2021
Tại sao Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện chiêm niệm
Tại sao Kinh Mân Côi là lời cầu nguyện chiêm niệm
Kinh Mân Côi là một lời cầu nguyện tuyệt vời có thể được dùng để chiêm ngắm các mầu nhiệm của Thiên Chúa.
Trong khi một số người có thể coi Kinh Mân Côi là lỗi thời, thì Giáo hội Công giáo vẫn tiếp tục xem đó như một phương pháp cầu nguyện tuyệt mỹ.
Đặc biệt, Thánh Gioan Phaolô II xác tín rằng đó là một cách hoàn hảo để thực hành việc chiêm niệm.
Ngài đã viết về điều đó trong Tông thư về Kinh Mân Côi.
Lý do quan trọng nhất để khích lệ mạnh mẽ việc thực hành Kinh Mân Côi là vì nó được xem như phương tiện hữu hiệu nhất nhằm thúc đẩy các tín hữu dấn thân vào việc chiêm ngưỡng mầu nhiệm Kitô giáo mà tôi đã đề ra trong Tông thư Novo Millennio Ineunte, như một “sự huấn luyện nên thánh” chính cống: “Điều cần có là một đời sống Kitô hữu nổi bật hơn cả trong nghệ thuật cầu nguyện”.
Đức Gioan Phaolô II thậm chí còn đi xa hơn khi so sánh Kinh Mân Côi với các phương pháp cầu nguyện chiêm niệm khác đã được phát triển ở Đông phương.
Kinh Mân Côi thuộc về một trong những truyền thống tốt đẹp nhất và đáng ca ngợi nhất của việc chiêm niệm Kitô giáo. Được phát triển ở phương Tây, như là một lời cầu nguyện chiêm niệm tiêu biểu, cách nào đó tương ứng với “lời cầu nguyện của con tim” hoặc “lời cầu nguyện của Chúa Giêsu”, vốn đã bén rễ trong vùng đất của Kitô giáo Đông phương.
Thực vậy, Thánh Gioan Phaolô II còn nói rằng Kinh Mân Côi nếu không suy ngắm thì giống như một “cái xác vô hồn”.
Kinh Mân Côi là một kinh nguyện chiêm niệm mạnh mẽ, vì nó bắt đầu từ kinh nghiệm của chính Đức Maria. Nếu không có chiều kích chiêm niệm này, Kinh Mân Côi sẽ mất đi ý nghĩa, như Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã chỉ rõ:
“Không có yếu tố chiêm niệm này thì Kinh Mân Côi là một cái xác vô hồn, và việc lần hạt của nó có cơ nguy trở thành một thứ lập đi lập lại một cách máy móc những công thức và đi tới chỗ đối diện với lời cảnh giác của Chúa Kitô: “Trong khi cầu nguyện đừng có lải nhải nhiều lời trống rỗng như Dân Ngoại vốn làm; vì họ nghĩ rằng họ có nhiều lời mới được đáp ứng” (Mt 6,7). Tự bản chất, việc lần hạt Mân Côi cần một nhịp điệu bình lặng và một tốc độ khoan thai, để giúp cho cá nhân suy niệm các mầu nhiệm về cuộc đời của Chúa bằng cặp mắt của Mẹ là vị gần Chúa nhất. Có thế những phong phú khôn lường của những mầu nhiệm này mới được tuôn trào ra” (MC 47).
Chìa khóa để mở ra chiều kích chiêm niệm của Kinh Mân Côi nằm trong việc suy niệm về các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu chứ không chỉ đơn giản là hàng đống những “lời nói suông”.
Nếu chỉ lần chuỗi Mân Côi cách đơn giản và không tham gia vào việc suy niệm thì quá dễ. Tuy nhiên, nếu chúng ta làm vậy, chúng ta có nguy cơ “lải nhải”, những lời cầu nguyện đó không tác động gì đến tâm hồn chúng ta.
Đức Gioan Phaolô II cũng giải thích rằng khi lần chuỗi Mân Côi chúng ta nên chiêm ngắm khuôn mặt của Chúa Giêsu.
Kinh Mân Côi là một trong những đường lối cầu nguyện truyền thống của Kitô giáo hướng đến việc chiêm ngắm gương mặt Chúa Kitô. Đức Giáo Hoàng Phaolô VI đã mô tả điều đó bằng những lời sau:
“Là một kinh nguyện Phúc Âm, tập trung vào mầu nhiệm Nhập Thể cứu chuộc, Kinh Mân Côi bởi thế là một kinh nguyện có chiều hướng Kitô học rõ ràng. Thật vậy, yếu tố nổi nhất của nó là tính cách liên tục như là kinh cầu của Kinh Kính Mừng tự nó trở thành một lời chúc tụng Chúa Kitô không ngừng” (MC 46).
Lần tới, khi lần chuỗi Mân Côi, bạn hãy cố gắng thực hiện theo cách chiêm niệm, là suy gẫm về những mầu nhiệm trong cuộc đời của Chúa Giêsu và ngắm nhìn khuôn mặt của ngài.
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Tìm hiểu về các Công đồng của Giáo Hội
Tìm hiểu về các Công đồng của Giáo Hội
Xin gửi đến quý độc giả một vài khái niệm về Công đồng và liệt kê 21 Công đồng Chung.
I/ Một vài khái niệm về Công đồng
Định Nghĩa
Công đồng là một hội nghị gồm các Giám mục, cùng một số bề trên của các tổ chức tu trì trong Giáo Hội, chính thức nhóm họp bàn luận và quyết định những vấn đề thuộc giáo lý đức tin hay sinh hoạt của Giáo Hội
Phân Loại
Công đồng có nhiều cấp bậc khác nhau, bao gồm trong hai loại tổng quát: Công đồng chung và Công đồng riêng
Công đồng Chung: còn gọi là Công đồng phổ quát. Từ khi có phong trào hợp nhất các Kitô hữu, người ta còn gọi là Công đồng đại kết. Đây là hội nghị các giám mục toàn cầu, với sự có mặt của các bề trên cao cấp trong các tổ chức tu trì, dưới sự chủ tọa đích thân của giám mục Rôma hay qua đặc sứ của ngài(x.GH22). Trước Công đồng chung Vatican II, chỉ có giám mục chính tòa mới có quyền tham dự Công đồng chung. Từ nay mọi giám mục có quyền tham dự Công đồng vì là thành phần của giám mục đoàn(x. GM 4)
Công đồng riêng: là một hội nghị gồm các giám mục của một miền dất nào đó trong Giáo Hội. Người ta phân biệt: Công đồng giáo tỉnh gồm các giám mục trong một miền, một giáo tỉnh dưới quyền chủ tọa của một tổng giám mục hay giám mục trưởng giáo tỉnh. Công đồng liên giáo tỉnh hay đại Công đồng nếu hội nghị, gôm các giám mục của nhiều giáo tỉnh khác nhau dưới quyền chủ tọa sứ thần Tòa Thánh. Ta cũng có thể kể thêm Công đồng toàn quốc, Công đồng toàn miền. Ngoài ra, còn có hội nghị khác của các giám mục gọi la thượng hội đồng, hội nghị hay công nghị giám mục. Công nghị giáo phận (x. GL. Đ. 460) dùng để chỉ phiên họp của vị giám mục giáo phận với hàng giáo sĩ của mình. Còn Thượng Hội đồng giám mục (Synod) là một quy chế được thể hiện sau Công đồng Vatican II. Đây là hội nghị do chính Giáo hoàng Roma triệu tập các giám mục đại diện hay những người được ngài chỉ định để cùng tìm hiểu và giúp ngài về một số vấn đề liên quan đến hoạt động của Giáo Hội trong thế giới
Thẩm quyền của Công đồng chung: là cơ quan lập pháp và giáo huấn tối cao của Giáo Hội. Đó chính là giám mục đoàn được quy tụ lại vì Chúa Kitô đã ban quyền cho các tông đồ và những người kế vị các ngài để dạy dỗ và điều khiển Giao Hội
Những nghị quyết của Công đồng chung có một giá trị tối cao đối với toàn thể Giáo Hội. Theo một số điều kiện đã được ấn định trong Giáo Hội, chúng có tính bất khả ngộ, nghĩa là không thể sai lầm. Nghị quyết chia thành hai loại: Nghị quyết về quy luật ấn định những luật lệ, tập quán, nghi lễ…..nghị quyết về giáo lý bàn về những điểm giáo lý gây tranh cải, làm sáng tỏ những điểm giáo lý còn nghi ngờ, xác định những chân lý mặc khải bị lạc giáo chối từ hoặc lên án những điểm sai lạc bằng các phán quyết “tuyệt thông”
Các Công đồng chung trong lịch sử:
