2021
Đức Giê-su Ki-tô – Đường vâng phục
Chương Trình Mục Vụ Giới Trẻ 2020-2022:
Mỗi tháng một hình ảnh hay tước hiệu Đức Giê-su Ki-tô (22)
Chủ đề học hỏi và suy niệm tháng 10 năm 2021
ĐỨC GIÊ-SU KI-TÔ – ĐƯỜNG VÂNG PHỤC
+ Pet. Nguyễn Văn Viên
Các bạn trẻ thân mến,
Tháng 9 vừa qua, chúng ta đã suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Tha Thứ Tội Lỗi. Tháng 10 này, chúng ta cùng nhau suy niệm chủ đề Đức Giê-su Ki-tô – Đường Vâng Phục. Mặc khải Ki-tô Giáo cho chúng ta nhận thức rằng vì Nguyên Tổ bất tuân phục, con người trở thành nô lệ tội lỗi và sự chết. Nhờ Đức Giê-su vâng phục, con người được giải thoát khỏi tình trạng nô lệ đó. Trong hành trình trần thế, Đức Giê-su luôn vâng phục Đức Chúa Cha, vâng phục cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập giá. Đặc biệt, Người dạy các môn đệ luôn biết vâng phục thánh ý Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh để minh chứng cho tình yêu của Người giữa dòng đời.
Tiếng Do-thái cổ không có động từ ‘vâng phục’ hay ‘vâng lời’ như trong các ngôn ngữ hiện đại. Động từ ‘שמע’ (shama) của Do-thái tương đương với ‘vâng phục’ trong tiếng Việt hay ‘obey’ trong tiếng Anh. Động từ ‘שמע’ có các nghĩa chính yếu như nghe (St 27,6; Lv 26,14; Is 1,2); lắng nghe (St 27,5; 2 Sm 11,26; Ed 3,7; Tv 132,6); lắng nghe và đón nhận (Is 46,3); nghe đồng nghĩa với hiểu (St 11,7; 1 V 3,6); vâng lời (St 22,18; Xh 24,7; 1 Sm 15,22; 2 V 14,11). Động từ tương đương với ‘שמע’ trong tiếng Hy-lạp là ‘ὑπακούω’/hupakouo (obey), danh từ là ‘ὑπακοή’/hupakoe (obedience) và tính từ là ‘ὑπήκοος’/hupḗkoos (obedient). ‘Vâng phục’ có nghĩa là ‘nghe’ hay ‘lắng nghe’ lời của người có thẩm quyền, người bề trên, người quan trọng trong các hình thái xã hội loài người. Đặc biệt, đối với dân Do-thái, lắng nghe, tin tưởng và thực thi lời của Thiên Chúa cách tự nguyện là trung tâm của đời sống họ. Bởi vì, những gì thuộc thánh ý Thiên Chúa đều chân thực, lành thánh và sinh hoa trái dồi dào cho mọi người. Trong Kinh Thánh, vâng phục được diễn tả dưới nhiều hình thức khác nhau, chẳng hạn như vâng phục Đức Chúa (Đnl 28,1), vâng phục lề luật của Thiên Chúa (2 Mcb 7,30), vâng phục sự thật (Gl 5,7), vâng phục Tin Mừng (Rm 1,5), vâng phục đạo lý (Rm 6,17), vâng phục Đức Ki-tô (2 Cr 10,5), vâng phục đức tin (Ep 2,8-10), vâng phục quyền bính dân sự (Rm 13,1-7), vâng phục trong gia đình (Ep 5,21-33).
Chủ đề vâng phục được trình bày ngay từ buổi đầu của gia đình nhân loại, gắn liền với giao ước giữa Thiên Chúa và Nguyên Tổ (A-đam và E-và), được diễn tả qua ngôn ngữ biểu tượng: A-đam và E-và được ăn mọi trái cây trong vườn, ngoại trừ cây giữa vườn. Tuy nhiên, A-đam và E-và đã ‘nghe lời con rắn’, đã sa chước cám dỗ. Như vậy, Tội Nguyên Tổ là tội bất tuân phục, tội không nghe lời của Thiên Chúa (St 3,1-7). Quả thực, A-đam và E-và đã được Thiên Chúa phú ban những điều kiện cần thiết hầu có thể sống xứng đáng với phẩm giá của mình, nhưng họ đã bất tuân phục thánh ý Người. Vì A-đam và E-và, tội lỗi xâm nhập trần gian và tội lỗi gây nên sự chết và sự chết lan tràn đến mọi người (Rm 5,12). Dưới nhãn quan Kinh Thánh Cựu Ước, khi con người bất tuân phục Thiên Chúa cũng là khi con người sống xa tình yêu của Người và hậu quả là con người trở thành nô lệ của các thế lực sự dữ đang hoành hành trong thế giới thụ tạo.
Chương trình Thiên Chúa đối với con người không kết thúc với việc bất tùng phục của Nguyên Tổ và hậu quả của tội này. Thiên Chúa luôn yêu thương và đồng hành với con người trong mọi biến cố của lịch sử. Đặc biệt, Thiên Chúa đã kêu gọi Áp-ra-ham, để từ đây, Người diễn tả chương trình cứu độ của Người đối với toàn thể nhân loại. Áp-ra-ham ban đầu có tên là Áp-ram, Thiên Chúa phán với ông như sau: “Hãy rời bỏ xứ sở, họ hàng và nhà cha ngươi, mà đi tới đất Ta sẽ chỉ cho ngươi. Ta sẽ làm cho ngươi thành một dân lớn, sẽ chúc phúc cho ngươi. Ta sẽ cho tên tuổi ngươi được lẫy lừng, và ngươi sẽ là một mối phúc lành” (St 12,1-2). Quả thực, kêu gọi một người từ bỏ xứ sở quen thuộc của mình để đến nơi khác luôn là việc rất khó khăn. Tuy nhiên, Áp-ra-ham hằng vâng phục Thiên Chúa và diễn tả tinh thần vâng phục trong mọi hoàn cảnh cuộc sống của mình, ngay cả việc sẵn sàng hiến tế đứa con trai yêu dấu của mình cho Thiên Chúa (St 22,1-19). Áp-ra-ham trở thành mẫu gương vâng phục cho các tín hữu Do-thái Giáo, Ki-tô Giáo và Hồi Giáo cũng như những ai thành tâm thiện chí trong gia đình nhân loại.
Hành trình của dân Do-thái bắt đầu với Áp-ra-ham trong dòng lịch sử cũng là hành trình diễn tả tình yêu thương của Thiên Chúa và sự bất tuân phục của dân này. Chẳng hạn, trên đường về với Đất Hứa, dân Do-thái đã lắm phen phản nghịch thánh ý Thiên Chúa. Tương tự như thế, thời các vua, không chỉ dân chúng bất tuân phục mà những người lãnh đạo dân cũng vậy. Chẳng hạn, vì sự bất tuân của vua Sa-un đối với Đức Chúa, Sa-mu-en đã nói với vua: “Đức Chúa có ưa thích các lễ toàn thiêu và hy lễ như ưa thích người ta vâng lời Đức Chúa không? Này, vâng phục thì tốt hơn là dâng hy lễ, lắng nghe thì tốt hơn là dâng mỡ cừu” (1 Sm 15,22). Thời các ngôn sứ, dân Do-thái vẫn chứng nào tật ấy với não trạng bất tuân phục. Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ Giê-rê-mi-a minh chứng điều đó: “Hãy nghe tiếng Ta thì Ta sẽ là Thiên Chúa các ngươi, và các ngươi sẽ là dân của Ta. Hãy bước theo mọi đường lối Ta truyền dạy, để các ngươi được hạnh phúc. Nhưng chúng chẳng nghe, chẳng để tai, cứ theo những suy tính của mình, theo tâm địa ngoan cố xấu xa; chúng đã lùi chứ không tiến” (Gr 7,23-24). Sự vâng phục, lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa trở thành hiện thực nơi Đức Giê-su trong hành trình trần thế của Người.
Tân Ước cho chúng ta biết rằng với sự vâng phục và cộng tác của Đức Ma-ri-a, Đức Giê-su đã ‘trở nên người phàm’ của gia đình nhân loại. Trong hành trình trần thế, Người hằng vâng phục cha mẹ Người. Chẳng hạn, thánh Lu-ca trình thuật rằng sau khi tìm được Đức Giê-su ở đền thờ Giê-ru-sa-lem, “Người đi xuống cùng với cha mẹ, trở về Na-da-rét và hằng vâng phục các ngài. Riêng mẹ Người thì hằng ghi nhớ tất cả những điều ấy trong lòng” (Lc 2,51). Chúng ta nhận ra điều kỳ diệu của gia đình Na-da-rét bởi vì trong gia đình này ‘Trời ở với người’, ‘Đấng Sáng Tạo chung nhà với thụ tạo’, ‘Thiên Chúa vâng phục con người’. Chúng ta biết rằng con người vâng phục Thiên Chúa là chuyện thường tình, phải lẽ. Tuy nhiên ở đây, Đức Giê-su là Thiên Chúa lại vâng phục Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se. Quả thực, điều này vượt quá tâm thức tôn giáo của các dân tộc qua muôn thế hệ.
