểu rõ hơn khuynh hướng văn học Công giáo nơi Miền Thượng này.
Trong phạm vi bài lược trình này chúng tôi chỉ dám gợi qua một số nét tiêu biểu về các tác giả và tác phẩm qua các thời kỳ:
– Thời kỳ hình thành Miền Truyền Giáo Kon Tum (1848-1932)
– Thời kỳ Giáo phận tông tòa Kon Tum (1932-1960)
– Thời kỳ Giáo phận chính tòa Kon Tum (1960-nay)
I. THỜI KỲ HÌNH THÀNH MIỀN TRUYỀN GIÁO KON TUM (1848-1932)
Các tác phẩm viết thời kỳ này chủ yếu bằng tiếng Pháp và tiếng các dân tộc bản địa: Bahnar, Sêđăng và Jrai. Có thể chia thành 2 giai đoạn:
1. Giai đoạn 1848-1908: đặt nền móng
Năm 1851, vừa đặt được cơ sở truyền giáo, quan tâm hàng đầu của các Thừa sai là học tiếng bản xứ và xây dựng bộ chữ viết các sắc dân. Người Thượng vốn không có chữ viết và họ lý giải là do tổ tiên ngày xưa đánh mất[3]. Mà để giảng Đạo, để giải thích tín lý cao siêu bằng một thổ ngữ rất nghèo từ ngữ trí thức, thì cần phải nắm vững và biết tường tận thổ ngữ đó, cho nên, sau một tháng rưỡi xin ở trọ nhà ông Hmur, chủ làng Kon Kơxâm để học tiếng, các linh mục như Dourisboure, Combes, Fontaine đã sử dụng mẫu tự Latin để ghi âm tiếng Bahnar, các ngài đã có được một quyển sổ lớn ghi các từ, bắt đầu là những từ đơn giản[4]. Công việc cứ thế tiếp tục…
Vào năm 1853, sau 2 năm tìm tòi, nghiên cứu ngôn ngữ, Cha Combes (Bok Bê) đã soạn xong một tập giáo lý nhỏ bằng tiếng Bahnar và đã dịch xong các kinh mà mỗi Kitô hữu phải biết và phải đọc. Cha Dourisboure (cố Ân) dựa vào tập này dịch sang tiếng Sêđăng[5]. Các tân tòng đầu tiên của Kon Tum đã học Đạo theo tập giáo lý và kinh nguyện này.
Ngày 29.9.1853, Cha Combes (1825-1857) đã viết bài tường thuật tổng hợp đầu tiên, dưới dạng một lá thư gởi các Cha trong ban giám đốc Hội Thừa sai, trong đó miêu tả thật chi tiết về vùng đất mà cho đến nay chưa một ai biết đến. Tác phẩm này xứng đáng là một bài khảo cứu đầu tiên về miền truyền giáo Thượng. Bài khảo cứu này cùng với trích đoạn Thư của Cha Dourisboure ngày 12.12.1871 đều được in trong phần phụ lục của tác phẩm Les Sauvages Bahnars, xuất bản năm 1929[6].
Tại Kon Kơxâm, vào năm 1865, Cha Dourisboure (1825-1890) bắt đầu viết tác phẩm hồi ký thời danh: Les Sauvages Bahnars – Souvernirs d’un missionaire và hoàn thành tại Chủng viện Hội thừa sai Paris ngày 28 tháng giêng năm 1870. Tác phẩm này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1929, tức 39 năm sau ngày tác giả qua đời. Ngoài giá trị là một sử liệu truyền giáo Tây Nguyên, tác phẩm này còn là một khảo sát lý thú và là thiên hồi ký đặc sắc, đơn sơ, thành thật, tả chân, đến độ gây cảm xúc mãnh liệt[7]. Ngay sau đó, Les Sauvages Bahnars đã được phóng tác sang tiếng Việt qua tác phẩm “Mở Đạo Kontum” in tháng 5/1933 và loạt “Truyện các đấng mở đàng giảng đạo mọi Kontum”, in từ năm 1936[8], và đến năm 1972, toàn bộ tác phẩm này được dịch sang tiếng Việt với tên sách: DÂN LÀNG HỒ, in tại Sài Gòn.
Trở lại công trình tạo ra chữ viết Bahnar, sau thời gian định hình mẫu tự và thống nhất phiên âm, Cha Dourisboure đã hoàn thiện và viết thành sách “Vocabularium apud barbaros Bahnars” vào năm 1870 (dày 268 trang, cỡ sách 20x26cm) gồm 3 thứ tiếng: Bahnar-Việt-Pháp; tiếp đến là Hlabar abo, sách dạy đánh vần tiếng Bahnar, nhà in Nazareth, Hong Kong 1888; sau cùng là cuốn tự điển “Dictionaire bahnar-francais” in tại nhà in Hội Thừa sai Paris năm 1889[9]. Hình thành chữ viết là cả một quá trình lâu dài của tập thể các vị thừa sai, tuy nhiên vẫn mang đậm dấu ấn riêng tùy theo mỗi vị. Như Cha Dourisboure, với sự cộng tác và giúp sức của các thừa sai Combes, Fontaine…; của ông Hmur người Bahnar, và tất nhiên của Cha Do. Linh mục người Việt này xuất thân từ Chủng viện Pi-năng, ngoài tiếng Việt là tiếng mẹ đẻ ngài cũng hiểu biết tiếng Latin và tiếng Pháp, và còn thông thạo tiếng Bahnar nữa.
Đến năm 1874, cả Miền Truyền Giáo có 987 tín hữu, trong đó số tín hữu người Kinh là 542 người, tập trung chủ yếu ở hai làng đạo Tân Hương và Phương Nghĩa[10].
Năm 1875, Cha Vialleton Truyền (1848-1909) được tăng cường cho Miền truyền giáo Thượng, ngài nhận chức Bề trên từ năm 1881 và hăng say hoạt động truyền giáo trong suốt 27 năm. Chính ngài có sáng kiến dạy con em Thượng viết và đọc chữ quốc ngữ, song song với tiếng thổ âm của họ. Đích thân ngài về Bình Định mời thầy Hương[11], một thầy giảng có tiếng, đang phục vụ tại Qui Nhơn, lên Cao nguyên để sắp đặt chương trình, tổ chức lớp học văn hóa đầu tiên trên vùng dân tộc[12]. Nhờ đó, một số thanh niên Bahnar sau này thành Yao Phu tiên khởi xuất sắc, làm thầy dạy tại trường Cuénot. Năm 1894, ngài xuất bản cuốn “Cuộc đời Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta”, bằng tiếng Bahnar tại nhà xuất bản Nazareth trong lúc ngài ở Hồng Kông dưỡng bệnh[13].
Cha Guerlach Cảnh (1858-1912) đến Kon Tum cuối năm 1882, lòng nhiệt thành truyền giáo và óc uyên bác của ngài đã làm ngài trở nên người có ảnh hưởng lớn trên các tín hữu lẫn lương dân. Một số bài viết của Cha Guerlach[14] như:
-”Moeurs et superstitions des sauvages Bahnars” (Những điều mê tín dị đoan ở xứ Bahnar) Mission Catholiques, XIX, 1887.
-”La variole chez les Sodang, Rongao et Bahnar” (Dịch đậu mùa ở xứ Thượng), Mission Catholiques, 1893.
– Chez les sauvages de la Cochinchine orientale, Bahnars, Reungaos, Sedangs (Xứ Bahnar, Rơngao, Sêđăng ở Giáo phận Đông Đàng Trong), Mission Catholiques, 1984.
– Mariages et cérémonies des noces chez les Bahnars (Tục cưới xin và lễ cưới ở xứ Thượng), Annales 1901.
– Chez les sauvages Bahnar Reungao (Cochinchine orientale), Annales 1902.
Từ năm 1905-1908, thừa sai Nicolas Cận (1876-1947) đến truyền giáo vùng Hà Bầu – Tiên Sơn (thuộc Gia Lai ngày nay) cũng đã dựa theo mẫu tự Latin, thêm một số dấu cho nguyên âm để viết thành chữ của bộ tộc Jrai và soạn thảo tập giáo lý “Catéchisme en Jrai”. Tập giáo lý tiếng Jrai này được đánh số đoạn gồm các phần: Giáo lý cơ bản – Kinh nguyện – Bí tích, và một số tờ đang biên soạn chưa phân loại được[15].
Từ việc xây dựng bộ chữ viết các bộ tộc Tây Nguyên, các thừa sai đã tiến tới thành lập các trường học.Năm 1906, trường Cuénot được thành lập theo hình thức nội trú, nhằm đào tạo lớp thầy giảng người sắc tộc. Ngôn ngữ sử dụng trong trường là tiếng Pháp, tiếng Việt, tiếng Bahnar và tiếng Jrai; cũng có dạy tiếng Latin do Cha Alberty (Hiền) đảm trách[16].