Các Công đồng chung đóng vai trò đặc biệt trong lịch sử Giáo Hội vì đã làm chứng và xác định những chân lý mạc khải, ấn định những hình thức thờ phượng và kỷ luật, tạo nên những cuộc biến chuyển và canh tân đời sống Kitô giáo. Nhìn chung các Công đồng biểu lộ những nổ lực của Giáo Hội muốn luôn luôn chuyển biến chính mình để vừa bảo vệ khỏi những khủng hoảng của thời đại, vừa thanh tẩy mình khỏi những khiếm khuyết, vừa phát triển mình dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần
Trong dòng lịch sử suốt 20 thế kỷ qua, có tất cả 21 công đồng chung: 8 Công đồng chung đầu tiên nhóm họp ở phương Đông, 13 Công đồng sau ở phương Tây. Hầu hết, các giáo hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận 7 Công đồng chung đầu tiên. Các Công đồng này, có thể nói, đã xác định phần lớn giáo lý cơ bản của Giáo Hội. Các hoàng đế Đông Phương đã có công tích cực trong việc triệu tập và giúp đỡ Công đồng trong thời gian nhóm họp, dù giá trị của Công đồng hệ tại ở việc chuẩn nhận của vị Giáo hoàng ở Roma
II/ Liệt kê 21 Công đồng Chung
Chúng tôi đã trình bày một số điểm cơ bản của từng Công đồng trong phần Niên biểu Lịch sử Giáo Hội. Sau đây chỉ là bảng liệt kê danh sách ngày tháng và một số chi tiết khác của các Công đồng chung
- Nieaea I:Năm 325, thành phần tham dự gồm khoảng 300 giám mục Đông Phương, 4 giám mục Tây Phương, 2 linh mục Roma làm đặc sứ của Thánh Giáo hoàng Sylvester I. Hoàng đế Constantinus I triệu tập. Công đồng họp từ tháng 6 và kết thúc vào cuối tháng 8. Công đồng định tínhCon Thiên Chúa đồng bản tính với Chúa Cha
- Contastantinople I:Năm 381. Hoàng đế Theodosius I triệu tập dưới triều Thánh Giáo hoàng Damanus I. Có khoảng 186 giám mục Đông Phương dự. Khóa họp từ tháng 5 đến tháng 7. Công đồng lên án các lạc thuyết Arius và Macedonius,xác nhận và triển khai Kinh Tin Kính Nicaea
- Ephesus:Năm 431. Hoàng đế Theodosius II triệu tập, dưới triều Thánh Giáo hoàng Celestinus I. Có khoảng 150 – 200 giám mục Đông Phương, 1 giám mục Tây Phương, 3 đặc sứ tham dự với 5 khóa họp từ 22-6 đến 17-7. Công đồng lên án 2 lạc thuyết Nestorius và Pelagius,Công bố Đức Maria là Mẹ Thiên Chúa và xác định sự ngôi hiệp nơi Đức Kitô
- Chaleedon:Năm 451 Hoàng đế Mareianus triệu tập. Khoảng 600 giám mục Đông Phương, 2 giám mục Phi Châu, 3 đặc sứ của của Thánh Giáo hoàng Leo I tham dự 17 khóa họp từ 8-10 đến 1-11. Công đồng lên án thủ lãnh lạc giáo Eutyches, tuyên bốĐức Ki tô có một ngôi vị với hai bản tính riêng biệt
- Constantinople II:Năm 553 Hoàng đế Justinianus I triệu tập dưới triều Giáo hoàng Vigilius. Khoảng 150 giám mục Đông Phương, 8 giám mục Phi Châu tham dự 8 khóa họp từ 5-5 đến 2-6. Công đồng lên án”Ba chương” trích từ tác phẩm của các giáo phụ bị cho là theo thuyết Nestorius: T. de Mopsuestus Theodoretus và Ibas
- Constantinople III:Năm 680-681. Hoàng đế Constantinus IV triệu tập, dưới triều các Thánh Giáo hoàng Agatho và Leo II. Khoảng 165 giám mục Đông Phương, 6 giám mục Tây Phương và 3 sứ thần tham dự. Công đồng họp 16 khóa từ 7-11-680 đến 61-9-681. Công đồng lên án thuyếtNhất ý và dạy rằng Đức Kitô có hai ý chí: ý chí con người và ý chí Thiên Chúa
- Nicaea II:Năm 787 Nữ hoàng Irene triệu tập dưới triều Giáo hoàng Adrianus I. Có khoảng 300 giám mục Đông Phương, 2 sứ thần tham dự 8 khóa họp từ 24-9 đến 23-10. Công đồng lên án Phá Hủy Ảnh Thánh, xác định có thể tôn kính ảnh thánh mà không bị coi là ngẫu tượng
- Constantinople IV:Theo Công giáo. Công đồng nhóm họp năm 870, do Hoàng đế Basilius I triệu tập, dưới triều Giáo hoàng Adrianus II. Có khoảng 120 giám mục Đông Phương và 3 đặc sứ tham dự 6 khóa họp từ 5-10-869 đến 8-2-870. Công đồng lên án phái Phá Hủy Ảnh Thánh và truất quyền Thượng phụ Giáo chủ Photius, Nhưng Giáo hội ly khai Đông Phương chỉ công nhận Công đồng năm 880 đồng thời hủy bỏ hết Công đồng năm 870
- Lateran I:(Lateranus), năm 1123 do Giáo hoàng Callixtus II triệu tập. Khoảng 300 giám mục và 700 đại biểu khác tham dự các khóa họp từ 8-3 đến 6-4. Công đồng phê chuẩn thỏa ước Worms và một số điều canh tan Giáo hội
- Lateran II:Năm 1139 Giáo hoàng Innocens II triệu tập. Có khoảng 1000 tham dự viên họp trong tháng 4 để lên án việc ly giáo của Anacletus
- Lateran III:Năm 1179 Giáo hoàng Alexander III triệu tập. Khoảng 300 giám mục và 400 giáo sĩ tham dự 3 khóa họp diễn ra từ ngày 5 đến 19-3 để lên án bè rối Albigenses.Công đồng quy định cách chọn giáo hoàng
- Lateran IV:Năm 1215. Giáo hoang Innocens III triệu tập. Có 412 giám mục và 388 giáo sĩ tham dự, các khóa họp từ 11 đến 30-11. Công đồng quy định việc xưng tội mỗi năm và rước lễ mùa Phục Sinh. Lần đầu tiên. Công đồng nói đến từ“chuyển bản thể” trong Bí tích Thánh Thể
- Lyon I:Năm 1245. Giao hoàng Innocens IV triệu tập. Khoảng 150 giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự 3 khóa họp từ 28-6 đến 17-7 để lên án hoàng đế Frederick. II
- Lyon II:Năm 1247. Giáo hoàng Gregorius X triệu tập. Khoảng 500 giám mục và 570 giáo sĩ (có Thánh Thomas và Bonaventura), hoàng đế Đông Phương M. Paleologus cũng tham dự. Gồm 6 khóa họp từ 7-5 đến 17-7. Công đồng bàn vềsự hợp nhất giữa Giáo hội Đông Phương và Tây Phương
- Vienne:Năm 1311-1312. Giáo hoàng Clemens V triệu tập. Khoảng 132 giám mục với nhiều giáo sĩ tham dự 3 khóa họp từ 16-10-1311 đến 6-5-1312. Công đồng giải tán dòng Hiệp Sĩ Đền Thờ, lên án quan niệm sai lạc của tu sĩ. Beguard và Beguin
- Constance(Konstanz): Năm 1414-1418. Hoàng đế Segismundo triệu tập dưới triều Giáo hoàng Gregoritus XII và Matinus V. Khoảng 200 giam mục, nhiều giáo sĩ và chuyên viên tham dự 45 khóa họp, từ 5-11-1414 đến 22-4-1418.Công đồng bãi nhiệm ba giáo hoàng đang tranh chấp nhau, chấm dứt tình trạng ly khai ở Tây Phương, lên án J. Wycliff, JanHus và chọn Giáo hoàng Matinus V
- Florence(Firenze): Năm 1438-1455. Giáo hoàng Eugenius IV triệu tập. Lần đầu họp ở Basel, sau dời về Ferrara, rồi về Florence. Khoảng 30 giám mục Đông Phương tham dự.Công đồng đã đưa ra nhiều phương thức hợp nhất Giáo Hội
- Lateran V:Năm 1512-1517. Giáo hoàng Julius II và Leo X triệu tập. Có 115 giám mục Tây Phương tham dự 12 khóa họp, từ 3-5-1512 đến 6-3-1517.Công đồng xác định quyền bính giáo hoàng và quyền bính Công đồng, lên án những người theo thuyết Tân Aristole
- Trent(Trento): Năm 1545-1563. Giáo hoàng Paulus III. Julius III, Pius IV triệu tập. Lúc khai mạc có 70 giám mục, lúc kết thúc có 252 giám mục và nhiều giáo sĩ tham dự trong 25 khóa họp từ 13-12-1545 đến 4-12-1563.Công đồng xác định một số điểm đức tin và giáo lý liên quan đến Phong trào Cải Cách, canh tân Giáo Hội về nhiều điều thực tế.