Trong biến cố Đức Giê-su chịu phép rửa, khi Người vừa lên khỏi nước thì các tầng trời mở ra, Thần Khí Thiên Chúa ngự xuống trên Người và có tiếng từ trời phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Sau này, trong biến cố Đức Giê-su Hiển Dung cũng có tiếng từ đám mây phán: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người. Các ngươi hãy vâng nghe lời Người!” (Mt 17,5). Khởi đầu sứ mệnh công khai, Đức Giê-su kêu gọi mọi người diễn tả tâm tình vâng phục bằng việc sám hối và tin vào Tin Mừng mà Người loan báo (Mc 1,14-15). Như vậy, vâng phục trở thành lời kêu gọi đầu tiên của Đức Giê-su. Đây không phải là lời kêu gọi chung chung giữa những lời kêu gọi khác mà là lời kêu gọi chính yếu trong sứ mệnh cứu độ của Thiên Chúa được Đức Giê-su thực hiện.
Trong bài giảng về Giáo Hội là Nước Thiên Chúa ở trần gian, thánh Mát-thêu trình thuật rằng khi các môn đệ hỏi Đức Giê-su ai là người lớn nhất trong Nước Thiên Chúa, Đức Giê-su đem một em nhỏ đặt giữa các ông và nói: “Thầy bảo thật anh em: Nếu anh em không trở lại mà nên như trẻ nhỏ, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời. Vậy ai tự hạ, coi mình như em nhỏ này, người ấy sẽ là người lớn nhất Nước Trời” (Mt 18,3-4). Nói đến trẻ em là nói đến tính đơn sơ, vâng phục, chẳng hạn như vâng phục cha mẹ hay vâng phục những người lớn tuổi hơn mình. Điều Đức Giê-su muốn nhấn mạnh ở đây là những ai muốn theo Người thì lắng nghe và thực thi lời Người truyền dạy với tâm tình đơn sơ, phó thác. Quả thực, khi con người không biết lắng nghe, không biết cúi đầu, không biết nhìn nhận những giới hạn của bản thân mình thì khó có thể làm môn đệ Đức Giê-su được. Chúng ta biết rằng, trong đời sống xã hội, trẻ em sẽ không thể hòa nhập cộng đồng cách đầy đủ nếu bỏ ngoài tai những chỉ dạy của cha mẹ hay những người hữu trách. Tương tự như vậy, trong đời sống tâm linh, các môn đệ Đức Giê-su sẽ không thể trưởng thành khi bỏ qua nhân đức vâng phục, hay không quan tâm nhân đức này cách phù hợp.
Thánh Mác-cô trình thuật rằng khi Đức Giê-su đang nói chuyện với đám đông thì có người báo tin Mẹ của Người là Đức Ma-ri-a và những người thân muốn gặp Người. Đức Giê-su đáp: “Ai là mẹ tôi? Ai là anh em tôi? Rồi Người rảo mắt nhìn những kẻ ngồi chung quanh và nói: Đây là mẹ tôi, đây là anh em tôi. Ai thi hành ý muốn của Thiên Chúa, người ấy là anh em chị em tôi, là mẹ tôi” (Mc 3,33-35). Đức Giê-su không nói rằng Đức Ma-ri-a không phải là Mẹ của Người hay những người đang đứng ngoài kia không phải là thân nhân của Người. Điều Người muốn diễn tả là gia đình Người không chỉ bao gồm những ai cùng huyết tộc gần gũi mà là bất cứ ai lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa. ‘Lắng nghe và thực thi thánh ý của Thiên Chúa’ là diễn nghĩa của ‘vâng phục’. Lời của Đức Giê-su cho thấy sứ mệnh của Người nhằm thiết lập Gia Đình Thiên Chúa trên trần gian để những ai vâng phục, gắn bó với Gia Đình này thì được chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu của Gia Đình Thiên Chúa viên mãn.
Khi Đức Giê-su đánh đuổi những người mua bán trong đền thờ, các thượng tế và kỳ mục thách thức thẩm quyền của Người: “Ông lấy quyền nào mà làm các điều ấy? Ai đã cho ông quyền ấy?” (Mt 21,23). Đức Giê-su kể cho họ dụ ngôn rằng một người kia có hai con trai, ông đến nói với đứa thứ nhất hãy đi làm vườn nho. Ban đầu nó không đi nhưng sau đó hối hận và đi. Ông đến gặp đứa thứ hai và nó đồng ý đi, nhưng cuối cùng lại không đi. Đức Giê-su hỏi họ: “Trong hai người con đó, ai đã thi hành ý muốn của người cha?” (Mt 21,31). Họ đã trả lời: Người thứ nhất. Đức Giê-su liền nói với họ rằng những người thu thuế và những cô gái điếm vào Nước Thiên Chúa trước họ. Người dùng dụ ngôn này để cho các thượng tế và kỳ lão biết những người tội lỗi vâng phục, hối cải thì hơn những người cho mình là công chính không chịu hối cải ăn năn. Trong bối cảnh Bài Giảng Trên Núi, Người nói: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: Lạy Chúa! lạy Chúa! là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi” (Mt 7,21). Như vậy, vâng phục đồng nghĩa với thực thi thánh ý Thiên Chúa là điều kiện cần thiết của tất cả những ai thuộc về Nước Thiên Chúa.
Vâng phục Đức Chúa Cha là tâm tình căn bản của Đức Giê-su trong hành trình dương thế. Chẳng hạn, sau cuộc đối thoại với người phụ nữ Sa-ma-ri bên bờ giếng Gia-cóp, các môn đệ mời Đức Giê-su dùng bữa. Người nói với họ rằng: “Thầy phải dùng một thứ lương thực mà anh em không biết… Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người” (Ga 4,32-34). Khi các môn đệ xin Đức Giê-su dạy họ cách thức cầu nguyện, Người đã dạy họ Kinh Lạy Cha, trong đó có câu: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6,11). Lương thực ở đây không chỉ là lương thực cho đời sống thể xác mà còn cho đời sống tâm linh nữa, nghĩa là lương thực theo thánh ý Thiên Chúa. Sau dấu lạ hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn và đi trên mặt Biển Hồ mà đến với các môn đệ, tại hội đường Ca-phác-na-um, Đức Giê-su nói với dân Do-thái: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38). Đức Giê-su diễn tả sự vâng phục trong yêu thương và căn dặn các môn đệ phải thực thi như vậy: “Thầy yêu mến Chúa Cha và làm đúng như Chúa Cha đã truyền cho Thầy” (Ga 14,31); “Nếu anh em giữ các điều răn của Thầy, anh em sẽ ở lại trong tình thương của Thầy, như Thầy đã giữ các điều răn của Cha Thầy và ở lại trong tình thương của Người” (Ga 15,10).
Là con người, Đức Giê-su cũng đương đầu với nhiều cơn cám dỗ. Người không chỉ bị cám dỗ trong thời gian ở sa mạc bốn mươi đêm ngày mà còn nhiều dịp khác nữa. Tuy nhiên, Đức Giê-su chưa bao giờ sa chước cám dỗ. Tại sao vậy? Thưa, tại vì Người luôn vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha. Chẳng hạn, Thánh Mát-thêu trình thuật: “Quỷ lại đem Người lên một ngọn núi rất cao, và chỉ cho Người thấy tất cả các nước thế gian, và vinh hoa lợi lộc của các nước ấy, và bảo rằng: Tôi sẽ cho ông tất cả những thứ đó, nếu ông sấp mình bái lạy tôi. Đức Giê-su liền nói: Xa-tan kia, xéo đi! Vì đã có lời chép rằng: Ngươi phải bái lạy Đức Chúa là Thiên Chúa của ngươi, và phải thờ phượng một mình Người mà thôi” (Mt 4,8-10). Bái lạy hay cúi đầu diễn tả sự vâng phục bằng cử chỉ. Đức Giê-su đã không bái lạy, không cúi đầu trước ma quỷ. Câu trả lời của Người cho chúng ta biết cần phải vâng phục ai trong hành trình trần thế này. Đức Giê-su bị cám dỗ thể hiện quyền năng tại quê hương Người là Na-da-rét, thể hiện quyền năng trước những người Pha-ri-sêu và các kinh sư, thể hiện quyền năng trước Hê-rô-đê hay Phi-la-tô. Trong vườn Ghết-sê-ma-ni, Đức Giê-su cầu nguyện với Đức Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26,42). Khi Đức Giê-su bị treo trên thập giá, các thượng tế, kinh sư, kỳ mục nói: “Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là Vua Ít-ra-en! Hắn cứ xuống khỏi thập giá ngay bây giờ đi, chúng ta tin hắn liền! Hắn cậy vào Thiên Chúa, thì bây giờ Người cứu hắn đi, nếu quả thật Người thương hắn! Vì hắn đã nói: Ta là Con Thiên Chúa!” (Mt 27,42-43). Đức Giê-su đã ‘không vâng phục’, không thể hiện quyền năng đối với bất cứ ai thách thức Người.