Miền truyền giáo Kon Tum bước vào giai đoạn nỗ lực xây dựng có chiều sâu hơn.
2. Giai đoạn 1908-1932: nỗ lực xây dựng
Trường Cuénot bắt đầu xây dựng năm 1906, khánh thành năm 1908, đào tạo nên một lớp trí thức người Công giáo bản địa chưa từng có trong lịch sử từ trước đến nay. Chính Cha Vialleton Truyền là người khởi xướng và đóng vai trò định hướng, còn Cha Jannin Phước là người thành lập và điều hành ngôi trường này.
Song song với việc mở trường học, một nhà in cũng được thành lập, đặt ngay trong trường (Nhà in hnam trưng Kuenot), ban đầu còn đơn sơ nhưng được hoàn thiện dần. Nhà in này cung cấp hầu hết các loại sách cho Giáo phận: từ sách giáo lý, phụng vụ thánh lễ, bí tích, hạnh các thánh, thánh ca…đến các sách giáo khoa, khoa học thường thức, các loại sách học vần, tự điển; các tạp chí của Giáo phận.v.v.
Tạp chí Hlabar Tơbang dành riêng cho các Yao Phu ra đời số đầu tiên vào năm 1911, trở thành “con chim đầu đàn” của việc xuất bản ấn phẩm tiếng dân tộc, qua thời gian đã góp phần làm giàu, đẹp ngôn ngữ Bahnar, làm tiền đề phát triển ngôn ngữ các sắc dân khác nữa trong tương lai. Các tác phẩm viết trong tạp chí này gồm những bài giáo lý, chuyện kể truyền giáo, sưu tầm giải thích tục ngữ, những bài tường thuật, những bài văn vần…trong đó có những áng văn có thể tiêu biểu cho văn học Kon Tum thời kỳ đầu[17].
– TUỒNG SINH NHỰT: Đặc biệt ấn phẩm “Tuồng Sinh Nhựt”, Nhà in Kuenot xuất bản năm 1912, gồm 5 vở tuồng về lễ Giáng Sinh, nội dung kịch bản dựa theo Kinh Thánh được soạn theo lối nhạc kịch rất sống động, được học sinh trường Kuenot và giáo dân biểu diễn. Đây thực sự cũng là một đóng góp có giá trị cho di sản văn hóa-văn học Công giáo Tây Nguyên.
Các linh mục ngày càng quan tâm tìm hiểu nghiên cứu phong tục tập quán, văn hóa các dân tộc, đặc biệt các Cha Bề trên: Vialleton (Truyền), Guerlach (Cảnh), Kemlin (Văn), Jannin (Phước); các Cha người Việt có Cha Phaolô Ban, Cha Simon Thiệt.v.v.
+Cha Kemlin Văn (1875-1925) có rất nhiều bài khảo luận in trong Tạp chí nghiên cứu Bulletin de l’École française d’Extrême-Orient (Tập san Viện Viễn Đông Bác cổ, BEFEO), đặc biệt là các tác phẩm: Les Rites Agraires des Reungao 1909 (Nghi lễ đồng áng của người Rơngao), Les Songes et leur interprétation 1910 (Chiêm mộng và giải mộng nơi cư dân Rơngao), Les Alliances chez les Reungao 1917 (Giao kết của người Rơngao); L’Immigration annamite en pays Moï -Brochure- Saigon 1923…
+Đức Cha Jannin Phước (1867-1940):
– Hlabar abo, sách học vần Bahnar in thành nhiều bản, Hội thừa sai 1908, đợt xuất bản khác vào năm 1910.
– Sách dạy kinh dịch từ tiếng Việt sang Bahnar: dựa theo “sách thiên”, trường Kuenot, 1910.
–Sách dạy nói tiếng Việt, những khái niệm đầu tiên của Tiếng Việt, trường Kuenot 1915.
–Phép toán bằng tiếng Bahnar, trường Kuenot 1919.
–Địa lý Đông dương thuộc Pháp, (các bản đồ), trường Kuénot 1922.
–Sách dạy nói tiếng Việt, trường Kuénot 1923.
– Những khái niệm cơ bản của tiếng Việt. Còn đang soạn từ điển Pháp – Bahnar – Sêđăng – Jrai…Chưa đóng thành sách, 160 trang, khổ 16cm x 25cm, bìa bằng giấy, AMEP 1924.v.v.
(Trích Tập Tin: Martial Jannin, Anonyme 31/12/2008, số 1924)
Sách dạy kinh dựa theo “sách thiên”, Lm Martial Jannin, 1910
Đến năm 1928, lần lượt các trường học được mở tại các xứ đạo người Kinh: Tân Hương, Phương Nghĩa, Phương Hòa, Phương Quý[18]…
Tất cả những nỗ lực phát triển văn hóa trong thời kỳ này làm tiền đề cho việc “bùng nổ” văn học viết, nhất là văn thơ Công giáo tiếng Việt trong thời kỳ kế tiếp.
II. THỜI KỲ GIÁO PHẬN TÔNG TÒA (1932-1960)
Sau 82 năm (1850-1932), Miền Truyền giáo Kon Tum phát triển về mọi phương diện, được Tòa Thánh nâng lên thành Giáo phận Tông tòa Kon Tum tách khỏi giáo phận Tông tòa Qui Nhơn.
Ngày 29/6/1932, ba thanh niên Bahnar đầu tiên đã lãnh nhận tác vụ linh mục: đó là các cha Micae Hiâu (1900 – 1949), cha Giuse Châu (1900 – 1955), cha Antôn Đen (1903 – 1987). Một trong 3 vị đã có một chỗ đứng đặc biệt trong lịch sử giáo phận Kontum: cha Antôn Den (Học), một nhà trí thức, một học giả Bahnar: dịch Thánh Kinh, dịch sách phụng vụ, viết hạnh các thánh và phụ trách tờ Hlabar Tơbang. Rất nhiều ấn bản của nhà in Kontum do Cha Antôn Den soạn thảo đã phục vụ hữu hiệu cho công việc mục vụ, giảng dạy, bảo tồn và truyền bá văn hóa văn học Tây Nguyên suốt một thời gian dài cho đến ngày nay.
Lm Antôn Den (Bahnar) với bản dịch Kinh Thánh
Vào đầu thập niên 1930 này, thơ văn tiếng Việt ở Kontum mới dần định hình – nghĩa là mới bắt đầu có thơ văn lưu hành. Trong khi “tác phẩm văn học Đời” – thơ văn được sáng tác bởi các tác giả ngoài công giáo – chưa thấy xuất hiện nhiều và được ghi chép tản mạn[19], thì với việc ra đời của Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” – tạp chí của “Hội chức việc Á thánh Năm Thuông” của Địa phận Kontum, năm 1933, rất nhiều tác phẩm văn thơ công giáo đã được sáng tác bởi các tác giả là linh mục, quí ông câu, biện, giáo dân, chủng sinh…lần lượt được đăng trong tạp chí này. Tuy là một tờ báo nội bộ của hàng chức việc, nhưng “Chức dịch Thơ tín” – do linh mục Phaolô Lê Đình Ban làm chủ bút (từ 1933 đến 11.1937, Cha Simon Nguyễn Thành Thiệt thay thế), dưới sự chuẩn nhận của Đức Cha Martial Jannin Phước (imprimatur), đã đề ra đường hướng mở rộng, cả về nội dung lẫn đối tượng độc giả:
…Tô điểm văn chương lòng sở nguyện,
Khai đường thánh giáo ý hằng chăm.
Việc đời rao bảo người tri thức,
Lẽ đạo vẽ bày bạn phúc tâm.
(“Tặng Thơ tín”-Lương ngọc Anh,
CDTT số 39, 7.1936, tr.475)
Và trong tạp chí này có hẳn một mục “Văn Uyển”, hầu như số nào cũng có văn thơ đăng.
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi xin giới thiệu một số tác giả và tác phẩm văn thơ công giáo chủ yếu được in trong Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” từ năm 1933-1940.