- Vatican( Vaticano I): Năm 1869-1870. Giáo hoàng Pius IX triệu tập. Có 747 giám mục tham dự và nhiều giao sĩ trong 4 khóa từ 8-12-1869 đến 1-7-1870.Công đồng lên án thuyết duy lý và tuyên bố tính bất khả ngộ của giáo hoàng
- Vatican II:Năm 1962-1965. Giáo hoàng Joannes XXIII và Paulus VI triệu tập. Có tất cả 2.860 nghị phụ tham dự. Số nghị phụ ở mỗi khóa thay đổi từ 2.150-2.500. Có 10 khóa trong 4 kỳ họp.Công đồng đã soạn thảo và công bố 4 hiến chế, 9 sắc lệnh, và 3 tuyên ngôn nhằm đổi mới toàn diện đời sống Giáo hội Công giáo và hướng tới sự hợp nhất Kitô giáo.
*Bài này trong quyển “ Giáo hội Công Giáo Việt Nam niên giám 2004 của Văn phòng Tổng thư ký Hội Đồng Giám Mục Việt Nam. Nhà xuất bản Tôn giáo Hà Nội xuất bản năm 2004 từ trang 90 đến trang 93”
2021
Thánh Giuse – Mẫu gương cho những người sống đời thánh hiến
THÁNH GIUSE – MẪU GƯƠNG CHO NHỮNG NGƯỜI SỐNG ĐỜI THÁNH HIẾN
Tác giả: Sr. Mary Joseph Calore, SSCJ
Chuyển ngữ: Ngọc Quí
Nguồn: catholicexchange.com (18.8.2021)
– Đối với các Kitô hữu, Thánh Giuse là mẫu gương trổi vượt về đời sống nội tâm – đời sống không ngừng nhớ đến Tình Yêu Thiên Chúa và sự hiện diện luôn mãi của Ngài trong mọi khoảnh khắc của cuộc đời. Đặc biệt, Thánh Giuse còn là thước đo sống động cho những người sống đời thánh hiến để thẩm định mức độ trung tín và chân thành đối với lý tưởng hoàn thiện mà họ được kêu gọi.
Sau đây là một vài suy tư về Thánh Giuse như một mẫu gương cho những người sống đời thánh hiến, dựa trên bài suy niệm về Thánh Giuse của Thánh Joseph Sebastian Pelczar (1842-1924), một giám mục người Ba Lan và là Đấng sáng lập Dòng Chị Em Tôi Tớ Trái Tim Rất Thánh Chúa Giêsu.
- Thánh Giuse và Đời sống nội tâm
“Ngắm nhìn toàn bộ cuộc đời thánh Giuse, chúng ta sẽ thấy được một con người sống nội tâm và luôn biết nương ẩn trong bàn tay của Thiên Chúa; việc ít được các thánh ký nhắc đến đã khiến cho toàn thế giới chẳng biết thêm gì về ngài, ngay cả thông tin về sự qua đời của ngài cũng không hề xuất hiện. Dầu vậy, cuộc đời thánh Giuse vẫn được nhìn nhận là một cuộc đời cầu nguyện, lao động và liên lỉ hy sinh trong thầm lặng, cũng như chiếu tỏa chói lọi ánh huy hoàng các nhân đức.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Nội tâm con người – chiều sâu của sự hiệp thông với Thiên Chúa – được biểu lộ và thể hiện ra ngoài, trước tiên bằng suy nghĩ, rồi đến lời nói và sau đó là hành động. Là những người sống đời thánh hiến, chúng ta được mời gọi biểu lộ ra ngoài thực tại sống động đang diễn ra bên trong chúng ta, bằng chính chứng tá đời sống của mình. Đó là sự trao đổi tình yêu ẩn giấu giữa chúng ta và Đấng yêu thương chúng ta.
Toàn bộ con người của chúng ta trở thành một dấu chỉ sống động cho thế giới về những gì chúng ta đang trải nghiệm trong sự kết hợp mật thiết giữa chúng ta và Chúa Giêsu, Đức Lang quân của linh hồn chúng ta. Bằng cách này, chính cuộc sống của chúng ta vang lên vinh quang của Thiên Chúa trong một bài thánh ca sống động của tình yêu, niềm vui, bình an và sự viên mãn.
Trong sự trao đổi tình yêu, ước muốn thánh thiện và sự hiệp thông thiêng liêng này, trái tim chúng ta nói với Trái tim Thiên Chúa, tình yêu của chúng ta hòa nhịp với Tình Yêu của Thiên Chúa, đó là hoa trái của ân sủng thanh khiết từ phía Thiên Chúa và sự cộng tác từ phía chúng ta qua sự thành tín, nguyện cầu, hiệp nhất trong bác ái và sự trong sạch của trái tim. Thánh Giuse có thể là mẫu gương về điều đó cho chúng ta bằng đời sống nội tâm chứa đựng sự dấn thân, tính chủ động, sự sẵn sàng, tinh thần phó thác, và trên hết là sự tự hiến.
Tuy nhiên, điều gì sẽ xảy ra nếu đời sống nội tâm của chúng ta bị suy kiệt bởi sự làm việc quá sức để cố gắng thoát khỏi sự trống rỗng giày vò? Hoặc có lẽ, những thất vọng về đời sống cộng đoàn hay trong hoạt động tông đồ có thể đã khiến chúng ta khó lòng ở lại trong cuộc đối thoại nội tâm với Chúa.
Những thử thách của cuộc sống có thể làm cho chúng ta trở nên khô khan và có thể át đi lòng yêu mến của chúng ta, làm cho tinh thần chúng ta chán nản từ bên trong, và do đó đánh mất tình yêu thuở ban đầu của chúng ta (x. Kh 2,4). Nếu chúng ta thấy mình trong tình trạng như vậy, thì trên hết là đừng ngã lòng; Thiên Chúa là Đấng thành tín (x. 1Cr 1,9) sẽ không bỏ rơi chúng ta. Chúng ta chỉ có thể kêu cầu Ngài trong sự khốn cùng của chúng ta, và Ngài sẽ giải thoát chúng ta từ trong chính bản thân mình. Khi nhìn thấy nơi chúng ta thiện chí và ước muốn thực hiện những thay đổi thực sự để đặt Thiên Chúa lên trên tất cả, thì Ngài sẽ khôi phục niềm vui thời trẻ của chúng ta (x. Tv 43,4).
Với sự phù giúp của Thánh Cả Giuse, Đấng bảo trợ cho đời sống nội tâm, thì ân sủng sẽ thúc đẩy chúng ta ngày càng khát khao Chúa hơn, và đời sống nội tâm của chúng ta một lần nữa có thể thăng hoa, đem đến niềm vui cho chúng ta và vinh quang cho Thiên Chúa.
- Khiết tịnh
“Do bởi việc kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria, thánh Giuse đã từ bỏ phẩm giá của một người cha ruột thịt, một phẩm giá đáng quý trọng theo truyền thống Israel; đồng thời ngài tự nguyện sống trinh khiết trọn đời để có thể thuộc trọn về Thiên Chúa. Gẫm suy những điều này, chúng ta sẽ thấy đó là cả một đời khổ hạnh và khiết tịnh nơi con người Thánh Giuse.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Sự khiết tịnh được thánh hiến cho Nước Chúa là một sự tuân phục liên lỉ. Nó thiêu đốt chúng ta hoàn toàn bởi vì nó là một hành động tự dâng hiến có liên quan đến ước muốn sâu thẳm nhất của con người chúng ta, đó là muốn được yêu thương và trân trọng. Chỉ khi chúng ta thực sự biết mình được Thiên Chúa yêu thương và trân trọng sâu xa, thì chúng ta mới có thể thật sự tự do đặt tất cả các món quà tự nhiên và siêu nhiên của mình trên bàn thờ của lễ, cùng với Đức lang quân của chúng ta, trong một của lễ kết hợp với sự dâng hiến của chính Người.
- Sự thanh khiết trong Tâm trí, Cơ thể và Linh hồn
Để luôn trong sạch và hết lòng dâng hiến thể xác, tâm trí và linh hồn của chúng ta thì không phải lúc nào cũng dễ dàng, nhưng đó là một cuộc chiến đấu cao đẹp, trong đó Thánh Giuse có thể trợ giúp chúng ta bằng sự cầu bầu và bảo vệ đầy quyền năng của ngài.
“Dù là con cháu của hoàng tộc, ngài làm việc hàng ngày để kiếm sống trong xưởng thủ công – Chúa Giêsu là tất cả tài sản của ngài. Hãy chiêm ngắm cuộc sống từ bỏ bản thân và nghèo khó của ngài”. (Thánh Joseph Sebastian Pelczar)
Thánh Giuse có thể dạy chúng ta giá trị của công việc và giúp chúng ta giữ nó ở mức độ phù hợp với đời sống tu trì của chúng ta. Giá trị của chúng ta không nằm ở năng suất hay sự công nhận của người khác. Những tước hiệu của chúng ta chẳng có nghĩa lý gì nếu chúng không giúp chúng ta trở thành đầy tớ của mọi người. Thánh Giuse – với tước hiệu “người thợ mộc” – là một mẫu gương cho chúng ta về sự kết hợp giữa cầu nguyện và làm việc nặng nhọc, ngài luôn làm những công việc nặng nhọc này với ý ngay lành và trong sự hiệp thông với Chúa.