Mặc khải Kinh Thánh cho chúng ta biết rằng từ thuở đời đời, Đức Giê-su là ‘Con Đức Chúa Cha’, do đó, Người hằng vâng phục Đức Chúa Cha. Trong chương trình cứu độ nhân loại, Đức Giê-su vâng phục Đức Chúa Cha để nhập thể, sống thân phận con người, đồng lao cộng khổ với tất cả mọi người, chịu đau khổ và chịu chết trên thập giá. Như vậy, thập giá là đỉnh cao diễn tả sự vâng phục của Người hầu đền bù tội bất tuân phục của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại. Trên thập giá, Đức Giê-su cầu xin cho ý của Đức Chúa Cha được thực hiện. Đây là sự vâng phục cao quý nhất và câu nói cuối cùng của Đức Giê-su trước khi tắt thở (trao ban Thần Khí) là câu nói diễn tả sự vâng phục sâu thẳm: “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha. Nói xong, Người tắt thở” (Lc 23,46). Qua Đường Vâng Phục, Đức Giê-su đã đánh bại các hình thức sự dữ cũng như kẻ thù cuối cùng của con người là sự chết, hầu ban ơn cứu độ và giải thoát tất cả mọi người.
Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không chỉ vâng phục thánh ý Thiên Chúa, Người còn diễn tả thẩm quyền của Người trên thế giới thụ tạo nữa. Chẳng hạn, sau khi hóa bánh ra nhiều cho hơn năm ngàn người ăn từ năm chiếc bánh và hai con cá của một em bé, các môn đệ xuống thuyền đi về Ca-phác-na-um. Khi thuyền rời bến khoảng năm hoặc sáu cây số, Đức Giê-su đi trên mặt biển mà đến với các môn đệ (Ga 6,16-21). Theo mặc khải Kinh Thánh, quy luật tự nhiên được Thiên Chúa thiết định. Tuy nhiên, trong bối cảnh này, Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên. Điều này giúp chúng ta nhận thức rằng Đức Giê-su là Thiên Chúa, là Chủ của thế giới thụ tạo, của quy luật tự nhiên: Chủ có thẩm quyền trên quy luật tự nhiên cũng như muôn vật muôn loài. Chúng ta cần quan tâm hai điểm quan trọng liên quan đến việc Đức Giê-su biến đổi quy luật tự nhiên (chẳng hạn như đi trên mặt nước hay làm cho sóng yên biển lặng): (1) Đức Giê-su không làm cho quy luật tự nhiên ‘xuống cấp’ và (2) Người biến đổi quy luật tự nhiên nhằm gia tăng những gì lành thánh, tốt đẹp cho con người.
Nhờ sự vâng phục Đức Chúa Cha và trở nên người phàm, Đức Giê-su giống con cháu A-đam và E-và trong mọi sự, nghĩa là Người cũng bị giới hạn bởi không gian, thời gian cũng như lệ thuộc những gì trong đó. Người bị cám dỗ nhưng không sa chước cám dỗ, nghĩa là không phạm tội, bởi vì Người luôn hướng về Đức Chúa Cha và vâng phục thánh ý Đức Chúa Cha trong mọi sự. Thánh Phao-lô viết: “Đấng chẳng hề biết tội là gì, thì Thiên Chúa đã biến Người thành hiện thân của tội lỗi vì chúng ta, để làm cho chúng ta nên công chính trong Người” (2 Cr 5,21). Khi so sánh Đức Giê-su với A-đam, thánh nhân viết: “Cũng như vì một người duy nhất đã sa ngã mà mọi người bị Thiên Chúa kết án, thì nhờ một người duy nhất đã thực hiện lẽ công chính, mọi người cũng được Thiên Chúa làm cho nên công chính, nghĩa là được sống. Thật vậy, cũng như vì một người duy nhất đã không vâng lời Thiên Chúa, mà muôn người thành tội nhân, thì nhờ một người duy nhất đã vâng lời Thiên Chúa, muôn người cũng sẽ thành người công chính” (Rm 5,18-19). Thánh Phao-lô giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự đối nghịch giữa A-đam cũ bất tuân phục và A-đam Mới là Đức Giê-su luôn vâng phục.
Bởi vâng phục Đức Chúa Cha, Đức Giê-su đã đi ngược lại con đường của A-đam. Đường của A-đam là đường bất tuân, đường dẫn tới tội lỗi và sự chết; đường của Đức Giê-su là Đường Vâng Phục, đường dẫn tới ân sủng và sự sống. Con người vừa mang hình ảnh A-đam vừa mang hình ảnh Đức Giê-su, nghĩa là vừa mang hình ảnh của người bất tuân phục vừa mang hình ảnh của Đấng Vâng Phục; vừa mang hình ảnh của người phải chết vừa mang hình ảnh của Đấng Hằng Sống; vừa mang hình ảnh của người muốn định đoạt số phận mình vừa mang hình ảnh của Đấng luôn phó thác mọi sự trong tay Đức Chúa Cha. Nhờ Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục, con người được giải thoát khỏi Tội Nguyên Tổ và những hậu quả của Tội này, đồng thời, được Đức Giê-su hướng dẫn về với cõi phúc đích thực. Do vậy, mọi người được mời gọi luôn hướng về Đức Giê-su, Đấng Vâng Phục để kín múc từ Người nguồn sinh lực cho cuộc sống hiện tại và tương lai vĩnh cửu.
Kinh nghiệm về sự gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh giúp thánh Phao-lô minh định rõ ràng và khúc chiết về ‘nguồn gốc’ và ‘sự vâng phục’ của Người trong thư gửi tín hữu Phi-líp-phê. Điều đáng để chúng ta quan tâm là trong các thư của ngài, thánh Phao-lô thường diễn tả việc Thiên Chúa gửi Con của Người xuống trần gian, nhưng ở đây thánh Phao-lô nhấn mạnh sự tự do dâng hiến của Đức Giê-su: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8). Chúng ta ngạc nhiên trước cách diễn tả của thánh Phao-lô: Đức Giê-su vốn dĩ là Thiên Chúa (ἐν μορφῇ Θεοῦ/ in very nature God), nhưng Người trút bỏ vinh quang, hay ‘làm cho mình trở nên trống rỗng’ (ἑαυτὸν ἐκένωσεν/ emptied himself). Chúng ta nhận thức ‘hai tình trạng nên một’ cách huyền nhiệm nơi Đức Giê-su: (1) là Thiên Chúa và (2) là con người; chúng ta cũng nhận thức được ‘hai chuyển động nối kết’ vượt quá sự hiểu biết của chúng ta: (1) Thiên Chúa trở thành con người và (2) Người không phạm tội. Hơn nữa, theo thánh Phao-lô, Đức Giê-su không chỉ vâng phục Thiên Chúa và trở nên người phàm như nhiều người bình thường khác, Người còn trở thành nô lệ (δούλος), nghĩa là trở thành thành phần của những người rốt hết trong xã hội loài người. Đặc biệt, Đức Giê-su còn vâng phục chịu chết trên cây thập giá.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái giúp chúng ta hiểu thêm về sự vâng phục của Đức Giê-su và hiệu quả của sự vâng phục này như sau: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục; và khi chính bản thân đã tới mức thập toàn, Người trở nên nguồn ơn cứu độ vĩnh cửu cho tất cả những ai tùng phục Người, vì Người đã được Thiên Chúa tôn xưng là Thượng Tế theo phẩm trật Men-ki-xê-đê” (Dt 5,8-10). Phẩm vị của Đức Giê-su thật cao cả, Người là Đấng toàn năng, toàn tri, toàn thiện. Tuy nhiên, trong thân phận con người, Đức Giê-su đã vâng phục để học hỏi hầu có thể trưởng thành như bao người khác. Vị Thiên Chúa ‘phải học cho biết thế nào là vâng phục’ quả là khó hiểu đối với chúng ta. Tuy nhiên, khi chúng ta nhận thức rằng tình yêu của Người đối với chúng ta là vô ngần vô hạn thì chúng ta có thể lãnh hội được (Rm 5,8-9; Ep 2,4-5; 1 Ga 4,10). Là con người, Đức Giê-su cần học để được lớn lên như chúng ta, để cảm nghiệm được đau khổ, cảm nghiệm được tình trạng bi đát của con người dưới mãnh lực của sự dữ trong môi trường thế giới thụ tạo. Người học vâng phục bằng ngôn ngữ và kinh nghiệm của con người để dạy con người cách thức vâng phục xứng hợp với thánh ý Thiên Chúa. Người vâng phục đến chết để có được cảm nghiệm đau khổ tột cùng của con người và đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho con người. Nơi Đức Giê-su, chúng ta thấy rõ hệ quả của vâng phục: Không chỉ bản thân được tôn vinh mà còn đem lại ơn lành cho người khác.
Nhìn lại lịch sử Mặc khải Ki-tô Giáo, chúng ta thấy rằng Thiên Chúa diễn tả quyền năng của Người theo nhiều cách thức khác nhau và Biến Cố Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Biến Cố có tính quyết định. Trong Biến Cố này, quyền năng lớn lao nhất mà Đức Giê-su thực hiện không phải là thực thi các điềm thiêng dấu lạ mà là quyền năng vâng phục. Quyền năng đó giúp con người thoát khỏi vũng bùn kiêu căng, tội lỗi và sự chết. Quyền năng đó đánh bại sự tự cao tự đại của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Nhờ quyền năng của Đức Giê-su, con người và tất cả vạn vật được biến đổi, được tiến triển và thành toàn cách mỹ mãn theo ý định từ muôn thuở của Thiên Chúa. Như vậy, quyền năng vâng phục mãi mãi là quyền năng con người cần phải suy gẫm, học hỏi, khám phá và thực thi trong đời sống mình.