Tác giả đáng kể nhất trong giai đoạn này là Lm Phaolô Lê Đình Ban (1881-1945), quê quán họ đạo Suối Nổ, địa sở Nhà Đá, tỉnh Bình Định, lên Kon Tum năm 1914. Cha Ban là chủ nhiệm kiêm quản lý tạp chí “Chức dịch Thơ tín” với khá nhiều bài viết về đủ loại đề tài: thời sự, lịch sử, tu đức, khoa học thường thức.v.v. như “Truyện các đấng mở đàng giảng đạo xứ Kontum”, “Năm Ất Dậu (1885)”, “Về vệ sinh (nhiều kỳ): Vệ sinh về đồ ăn, sự ngủ, áo mặc, cách làm việc, về bệnh rét…; “Một đều giao hòa vua Annam với nước Lang-sa”, “Chức việc phải ở với bạn đồng liêu là thể nào”, “Coi sách”, “Giảng khéo”, Hạnh đấng chơn phước Minh-ghê Hồ-đình-Hy, thới bộc chịu tử vì đạo (năm 1857), Gốc tích cây café sẻ xứ Kontum, Truyện một ông già, Tên đầy tớ dạy khôn, Hạnh tích cha Đề.v.v. Đặc biệt là tác phẩm “MỞ ĐẠO KONTUM” (nhà in Qui Nhơn 05.1933) soạn chung với Cha Simon Thiệt, là một cuốn sách có nhiều chi tiết rất hay về lịch sử truyền giáo Kon Tum, một lịch sử vừa kịch tích, hấp dẫn, vừa hào hùng. Ngoài ra, còn rất nhiều bài khác đăng trong báo “Lời thăm”, “Thông tin địa phận Qui Nhơn” của địa phận Qui Nhơn (vd: “Tử đạo tại Truông Dốc (Nhà Đá), P. Ban, “Lời thăm”, địa phận Qui Nhơn 15-22 April, 1943.v.v.). Những tác phẩm của Cha Phaolô Lê Đình Ban (bút hiệu P. Ban hoặc Phaolô Ban) có lối viết giản dị, cách hành văn trong sáng, sử liệu dồi dào, vững chắc…là đóng góp không nhỏ cho văn học sử Tây Nguyên nói chung, văn học công giáo Kon Tum nói riêng.
Tác phẩm “Mở Đạo Kontum của 2 Cha P.Ban và S.Thiệt xuất bản 5/1933
Tiếp đến có các tác giả, tác phẩm tiêu biểu:
-Lm Phêrô Nguyễn Cơ (1890-1967), giáo sư trường Cuénot. Một số bài viết của ngài dưới bút danh P. C: “Đa ngôn đa quá luận đàm”, “Tháng các đẳng”, “Nghĩa vụ phu thê”, “Vấn đề lương giáo”, “Phương giúp trừ muỗi”, “Cảm tưởng về ngày khai trường Probatorium”[20].v.v.
-Lm Antôn Ngô Đình Thận (1903-1982), bút danh A. Ngô Đình, A. Ngô Đồng: “Luận câu : Dưỡng bất giáo phụ chi quá” (Nuôi con chẳng dạy tội rày cha mang), “Cái hạnh phúc gia đình”, “Cảm tưởng bạn thanh niên miền Thượng”, “Tính cuộc trăm năm”, “Cõi trần sơ luận”, “Phép lịch sự lúc ra ngoài”, “Luân lý có phải là nghĩa vụ của mọi người chăng?” “Ăn mà sống không phải sống mà ăn”, “Sao oai thế?”, “Hữu thể bất khả ý tận”, “Minh niên cảm tưởng”, “Hỏi kẻ có vợ chồng cùng kẻ đồng trinh ai hơn?.v.v.
-Ngoài ra, một số tác giả khác góp mặt trong giai đoạn này như: Ngọc Thanh, Lương Ngọc Anh, Phú Sơn, Alexis Hồ v. Lư, Giám mục Ma-xi-a-li (Martial Jannin) viết thư mục vụ bằng tiếng Việt: “Gởi lời thăm cùng chúc mọi sự lành, cho các giáo hữu địa phận Ta đặng hay”, Hương Ba, Bế Ngọc, P. Thiệt, Nhà-đá.v.v.
-Đặc biệt tiểu thuyết “RỪNG XANH LƯU LẠC” của tác giả Bế Ngọc, in trong tạp chí “Chức dịch thơ tín” từ số 36, tháng 4/1936 đến số 51, tháng 7/1937, về tài phiêu lưu mạo hiểm Tây Nguyên. Có thể nói đây là một đóng góp rất đáng ghi nhận của văn học Công giáo Tây Nguyên.
Một trang của tiểu thuyết “Rừng xanh lưu lạc” trong Tạp chí “Chức dịch thơ tín”, in năm 1936 tại Nhà in Kuenot Kontum
Mặc dù là những cây bút “cây nhà lá vườn” với thiện ý “việc đời rao bảo người tri thức,/ lẽ đạo vẽ bày bạn phúc tâm”, nhưng các tác giả thơ “không chuyên” ở đây cũng đã cố gắng “cạn lời vàng ngọc vun trồng”, nên những vần thơ đạo Kon Tum thời kỳ này ngoài giá trị về nội dung truyền giáo, chúng cũng mang những giá trị nghệ thuật nhất định.
*Về thể loại: khá phong phú như thất ngôn, thất ngôn bát cú, lục bát, ngũ ngôn, vè.v.v., cũng có một số bài được làm theo thể thơ tự do (xem bài “Kỷ niệm tiễn bạn”), hay trong cùng một bài có những cách đặt câu gieo vần theo lối thơ mới (“Nhớ bạn”.v.v). Nên nhớ phong trào “Thơ mới” ra đời từ năm 1932 đã chủ trương cách tân về hình thức và cách diễn đạt thơ, tuy vậy cũng chưa ảnh hưởng nhiều đến những miền quê, vùng miền núi, vùng sâu vùng xa…
*Về ngôn ngữ thơ: Các tác giả góp phần quảng bá và làm trong sáng vốn tiếng Việt. Tuy vẫn còn nhiều bài theo hình thức cũ, sử dụng từ ngữ cũ, từ Hán-Việt…nhưng cũng không hiếm những tìm tòi sáng tạo. Nhiều câu thơ đã lột tả những uẩn khúc bên trong, như tâm sự của một cựu chủng sinh: “Xưa vui đó ai gọi vui buồn,/ Rày buồn đây thật là buồn vui” (“Kỷ niệm tiễn bạn”), diễn tả ý “trong niềm vui đã chực sẵn nỗi buồn, trong nỗi buồn cũng có những niềm vui” ta vẫn hay gặp nhiều trong “thơ mới”. Hay cách chọn lọc từ ngữ tinh tế có sức biểu đạt cao.
*Về tác giả: Bên cạnh một số tác giả là cộng tác viên thường xuyên của tạp chí “Chức dịch Thơ tín” như A. Ngô Đình (bút danh của Lm Antôn Ngô Đình Thận), Xuân Thanh (tức ông Lôrenxô Nguyễn Xuân Thanh (1915-2008), là ông biện họ đạo Tân Hương, nguyên trước là thầy giáo làng)…Một số tác giả khác góp mặt với tên đầy đủ hoặc sử dụng bút danh – họ là người Kontum hoặc cũng có thể là cộng tác viên ở nơi khác như Lương Ngọc Anh, Cẩm Hương, Paul Thà (thầy Thà-Phương Nghĩa), Antoine X., Philippe T., Nhà đá, P. T., Đào Minh Nguyệt, Paul Tân Bút, Chúc dưng, Thanh Xuân, Con út họ Môn-giang, Michel N., Paul T. P. N., Tên Tôi, Nguyễn Hướng, N. khắc Toàn, T. N., Nguyễn Nhạn Hồng, Nguyễn Khắc Đoàn, L. Sáng Bạch, T. t. Thành…Một đội ngũ người viết khá dồi dào xuất thân từ tầng lớp có học như linh mục, thầy giáo, công chức, chức việc, chủng sinh…
*Về nội dung: Chúng tôi xin tạm chia thành 3 phần, theo nội dung của các bài thơ. Đây chỉ là một cách chia tạm thời, mang tính tương đối, để bạn đọc dễ hình dung hơn mà thôi.
- Thơ, vè chúc mừng, chào mừng:
Gồm một số bài chúc Tết, chúc bổn mạng Đức Cha, quí Cha và cộng đoàn, chúc mừng bổn báo; có bài được sử dụng kết hợp với múa chào mừng (xem bài “Ba đăng vũ ca”) hay bái lạy (“Minh Niên Trâu qua Cọp đến”, Bài I, Bài II). Những câu chúc thường khi vượt ra khỏi ranh giới của họ đạo, của giáo phận …mang ý nghĩa đại đồng.
- Thơ ca giáo lý, cầu nguyện, giảng dạy, khuyên răn:
Đây là phần chủ lực, gồm những bài thơ diễn giải giáo lý, nguyện gẫm (xem bài: “Thánh Thể”, “Tháng Trái Tim Đức Chúa Giêsu”, “Lời cầu”, “Tháng Đức Bà”, “Tiến-ba ngâm”.v.v.) ; những lời cha mẹ dạy dỗ khuyên răn con cái, các Cha khuyên bảo quí chức và giáo hữu, thầy khuyên trò, bạn đồng lưu đàm đạo nhắc nhở nhau.v.v., thuộc nhiều đề tài như về đạo làm con, về hôn nhân gia đình, về cách đối nhân xử thế…(“Khuyên con gái lấy chồng”, “Khuyên học trò”, “Huấn tử ca”, “Dạy con ở cho có đức”.v.v.).