Thánh Giuse biết những thiếu thốn và cơ cực của một người lao động; còn chúng ta là những tu sĩ, thành thật mà nói, chúng ta thực sự sống một cuộc sống đặc quyền – mọi nhu cầu của chúng ta đều được đáp ứng. Sự nghèo khó và lao động của Thánh Giuse kêu gọi chúng ta nhìn sâu hơn vào tình trạng thực sự của tinh thần từ bỏ của chúng ta. Có biết bao đòi hỏi và quyến luyến làm phức tạp cuộc sống và làm ảnh hưởng đến lý tưởng của chúng ta! Chúng ta thường bất mãn với những điều như nhược điểm bản thân, sự bổ nhiệm, bạn đồng hành, sự xuống cấp và những đau khổ vốn là những điều Chúa ban cho chúng ta. Tinh thần nghèo khó theo tinh thần của Thánh Giuse có thể giải thoát chúng ta khỏi chính mình, khỏi thói ích kỷ, sự bận tâm cho bản thân và tính lười biếng.
- Tính khiêm tốn
“Với tư cách là nghĩa phụ của Chúa Cứu Thế và là chứng nhân cho các huyền nhiệm cao vời của Thiên Chúa, thánh Giuse hoàn toàn có thể biến đổi cả thế giới, thế nhưng ngài đã chọn sống khép mình nơi một xóm nhỏ và tận tâm tận lực chăm lo cho Chúa Giêsu. Đó là một tấm gương mẫu mực cho đời sống khiêm hạ và cầu nguyện.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Là những người sống đời thánh hiến, sự vĩ đại của chúng ta chủ yếu nằm ở khả năng để chúng ta luôn được ẩn giấu, vì mọi lời ngợi khen chỉ đáng thuộc về riêng Thiên Chúa. Thứ thuộc về chúng ta là lời kêu gọi rõ ràng “làm điều tốt và biến mất” (tính cách của chị Genevieve Hennet De Goutel). Khiêm tốn là trạng thái mãn nguyện ở lại đằng sau, để công lao thuộc về Thiên Chúa và những người khác; người khiêm tốn biết giá trị cao quý của sự khiêm tốn, và điều này khiến họ có thể buông bỏ những thành công; không nắm giữ, thèm thuồng, hay muốn tỏa sáng.
Tránh tìm kiếm danh lợi cho bản thân để sống khiêm nhường có nghĩa là chúng ta đặt “tất cả những gì chúng ta có” và “tất cả những gì chúng ta là” dưới chân Chúa Giêsu, để tôn trọng quyền thống trị của Ngài. Hoa trái của sự khiêm tốn đó là tự do.
- Nghịch cảnh và Đau khổ
“Thánh Giuse còn là một người yêu mến Thiên Chúa hết tình. Dù chịu biết bao đau khổ thử thách, thế nhưng thánh nhân vẫn đón nhận với một nghị lực can trường. Quả thật, trọn cuộc đời ngài đã dành hết cho tình yêu khổ giá và lòng vâng phục Thánh ý Thiên Chúa. Bạn có nhận thấy nơi mình những nhân đức tương tự?” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Nghịch cảnh là một phần không thể thiếu của đời sống người Kitô hữu, vì ai không vác thập giá hằng ngày mà theo Chúa Kitô thì không xứng đáng với Người (x. Mt 10,38). Thập giá có thể làm cho chúng ta tốt hơn hoặc nó có thể làm cho chúng ta cay đắng. Tình yêu đối với thập giá không phải xuất phát từ sự căm ghét bản thân khiến mình chìm trong đau khổ, mà là sự tin tưởng đầy yêu thương nói rằng, “vâng, điều này được cho phép bởi một Thiên Chúa yêu thương, Đấng không để tôi chịu đau khổ một mình.” Nó có nghĩa là nhìn thấy những thập giá do người khác gây ra dưới ánh sáng siêu nhiên, biết rằng Thiên Chúa đã cho phép đau khổ xảy ra bởi tay người khác, để từ đau khổ đó điều tốt lành hơn có thể xảy đến.
Những gian nan thử thách được phép xảy ra để lấp đầy nơi thân xác chúng ta những gì còn thiếu trong những đau khổ của Chúa Kitô (x. Cl 1,24) và những gì còn thiếu về cơ bản là phần đóng góp của chúng ta trong những đau khổ vì Giáo hội.
- Sống trong Đức tin
“Nếu bạn muốn hiểu biết về đức tin của Thánh Giuse, hãy nhìn vào máng cỏ Bêlem mà chiêm ngắm thánh nhân thờ phượng và tôn kính Ngôi Lời Nhập Thể – Đấng là Vua và là Thiên Chúa của ngài.” – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Thánh Giuse là người công chính sống bằng đức tin (x. Rm 1,17). Ngài vẫn kiên định với niềm tin vững chắc trong những thử thách cho đến khi Thiên Chúa báo mộng rõ ràng cho ngài để kết hôn với Đức Trinh Nữ Maria. Thánh Giuse tràn đầy niềm tin vào thực tại của Ngôi Lời nhập thể, Đấng mà ngài đã hết lòng tôn thờ và phục vụ. Với sự tin tưởng, ngài đã vượt qua sự bắt bớ của Hêrôđê gian ác, ngài biết rằng Thiên Chúa sẽ đi trước và dẫn ngài đi dù ngài không biết mình đi đâu.
Hơn nữa, Thánh Giuse đã đặt tất cả niềm hy vọng vào Thiên Chúa khi Chúa Giêsu bị lạc mất trong ba ngày. Trong đời sống thánh hiến, đức tin của chúng ta, giống như Thánh Giuse, phải thực tế và hoạt động. Chúng ta phải được thấm nhuần với một đức tin sống động, nếu không chúng ta sẽ không thể chịu đựng được sự cám dỗ nuông chiều bản thân. Khi nhìn mọi việc theo con mắt tự nhiên, chúng ta sẽ bắt đầu mưu cầu lợi ích cho riêng mình, và đây thực sự là một tai họa cho linh hồn được thánh hiến.
- Làm mọi việc cho Chúa Giêsu và Mẹ Maria
“Nếu bạn muốn biết thánh Giuse đã yêu Chúa Giêsu và Đức Maria như thế nào, hãy nhìn xem cách thánh nhân đã dành trọn từng giây phút trong đời để chăm lo cho các ngài”. – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Đối với Thánh Giuse, mọi việc làm đều là vì Chúa Giêsu và Mẹ Maria. Thánh Giuse đã dành trọn bản thân mình vì yêu các ngài và vì lợi ích của các ngài, không giữ gì cho riêng mình. Như một người sống đời thánh hiến, Thánh Giuse là mẫu gương của tôi về tình yêu thương rộng lớn và sự phục vụ vì lợi ích của Tin Mừng. Thánh Giuse có thể nói cùng với Thánh Inhaxiô thành Loyola:
“Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa dạy con biết sống quảng đại. Biết phụng sự Chúa như Chúa đáng được phụng sự. Biết cho đi mà không tính toán. Biết chiến đấu không ngại thương tích. Biết làm việc không tìm nghỉ ngơi. Biết hiến thân mà không mong chờ phần thưởng nào hơn là được biết con đang thi hành ý Chúa.”
- Sự vâng phục
Thánh Joseph Sebastian Pelczar chỉ ra sự vâng phục mau mắn này của Thánh Giuse khi ngài viết:
“Nếu bạn muốn học hỏi lòng vâng phục của thánh Giuse, hãy chiêm ngắm việc thánh nhân trỗi dậy giữa đêm trường khi nghe tiếng gọi của sứ thần, đồng thời chẳng màng đến đói rét, cơ cực mà đưa Hài Nhi và Đức Maria sang Ai Cập, nơi mà thánh nhân tiếp tục sống những ngày gian khổ cho đến khi có mệnh lệnh tiếp theo từ Thiên Chúa. Liệu rằng bạn có đang mang trong mình những nhân đức giống như thế?”
Tác giả Thánh vịnh nói: Niềm vui của con là làm theo ý muốn của Ngài, Lạy Chúa (x. Tv 40,9), và đối với người sống đời thánh hiến, ý muốn này được bày tỏ qua các bề trên, các nguyên tắc sống, lịch trình ngày sống và sự mở ra cho những kinh nghiệm hàng ngày. Người sống đời thánh hiến không ở trong lòng thương xót của người khác, nhưng ở trong bàn tay của Thiên Chúa, và thánh ý đầy yêu thương của Ngài. Là một người sống đời thánh hiến, chúng ta có thể cố gắng tìm ra con đường riêng của mình thông qua vô số phương tiện, nhưng sẽ không bao giờ biết được chúng ta có thực sự làm theo thánh ý của Thiên Chúa hay không, trừ khi chúng ta có thái độ chấp nhận cách thánh thiện và sự cởi mở để vâng theo thánh ý đó, thậm chí là mau mắn như Thánh Giuse đã làm.
- Thánh Giuse, Mẫu gương trong cuộc đời của chúng ta
Thánh Joseph Sebastian Pelczar đã đưa ra một kết luận tuyệt vời cho những ý tưởng này mà theo đó, Thánh Cả Giuse trở thành hình mẫu của chúng ta trong cuộc sống:
“Dù rằng Thiên Chúa yêu cầu nhiều điều nơi thánh Giuse, nhưng Người cũng rất rộng tay ban thưởng và hết mực tán dương thánh nhân.