Dưới nhãn quan của một số người, vâng phục là tâm trạng của kẻ yếu, của người không có năng lực hay thẩm quyền gì đáng kể giữa bao người khác. Trong thực tế, người vâng phục không phải là người yếu thế, nhưng là người ý thức về những giới hạn của mình. Người vâng phục ý thức sự cần thiết để kín múc năng lượng từ người khác hầu có thể điều chỉnh tư cách, đời sống và sứ mệnh của bản thân trong khi không đánh mất những gì chân thật và lành thánh của mình. Người vâng phục xác tín rằng con người không thể tự mình biến đổi cách xứng hợp. Họ cần sự hướng dẫn của những người có thẩm quyền đáng tin cậy, những người thực thi thẩm quyền mà không thiên kiến, không vì lợi ích cá nhân hay hình thức vị kỷ nào đó. Như vậy, càng đề cao sự vâng phục, con người càng nhận ra tình trạng thực thụ của bản thân mình và sự cần thiết để biến đổi sao cho phù hợp với thánh ý Thiên Chúa qua các trung gian của Người.
Thông thường, theo bước chân Nguyên Tổ, con người hay quy hướng về mình, quan tâm đến những gì phát xuất từ bản thân hầu thỏa mãn ‘cái tôi’ chứ không phải vâng phục. Người vâng phục là người bị động, người đón nhận, người lĩnh hội, trong khi đó, người có thẩm quyền là người chủ động, người ra lệnh, người thẩm định. Do đó, nhân đức vâng phục khó thực thi hơn các nhân đức khác bởi vì người thực thi nhân đức này phải từ bỏ ý riêng của mình để lắng nghe, tin tưởng và làm theo ý của người khác. Trong một số trường hợp, người vâng phục nhận thức được những sai sót nhất định của người có thẩm quyền, nhưng vì ‘đức vâng phục’ nên vui lòng chấp nhận. Dưới nhãn quan Ki-tô Giáo, vâng phục là hiến tế rất cao quý. Chúng ta có thể nói rằng người vâng phục Thiên Chúa cách trọn hảo cũng là người tử đạo theo nghĩa rộng với tên gọi là ‘tử đạo vâng phục’. Các vị tử đạo trong lịch sử Giáo Hội có điểm chung là vâng phục Thiên Chúa theo gương Đức Giê-su, thà chịu chết hơn là làm những điều ngược lại với giáo huấn của Người.
Có những người cho rằng vâng phục và tự do như nước với lửa, mặt trăng với mặt trời, bóng tối với ánh sáng hay vâng phục là thù địch của tự do. Trong thực tế, vâng phục đích thực cũng là tự do đích thực và ngược lại. Vâng phục làm cho tự do đúng hướng và tự do làm cho vâng phục được viên mãn. Điều này có nghĩa là con người không mất tự do của mình khi vâng phục Thiên Chúa. Con người vâng phục Thiên Chúa không giống máy móc làm việc theo chỉ thị của người điều khiển. Trái lại, khi con người vâng phục Thiên Chúa cũng là khi con người diễn tả sự tự do của mình cách đúng đắn và đầy đủ nhất. Như vậy, ở đây không có sự xung khắc giữa tự do và vâng phục đích thực trong tương quan giữa con người với Thiên Chúa. Xung khắc nếu có là về phía con người khi lạm dụng tự do của mình, chiều theo cạm bẫy của thế giới bóng đêm, thế giới sự dữ. Con người chỉ có thể trưởng thành thực sự khi vâng phục thánh ý Thiên Chúa và làm cho thánh ý Người được thẩm thấu và lan rộng trong mọi chiều kích của cuộc sống mình. Người ta có thể ghép tự do và vâng phục với nhau và khẳng định rằng tự do đích thực là ‘tự do vâng phục’. Điều này có nghĩa rằng người vâng phục hiểu được giá trị của những gì mình tuân giữ bởi vì những giá trị này giúp mình ngày càng trở nên hoàn thiện hơn.
Một trong những đặc tính của người vâng phục là thinh lặng. Người vâng phục là người biết suy gẫm, biết tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa trong mọi nơi mọi lúc. Người vâng phục là người đơn sơ, đồng thời cũng là người chú tâm nhiều hơn về sự thiêng thánh của phẩm giá con người trong cõi thinh lặng. Người vâng phục biết chấp nhận những gì Thiên Chúa gửi đến cho mình, đồng thời biết sẵn sàng chịu đựng muôn hình thức đau khổ trong cuộc sống với tâm tình hiền hòa, kiên nhẫn, phó thác. Người vâng phục biết tìm bình an giữa những gian nan khốn khó; tìm thinh lặng giữa những ồn ào náo động; tìm thánh ý Thiên Chúa giữa những cám dỗ giăng đầy; tìm sự thật giữa những gian dối bội bạc; tìm tình yêu giữa những oán thù ghen ghét. Nói cách khác, người vâng phục biết thinh lặng sống theo những giá trị của Nước Thiên Chúa giữa biển đời đầy giông tố bão bùng này.
Như đã được đề cập ở trên, theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, “Đức Giê-su đã trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Tất cả chúng ta được mời gọi học nơi Đức Giê-su cách thức vâng phục. Chúng ta được trở thành con cái Thiên Chúa nhờ Người, do đó, chúng ta hãy noi gương Người trong việc vâng phục thánh ý Thiên Chúa. Nhiều lúc chúng ta ý thức được sự cần thiết của vâng phục, nhưng lại dị ứng với những gì giúp chúng ta thực thi điều đó. Chẳng hạn, nói đến vâng phục là nói đến hy sinh, nói đến quên mình, nói đến đau khổ, nhưng chúng ta lại dị ứng với những điều này. Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, vâng phục mà vắng bóng đau khổ không phải là hình thức vâng phục mà Đức Giê-su đã học hỏi và diễn tả trong hành trình trần thế của Người. Chúng ta chỉ có thể vâng phục thực sự khi chúng ta trải qua quá trình học hỏi từ những đau khổ, sai lầm của bản thân cũng như của người khác. Tác giả Thánh Vịnh viết: “Đau khổ quả là điều hữu ích, để giúp con học biết thánh chỉ Ngài” (Tv 119,71). Qua đau khổ, chúng ta học biết cách lắng nghe, cách cảm nhận, cách đồng hóa lời của Thiên Chúa trong cuộc sống mình.
Quả thực, vâng phục phải là trọng tâm của đời sống con người trong hành trình trần thế này. Bởi vì, vâng phục tạo điều kiện cho chúng ta đắm mình trong mầu nhiệm của chương trình Thiên Chúa đối với con người cũng như muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo. Vâng phục cho phép chúng ta vượt qua những yếu đuối và tầm nhìn hạn hẹp của bản thân về các sự kiện, biến cố hay tương quan trong cuộc sống. Vâng phục giúp chúng ta rèn luyện tính kiên nhẫn cũng như tâm hồn luôn biết cởi mở và hướng về Thiên Chúa, Đấng là Nguồn Gốc và Đích Đến của chúng ta cũng như muôn vật muôn loài. Vâng phục khuyến khích chúng ta biết làm chứng cho Thiên Chúa giữa những khó khăn, bấp bênh của cuộc sống hằng ngày. Đồng thời, vâng phục gia tăng niềm tin, tình yêu và hy vọng của chúng ta đối với Thiên Chúa. Vâng phục mở đường cho chúng ta vào đời sống công chính, thánh thiện giữa thế giới đầy cạm bẫy của ma quỷ, thế gian, xác thịt. Vâng phục thúc đẩy chúng ta đóng góp phần mình vào việc xây dựng trật tự và hòa hợp trong gia đình cơ bản và các hình thức gia đình khác trong xã hội.