- Thơ tự sự, tả cảnh…
Thơ đề tài này rất phong phú, gồm những lời tâm sự, tâm tình hoài hương, gợi nhắc kỷ niệm, ghi nhận cảm tưởng (“Gởi cho bạn ở Trung Châu”, “Nhớ”, “Nhớ cảnh”…; miêu tả sự việc, cảnh vật qua đó rút ra bài học luân lý (“Văn vần mồi chim”, “Cây trắc với cây lau”, “Chim mèo”…; “Cảnh hố Đangria”, “Vịnh mặt trăng”, “Trường Thừa sai”, “Nhìn phong cảnh nhớ người xưa”…) ; những ngẫm ngợi thế thái nhân tình (“Cánh hoa tàn”, “Than già”, “Thơ rượu”).v.v.
Có thể nói các tác phẩm thơ Đạo của các thế hệ tiên hiền ở Kontum, tuy không nhiều và không xuyên suốt qua các thời kỳ, nhưng cũng chuyên chở được những ý tứ sâu xa và văn phong đầy thi vị, từng là công cụ chuyển tải nội dung Tin Mừng đến cho các thế hệ con em. Những vần thơ này thường tự ẩn mình chìm khuất giữa dòng đời, rất dễ bị quên lãng, nhưng kỳ thực chúng rất đáng được trân trọng, sưu tầm và đọc lại, để hiểu thêm ngày xưa ông bà ta đã sống đức tin như thế nào.
- Đặc biệt có những bài thơ, văn vần bằng tiếng Pháp, tiếng Bahnar, được sáng tác bởi Cha Louison (Cố Lui) và các Yao Phu trường Kuenot. Cha Hồ Ngọc Cẩn đã chuyển ý các bài ca tiếng tiếng Pháp và tiếng Bahnar này sang các thể thơ bát ngôn và lục bát thật khéo léo và ý vị, góp thêm vào gia sản thơ Đạo trên miền Kontum (các bài thơ của Cha Hồ Ngọc Cẩn được in trong báo “Nam Kỳ Địa Phận, số tháng 7.1935)[21].
Tiếc rằng phong trào sáng tác văn học công giáo đã không trở thành dòng chảy liên tục, vì đến năm 1940, Tạp chí “Chức dịch Thơ tín” do thời cuộc (chiến tranh thế giới II bùng nổ, ĐC Jannin qua đời năm 1940, Cha P. Ban qua đời năm 1945…) đã không thể tiếp tục sứ mạng, đành chuyển đổi vai trò sau gần chục năm phụng sự “tô điểm văn chương, khai đường thánh giáo”, và cũng vì thế mà “Văn Uyển” từ đây vắng bóng những vần thơ, bài văn, để lại một lỗ hổng trên con đường phát triển văn học nhà Đạo trên miền Tây Nguyên.
Sau “Chức dịch thơ tín”, Giáo phận có chuyên san Les Echos (1941) – sau đổi thành tờ Dư âm, năm 1968 đổi thành tờ Tiếng Vang, dành riêng cho các linh mục trong giáo phận.
III. THỜI KỲ GIÁO PHẬN CHÍNH TÒA (1960- 2020)
Tiếp tục kế nhiệm Đức Cha Gioan Sion Khâm là Đức Cha Phaolô Seitz Kim (1952-1975). Năm 1960, giáo phận tông tòa Kon Tum được nâng lên giáo phận chính tòa. Đây là giai đoạn trưởng thành của giáo phận truyền giáo Kon Tum.
1. Giai đoạn trưởng thành 1960-1975
– Linh mục Jacques Dournes (1922-1993): Năm 1955, Cha Jacques Dournes nhận chỉ định đi truyền giáo trong giáo phận Kon Tum sau 8 năm làm việc tông đồ nơi người Srê ở Kala, Di Linh (Lâm Đồng ngày nay). Đức Cha Phaolô Seitz Kim cử ngài đến với người Thượng Jrai, vùng Cheoreo. Tại đây, Cha Dournes say mê nghiên cứu về con người bản địa, phong tục tập quán, tín ngưỡng và ngôn ngữ của họ. Ngài đã cho ra đời một số sách rất dồi dào thông tin và suy tư về những khuynh hướng mới trong khoa truyền giáo, đã làm cho ngài trở nên nổi tiếng trong các giới công giáo và thu hút sự quan tâm của các nhà thần học thời đó. Trong số các tác phẩm của ngài nổi trội là cuốn “Dieu aime les Paiens” (“Thiên Chúa yêu thương muôn dân”, bản dịch của TGM Kon Tum, NXB Tôn giáo, 2011). Năm 1970, Cha Jacques Dournes trở về Pháp để tiếp tục công trình nghiên cứu và viết sách. Công việc truyền giáo cho người dân tộc Jrai vùng Gia Lai-Phú Bổn được giao cho Dòng Chúa Cứu Thế tiếp tục.
Những tập viết bằng tiếng Jrai để hướng dẫn người Jrai gia nhập đạo là những tác phẩm mục vụ còn lưu giữ đến hiện tại có hơn 10 tập, in từ năm 1956-1969[22]. Năm 1973, Tân Ước tiếng Jrai được các Cha dòng Chúa Cứu Thế dịch và phát hành qua nhà xuất bản Đức Mẹ Sài gòn. Không kể những quyển tự điển và sách dạy tiếng Bahnar do thừa sai Alberty và các cộng sự đã cho xuất bản trước đây (Lexique Francais-Bahnar et Bahnar-Francais, Hà Nội 1940), gia đoạn này có Lm Hutinet soạn : Ebauche de dictionnaire francais-bahnar-jơlơng, 1965; Lexique comparébahnar-jolong-
-Cha Gioan Nguyễn Trí Thức (1909-1977), năm 1960 phụ trách giáo xứ Thăng Thiên, Pleiku. Ngài là một nhà giáo dục có chuyên môn, đã thành lập trường tiểu học Minh Đức ngay tại trung tâm thị xã Pleiku. Để giúp các giáo lý viên trong việc soạn bài học cho trẻ em, đồng thời giúp trẻ em dễ ghi nhớ những điều phải biết, phải học, cha Gioan Thức đã sáng tác những bài giáo lý bằng thi ca. Hai tập “GIÁO LÝ DIỄN CA”: tập 1 về Kinh Tin Kính, và tập 2 về Các Bí Tích, mỗi tập trên dưới 40 bài, mỗi bài tối đa 14 câu lục bát, kèm bên dưới là một đoạn chú giải ngắn giải thích thêm về bài giáo lý đó, đã được ĐGM Phaolô Seitz chuẩn nhận (imprimatur) và in tại nhà in Saigon năm 1961 (tập 1), 1962 (tập 2), tái bản năm 1970.“GIÁO LÝ DIỄN CA đã được công chúng nhiệt liệt hoan nghênh, nhiều độc giả còn viết thư yêu cầu cho ra mau những tập kế tiếp…”. Hai tập thi ca giáo lý này được đánh giá là: “…ngắn gọn, bình dị, xuôi trơn…đặc sắc vì có những bài học hàm súc, diễn tả một cách thấu đáo, có chỗ nói được là tài tình”[23].
“Giáo lý diễn ca” tập 1 & tập 2 in năm 1961 & 1962, tái bản năm 1970
Năm 1967, Tòa Thánh tách tỉnh Đăklăk thuộc Gp Kon Tum và tỉnh Quảng Đức, tỉnh Phước Long thuộc Gp Đà Lạt để lập Gp Ban Mê Thuột.
Chiến tranh ngày càng leo thang, các hoạt động viết trong giai đoạn này chủ yếu tập trung trong các tập san Hlabar Tơbang (tiếng Bahnar) và tập san Tiếng Vang (tiếng Việt), với các thông tin giáo phận, bài giáo lý, huấn đức, thuật chuyện lịch sử truyền giáo, thư mục vụ giám mục.v.v.
-Năm 1970, Lm Antôn Ngô Đình Thận (1903-1982) hoàn thành tập “Sơ lược lịch sử truyền giáo giáo phận Kontum” dựa theo cuốn “Dân Làng Hồ” của thừa sai Dourisboure (cố Ân) và “Mở đạo Kontunm” của hai Cha P. Ban và S. Thiệt, cập nhật thêm những nét chính yếu của Gp Kon Tum liên tục cho đến năm 1970. Với văn phong hiện đại, gọn ghẽ, sắp xếp chuỗi sự kiện khoa học, thống kê chính xác, tập sách này thật hữu ích để tra cứu, tìm hiểu thêm về lịch sử Gp Kon Tum.