Thiên Chúa đã đặt để thánh Giuse làm bạn trăm năm, người đồng hành và bảo hộ cho Mẹ Thiên Chúa do bởi lòng trong sạch của thánh nhân.
Cũng thế, dẫu cho phải một đời hy sinh, từ bỏ nhiều thứ, thế nhưng thánh Giuse đã được Thiên Chúa thương ban một niềm an ủi dịu dàng. Nghĩa là ngài có thể chiêm ngắm Chúa Cứu Thế bằng đôi mắt và bồng ẵm Người trên đôi cánh tay của mình.
Đồng thời, bởi lòng vâng phục, thánh Giuse được nâng lên làm người giám hộ và nghĩa phụ của Thánh Tử Giêsu, một phẩm giá cao vời khôn tả.
Cuối cùng, vào những thời khắc cuối cùng, sau một đời sống lành thánh và hết lòng thương yêu chăm sóc cho gia đình, thánh Giuse đã được phú ban cho một đặc ân cao vời là được yên nghỉ trong vòng tay của Chúa Giêsu và Đức Maria.
Chúng ta có thể thấy Thiên Chúa yêu cầu nhiều điều từ bạn, thế nhưng người sẽ luôn quảng đại ra tay bệnh vực và giúp đỡ bạn trên đường đời. Ngài sẽ tôn vinh bạn, nếu như bạn noi theo các đức tính của Thánh Giuse. Bạn có thật sự mong muốn điều này không?”
- Hãy để Đức Kitô sống trong bạn
Thánh Joseph Sebastian Pelczar cũng cho biết thêm,
“Hãy nhớ lại lời của Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Galát: “Tôi sống, nhưng không còn phải là tôi, mà là Đức Kitô sống trong tôi”(Gl 2:20) và gẫm suy về bổn phận của bạn là phải sống trong, sống theo và sống cho Chúa Giêsu. Đó là điều duy nhất Thiên Chúa mong muốn nơi chúng ta và để chúng ta đạt được điều đó, Ngài thông ban muôn ơn lành cho chúng ta”. – Thánh Joseph Sebastian Pelczar
Mọi linh hồn, đặc biệt là linh hồn thánh hiến, được mời gọi trở thành một Chúa Giêsu khác trong thế giới này, qua việc chiêm niệm và cầu nguyện, hiến thân và đền tội, sống theo các lời khuyên Phúc âm và phục vụ tha nhân. Đó là lời kêu gọi bỏ mình để chỉ sống cho Thiên Chúa, một lý tưởng không thể sống mà không có ơn thánh và lời cầu nguyện.
Vì vậy, là những người sống đời thánh hiến, chúng ta phải học nơi Thánh Giuse những nẻo đường của sự thánh thiện, thinh lặng và hồi tâm, ẩn mình và cầu nguyện, làm việc chăm chỉ và quảng đại hy sinh. Ngài là người đầu tiên sống trong sự kết hợp với Chúa Giêsu và Mẹ Maria, chắc chắn sẽ không từ chối trợ giúp chúng ta qua việc hướng dẫn thiêng liêng và sự chuyển cầu đầy quyền năng của Ngài cho mọi ân sủng mà chúng ta cần. Do đó, chúng ta hãy mau mắn và “Hãy đến cùng Giuse!” (x. St 41,55).
2021
Đức Giê-su Ki-tô – Đường vâng phục
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (22)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 10 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG VÂNG PHỤC
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 9 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tha Thứ Tội Lỗi. Tháng 10 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Vâng Phục. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng vì Nguyên Tổ bất tuân phục, con người trở thành nô lệ tội lỗi và sự chết. Nhờ Đức Giê-su vâng phục, con người được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ đó. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su luôn vâng phục Đức Chúa Cha, vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập giá. Đặc biệt, Người dạy các môn đệ luôn biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để minh chứng cho tình yêu của Người giữa dòng đời.
Tiếng Do-thái cổ không có động từ ‘vâng phục’ hay ‘vâng lời’ như trong các ngôn ngữ hiện đại. Động từ ‘שמע’ (shama) của Do-thái tương đương với ‘vâng phục’ trong tiếng Việt hay ‘obey’ trong tiếng Anh. Động từ ‘שמע’ có các nghĩa chính yếu như nghe (St 27,6; Lv 26,14; Is 1,2); lắng nghe (St 27,5; 2 Sm 11,26; Ed 3,7; Tv 132,6); lắng nghe và đón nhận (Is 46,3); nghe đồng nghĩa với hiểu (St 11,7; 1 V 3,6); vâng lời (St 22,18; Xh 24,7; 1 Sm 15,22; 2 V 14,11). Động từ tương đương với ‘שמע’ trong tiếng Hy-lạp là ‘ὑπακούω’/hupakouo (obey), danh từ là ‘ὑπακοή’/hupakoe (obedience) và tính từ là ‘ὑπήκοος’/hupḗkoos (obedient). ‘Vâng phục’ có nghĩa là ‘nghe’ hay ‘lắng nghe’ lời của người có thẩm quyền, người bề trên, người quan trọng trong các hình thái xã hội loài người. Đặc biệt, đối với dân Do-thái, lắng nghe, tin tưởng và thực thi lời của Thiên Chúa cách tự nguyện là trung tâm của đời sống họ. Bởi vì, những gì thuộc thánh ý Thiên Chúa đều chân thực, lành thánh và sinh hoa trái dồi dào cho mọi người. Trong Kinh Thánh, vâng phục được diễn tả dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như vâng phục Đức Chúa (Đnl 28,1), vâng phục lề luật của Thiên Chúa (2 Mcb 7,30), vâng phục sự thật (Gl 5,7), vâng phục Tin Mừng (Rm 1,5), vâng phục đạo lý (Rm 6,17), vâng phục Đức Ki-tô (2 Cr 10,5), vâng phục đức tin (Ep 2,8-10), vâng phục quyền bính dân sự (Rm 13,1-7), vâng phục trong gia đình (Ep 5,21-33).
Chủ đề vâng phục được trình bày ngay từ buổi đầu của gia đình nhân loại, gắn liền với giao ước giữa Thiên Chúa và Nguyên Tổ (A-đam và E-và), được diễn tả qua ngôn ngữ biểu tượng: A-đam và E-và được ăn mọi trái cây trong vườn, ngoại trừ cây giữa vườn. Tuy nhiên, A-đam và E-và đã ‘nghe lời con rắn’, đã sa chước cám dỗ. Như vậy, Tội Nguyên Tổ là tội bất tuân phục, tội không nghe lời của Thiên Chúa (St 3,1-7). Quả thực, A-đam và E-và đã được Thiên Chúa phú ban những điều kiện cần thiết hầu có thể sống xứng đáng với phẩm giá của mình, nhưng họ đã bất tuân phục thánh ý Người. Vì A-đam và E-và, tội lỗi xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết và sự chết lan tràn đến mọi người (Rm 5,12). Dưới nhãn quan Kinh Thánh Cựu Ước, khi con người bất tuân phục Thiên Chúa cũng là khi con người sống xa tình yêu của Người và hậu quả là con người trở thành nô lệ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo.
Chương trình Thiên Chúa đối với con người không kết thúc với việc bất tùng phục của Nguyên Tổ và hậu quả của tội này. Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với con người trong mọi biến cố của lịch sử. Đặc biệt, Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham, để từ đây, Người diễn tả chương trình cứu độ của Người đối với toàn thể nhân loại. Áp-ra-ham ban đầu có tên là Áp-ram, Thiên Chúa phán với ông như sau: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Quả thực, kêu gọi một người từ bỏ xứ sở quen thuộc của mình để đến nơi khác luôn là việc rất khó khăn. Tuy nhiên, Áp-ra-ham hằng vâng phục Thiên Chúa và diễn tả tinh thần vâng phục trong mọi hoàn cảnh cuộc sống của mình, ngay cả việc sẵn sàng hiến tế đứa con trai yêu dấu của mình cho Thiên Chúa (St 22,1-19). Áp-ra-ham trở thành mẫu gương vâng phục cho các tín hữu Do-thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo cũng như những ai thành tâm thiện chí trong gia đình nhân loại.
Hành trình của dân Do-thái bắt đầu với Áp-ra-ham trong dòng lịch sử cũng là hành trình diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa và sự bất tuân phục của dân này. Chẳng hạn, trên đường về với Đất Hứa, dân Do-thái đã lắm phen phản nghịch thánh ý Thiên Chúa. Tương tự như thế, thời các vua, không chỉ dân chúng bất tuân phục mà những người lãnh đạo dân cũng vậy. Chẳng hạn, vì sự bất tuân của vua Sa-un đối với Đức Chúa, Sa-mu-en đã nói với vua: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15,22). Thời các ngôn sứ, dân Do-thái vẫn chứng nào tật ấy với não trạng bất tuân phục. Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a minh chứng điều đó: “Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc. Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến” (Gr 7,23-24). Sự vâng phục, lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người.