Theo một nghĩa nào đó, vâng phục chính là nhân đức của các nhân đức trong đời sống con người. Các Ki-tô hữu được mời gọi sống và thực hành nhân đức này cách trung tín nhất. Đặc biệt, những người sống đời độc thân dâng hiến cần phải quan tâm nhiều hơn đến nhân đức vâng phục. Các nhân đức khác, chẳng hạn như khiết tịnh hay nghèo khó không thể thực hiện được nếu thiếu nhân đức vâng phục. Nhân đức này thường được diễn tả qua việc lắng nghe và thực thi ý định của những người có thẩm quyền với lòng thâm tín rằng, ý của người có thẩm quyền diễn tả thánh ý Thiên Chúa. Chẳng hạn, sự vâng phục của một tu sĩ đối với bề trên của mình không theo nghĩa ‘cá nhân với cá nhân’, nhưng theo nghĩa ‘cá nhân với thẩm quyền hợp pháp’ của Giáo Hội nhằm mục đích xây dựng trật tự, hòa hợp và phát triển của cộng đoàn. Theo Công Đồng Vatican II: “Đức vâng lời trong đời tu trì chẳng những đã không giảm bớt phẩm giá, nhưng còn giúp nhân vị trưởng thành nhờ phát triển tự do của con cái Thiên Chúa” (Perfectae Caritatis 14) hay “Việc noi theo và làm chứng đức ái cùng sự khiêm hạ của Chúa Kitô cần được các môn đệ thực hiện không ngừng; nên Giáo Hội là Mẹ chúng ta vui mừng khi thấy trong lòng mình có nhiều con cái nam nữ muốn theo sát gương Ðấng Cứu Thế và tỏ lộ rõ ràng hơn sự tự diệt của Người. Họ chấp nhận nghèo khó trong tự do của con cái Thiên Chúa và từ bỏ ý riêng: Hơn cả mức đòi buộc của giới luật, họ tự nguyện tùng phục một con người, tùng phục vì Chúa, trong những gì liên hệ tới sự trọn lành, hầu nên giống Chúa Kitô vâng lời cách hoàn toàn hơn” (Lumen Gentium 42). Như vậy, người vâng phục là người thâm tín rằng mình hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa khi biết phục tùng những người được Thiên Chúa chọn gọi để đồng hành và hướng dẫn mình. Vì thế, trong đời sống thánh hiến, nhân đức vâng phục được xem như ‘nhân đức cả’, bao trùm hai nhân đức còn lại là nghèo khó và khiết tịnh.
Đức vâng phục được diễn tả trong gia đình là tế bào của xã hội. Theo thánh Phao-lô, trong đời sống gia đình, người vợ cần vâng phục người chồng: “Tôi muốn anh em biết rằng thủ lãnh của người nam là Đức Ki-tô, thủ lãnh của người nữ là người nam, và thủ lãnh của Đức Ki-tô là Thiên Chúa” (1 Cr 11,3). Thánh nhân cũng viết: “Người làm chồng, hãy yêu thương vợ, như chính Đức Ki-tô yêu thương Hội Thánh và hiến mình vì Hội Thánh” (Ep 5,25). Như vậy, sự vâng phục trong gia đình không phải là sự ‘vâng phục một chiều’, mà là sự ‘vâng phục hỗ tương’ nhằm đem lại bình an, hòa thuận trong gia đình. Do đó, chúng ta có thể hiểu rằng trong đời sống gia đình, vợ và chồng vâng phục lẫn nhau cũng có nghĩa là yêu thương nhau. Giao ước tình yêu giữa vợ và chồng sẽ bị lung lay thậm chí tan vỡ nếu thiếu vắng nhân đức vâng phục. Thánh Phao-lô cũng đề cập đến sự vâng phục của con cái đối với cha mẹ: “Kẻ làm con hãy vâng lời cha mẹ trong mọi sự, vì đó là điều đẹp lòng Chúa” (Cl 3,20). Đến lượt mình, cha mẹ cần quan tâm con cái cách phù hợp và đúng đắn nhất: “Những bậc làm cha mẹ đừng làm cho con cái bực tức, kẻo chúng ngã lòng” (Cl 3,21).
Đức vâng phục cần được diễn tả trong đời sống xã hội bởi vì mỗi người không phải là hữu thể độc lập nhưng là hữu thể tương quan với nhiều người khác. Trong bất cứ hình thức xã hội nào, tất cả mọi người đều được mời gọi vâng phục thẩm quyền chính đáng và hợp pháp, vâng phục lề luật vì lợi ích chung. Một xã hội mà các thành phần không vâng phục thẩm quyền hợp pháp hay lề luật thì xã hội đó sẽ hỗn loạn, thậm chí tan rã. Lời Thiên Chúa trong sách Khôn Ngoan đối với những người có thẩm quyền là: “Hỡi những người cai trị trần gian, hãy suy tưởng ngay lành về Đức Chúa và thành tâm kiếm tìm Người. Ai không thách thức Người, thì được Người cho gặp. Ai tin tưởng vào Người, sẽ được Người tỏ mình cho thấy” (Kn 1,1-2). Thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu: “Đừng chỉ vâng lời trước mặt, như muốn làm đẹp lòng người ta, nhưng như nô lệ của Đức Ki-tô, đem cả tâm hồn thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta” (Ep 6,6-7). Trong hành trình dương thế, Đức Giê-su không bao giờ xem thường thẩm quyền hay lề luật xã hội dân sự. Chẳng hạn, những người Pha-ri-sêu sai các thuộc hạ của họ cùng đi với những người thuộc phe Hê-rô-đê đến hỏi Đức Giê-su: “Có được phép nộp thuế cho Xê-da hay không?” (Mt 22,17). Sau khi xem quan tiền và biết được hình ảnh và danh hiệu là của Xê-da, Đức Giê-su nói: “Của Xê-da, trả về Xê-da; của Thiên Chúa, trả về Thiên Chúa” (Mt 22,21). Dưới nhãn quan nội dung đức tin Ki-tô Giáo, trong các hình thức vâng phục lề luật, thì vâng phục lề luật Thiên Chúa phải đứng hàng đầu. Đây là hình thức ‘vâng phục tiêu chuẩn’ của các hình thức vâng phục khác (Cv 5,27-32). Thánh Phê-rô khẳng định: “Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người phàm” (Cv 5,29). Điều đáng để chúng ta quan tâm là tất cả các hình thức lề luật giúp con người phát triển toàn diện và phù hợp với phẩm giá con người trong thế giới thụ tạo đều đến từ Thiên Chúa và phản ánh tình thương của Người.
Những ai theo Đường Vâng Phục của Đức Giê-su thì được mời gọi loan báo Tin Mừng của Người. Tân Ước cho chúng ta nhận thức rằng trong buổi đầu loan báo Tin Mừng, sau khi các môn đệ gặp gỡ Đức Giê-su, nhất là lắng nghe và chứng kiến những việc Người làm, họ đã vâng phục theo lời mời gọi của Người, từ bỏ tất cả, để trở thành những môn đệ của Người. Chẳng hạn, thánh Phê-rô nói với Đức Giê-su: “Vâng lời Thầy, tôi sẽ thả lưới” (Lc 5,5). Trước mẻ cá lạ, thánh nhân sấp mặt xuống đất và nói với Người: “Lạy Chúa, xin tránh xa con, vì con là kẻ tội lỗi!” (Lc 5,8). Đức Giê-su căn dặn thánh Phê-rô: “Đừng sợ, từ nay anh sẽ là người thu phục người ta” (Lc 5,10). Sự trở lại của thánh Mát-thêu và các môn đệ khác cũng cho chúng ta thấy được sự vâng phục của các ngài đối với Thầy mình là Đức Giê-su. Như vậy, ai muốn trở thành môn đệ và tông đồ trung tín của Đức Giê-su, người đó phải là chứng nhân cho Đường Vâng Phục của Người bằng chính cuộc sống mình.
Chúng ta có thể kết luận rằng vâng phục có nghĩa là lắng nghe và thực thi thánh ý Thiên Chúa và Đường của Đức Giê-su trong hành trình trần thế là Đường Vâng Phục. Người đã kiện toàn thánh ý Đức Chúa Cha với tâm hồn vâng phục: “Lạy Thiên Chúa, này con đây, con đến để thực thi ý Ngài” (Dt 10,7; Tv 40,8-9). Trong hành trình loan báo Tin Mừng, Người nói: “Phúc thay kẻ lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa” (Lc 11,28). Với Đức Giê-su, vâng phục phải là chủ đề quán xuyến tâm hồn con người. ‘Vâng phục hơn của lễ’, sứ điệp ngắn nhưng rất dồi dào ý nghĩa. Đức Giê-su đã kiện toàn sứ điệp đó bằng đời sống vâng phục, hy sinh, dâng hiến. Suy niệm về Biến Cố Đức Giê-su giữa dòng đời, chúng ta nhận thức rằng vâng phục là điều kiện tiên quyết diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu. Hơn nữa, vâng phục Thiên Chúa là khuôn mẫu và nền tảng vững chắc cho các hình thức vâng phục khác của con người. Chúng ta hãy thành tâm học hỏi Đường Vâng Phục của Đức Giê-su và loan báo Đường này cho anh chị em đồng loại. Đặc biệt, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta hãy đi theo Đường Vâng Phục của Người hầu diễn tả cách tốt đẹp nhất tương quan giữa mình với Thiên Chúa, với anh chị em và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo này.
2021
Khoa học và đức tin: Tưởng thù hóa ra bạn
GIẢI ĐÁP THẮC MẮC CHO NGƯỜI TRẺ CÔNG GIÁO
Bài 22: TƯỞNG THÙ HÓA RA BẠN
Giuse Lê Đắc Thắng, SJ
Câu hỏi: Khoa học đã giải thích rất rõ ràng về các vấn đề mang tính chất bí ẩn, liệu còn có thể giải thích bằng niềm tin tôn giáo?
Bạn thân mến,
Mối liên hệ giữa đức tin và khoa học là một chủ đề rất hấp dẫn vì nó đụng chạm đến kinh nghiệm thực tế của mỗi người chúng ta trong thời đại hiện nay. Nhất là khi chúng ta có cảm tưởng rằng tiến bộ của khoa học dường như đang chứng minh niềm tin tôn giáo là “lỗi thời,” nếu không muốn nói là “sai lầm” hay “ấu trĩ.” Trong toàn bộ bài chia sẻ này, tôi vẫn sẽ dùng lại từ bạn sử dụng trong câu hỏi của mình là “niềm tin tôn giáo”, nhưng nó được hiểu là “đức tin Kitô giáo.”