Về dịch sách: Cha Giuse Trần Sơn Nam (bút danh Lưu Tấn) đã dịch một số sách thần học, tu đức…của các tác giả nước ngoài nổi tiếng sang tiếng Việt, như: “Như thấy Đấng vô hình”(Comme s’il voyalt l’invisible, tác giả: Jacques Loew), nhà in Xây Dựng, Saigon 1970; “Thiên Chúa mà tôi không tin” (Tác giả: Juan Arias); “Đức Kitô luôn mới lạ” (Tác giả: Juan Arias); “Đỉnh trời yêu thương” (Tác giả: John Wu); “Mối tình từ muôn thuở” (The world’s first love, tác giả: Fulton Sheen, tái bản NXB Phương Đông 2008)…
Ấn phẩm dịch của Lưu tấn (Lm Giuse Trần Sơn Nam)
2. Từ 1975-nay: Giai đoạn chuyển biến
Biến cố 1975 xảy đến đem lại nhiều khó khăn cho Gp Kon Tum. Giáo dân di tản, một số hồi cư trở về làng cũ hoặc tìm nơi định cư khác, đời sống bị xáo trộn. Mọi sinh hoạt tôn giáo đều trầm lắng, trong đó có mảng văn học. Trường Cuénot bị trưng thu cùng với Nhà in Kon Tum. Mọi hoạt động in ấn, phát hành đều bị đình trệ. ĐC Phaolô Seitz Kim và các Thừa sai ngoại quốc bị trục xuất khỏi Việt Nam. Tiếp theo làn sóng nhập cư tự phát hoặc theo chương trình kinh tế mới của Nhà Nước đã làm số lương dân cũng như giáo dân tăng đáng kể, đặt ra nhiều vấn đề về mục vụ văn hóa…
Các Lm thừa sai từng phục vụ Gp Kon Tum nay trở về cố hương, các ngài tiếp tục viết và hoàn thành những tác phẩm về truyền giáo Tây Nguyên như ĐC Paul Seitz, Cha Simonet, Cha Léger[24]…
Trong hoàn cảnh thiếu linh mục và hoạt động tôn giáo bị hạn chế, các Yao Phu đóng vai trò quan trọng. Học hỏi Kinh Thánh và cầu nguyện bằng Lời Chúa được đề cao trong suốt thời gian dài.
Từ 2003-2009, Ban dịch thuật làm việc tích cực, san định, hiệu đính những sách từ điển đã được biên soạn trước đây. Các bản dịch Tân Ước Bahnar và Jrai đã có trước đây (do Lm Antôn Den và các vị khác dịch) nay được đọc lại và chỉnh sửa cho phù hợp; tiếp tục cho dịch Kinh Thánh trọn bộ bằng các ngôn ngữ địa phương: Bahnar, Jrai, Sêđăng và Rơngao.
Đáp ứng nhu cầu mục vụ ngày càng tăng nơi các tín hữu đồng bào sắc tộc, Bộ sách Lễ Rôma và Sách Các Bài Đọc bằng tiếng Bahnar được hiệu đính lại từ các bản dịch trước đây, và dần dần cho dịch Bộ sách Lễ Rôma và các nghi thức ra tiếng Jrai, Rơngao, Sêđăng.
Một số linh mục, tu sĩ, giáo dân trong đời sống mục vụ, sống đạo cũng sáng tác những vần thơ, bài văn, viết bút ký, hồi ký ghi lại những chặng đường truyền giáo đã qua, những suy tư về hiện tại, về giới trẻ…Tuy đa phần đều in nội bộ, ra đời vào dịp kỷ niệm lễ, để tặng bổn đạo, bạn hữu.v.v. nhưng điều đó cũng thể hiện hoạt động văn hóa-văn học ít nhiều tùy ở từng mức độ.
– Đức Cha Phêrô Trần Thanh Chung: “HỒI KÝ”, Kontum 2008.
-Linh mục Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn: “Tập thơ” (Phú Bổn 1984), “Tình sử”, tập thơ kỷ niệm 25 năm TpLm (1996), cùng rất nhiều bài nghiên cứu, biên khảo về lịch sử Gp Kon Tum thuộc nhiều lĩnh vực; một số bài nghiên cứu lịch sử, bài thơ được đăng trong Tạp chí Nghiên Cứu Tôn Giáo, trong tờ thông tin PATER, trên trang trang web của giáo phận Kon Tum.
-Lm Giuse Trần Sĩ Tín (CSsR): “Hạt giống Kitô trong đất Jrai”, Pleikly 2009…
-Lm Simon Phan Văn Bình: “Người mục tử Trường Sơn”, bút ký, Kon Tum….
-Lm Phêrô Nguyễn Vân Đông: “Mùa đông ấm áp”, Kon Tum 2013”Tâm bút”, Kon Tum 2015;
-Lm Tôma Nguyễn Văn Thượng với những bài khảo cứu về công giáo Tây Nguyên.
-Lm Luis Nguyễn Quang Vinh, “Suy niệm Lời Chúa Năm A-B-C”, Kon Tum, 2016.
-Lm Giuse Trần Ngọc Tín với tác phẩm tìm hiểu về Giáo luật: “Giáo luật và quy tắc tổng quát”, “Giáo luật và nhiệm vụ thánh hóa”, “Giáo luật và Dân Thiên Chúa”.v.v.
Một số tác phẩm
– Một số tác giả góp mặt trong Sưu tập thơ CÓ MỘT VƯỜN THƠ ĐẠO của Ban MV Văn hóa và Giáo dục Gp Qui Nhơn (tập 5: Bay tới cõi Thiên Đàng, NXB Hồng Đức, 2015): Nữ tu Lucia Huỳnh Thị Thu Huyền, Cát Vàng, Minh Sơn.
-Một số giáo dân tham gia và đạt giải trong các cuộc thi thơ văn Đồng Xanh Thơ (Gp Qui Nhơn): Lý Tân, Tâm Ngọc, Nguyễn Đình Văn, Y Blon…
+Cuộc thi văn thơ HOA NÚI RỪNG:
Từ năm 2015, nhằm tạo một sân chơi lành mạnh cho các em học sinh, sinh viên, qua đó tìm kiếm các tài năng văn, thơ, nhạc Công giáo, đồng thời đào tạo bồi dưỡng những cây bút trẻ trong giáo phận, cuộc thi viết văn thơ “Hoa Núi Rừng” của Ban Mục vụ Văn hóa Giáo phận Kon Tum ra đời. Trải qua 7 năm (2015-2021), cuộc thi HOA NÚI RỪNG đã gặt hái được những thành quả nhất định. Mỗi kỳ thu hút hàng trăm cây bút trẻ tham gia với đại biểu của các sắc tộc như: Kinh, Ba Na, Gia Rai, Sêđăng. Cuộc thi được đánh giá mỗi năm tăng lên về số lượng và chất lượng, và Ban tổ chức cũng trao nhiều giải thưởng khích lệ cho các cá nhân và tập thể giáo xứ. Qua 7 năm đã in được 7 tuyển tập HOA NÚI RỪNG gồm tất cả các bài thơ, văn đạt giải và những bài tuyển chọn khác. Hy vọng với truyền thống dòng “Văn học Làng Hồ” – Văn thơ công giáo Kon Tum sẽ ngày càng tỏa ngát hương sắc trên đại ngàn núi rừng Tây Nguyên, trở nên phương tiện hỗ trợ rất hữu hiệu cho công cuộc loan báo Tin Mừng hôm nay và trong tương lai.
Tập san văn thơ “Hoa Núi Rừng”
Trên đây là phác thảo đôi nét diện mạo văn hóa văn học Tây Nguyên – Giáo phận Kon Tum. Qua đây chúng ta thấy nơi ánh lửa bập bùng của miền rừng núi, ngoài di sản cồng chiêng, sử thi v.v., còn có cả văn chương, văn học Kitô giáo. Các vị thừa sai và ông bà tổ tiên đã vận dụng tất cả phương tiện, tiếp thu, chắt lọc, hội nhập và phấn đấu hết mình trong suốt 170 năm qua (1851-2021) để vun trồng đạo đức làm người và làm con Chúa cho nhiều thế hệ người bản địa, Kinh cũng như Thượng. Nhiều tác giả, tác phẩm văn hóa văn học Tây Nguyên vẫn còn “phủ lớp bụi thời gian”, chưa được phát hiện, tìm hiểu hết. Trong khuôn khổ bài trình bày đơn sơ này, chắc chắn sẽ còn rất nhiều thiếu sót và sai sót. Rất mong các nhà chuyên môn và quý vị độc giả thông cảm và góp ý sửa chữa, bổ sung để văn hóa – văn học Công giáo Tây Nguyên tiếp nối quá khứ, hướng tới tương lai được khởi sắc, phục vụ tích cực cho công cuộc loan báo Tin Mừng trong thời đại hôm nay.