Tân Ước cho chúng ta biết rằng với sự vâng phục và cộng tác của Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su đã ‘trở nên người phàm’ của gia đình nhân loại. Trong hành trình trần thế, Người hằng vâng phục cha mẹ Người. Chẳng hạn, thánh Lu-ca trình thuật rằng sau khi tìm được Đức Giê-su ở đền thờ Giê-ru-sa-lem, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của gia đình Na-da-rét bởi vì trong gia đình này ‘Trời ở với người’, ‘Đấng Sáng Tạo chung nhà với thụ tạo’, ‘Thiên Chúa vâng phục con người’. Chúng ta biết rằng con người vâng phục Thiên Chúa là chuyện thường tình, phải lẽ. Tuy nhiên ở đây, Đức Giê-su là Thiên Chúa lại vâng phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Quả thực, điều này vượt quá tâm thức tôn giáo của các dân tộc qua muôn thế hệ.
Trong biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa, khi Người vừa lên khỏi nước thì các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Sau này, trong biến cố Đức Giê-su Hiển Dung cũng có tiếng từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5). Khởi đầu sứ mệnh công khai, Đức Giê-su kêu gọi mọi người diễn tả tâm tình vâng phục bằng việc sám hối và tin vào Tin Mừng mà Người loan báo (Mc 1,14-15). Như vậy, vâng phục trở thành lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giê-su. Đây không phải là lời kêu gọi chung chung giữa những lời kêu gọi khác mà là lời kêu gọi chính yếu trong sứ mệnh cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện.
Trong bài giảng về Giáo Hội là Nước Thiên Chúa ở trần gian, thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su ai là người lớn nhất trong Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,3-4). Nói đến trẻ em là nói đến tính đơn sơ, vâng phục, chẳng hạn như vâng phục cha mẹ hay vâng phục những người lớn tuổi hơn mình. Điều Đức Giê-su muốn nhấn mạnh ở đây là những ai muốn theo Người thì lắng nghe và thực thi lời Người truyền dạy với tâm tình đơn sơ, phó thác. Quả thực, khi con người không biết lắng nghe, không biết cúi đầu, không biết nhìn nhận những giới hạn của bản thân mình thì khó có thể làm môn đệ Đức Giê-su được. Chúng ta biết rằng, trong đời sống xã hội, trẻ em sẽ không thể hòa nhập cộng đồng cách đầy đủ nếu bỏ ngoài tai những chỉ dạy của cha mẹ hay những người hữu trách. Tương tự như vậy, trong đời sống tâm linh, các môn đệ Đức Giê-su sẽ không thể trưởng thành khi bỏ qua nhân đức vâng phục, hay không quan tâm nhân đức này cách phù hợp.
Thánh Mác-cô trình thuật rằng khi Đức Giê-su đang nói chuyện với đám đông thì có người báo tin Mẹ của Người là Đức Ma-ri-a và những người thân muốn gặp Người. Đức Giê-su đáp: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,33-35). Đức Giê-su không nói rằng Đức Ma-ri-a không phải là Mẹ của Người hay những người đang đứng ngoài kia không phải là thân nhân của Người. Điều Người muốn diễn tả là gia đình Người không chỉ bao gồm những ai cùng huyết tộc gần gũi mà là bất cứ ai lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. ‘Lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa’ là diễn nghĩa của ‘vâng phục’. Lời của Đức Giê-su cho thấy sứ mệnh của Người nhằm thiết lập Gia Đình Thiên Chúa trên trần gian để những ai vâng phục, gắn bó với Gia Đình này thì được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
Khi Đức Giê-su đánh đuổi những người mua bán trong đền thờ, các thượng tế và kỳ mục thách thức thẩm quyền của Người: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt 21,23). Đức Giê-su kể cho họ dụ ngôn rằng một người kia có hai con trai, ông đến nói với đứa thứ nhất hãy đi làm vườn nho. Ban đầu nó không đi nhưng sau đó hối hận và đi. Ông đến gặp đứa thứ hai và nó đồng ý đi, nhưng cuối cùng lại không đi. Đức Giê-su hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21,31). Họ đã trả lời: Người thứ nhất. Đức Giê-su liền nói với họ rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước họ. Người dùng dụ ngôn này để cho các thượng tế và kỳ lão biết những người tội lỗi vâng phục, hối cải thì hơn những người cho mình là công chính không chịu hối cải ăn năn. Trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi, Người nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như vậy, vâng phục đồng nghĩa với thực thi thánh ý Thiên Chúa là điều kiện cần thiết của tất cả những ai thuộc về Nước Thiên Chúa.
Vâng phục Đức Chúa Cha là tâm tình căn bản của Đức Giê-su trong hành trình dương thế. Chẳng hạn, sau cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, các môn đệ mời Đức Giê-su dùng bữa. Người nói với họ rằng: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,32-34). Khi các môn đệ xin Đức Giê-su dạy họ cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). Lương thực ở đây không chỉ là lương thực cho đời sống thể xác mà còn cho đời sống tâm linh nữa, nghĩa là lương thực theo thánh ý Thiên Chúa. Sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn và đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ, tại hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su nói với dân Do-thái: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). Đức Giê-su diễn tả sự vâng phục trong yêu thương và căn dặn các môn đệ phải thực thi như vậy: “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31); “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
Là con người, Đức Giê-su cũng đương đầu với nhiều cơn cám dỗ. Người không chỉ bị cám dỗ trong thời gian ở sa mạc bốn mươi đêm ngày mà còn nhiều dịp khác nữa. Tuy nhiên, Đức Giê-su chưa bao giờ sa chước cám dỗ. Tại sao vậy? Thưa, tại vì Người luôn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha. Chẳng hạn, Thánh Mát-thêu trình thuật: “Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. Đức Giê-su liền nói: Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,8-10). Bái lạy hay cúi đầu diễn tả sự vâng phục bằng cử chỉ. Đức Giê-su đã không bái lạy, không cúi đầu trước ma quỷ. Câu trả lời của Người cho chúng ta biết cần phải vâng phục ai trong hành trình trần thế này. Đức Giê-su bị cám dỗ thể hiện quyền năng tại quê hương Người là Na-da-rét, thể hiện quyền năng trước những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, thể hiện quyền năng trước Hê-rô-đê hay Phi-la-tô. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26,42). Khi Đức Giê-su bị treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư, kỳ mục nói: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,42-43). Đức Giê-su đã ‘không vâng phục’, không thể hiện quyền năng đối với bất cứ ai thách thức Người.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng từ thuở đời đời, Đức Giê-su là ‘Con Đức Chúa Cha’, do đó, Người hằng vâng phục Đức Chúa Cha. Trong chương trình cứu độ nhân loại, Đức Giê-su vâng phục Đức Chúa Cha để nhập thể, sống thân phận con người, đồng lao cộng khổ với tất cả mọi người, chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá. Như vậy, thập giá là đỉnh cao diễn tả sự vâng phục của Người hầu đền bù tội bất tuân phục của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Trên thập giá, Đức Giê-su cầu xin cho ý của Đức Chúa Cha được thực hiện. Đây là sự vâng phục cao quý nhất và câu nói cuối cùng của Đức Giê-su trước khi tắt thở (trao ban Thần Khí) là câu nói diễn tả sự vâng phục sâu thẳm: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,46). Qua Đường Vâng Phục, Đức Giê-su đã đánh bại các hình thức sự dữ cũng như kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết, hầu ban ơn cứu độ và giải thoát tất cả mọi người.
Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không chỉ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Người còn diễn tả thẩm quyền của Người trên thế giới thụ tạo nữa. Chẳng hạn, sau khi hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé, các môn đệ xuống thuyền đi về Ca-phác-na-um. Khi thuyền rời bến khoảng năm hoặc sáu cây số, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (Ga 6,16-21). Theo mặc khải Kinh Thánh, quy luật tự nhiên được Thiên Chúa thiết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên. Điều này giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Chủ của thế giới thụ tạo, của quy luật tự nhiên: Chủ có thẩm quyền trên quy luật tự nhiên cũng như muôn vật muôn loài. Chúng ta cần quan tâm hai điểm quan trọng liên quan đến việc Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên (chẳng hạn như đi trên mặt nước hay làm cho sóng yên biển lặng): (1) Đức Giê-su không làm cho quy luật tự nhiên ‘xuống cấp’ và (2) Người biến đổi quy luật tự nhiên nhằm gia tăng những gì lành thánh, tốt đẹp cho con người.
Nhờ sự vâng phục Đức Chúa Cha và trở nên người phàm, Đức Giê-su giống con cháu A-đam và E-và trong mọi sự, nghĩa là Người cũng bị giới hạn bởi không gian, thời gian cũng như lệ thuộc những gì trong đó. Người bị cám dỗ nhưng không sa chước cám dỗ, nghĩa là không phạm tội, bởi vì Người luôn hướng về Đức Chúa Cha và vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha trong mọi sự. Thánh Phao-lô viết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Khi so sánh Đức Giê-su với A-đam, thánh nhân viết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,18-19). Thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự đối nghịch giữa A-đam cũ bất tuân phục và A-đam Mới là Đức Giê-su luôn vâng phục.