Có thể bạn đã biết, khoa học tự nhiên bắt đầu phát triển rầm rộ từ cuối thế kỷ 17, khởi đầu cho một giai đoạn mà người ta gọi là thời kỳ Khai Sáng, kéo dài đến đầu thế kỷ 19. Kết quả nghiên cứu khoa học đã giúp người ta nhận ra một vài vấn đề Giáo hội dạy trước đó là không đúng. Từ đó đến nay khoa học vẫn không ngừng phát triển, nhiều điều trước đây còn là bí ẩn, thì bây giờ đã được tiếp cận và giải thích rõ ràng hơn dưới ánh sáng của khoa học.
Vậy chúng ta có nên lo sợ rằng đến một ngày nào đó khoa học sẽ thay thế tôn giáo không? Câu trả lời là “không”. Bởi vì tôn giáo và khoa học tiếp cận sự vật hiện tượng từ hai góc nhìn khác nhau nên chúng không những không loại trừ nhau mà còn bổ túc cho nhau nhằm giúp con người hiểu biết chính xác và trọn vẹn hơn về thế giới tự nhiên.
Không ít người cho rằng tôn giáo và khoa học “có địa bàn hoạt động” khác nhau. Theo đó, đối tượng của khoa học là thế giới tự nhiên, còn đối tượng của tôn giáo là thế giới siêu nhiên. Trước đây, khi khoa học chưa phát triển thì con người thường quy những hiện tượng bí ẩn hoặc không giải thích được về thế giới siêu nhiên, nơi được cho là thế giới của Thiên Chúa và các thần linh. Hệ quả của cách hiểu như vậy là mỗi khi khoa học vạch trần sự bí ẩn của một hiện tượng nào đó thì cũng đồng nghĩa với việc phủ nhận vai trò của niềm tin tôn giáo nơi hiện tượng ấy. Nó là “tự nhiên” chứ không còn “siêu nhiên” nữa.
Ví dụ như so với trước đây thì ngày nay những hiện tượng sấm sét, động đất, sóng thần, nhật thực, nguyệt thực, sao băng, thủy triều… không còn mang vẻ bí ẩn hay thần thiêng nữa. Bởi vì con người có thể giải thích được chúng dựa vào kiến thức khoa học tự nhiên. Khoa học được xem là ánh sáng xua tan bóng tối của những điều mê tín lầm lạc trong nhiều tôn giáo và tín ngưỡng. Do vậy người ta có xu hướng đi đến kết luận rằng khoa học là “kẻ thù không đội trời chung” với tôn giáo!
Tuy nhiên, chúng ta sẽ thấy rằng tôn giáo và khoa học không những không phải là “kẻ thù” mà còn có thể “đội trời chung” rất tốt. Ở đây ranh giới giữa khoa học và tôn giáo không nằm ở loại đối tượng tiếp cận nhưng ở cách tiếp cận đối tượng. Hiểu theo cách chung nhất: khoa học tìm hiểu mối liên hệ giữa các sự vật hiện tượng với nhau trong thế giới tự nhiên, còn tôn giáo đặt thế giới tự nhiên trong tương quan với Thiên Chúa là Đấng Tạo Hóa. Theo đó, khoa học nghiên cứu quy luật hay nguyên lý hoạt động của các sự vật hiện tượng.
Cho đến khi con người chưa khám phá ra quy luật của một hiện tượng nào đó thì nó vẫn được coi là bí ẩn, hay còn gọi là “khoa học chưa giải thích được.” Về phía mình, niềm tin tôn giáo không tìm cách giải thích quy luật tự nhiên của một sự vật hiện tượng nhưng lại đặt ra một vấn đề mang tính nền tảng hơn; đó là tại sao có cái đó (mà không phải là không có!) và nó mang ý nghĩa gì trong công trình tạo dựng của Thiên Chúa.
Để thấy được khoa học và đức tin có thể song hành và bổ túc cho nhau như thế nào, trước hết chúng ta cần biết rằng khoa học tự nó luôn có giới hạn trong cách tiếp cận thế giới tự nhiên. Thật vậy, quan sát khoa học bị giới hạn trong thế giới khả giác, tức là những gì có thể cân đong đo đếm được. Cho dù sự phát triển của kỹ thuật công nghệ và máy móc tiến bộ đã giúp con người tiếp cận được những gì trước đây còn là bí ẩn, thì tất cả đối tượng của khoa học vẫn luôn ở trong giới hạn của thế giới khả giác.
Do đó khoa học không thể đưa ra lời giải đáp cho những gì nó không bao giờ có thể đụng chạm tới được. Cụ thể là khoa học chỉ quan sát được những hiện tượng trong không gian và thời gian. Những gì nằm ngoài không gian và thời gian thì không thể là đối tượng của khoa học.
Nói chung, khoa học không bao giờ giải thích được mục đích tồn tại và ý nghĩa của một sự vật hiện tượng, bởi vì điều đó nằm ngoài phạm vi của khoa học. Chính tôn giáo đã lãnh nhận sứ mạng mà khoa học không thể đảm nhận được. Theo đó, đức tin và khoa học bổ túc cho nhau để giúp con người hiểu đầy đủ hơn về thế giới tự nhiên, không chỉ trong quy luật vận hành của chính nó (theo giải thích của khoa học) mà còn trong tương quan với Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mọi sự (theo hiểu biết của đức tin).
Do vậy niềm tin tôn giáo không loại trừ và cũng không lệ thuộc vào giải thích của khoa học. Cho dù khoa học đã giải thích về một hiện tượng tự nhiên thì niềm tin tôn giáo vẫn đóng vai trò cần thiết trong việc tìm ra mối liên hệ ý nghĩa giữa hiện tượng đó với đời sống con người trong công trình sáng tạo của Thiên Chúa.
Thiên Chúa bí ẩn là bởi vì con người cần có con mắt đức tin để nhận ra Ngài trong thế giới chúng ta đang sống, chứ không phải vì Ngài ở trong một thế giới nào khác mà chúng ta không thể đụng chạm được. Như thế, vấn đề của chúng ta không phải là tìm cách phân biệt giữa “tự nhiên” và “siêu nhiên,” mà là chúng ta cần có con mắt “siêu nhiên” để nhận ra Chúa đang hiện diện nơi những gì “tự nhiên.”
Con mắt “siêu nhiên”, hay cũng có thể gọi là con mắt đức tin, giúp con người thấy Thiên Chúa vẫn luôn không ngừng thông ban nguồn sống của Ngài cho mọi tạo vật trong thế giới tự nhiên này.
Tạ ơn Chúa là có những nhà khoa học lỗi lạc đã giúp chúng ta hiểu hơn nguyên lý vận hành của những hiện tượng tự nhiên. Từ đó chúng ta thấy công trình Chúa làm ra thật là kỳ diệu. Có thể kể ra đây một vài ví dụ như hàng tỉ tỉ tinh tú trong không gian vận hành theo một quỹ đạo hoàn hảo đến mức không có một lỗi va chạm tai hại nào xảy ra; hàng tỉ tỉ người trên thế giới nhưng không ai hoàn toàn giống ai, v.v…
Như thế ngoài con mắt “khoa học” để tìm hiểu nguyên lý vận hành của mọi sự vật hiện tượng trong thế giới tự nhiên thì chúng ta vẫn cần thêm con mắt “đức tin” để nhận ra bàn tay quan phòng của Thiên Chúa trong đó.
Thực tế là trong một thời gian dài người ta đã không phân biệt rạch ròi giữa cách tiếp cận của khoa học và của niềm tin tôn giáo, khiến hai lĩnh vực này nhập nhằng và có thể nói là đã “lấn sân” nhau, gây nên những hậu quả đáng tiếc. Chúng ta cần tỉnh táo nhận ra điều này bởi vì cho tới thời đại ngày nay, tàn dư của cách hiểu sai lầm vẫn đang gây ra những cuộc tranh luận không có điểm dừng khi bàn về mối tương quan giữa đức tin và khoa học. Sai lầm đó có thể phát xuất từ Giáo hội Công giáo khi các vị lãnh đạo Giáo hội dựa vào nghĩa đen của từng câu chữ trong Kinh Thánh hoặc tệ hơn nữa là sử dụng quyền lực chính trị của mình để áp đặt kết luận về những vấn đề vốn dĩ thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên. Điển hình cho việc này chính là vụ án Galileo.