Nguồn: WGPKT(16/09/2021), giaophankon
[1] x. P. Dourisboure, Dân Làng Hồ, TGM Kon Tum, NXB Đà Nẵng 2008, tr. 91.
[2] x. Võ Long Tê, LỊCH SỬ VĂN HỌC CÔNG GIÁO VIỆT NAM, NXB Tư Duy, Sài Gòn 1965, đặc biệt Chương II: Thế nào là văn học Công giáo?
[3] Theo thần thoại Bahnar do Lm André Rannou sưu tầm, 1974: “Bok Phu Jei, vị chúa tể thời gian, đặt chữ viết trong một miếng da trâu và giao cho người Thượng Bahnar, đồng thời họ cũng cho họ một cuốc nhỏ bằng bạc để làm rẫy. Những người Bahnar ấy đặt miếng da trâu xuống đất và ngất ngây trước cái cuốc bạc nhỏ đó. Khi định nhặt lại miếng da trâu thì họ nhận ra rằng một con chó đã ngốn mất rồi. Như thế người Bahnar đánh mất chữ viết!” (x. Paul Seitz, Des hommes debout, xuất bản St. Paul 1977, tr. 11).
[4] P. Dourisboure, sđd, tr. 78-79.
[5] P. Dourisboure, sđd, tr. 122.
[6] P. Dourisboure, sđd, tr. 274-307.
[7] P. Dourisboure, sđd, Lời Tựa, tr. 6.
[8] P. Ban và S. Thiệt, Chức dịch thơ tín, Địa phận Kontum số 33, tháng 1/1936, tr. 384.
[9] Notice biographique: Pierre DOURISBOURE (1825-1890), Archives MEP.
[10] Père Hugon, Etat des chréchientés de Rơhây et Kontum au mois d’Octobre 1873 et pour l’année 1874, Baptêmes 1873-1892.
[11] Lm P.X Hương (1856-1929). Thầy Hương lên Kon Tum năm 1881, đến năm 1887 về lại Bình Định và thụ phong linh mục ngày 14/10/1894.
[12] P. Ban và S. Thiệt, sđd, tr. 222,
[13] Jeju Kritô (Vie de Notre-Seigneur Jésus-Christ) [illustrée]. Imprimerie de Nazareth, Hong-kong, 1894, 12 in, 212 trang.x. Notice biographique: Jules VIALLETON (1848-1909), Archives MEP.
[14] Notice biographique: Jean Baptiste GUERLACH (1858-1912), Archives MEP.
[15] Lm Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn, Một văn bản cổ bằng tiếng Jrai: “Catéchisme en Jrai” của Cha G. B Nicolas, MEP, website Gp. Kon Tum 24/6/2011.
[16] Kỷ yếu Năm Thánh Yao Phu, TGM Kon Tum, 2008.
[17] Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn đã được dịch từ tiếng Bahnar, tường thuật việc dựng Nhà thờ Chính tòa Kon Tum vào năm 1913: “Trời mùa hè ấm áp! Mặt trời vừa ló rạng khỏi dãy núi phía đông. Lòng người rộn rã như tiếng sấm mùa hè. Tùng, tùng, tiếng trống vang dội kêu gọi dân làng đến để dựng nhà thờ! Từ sáng sớm, có hai cha là cha Phước và cha Lê đã chuẩn bị đầy đủ, nào dây thừng v.v…Dân Kontum, anh em người Kinh và tất cả người Bahnar ra tập trung để chung sức kéo dựng. Đức cha và các cha đứng gần đó để coi. Gian đầu tiên, người ta kéo từ từ coi thử dây cột có chắc không; biết đã chắc rồi, cha Phước hô một tiếng to: phắt, tùng tùng, ông già đánh trống giữ nhịp độ kéo, người ta kéo các cột từ từ lên và dựng đứng thẳng. Trong lòng mọi người an tâm; họ thấy dễ dàng và không lo gì nữa. Từ sáng sớm đến trưa, người ta dựng được hai gian rồi. Trưa nghỉ ăn cơm. Ăn xong, họ bắt tay vào việc cho đến chiều tối, cũng dựng được hai gian. Ngày hôm sau, cũng dựng được 4 gian nữa; ngày thứ tư đã hoàn tất. Cảm ơn hai cha Phước và cha Lê đã hướng dẫn, chỉ bảo trong công việc dựng nhà thờ này. Trời đẹp quá, nếu sau này làm hoàn thành tất cả, thì sẽ đẹp hơn các nhà thờ khác: chiều dài, cũng dài hơn nhà thờ Rơhai; chiều rộng có phần ngắn hơn đôi chút. Hiện giờ, nhà thờ Kontum này họ đã lợp tranh. Cho nên, ngày kiệu Thánh Thể, cha Đệ đã dâng Thánh lễ tại đó để cầu xin Chúa ban phúc lành hồn xác cho các ân nhân ngoại quốc đã giúp dân làng Kontum có nhà thờ đẹp mới này”. (x. Hlabar Tơbang số 27 năm 1913, tr.34-35. Lm Gioakim Nguyễn Hoàng Sơn chuyển sang tiếng Việt, x. Nhà thờ Chánh tòa Kontum, Gp Kontum, 2008).
[18] Kon Tum – 100 năm lịch sử và phát triển, NXB Chính trị quốc gia 2013, tr.365.
[19] Đáng kể nhất là những bài khảo cứu lịch sử như: Lược khảo về tỉnh Kontum, Trần Đình Nam, phụ trương bằng chữ Pháp, Nam Phong Tạp Chí, số 74, tháng 8/1923; Kontum tỉnh chí, Võ Chuẩn, Nam Phong Tạp Chí số 193, tháng1-2/1934. Ngoài ra có một vài bài thơ thấy nhắc tới và in lại trong ký sự Ngục Kontum của Lê Văn Hiến xuất bản ở Đà Nẵng năm 1938…
[20] Chúng tôi xin giới thiệu một đoạn văn giàu hình ảnh, âm thanh, xúc cảm…trong bài viết này, đăng trong CHỨC DỊCH THƠ TÍN của Địa phận Kontum, số tháng 04.1935, tr.281-284:
“Sục sục, ù…Chú lái vô tình đã dứt đoạn câu từ biệt, chiếc xe phóng tới, tay khoát đầu chào, hai bên nhìn nhau mà chỉ thấy đám bụi nổi lên mốc phếu. Chiếc xe từ từ thẳng lối, cứ lèo tây theo con đường quan lộ. Khỏi hai ba tiếng đồng hồ, thì không còn dấu gì là đất tổ quê cha, lên ải xuống đèo, càng thấy bao la những rừng cùng núi. Trong xe một lũ trẻ thơ, đơn sơ thanh tịnh, đương cố nói nói cười cười, lòng vui phới phở : “Ta đi đâu? Lên Kontum là nơi rừng núi, ắt sẽ thấy những cây mục lá khô; ta lên xứ Mọi, ắt sẽ gặp những đao cùng tác”.
Nào có dè, bóng ác vừa tan, thì xe kia đã tới. Thấy mọi sự đều khác hẳn trí suy: kìa lầu sứ, nọ sở nhà thương, lố xố dinh quan, mấy hàng trại lính, hai bên phố xá đàng thẳng dọc ngang. Đổ về ngả đông sáu bảy trăm thước, bẻ lái ra bắc, ấy là trường Probatorium. Bắc mặt xem lên là một ngôi nhà ba từng, nguy nga đồ sộ, trên một gò khoản khoát tư vuông; trước sau có những quan lộ chiều ngang dãy dọc, dưới xa có chợ là chốn bổ dưỡng học sinh, kế gần một bên có mương nước chảy, sạch sẽ trong veo đi ngang cửa hang Đức Mẹ, tứ vi là nhà người Annam ở, lợp ngói cái đỏ cái vàng, xen cùng màu cây lá cỏ, trên cao xem rất ngoạn mục, tợ hồ vườn hoa nở của thợ thiên nhiên”.
[21] Xin trích một đoạn:
SURSUM CORDA
(Cha Fr. Rég. Louison )
(Cha D. Hồ Ngọc Cẩn dịch nghĩa:)
-
Chúa Giêsu đã di ngôn:Tao sẽ kéo hết linh hồn người ta.Tao đem ngọn lửa chói lòaSoi cho những kẻ Tao đà chọn lên.Lòng trông cậy, chí vững bềnLà những chìa khóa để lên cõi trờiMôi Tao hạp ấy là lờiChỉ như sơn dạ, ắt thời Tao ghêVậy ta rủn chí chớ hềHãy quyết một bề:Sursum corda
[22] Lm Giuse Trần Sĩ Tín, Kinh nguyện và phụng vụ Kitô giáo hội nhập trong bối cảnh văn hóa Tây Nguyên, 2014.
[23] Gioan Nguyễn Trí Thức, Giáo Lý Diễn Ca tập II, Saigon 1970, tr.93.