Bởi vâng phục Đức Chúa Cha, Đức Giê-su đã đi ngược lại con đường của A-đam. Đường của A-đam là đường bất tuân, đường dẫn tới tội lỗi và sự chết; đường của Đức Giê-su là Đường Vâng Phục, đường dẫn tới ân sủng và sự sống. Con người vừa mang hình ảnh A-đam vừa mang hình ảnh Đức Giê-su, nghĩa là vừa mang hình ảnh của người bất tuân phục vừa mang hình ảnh của Đấng Vâng Phục; vừa mang hình ảnh của người phải chết vừa mang hình ảnh của Đấng Hằng Sống; vừa mang hình ảnh của người muốn định đoạt số phận mình vừa mang hình ảnh của Đấng luôn phó thác mọi sự trong tay Đức Chúa Cha. Nhờ Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục, con người được giải thoát khỏi Tội Nguyên Tổ và những hậu quả của Tội này, đồng thời, được Đức Giê-su hướng dẫn về với cõi phúc đích thực. Do vậy, mọi người được mời gọi luôn hướng về Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục để kín múc từ Người nguồn sinh lực cho cuộc sống hiện tại và tương lai vĩnh cửu.
Kinh nghiệm về sự gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh giúp thánh Phao-lô minh định rõ ràng và khúc chiết về ‘nguồn gốc’ và ‘sự vâng phục’ của Người trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Điều đáng để chúng ta quan tâm là trong các thư của ngài, thánh Phao-lô thường diễn tả việc Thiên Chúa gửi Con của Người xuống trần gian, nhưng ở đây thánh Phao-lô nhấn mạnh sự tự do dâng hiến của Đức Giê-su: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Chúng ta ngạc nhiên trước cách diễn tả của thánh Phao-lô: Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (ἐν μορφῇ Θεοῦ/ in very nature God), nhưng Người trút bỏ vinh quang, hay ‘làm cho mình trở nên trống rỗng’ (ἑαυτὸν ἐκένωσεν/ emptied himself). Chúng ta nhận thức ‘hai tình trạng nên một’ cách huyền nhiệm nơi Đức Giê-su: (1) là Thiên Chúa và (2) là con người; chúng ta cũng nhận thức được ‘hai chuyển động nối kết’ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta: (1) Thiên Chúa trở thành con người và (2) Người không phạm tội. Hơn nữa, theo thánh Phao-lô, Đức Giê-su không chỉ vâng phục Thiên Chúa và trở nên người phàm như nhiều người bình thường khác, Người còn trở thành nô lệ (δούλος), nghĩa là trở thành thành phần của những người rốt hết trong xã hội loài người. Đặc biệt, Đức Giê-su còn vâng phục chịu chết trên cây thập giá.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái giúp chúng ta hiểu thêm về sự vâng phục của Đức Giê-su và hiệu quả của sự vâng phục này như sau: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,8-10). Phẩm vị của Đức Giê-su thật cao cả, Người là Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Tuy nhiên, trong thân phận con người, Đức Giê-su đã vâng phục để học hỏi hầu có thể trưởng thành như bao người khác. Vị Thiên Chúa ‘phải học cho biết thế nào là vâng phục’ quả là khó hiểu đối với chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta nhận thức rằng tình yêu của Người đối với chúng ta là vô ngần vô hạn thì chúng ta có thể lãnh hội được (Rm 5,8-9; Ep 2,4-5; 1 Ga 4,10). Là con người, Đức Giê-su cần học để được lớn lên như chúng ta, để cảm nghiệm được đau khổ, cảm nghiệm được tình trạng bi đát của con người dưới mãnh lực của sự dữ trong môi trường thế giới thụ tạo. Người học vâng phục bằng ngôn ngữ và kinh nghiệm của con người để dạy con người cách thức vâng phục xứng hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người vâng phục đến chết để có được cảm nghiệm đau khổ tột cùng của con người và đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Nơi Đức Giê-su, chúng ta thấy rõ hệ quả của vâng phục: Không chỉ bản thân được tôn vinh mà còn đem lại ơn lành cho người khác.
Nhìn lại lịch sử Mặc khải Ki-tô Giáo, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa diễn tả quyền năng của Người theo nhiều cách thức khác nhau và Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố có tính quyết định. Trong Biến Cố này, quyền năng lớn lao nhất mà Đức Giê-su thực hiện không phải là thực thi các điềm thiêng dấu lạ mà là quyền năng vâng phục. Quyền năng đó giúp con người thoát khỏi vũng bùn kiêu căng, tội lỗi và sự chết. Quyền năng đó đánh bại sự tự cao tự đại của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Nhờ quyền năng của Đức Giê-su, con người và tất cả vạn vật được biến đổi, được tiến triển và thành toàn cách mỹ mãn theo ý định từ muôn thuở của Thiên Chúa. Như vậy, quyền năng vâng phục mãi mãi là quyền năng con người cần phải suy gẫm, học hỏi, khám phá và thực thi trong đời sống mình.
Dưới nhãn quan của một số người, vâng phục là tâm trạng của kẻ yếu, của người không có năng lực hay thẩm quyền gì đáng kể giữa bao người khác. Trong thực tế, người vâng phục không phải là người yếu thế, nhưng là người ý thức về những giới hạn của mình. Người vâng phục ý thức sự cần thiết để kín múc năng lượng từ người khác hầu có thể điều chỉnh tư cách, đời sống và sứ mệnh của bản thân trong khi không đánh mất những gì chân thật và lành thánh của mình. Người vâng phục xác tín rằng con người không thể tự mình biến đổi cách xứng hợp. Họ cần sự hướng dẫn của những người có thẩm quyền đáng tin cậy, những người thực thi thẩm quyền mà không thiên kiến, không vì lợi ích cá nhân hay hình thức vị kỷ nào đó. Như vậy, càng đề cao sự vâng phục, con người càng nhận ra tình trạng thực thụ của bản thân mình và sự cần thiết để biến đổi sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa qua các trung gian của Người.
Thông thường, theo bước chân Nguyên Tổ, con người hay quy hướng về mình, quan tâm đến những gì phát xuất từ bản thân hầu thỏa mãn ‘cái tôi’ chứ không phải vâng phục. Người vâng phục là người bị động, người đón nhận, người lĩnh hội, trong khi đó, người có thẩm quyền là người chủ động, người ra lệnh, người thẩm định. Do đó, nhân đức vâng phục khó thực thi hơn các nhân đức khác bởi vì người thực thi nhân đức này phải từ bỏ ý riêng của mình để lắng nghe, tin tưởng và làm theo ý của người khác. Trong một số trường hợp, người vâng phục nhận thức được những sai sót nhất định của người có thẩm quyền, nhưng vì ‘đức vâng phục’ nên vui lòng chấp nhận. Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, vâng phục là hiến tế rất cao quý. Chúng ta có thể nói rằng người vâng phục Thiên Chúa cách trọn hảo cũng là người tử đạo theo nghĩa rộng với tên gọi là ‘tử đạo vâng phục’. Các vị tử đạo trong lịch sử Giáo Hội có điểm chung là vâng phục Thiên Chúa theo gương Đức Giê-su, thà chịu chết hơn là làm những điều ngược lại với giáo huấn của Người.
Có những người cho rằng vâng phục và tự do như nước với lửa, mặt trăng với mặt trời, bóng tối với ánh sáng hay vâng phục là thù địch của tự do. Trong thực tế, vâng phục đích thực cũng là tự do đích thực và ngược lại. Vâng phục làm cho tự do đúng hướng và tự do làm cho vâng phục được viên mãn. Điều này có nghĩa là con người không mất tự do của mình khi vâng phục Thiên Chúa. Con người vâng phục Thiên Chúa không giống máy móc làm việc theo chỉ thị của người điều khiển. Trái lại, khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người diễn tả sự tự do của mình cách đúng đắn và đầy đủ nhất. Như vậy, ở đây không có sự xung khắc giữa tự do và vâng phục đích thực trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Xung khắc nếu có là về phía con người khi lạm dụng tự do của mình, chiều theo cạm bẫy của thế giới bóng đêm, thế giới sự dữ. Con người chỉ có thể trưởng thành thực sự khi vâng phục thánh ý Thiên Chúa và làm cho thánh ý Người được thẩm thấu và lan rộng trong mọi chiều kích của cuộc sống mình. Người ta có thể ghép tự do và vâng phục với nhau và khẳng định rằng tự do đích thực là ‘tự do vâng phục’. Điều này có nghĩa rằng người vâng phục hiểu được giá trị của những gì mình tuân giữ bởi vì những giá trị này giúp mình ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Một trong những đặc tính của người vâng phục là thinh lặng. Người vâng phục là người biết suy gẫm, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Người vâng phục là người đơn sơ, đồng thời cũng là người chú tâm nhiều hơn về sự thiêng thánh của phẩm giá con người trong cõi thinh lặng. Người vâng phục biết chấp nhận những gì Thiên Chúa gửi đến cho mình, đồng thời biết sẵn sàng chịu đựng muôn hình thức đau khổ trong cuộc sống với tâm tình hiền hòa, kiên nhẫn, phó thác. Người vâng phục biết tìm bình an giữa những gian nan khốn khó; tìm thinh lặng giữa những ồn ào náo động; tìm thánh ý Thiên Chúa giữa những cám dỗ giăng đầy; tìm sự thật giữa những gian dối bội bạc; tìm tình yêu giữa những oán thù ghen ghét. Nói cách khác, người vâng phục biết thinh lặng sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa biển đời đầy giông tố bão bùng này.