Vào năm 1633, Galileo đã bị Tòa án Giáo lý Công giáo kết án tội lạc giáo vì đã ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernic, cho rằng trái đất và các hành tinh khác quay quanh mặt trời. Galileo có đầy đủ bằng chứng khoa học để ủng hộ lý thuyết này; bởi vì chính ông đã dùng kính viễn vọng để quan sát và nghiên cứu đường di chuyển của các hành tinh trong hệ mặt trời. Tuy nhiên, tại thời điểm đó Giáo Hội lại dạy người ta phải tin vào thuyết địa tâm của Aristotle với quan niệm rằng trái đất là trung tâm của vũ trụ và mọi tinh tú đều chuyển động quanh nó. Có thể Giáo Hội hiểu như vậy là vì đã dựa vào những câu trong Kinh Thánh như: “Chúa thiết lập địa cầu, địa cầu chẳng lay chuyển.” (1Sb 16,30; Tv 93,1; Tv 96,10), “Chúa lập địa cầu trên nền vững, không chuyển lay muôn thuở muôn đời!” (Tv 104,5), “Mặt trời mọc rồi lặn; mặt trời vội vã ngả xuống nơi nó đã mọc lên.” (Gv 1,5).
Đây là một sai lầm lớn, bởi vì mục đích Kinh Thánh được viết ra không phải để mô tả chân lý khoa học mà là để trình bày chân lý đức tin. Chân lý khoa học là kết quả của quá trình nghiên cứu thực nghiệm; còn chân lý đức tin là kinh nghiệm phản tỉnh của con người về Thiên Chúa do chính Ngài mặc khải cho.
Ví dụ, trình thuật Thiên Chúa sáng tạo trời đất muôn vật trong sách Sáng thế không nhằm mô tả việc vũ trụ được hình thành như thế nào và trong thời gian bao lâu theo cách hiểu của khoa học. Nhưng điều ấy chỉ để nói lên rằng Thiên Chúa chính là Đấng dựng nên mọi sự và mọi sự đều tồn tại được nhờ Ngài. Tương tự, chúng ta đọc từ trình thuật Thiên Chúa tạo dựng nên Adam và Eva không phải như một chứng cứ khoa học dùng để bác bỏ thuyết tiến hóa, nhưng như là chân lý đức tin, rằng con người được dựng nên theo hình ảnh của Thiên Chúa và có một vị trí đặc biệt trong công trình tạo dựng của Ngài. Do đó cần phải khẳng định rõ ràng là không thể dùng Kinh Thánh để giải thích các hiện tượng tự nhiên như khoa học được, tương tự như việc không thể học toán qua tiểu thuyết văn chương được.
Tiếc là nhiều người đã mắc sai lầm khi không ý thức về giới hạn của khoa học. Ví dụ, họ muốn dùng những chứng cứ khoa học để chứng minh hay bác bỏ sự tồn tại của Thiên Chúa, hoặc là tìm hiểu về sự sống đời sau hay về ngày tận thế. Như chúng ta đã biết, đó là điều không thể. Tương tự, nghiên cứu khoa học không thể giúp con người hiểu biết hơn về linh hồn hay các quy chuẩn đạo đức trong đời sống con người. Nếu một nhà khoa học có thể nghiên cứu về linh hồn thì thật ra đó chỉ là một dạng vật chất được gọi là linh hồn chứ không phải thực sự là linh hồn. Khoa học cũng sẽ không bao giờ tìm ra một bộ phận thần kinh nào đó trong não người có thể đóng vai trò xác định và điều khiển hành vi luân lý. Như thế, dù có tiến bộ tới đâu thì khoa học vẫn luôn mang giới hạn thuộc về bản chất của nó.
Bạn đã có nhận xét rất đúng rằng: khoa học giúp giải thích rất rõ ràng về nhiều vấn đề mang tính chất bí ẩn. Tuy nhiên, chúng ta cũng cần phải làm rõ từ “bí ẩn” ở đây nên được hiểu như thế nào. Một mặt, có thể hiểu điều “bí ẩn” như một “bí mật” mà khoa học chưa giải thích được. Những điều bí ẩn kiểu này vốn thuộc thế giới khả giác, tức là đối tượng tiềm năng của khoa học. Nói là đối tượng tiềm năng là bởi vì cho dù hiện nay khoa học chưa đủ tiến bộ để tiếp cận được nhưng tương lai thì có thể, vấn đề chỉ là thời gian. Loại đối tượng này phải chờ khoa học tiếp cận, khám phá, chứ không thể lấy niềm tin tôn giáo để giải thích thay cho khoa học được.
Thật vậy, nếu dựa vào niềm tin tôn giáo để giải thích các hiện tượng thực nghiệm thì chẳng khác gì chúng ta đi vào vết xe đổ của lịch sử, lặp lại sai lầm của Giáo Hội trong quá khứ. Tuy nhiên, chúng ta cũng đã chỉ ra rằng có những điều “bí ẩn” nằm ngoài khả năng tiếp cận của khoa học như: Thiên Chúa, linh hồn, sự sống đời sau hay ngày phán xét, v.v… Với những đối tượng này thì vai trò tiếp cận thuộc về niềm tin tôn giáo chứ không phải khoa học.
Bên cạnh đó, có thể hiểu điều bí ẩn như là những gì chỉ có con mắt đức tin mới có thể nhìn thấy, tức là nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa trong mọi sự. Hiểu theo nghĩa này thì tất cả mọi sự đều chứa vẻ “bí ẩn”, tức đều là dấu chỉ giúp con người nhận biết Thiên Chúa. Do đó, cho dù có những hiện tượng đã được khoa học giải thích bằng các quy luật tự nhiên thì chúng ta vẫn cần đến đức tin để nhận ra sự quan phòng sáng tạo của Thiên Chúa nơi chính các quy luật đó. Thiên Chúa dựng nên vạn vật trong thế giới tự nhiên với quy luật vận hành của nó. Do vậy, khoa học phát triển chỉ giúp con người khám phá ra các quy luật ấy thôi, chứ không thể dùng kết quả nghiên cứu khoa học để bác bỏ vai trò của Thiên Chúa được!
Tóm lại, nếu có những phát minh hay kết quả nghiên cứu khoa học làm sáng tỏ những hiện tượng bí ẩn vốn trước đây chỉ được lý giải bằng niềm tin tôn giáo, thì chúng ta không nên lo sợ mà phải vui mừng là đằng khác. Tiến bộ khoa học sẽ giúp chúng ta nhận ra rằng có những điều bí ẩn thực ra thuộc lĩnh vực khoa học, dùng niềm tin tôn giáo để lý giải là không đúng.
Như thế, khoa học không những không loại trừ niềm tin tôn giáo mà còn giúp đưa tôn giáo về đúng vị trí của nó. Nhờ tiếp cận thế giới tự nhiên dưới ánh sáng mặc khải của Thiên Chúa, niềm tin tôn giáo đóng vai trò đưa ra định hướng cho việc nghiên cứu khoa học. Theo đó khoa học có thể giúp con người thăng tiến đời sống theo đúng kế hoạch quan phòng của Thiên Chúa. Niềm tin tôn giáo hoàn toàn không phải là đối thủ cạnh tranh với khoa học, vì cả hai đều cần thiết trong việc giúp con người tiến đến gần Thiên Chúa hơn. Hóa ra tôn giáo và khoa học lại là hai người bạn tốt của nhau!
Đọc thêm:
Bài 22: Để tin vào Thiên Chúa vô hình
Bài 21: Một đời để sống Bài 20: Những ngày lễ truyền tin của cuộc đời Bài 19: Cảm nghiệm về Thiên Chúa! Bài 18: Kế hoạch của Thiên Chúa trong đời ta Bài 17: Nghiệp quả từ góc nhìn của đức tin Công giáo Bài 16: Tương thân tương ái Bài 15: Áo giáp chống nạn Bài 14: Đức tin kiến tạo hòa bình và công bằng xã hội Bài 13: Vấn đề truyền giáo Bài 12: Thờ kính ông bà tổ tiên Bài 11: Truyền giáo cho người trẻ ngoại đạo Bài 10: Bền đỗ trong ơn gọi gia đình Bài 09: Vấn đề “theo đạo rồi mới cho cưới” Bài 08: Gieo suy nghĩ tốt Bài 07: Nhanh từ từ thôi Bài 06: Hiện tượng bóng ma Bài 05: Vượt qua khủng hoảng! Bài 04: Vấn đề rước Mình Máu Thánh Chúa Bài 03: Đừng cám dỗ nhau nhé! Bài 02: Sao lại kỳ thị người tu xuất? Bài 01: Nhận định ơn gọi cho cuộc đời |
(Trích Giải Đáp Thắc Mắc cho người trẻ Công giáo, Tập 2, Nxb Tôn Giáo, 2020)
2021
Gia đình và Cộng đoàn Kitô Nhỏ
Luy Nguyễn Anh Tuấn
WHĐ (08.10.2021) – Bài viết này sẽ xem xét tầm quan trọng của các gia đình trong cuộc sống của các Cộng đoàn Kitô Nhỏ (CĐKN) và các CĐKN củng cố gia đình như thế nào để gia đình hoàn tất vai trò của mình như “Hội Thánh tại gia”.
Mục lục
1. Gia đình trong bối cảnh ngày nay 4. Gia đình và Cộng Đoàn Kitô Nhỏ 6. Vai trò của Gia đình trong công trình Phúc Âm hóa. |
1. Gia đình trong bối cảnh ngày nay
Hội Thánh tại Á châu và tại Việt Nam đã tăng trưởng qua bao tháng năm và chạm chân đến bao ngõ ngách các vùng sâu vùng xa nhờ hàng ngàn linh mục, hàng vạn nam nữ tu sĩ, và hàng triệu Kitô hữu giáo dân làm việc không mệt mỏi và âm thầm loan báo Tin mừng và phục vụ anh chị em thuộc các tín ngưỡng khác nhau. Chúng ta cảm tạ Chúa vì họ, càng cảm tạ Chúa hơn nữa vì các bậc cha mẹ và gia đình đã động viên và nâng đỡ những người con mình đi sâu hơn vào ơn gọi phục vụ Thiên Chúa.