[24] ĐC Phaolô Seitz Kim: –Des Hommes Debout – Les Montagnards du Sud Viêtnam. Xuất bản: St. Paul, Paris 1975; –Le temps des chiens muets – Flammarion 1977. Các thừa sai khác: tác phẩm được phổ biến qua nhiều tài liệu như “Niên giám nghiên cứu của Việt Nam”…
2021
“Các màn hình này nuốt chửng chúng ta”: Đấu tranh của một linh mục trẻ
“Các màn hình này nuốt chửng chúng ta”: Đấu tranh của một linh mục trẻ
Điện thoại thông minh và các màn hình khác ngày càng xâm nhập vào cuộc sống chúng ta, đến mức nó cắt đứt hoàn toàn đời sống nội tâm của chúng ta. Linh mục Jean-Baptiste Bienvenu phẫn nộ chống lại chủ nghĩa toàn trị mới này. Bài phỏng vấn và lời khuyên.
Vào thời điểm mà màn hình đã xâm chiếm tất cả không gian sống của chúng ta, linh mục Jean-Baptiste Bienvenu đưa ra các giải pháp cụ thể để giải thoát khỏi ách thống trị này trong quyển sách Chúng nuốt chửng chúng ta (Ils nous bouffent). Linh mục ở giáo phận Versailles, biên tập viên của trang “Padreblog”, thành viên của cộng đoàn Emmanuel, cha viết quyển sách dành cho những người bất lực khi đối diện với việc bị màn hình chiếm chỗ.
Vì sao cha chọn tựa sách là Chúng nuốt chửng chúng ta?
Linh mục Jean-Baptiste Bienvenu: Đó là tựa đề mang hiệu ứng của một cú đấm. Chỉ năm chữ tóm gọn một cảm nhận tập thể. Khi chúng ta nói màn hình ăn tươi nuốt sống chúng ta, mọi người đều đồng ý. Ít nhiều rõ ràng, chúng ta tất cả đều có cảm giác chán chường và bị xâm chiếm này. Tôi muốn bắt đầu từ ghi nhận này để bắt ngay vào vấn đề cụ thể và hành động hầu biến đổi môi trường sống của chúng ta.
Ở cái gì màn hình đã đưa chúng ta xa thực tế?
Thời gian của màn hình mâu thuẫn với kinh nghiệm con người có về thời gian. Thời gian tính của màn hình là không liên tục. Trên màn hình, các sự kiện diễn ra một cách không đồng bộ và cảm giác phát sinh từ chúng chỉ làm lợi ngắn hạn lòng tự tin của chúng ta có về chính mình: “Họ nghĩ về tôi, tôi quan trọng, tôi được ưa chuộng, tôi rất cần thiết.” Ngược lại, thời gian của con người là liên tục. Đó là thời gian của một lối kể chuyện cần trải nghiệm lâu dài để có thể thăng hoa. Nhưng có một điều gì đó rất mạnh khi bị gián đoạn mọi lúc: chúng ta không còn cảm thấy buồn chán nữa. Vì vậy, chúng ta bằng lòng trong sự gián đoạn. Chúng ta không còn có thể trải nghiệm thời gian trong những gì là con người. Đó là cách mà màn hình làm chúng ta xa với thế giới thực và với thực tế về sự thống nhất giữa chúng ta là nam và nữ.
Có phải màn hình lấy đi tự do của chúng ta không?
Theo nghĩa cơ bản của tự do, màn hình lấy đi khả năng thực hiện sự hiệp nhất nội tâm của chúng ta. Cách đây vài ngày, khi đi thăm một người quen, tôi để điện thoại trong áo măng-tô để khỏi bị quấy rầy. Khi tôi dùng lại, tôi thấy một loạt các thông báo về một vấn đề cần giải quyết. Không có gì khẩn cấp như vậy, nhưng tôi cảm thấy buộc phải trả lời trực tiếp. Chỉ cần nhìn các thông báo là tôi thấy không còn tự do. Với màn hình, ý nghĩa về các ưu tiên hoàn toàn bị xáo trộn, mọi thứ trở nên khẩn cấp. Nếu chúng ta không làm chủ màn hình, chúng ta trở nên những bộ máy mời gọi làm mọi thứ ngay lập tức.
Đâu là tác động của màn hình trên đời sống thiêng liêng của chúng ta?
Khả năng để làm cho sự hợp nhất trong cuộc sống của chúng ta phát triển qua mối quan hệ với không gian và thời gian, được nuôi dưỡng qua việc chiêm niệm Chúa Kitô. Trong Kinh thánh, Chúa Giêsu dùng hai động từ để diễn tả điều này. Động từ đầu tiên là “ở lại”. Chúa Kitô đã chọn ở lại trong sự nhập thể của mình, để dạy chúng ta biết Người là ai trong bản thể Ba Ngôi của Ngài. Ngài ở với Chúa Cha. Nếu chúng ta không còn biết sống trong không gian, thì chúng ta sẽ không hiểu “được gọi để làm con cùng với Chúa Giêsu” là gì. Động từ thứ nhì là “canh thức”. Có nghĩa là, ở giữa thời gian trôi qua, phân định Chúa hiến mình trong đời sống chúng ta. Trung thành với canh thức này là có tự do nội tâm, một tự do bị mất đi với màn hình. Vì thế chúng ta phải lấy lại khả năng nội tâm để có thể nghe những gì Chúa Kitô dạy chúng ta.
Làm thế nào các bài tập cha đề nghị trong quyển sách có thể giúp chúng tôi thoát ra khỏi màn hình?
Qua kinh nghiệm về đời sống thiêng liêng và đọc hương nguyện lectio divina, chúng ta để mình được Chúa biến đổi. Chúa Giêsu là con người trong tình trạng sung mãn. Khi chúng ta suy ngẫm lâu dài, chúng ta học làm người bằng cách kết nối với kế hoạch của Chúa. Từ đó, chúng ta phát triển một nghệ thuật sống, cho phép chúng ta, bất cứ lúc nào và bất cứ hoàn cảnh kỹ thuật nào, chúng ta được hạnh phúc và tự do. Với những bài tập mà tôi đề xuất trong quyển sách, mỗi người có thể có được một nghệ thuật sống, trong đó màn hình là người phục vụ chứ không phải ngược lại, như trường hợp ngày nay.
Chúng ta có thể có một mối quan hệ lành mạnh với màn hình không?
Có, nhưng để có được điều này, chúng ta phải thoát ra khỏi các mệnh lệnh cá nhân và tác động gây mặc cảm tội lỗi để đặt các nỗ lực của chúng ta vào đúng chỗ. Vì vấn đề màn hình định hình cấu trúc toàn xã hội, chúng ta phải xây dựng phản hồi của chúng ta ở một mức độ tương xứng. Không phải bằng nỗ lực của chính mình mà chúng ta sẽ tắt được màn hình. Chúng ta phải làm việc cho một văn hóa mới trong những nhóm nhỏ mà chúng ta thuộc về –giáo xứ, gia đình, nhóm đồng nghiệp, nhóm ở chung nhà… Chúng ta phải suy nghĩ lại về môi trường của chúng ta sao cho nó phù hợp hơn với những nhu cầu sâu xa của đời sống con người và với lời kêu gọi nên thánh mà Chúa Kitô nói với chúng ta.
Là linh mục và biên tập viên của trang Padreblog, làm thế nào để cha giới hạn thời gian của cha trên màn hình?
Chúng tôi tất cả bỏ nhiều thì giờ trên màn hình cho công việc. Do đó, mục tiêu của tôi không phải là đạt đến một lý tưởng đã định, nhưng đúng hơn là có khoảng không gian không có màn hình trong ngày của mình. Chẳng hạn đêm nay, tôi dậy sớm và tôi cầu nguyện. Thay vì nhấc điện thoại lên và nối mạng làm việc, tôi để một giờ yên lặng trong đêm để gần với Chúa, và như thế thật là tốt! Tóm lại, tôi cố gắng giữ không gian và thời gian ngoài màn hình. Dĩ nhiên đây vẫn là một cuộc đấu tranh, nhưng khi tôi chọn cấu trúc cho môi trường sống của tôi theo hướng nhân bản hơn, tôi thấy tôi có một cuộc sống cân bằng hơn, sẵn sàng hơn cho người khác và cho Chúa.
Cha có lời khuyên nào cho một gia đình cảm thấy mình bị màn hình khống chế không?
Chúng ta cần cố gắng thoát ra khỏi xung đột giữa các thế hệ. Dĩ nhiên cha mẹ và con cái không có tương quan giống nhau với màn hình, nhưng các quy tắc đặt ra trong một gia đình thì mọi người phải tuân theo. Dành thì giờ để nói chuyện với nhau trong gia đình, lắng nghe con cái nói về quan hệ của mình với màn hình. Sẽ hơi xấu hổ nhưng có thể tốt cho tất cả mọi người.