Như đã được đề cập ở trên, theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, “Đức Giê-su đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Tất cả chúng ta được mời gọi học nơi Đức Giê-su cách thức vâng phục. Chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Người, do đó, chúng ta hãy noi gương Người trong việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhiều lúc chúng ta ý thức được sự cần thiết của vâng phục, nhưng lại dị ứng với những gì giúp chúng ta thực thi điều đó. Chẳng hạn, nói đến vâng phục là nói đến hy sinh, nói đến quên mình, nói đến đau khổ, nhưng chúng ta lại dị ứng với những điều này. Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, vâng phục mà vắng bóng đau khổ không phải là hình thức vâng phục mà Đức Giê-su đã học hỏi và diễn tả trong hành trình trần thế của Người. Chúng ta chỉ có thể vâng phục thực sự khi chúng ta trải qua quá trình học hỏi từ những đau khổ, sai lầm của bản thân cũng như của người khác. Tác giả Thánh Vịnh viết: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71). Qua đau khổ, chúng ta học biết cách lắng nghe, cách cảm nhận, cách đồng hóa lời của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Quả thực, vâng phục phải là trọng tâm của đời sống con người trong hành trình trần thế này. Bởi vì, vâng phục tạo điều kiện cho chúng ta đắm mình trong mầu nhiệm của chương trình Thiên Chúa đối với con người cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Vâng phục cho phép chúng ta vượt qua những yếu đuối và tầm nhìn hạn hẹp của bản thân về các sự kiện, biến cố hay tương quan trong cuộc sống. Vâng phục giúp chúng ta rèn luyện tính kiên nhẫn cũng như tâm hồn luôn biết cởi mở và hướng về Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Gốc và Đích Đến của chúng ta cũng như muôn vật muôn loài. Vâng phục khuyến khích chúng ta biết làm chứng cho Thiên Chúa giữa những khó khăn, bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, vâng phục gia tăng niềm tin, tình yêu và hy vọng của chúng ta đối với Thiên Chúa. Vâng phục mở đường cho chúng ta vào đời sống công chính, thánh thiện giữa thế giới đầy cạm bẫy của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Vâng phục thúc đẩy chúng ta đóng góp phần mình vào việc xây dựng trật tự và hòa hợp trong gia đình cơ bản và các hình thức gia đình khác trong xã hội.
Theo một nghĩa nào đó, vâng phục chính là nhân đức của các nhân đức trong đời sống con người. Các Ki-tô hữu được mời gọi sống và thực hành nhân đức này cách trung tín nhất. Đặc biệt, những người sống đời độc thân dâng hiến cần phải quan tâm nhiều hơn đến nhân đức vâng phục. Các nhân đức khác, chẳng hạn như khiết tịnh hay nghèo khó không thể thực hiện được nếu thiếu nhân đức vâng phục. Nhân đức này thường được diễn tả qua việc lắng nghe và thực thi ý định của những người có thẩm quyền với lòng thâm tín rằng, ý của người có thẩm quyền diễn tả thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, sự vâng phục của một tu sĩ đối với bề trên của mình không theo nghĩa ‘cá nhân với cá nhân’, nhưng theo nghĩa ‘cá nhân với thẩm quyền hợp pháp’ của Giáo Hội nhằm mục đích xây dựng trật tự, hòa hợp và phát triển của cộng đoàn. Theo Công Đồng Vatican II: “Đức vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa” (Perfectae Caritatis 14) hay “Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: Hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn” (Lumen Gentium 42). Như vậy, người vâng phục là người thâm tín rằng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa khi biết phục tùng những người được Thiên Chúa chọn gọi để đồng hành và hướng dẫn mình. Vì thế, trong đời sống thánh hiến, nhân đức vâng phục được xem như ‘nhân đức cả’, bao trùm hai nhân đức còn lại là nghèo khó và khiết tịnh.
Đức vâng phục được diễn tả trong gia đình là tế bào của xã hội. Theo thánh Phao-lô, trong đời sống gia đình, người vợ cần vâng phục người chồng: “Tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên Chúa” (1 Cr 11,3). Thánh nhân cũng viết: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25). Như vậy, sự vâng phục trong gia đình không phải là sự ‘vâng phục một chiều’, mà là sự ‘vâng phục hỗ tương’ nhằm đem lại bình an, hòa thuận trong gia đình. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng trong đời sống gia đình, vợ và chồng vâng phục lẫn nhau cũng có nghĩa là yêu thương nhau. Giao ước tình yêu giữa vợ và chồng sẽ bị lung lay thậm chí tan vỡ nếu thiếu vắng nhân đức vâng phục. Thánh Phao-lô cũng đề cập đến sự vâng phục của con cái đối với cha mẹ: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Đến lượt mình, cha mẹ cần quan tâm con cái cách phù hợp và đúng đắn nhất: “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,21).
Đức vâng phục cần được diễn tả trong đời sống xã hội bởi vì mỗi người không phải là hữu thể độc lập nhưng là hữu thể tương quan với nhiều người khác. Trong bất cứ hình thức xã hội nào, tất cả mọi người đều được mời gọi vâng phục thẩm quyền chính đáng và hợp pháp, vâng phục lề luật vì lợi ích chung. Một xã hội mà các thành phần không vâng phục thẩm quyền hợp pháp hay lề luật thì xã hội đó sẽ hỗn loạn, thậm chí tan rã. Lời Thiên Chúa trong sách Khôn Ngoan đối với những người có thẩm quyền là: “Hỡi những người cai trị trần gian, hãy suy tưởng ngay lành về Đức Chúa và thành tâm kiếm tìm Người. Ai không thách thức Người, thì được Người cho gặp. Ai tin tưởng vào Người, sẽ được Người tỏ mình cho thấy” (Kn 1,1-2). Thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta” (Ep 6,6-7). Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không bao giờ xem thường thẩm quyền hay lề luật xã hội dân sự. Chẳng hạn, những người Pha-ri-sêu sai các thuộc hạ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hê-rô-đê đến hỏi Đức Giê-su: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Mt 22,17). Sau khi xem quan tiền và biết được hình ảnh và danh hiệu là của Xê-da, Đức Giê-su nói: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Dưới nhãn quan nội dung đức tin Ki-tô Giáo, trong các hình thức vâng phục lề luật, thì vâng phục lề luật Thiên Chúa phải đứng hàng đầu. Đây là hình thức ‘vâng phục tiêu chuẩn’ của các hình thức vâng phục khác (Cv 5,27-32). Thánh Phê-rô khẳng định: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Điều đáng để chúng ta quan tâm là tất cả các hình thức lề luật giúp con người phát triển toàn diện và phù hợp với phẩm giá con người trong thế giới thụ tạo đều đến từ Thiên Chúa và phản ánh tình thương của Người.
Những ai theo Đường Vâng Phục của Đức Giê-su thì được mời gọi loan báo Tin Mừng của Người. Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, sau khi các môn đệ gặp gỡ Đức Giê-su, nhất là lắng nghe và chứng kiến những việc Người làm, họ đã vâng phục theo lời mời gọi của Người, từ bỏ tất cả, để trở thành những môn đệ của Người. Chẳng hạn, thánh Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Trước mẻ cá lạ, thánh nhân sấp mặt xuống đất và nói với Người: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Đức Giê-su căn dặn thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (Lc 5,10). Sự trở lại của thánh Mát-thêu và các môn đệ khác cũng cho chúng ta thấy được sự vâng phục của các ngài đối với Thầy mình là Đức Giê-su. Như vậy, ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ trung tín của Đức Giê-su, người đó phải là chứng nhân cho Đường Vâng Phục của Người bằng chính cuộc sống mình.
Chúng ta có thể kết luận rằng vâng phục có nghĩa là lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa và Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Vâng Phục. Người đã kiện toàn thánh ý Đức Chúa Cha với tâm hồn vâng phục: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7; Tv 40,8-9). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Với Đức Giê-su, vâng phục phải là chủ đề quán xuyến tâm hồn con người. ‘Vâng phục hơn của lễ’, sứ điệp ngắn nhưng rất dồi dào ý nghĩa. Đức Giê-su đã kiện toàn sứ điệp đó bằng đời sống vâng phục, hy sinh, dâng hiến. Suy niệm về Biến Cố Đức Giê-su giữa dòng đời, chúng ta nhận thức rằng vâng phục là điều kiện tiên quyết diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Hơn nữa, vâng phục Thiên Chúa là khuôn mẫu và nền tảng vững chắc cho các hình thức vâng phục khác của con người. Chúng ta hãy thành tâm học hỏi Đường Vâng Phục của Đức Giê-su và loan báo Đường này cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy đi theo Đường Vâng Phục của Người hầu diễn tả cách tốt đẹp nhất tương quan giữa mình với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.