Cuối cùng, tôi nghĩ nhiều đến các dụng cụ có thể giúp phần nào như mua máy ảnh, đồng hồ báo thức, đồng hồ… Lý do chính để dán mắt vào màn hình là “thật thuận tiện khi có mọi sự trong một máy”. Thực dụng, nhưng nó che giấu những gì chúng ta đánh mất trong con người mình. Để thoát ra khỏi chủ nghĩa toàn trị của màn hình – có mọi thứ ở một nơi là độc tài – chúng ta chọn một hình thức khiêm tốn nào đó trong các phương tiện, chống lại sự mê hoặc của kỹ thuật thống nhất mọi thứ. Giáo hội cũng đặt mình vào việc phục vụ sự hiệp nhất của nhân loại, nhưng Giáo hội làm như vậy với những phương tiện vẫn còn nghèo nàn. Bánh thánh là một ví dụ hoàn hảo về điều này: đó là bánh không có vị, nhưng đó là món quà quý giá nhất mà Thiên Chúa ban cho chúng ta. Khiêm tốn về phương tiện là điều kiện cho tự do của chúng ta!
Giuse Nguyễn Tùng Lâm dịch
2021
Thương quá, bà ơi!
Thương quá, bà ơi!
Hôm nay tôi xem lại những hình ảnh đã chụp lại ở bệnh viện lúc còn làm tình nguyện viên, một chút ký ức về bà V hiện lên trong đầu. Tôi xin viết vài dòng về bà, thương quá một gia đình.
Hôm đó, tôi vào phòng bệnh như mọi ngày. Tôi đi vòng hết phòng bệnh và cầu nguyện cho từng bệnh nhân, có một bệnh nhân mới là bà cụ V, 85 tuổi. Nhìn khuôn mặt bà phúc hậu quá, trên tay có đeo chuỗi nên tôi tưởng cụ là bà sơ. Bà đeo ống thở ở mũi nên tôi không dám hỏi chuyện vì sợ khi bà nói sẽ ảnh hưởng đến sức khỏe. Tôi nói với 2 sơ làm chung là có lẽ bà là nữ tu, chị điều dưỡng hỏi bà có phải sơ đi tu không thì bà trả lời không phải. Nhìn hồ sơ, tôi thấy địa chỉ đường TVĐ cũng không xa nhà tôi lắm. Khuôn mặt đó, ánh mắt đó làm tôi không thể không nhìn tới, nhìn thương quá bà ơi và tôi đứng cầu nguyện cho bà một hồi lâu. Tôi lấy số điện thoại trên hồ sơ, gọi về gia đình bà. Lúc đó, trong đầu tôi cứ nghĩ cụ là bà sơ bởi gương mặt đó. Khi tôi gọi thì cô con gái út của bà bắt máy. Tôi giới thiệu là thầy dòng đang tình nguyện trong bệnh viện và gặp bà, thấy số điện thoại nên gọi về gia đình để báo tin. Lúc bấy giờ, con gái bà bật khóc vì mừng, cô ấy nói cả nhà bị nhiễm hết, đành đưa bà đi cách ly… Cô kể về bà rất nhiều: Bà hiền lắm, thương con cháu, sốt sắng đến với Chúa… Tối hôm đó khi trở về chỗ nghỉ ngơi thì ánh mắt đó, khuôn mặt gầy guộc đau đớn như gương mặt của Chúa Kitô trong cuộc khổ nạn đã làm tôi không ngủ được. Thương bà quá, khi tôi viết bài này thì bà đã mất cũng hơn 1 tháng nhưng nhớ tới thì mắt tôi vẫn cay.
Sáng hôm sau, cô cháu ngoại Ph. của bà nhờ tôi có gặp cụ thì báo tin là “cháu ngoại mới sinh em bé, ngay ngày lễ thánh Đaminh nên chọn thánh Đaminh làm bổn mạng”, chị còn nhờ tôi tìm giúp bà đôi vớ để mang vào chân cho ấm vì bà sợ lạnh. Hôm đó, tôi trực ca đêm nên không tới bệnh viện sớm được, thế là tôi có xin một sơ đôi vớ và nhờ sơ mang vô cho bà.
Đến ca trực của tôi là 3 giờ sáng, tôi vào phòng bệnh, vẫn như mọi ngày đi hết một vòng đến từng bệnh nhân và tôi có đến chỗ của bà, thấy bà yếu hơn hôm trước. Tôi lau mặt, đút cho bà hộp sữa, bà uống được nửa hộp rồi thôi, và tôi đọc kinh cầu nguyện cho bà. Tôi còn nói lời nhắn nhủ từ con gái và cháu gái thì ánh mắt bà tươi lên. Các sơ đùa, cụ V là bà ngoại của tôi, vì tôi cứ hay đến chỗ bà. Hôm đó, tôi chụp hình bà để cho người nhà của bà xem. Gia đình bà mừng lắm khi nhìn thấy hình ảnh của bà. Nhưng đó là những hình ảnh đẹp nhất mà họ nhìn thấy lần cuối …
Ngồi trên xe trên đường về chỗ nghỉ thì con trai bà gọi điện cho tôi, chú vừa khóc và nói: “Nhờ thầy chăm sóc mẹ con, con đi làm ăn xa, giờ bị kẹt ở lại công ty không về được, có tin gì xin báo…”. lúc này tôi cũng muốn khóc theo luôn. Rồi tôi nhận được tin là một người con trai khác của bà cũng nằm trong bệnh viện này, tôi nhờ anh chị điều dưỡng tra máy tính, biết được phòng bệnh để đi thăm hỏi bệnh tình.
Đến ca trực trưa hôm sau, tôi vào phòng bệnh thì thấy bà đâu mất tiêu, một cảm giác buồn vì tự hiểu chuyện gì đã xảy ra. Tôi hỏi mấy anh chị điều dưỡng thì họ chỉ sang bên giường… Bà đi nhanh quá, lúc 10 giờ 21 phút. Hộp sữa hôm qua là lần đầu cũng như lần cuối tôi đút cho bà uống, hình ảnh của bà hôm qua mới gởi về gia đình khi bà uống sữa rất dễ thương. Thương quá…
Tôi và các sơ trực cùng ca đã không quên cầu nguyện cho linh hồn Têrêsa, xin Chúa đón nhận linh hồn bà vào hưởng tôn nhan Chúa. Tôi chần chừ không dám báo tin cho gia đình bà, một chút suy nghĩ để lựa lời, tránh gây sốc cho gia đình. Tôi báo xong thì mọi người im lặng. Tôi biết họ đau lắm vì chính tôi đây chỉ mới gặp bà có một thời gian rất ngắn mà cũng rất buồn… Lúc sắp hết ca trực, tôi đi lên khoa trên gặp người con trai của bà để thăm hỏi tình hình sức khỏe. Tôi nói là bà V ở dưới còn khỏe, chú ấy mừng lắm. Chú cám ơn tôi nhiều. Tôi không dám nói thật. Rồi hôm sau, tôi quay lại phòng bệnh này thăm chú thì tìm mãi không thấy, tôi nghĩ thầm: Hôm qua chú khỏe mà, lẽ nào… Tôi hỏi thì được biết là chú đã chuyển xuống khoa dưới. Tôi đi xuống thăm thì chú yếu đi nhiều. Con virút này nó phá sức khỏe người ta ghê gớm quá, mới thấy còn tỉnh táo mà nay đã vậy. Nhiều ngày tôi đến thăm, và đến ngày cuối trước khi tôi về lại cộng đoàn thì chú cũng đã ra đi. Trong nơi này luôn là vậy, chỉ thấy đó vài hôm là không còn nữa và bà là người ra đi nhanh nhất mà tôi từng thấy. Thấy thương gia đình bà quá, chỉ trong thời gian ngắn đã mất đi nhiều người, ngoài bà với chú thì còn một người nữa đã qua đời trước bà vài ngày.
Giờ này, chắc bà đã được nghỉ ngơi bên Chúa, bà đã thoát khỏi cơn đau đớn do bệnh tật gây ra. Bà phù hộ cho con cháu qua khỏi cơn nguy khốn này bà nhé. Bà cầu xin lòng thương xót của Chúa chữa lành cho họ và nhân loại.
Lạy Chúa, mỗi ngày có biết bao gia đình phải ly tán, biết bao nhiêu người mất đi người thân, biết bao nhiêu người đã không còn tồn tại trên cõi đời này. Xin Chúa nâng đỡ ủi an nhân loại chúng con. Xin giảm bớt khổ đau… Xin Chúa ra tay ngăn chặn cơn dịch bệnh. Amen!
Tu sĩ Antôn Chung Chí Tâm, dòng La San