Chúng ta thừa nhận các gia đình ở châu Á và nhất là tại Việt Nam biết quí trọng cuộc sống gia đình và các giá trị gia đình bởi các thành viên trong gia đình và họ hàng thường xuyên tụ họp với nhau, dùng bữa với nhau và đôi khi còn dành thời gian quý báu hiện diện và sống quây quần bên nhau, đối thoại cuộc sống với những người anh chị em khác tín ngưỡng trong khoan dung và đơn sơ chân thành. Các gia đình biết quí trọng các giá trị văn hóa và tôn giáo của mình như: yêu quí sự thinh lặng và chiêm niệm, lòng đơn sơ, sự hài hòa, tinh thần siêu thoát, bất bạo động, tinh thần làm việc chăm chỉ, kỉ luật, sống đạm bạc, hiếu học và truy tầm triết lí khôn ngoan. Các gia đình á đông còn biết kính trọng sự sống, có lòng từ bi trắc ẩn đối với mọi sinh vật, sống gần gũi với thiên nhiên, thảo kính cha mẹ, người già cả, ông bà tổ tiên, với một ý thức đời sống cộng đồng rất cao. Đặc biệt, người dân Việt coi gia đình là một nguồn trợ lực rất quan trọng, một cộng đoàn gắn bó mật thiết với ý thức mạnh mẽ đoàn kết yêu thương nhau. Tâm hồn người Việt Nam có sẵn một trực giác tâm linh và một sự khôn ngoan đạo đức, không coi sự đối đầu và đối kháng là yếu tố cốt yếu của căn tính của mình, nhưng là sự bổ túc và sự hài hòa. Phần nhiều các gia đình công giáo truyền thống sùng đạo và đạo giáo là thành phần quan trọng trong cuộc sống gia đình. Chúng ta cũng biết ơn nhiều gia đình thường xuyên cùng nhau cầu nguyện và qua đó thông truyền đức tin cho con cháu, nhiều gia đình tiên phong trong mặt trận bảo vệ sự sống, hi sinh tham dự các cuộc tĩnh tâm và học hỏi để đào sâu giáo lý đức tin, biểu lộ lòng thành tín qua tham dự các cử hành và hành hương. Chúng ta cũng nhận thấy ngày càng có nhiều gia đình tham gia tích cực trong các hiệp hội, phong trào của Hội Thánh, trong các Cộng đoàn Hội Thánh Cơ bản.
Thế nhưng, ngày nay chúng ta cũng chứng kiến những biến chuyển, bi kịch cho các gia đình. Nhiều nơi trên thế giới đòi định nghĩa lại hôn nhân, gia đình. Chúng ta bắt đầu nghe quen những đòi hỏi về mặt lập pháp, hành pháp, chuyện kết hôn đồng tính (giữa hai người đồng giới) hoặc chuyện sống chung thực tế của hai người đòi được xã hội và luật pháp nhìn nhận và công nhận như là một gia đình. Tuy nhiên, Hội Thánh có quan điểm và lập trường rất rõ gia đình là đơn vị cơ bản của xã hội, xây dựng trên hôn nhân giữa một người nam và một người nữ để yêu thương hỗ trợ nâng đỡ nhau suốt hành trình cuộc sống, và nhằm sinh sản và giáo dục con cái.[1]
Ở châu Á cũng như ở Việt Nam, các gia đình ngày nay phải đối diện với nhiều thách đố, phải chịu nhiều tác động do thay đổi các giá trị vốn bảo vệ và nâng đỡ sự sống và văn hóa gia đình. Kỹ nghệ phát triển, di dân ngày càng đông vì nghèo đói, thất nghiệp hoặc đi tìm một cuộc sống kinh tế tốt hơn; các phương tiện truyền thông xã hội phát triển nhanh ảnh hưởng mạnh trên các gia đình. Đàng khác, tình trạng đó dẫn đến gia đình chịu cảnh ly tán, nảy sinh các vấn đề, về kinh tế cũng như tinh thần, cho các gia đình còn ở lại quê nhà. Trong nhiều trường hợp, những tấn công, ngấm ngầm hay công khai, nhằm vào Giáo hội và các Kitô hữu đây đó đã làm tả tơi các gia đình và cuộc sống gia đình, khiến người ta không thể thực hành đức tin và chính qua đó Giáo hội qua các gia đình sống chứng tá trong âm thầm. Hơn nữa, gia đình còn phải đối diện với một xã hội với nguy cơ ngày càng vô cảm và tự động hóa, phi ngã vị và phi nhân, phát sinh lối sống tiêu cực dưới nhiều hình thái đào thoát tự hủy diệt như nghiện ngập rượu chè, ma túy và khủng bố. Còn có những sức mạnh khác làm cho các gia đình ngày nay co rút chỉ còn như gia đình hạt nhân, con người sống qui vào bản thân nhiều hơn và hôn ước không còn tính chất thánh thiêng nữa. Trong các đô thị, tình trạng ly dị và sống chung không kết hôn trở nên phổ biến. Chủ nghĩa cá nhân, tìm kiếm lạc thú, chủ nghĩa duy vật, thói hưởng thụ, sự kiện nhà nước can thiệp vào đời sống gia đình, não trạng chống thụ thai và lối sống lệ thuộc kĩ thuật, tất cả đang ảnh hưởng bất lợi lên trên đời sống hôn nhân và gia đình ổn định, làm nguy hại đến sự bền vững của xã hội chúng ta và các giá trị của nó.
Một vấn đề nữa, đó là sự thay đổi vai trò của người phụ nữ, dần dần xảy ra trong hầu hết các nước đang phát triển. Trước đây, chỗ đứng của người phụ nữ là ở trong gia đình nhưng nay các chị em còn đi ra ngoài xã hội, theo đuổi một sự nghiệp và đòi hỏi người chồng phải chia sẻ việc nhà. Hậu quả của việc cả cha và mẹ phải đi làm, không còn thời gian nhiều ở với con cái. Nếu họ có con nhỏ, chúng chẳng bao lâu trở thành những đứa bé bị giam hãm trong nhà phải tự xoay sở phục vụ cho mọi nhu cầu của bản thân và như thế dễ làm mồi cho những mối nguy hiểm cheo leo, cả về thể xác cũng như tinh thần.
Trong các nền văn hóa toàn cầu hóa và đô thị hóa ngày nay, bởi phương tiện truyền thông xã hội, những người trẻ dễ bị cuốn hút chạy theo các diễn viên điện ảnh và các ngôi sao, xem họ như những người mẫu thần tượng. Đời sống của những “sao” ấy thường không tương hợp với Kitô giáo, dễ ảnh hưởng trên người trẻ, làm họ bắt chước theo đôi khi cách mù quáng. Quan niệm của họ về hôn nhân gia đình xa với chuẩn mực Kitô giáo. Những đổi thay văn hóa nhanh chóng này, phát triển về khoa học và kĩ thuật kéo theo cả về mặt kinh tế và chính trị, đã và đang ảnh hưởng nặng nề trên các gia đình.[2]
Chính bối cảnh hôm nay như thế đó là một thách đố cho Hội thánh để trợ lực, đồng hành với các gia đình, giúp khám phá lại sứ mệnh của gia đình và trách nhiệm của gia đình để xây dựng một xã hội công bằng và tốt đẹp. Xây dựng một Linh đạo truyền giáo của Hội thánh có tầm quan trọng hàng đầu bởi vì “Gia đình Kitô hữu, cách đặc biệt, mạc khải và đồng thời thực hiện sự hiệp thông trong Hội thánh, vì thế gia đình có thể và phải được gọi là Hội thánh tại gia.[3]” Vì được gọi như thế, sứ mệnh của gia đình trước hết phải là tế bào đầu tiên và sống động của xã hội[4], và góp phần xây dựng nên Dân Thiên Chúa bằng cuộc sống thánh thiện theo đuổi ơn gọi hôn nhân và gia đình[5], và như thế góp phần vào sứ vụ chung của Hội thánh qua việc tham dự tích cực vào đời sống và sứ vụ của giáo hội địa phương, của giáo xứ và xã hội.[6]
Vì phúc lợi của xã hội và thiện ích của Giáo hội được kết hợp chặt chẽ với thiện ích của gia đình, nên xét như là Hội thánh tại gia, gia đình phải được xem cách nghiêm túc như là một thực tại giáo hội. Sở dĩ thế là vì gia đình là hình thái cộng đoàn cơ bản nhất của Giáo hội và là tế bào quan trọng nhất của Giáo hội và xã hội. Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II nói “tương lai của thế giới và Hội thánh đi qua gia đình”[7]. Bởi thế gia đình phải là thành phần của toàn thể thực tại Giáo hội tại địa phương, giáo xứ và giáo hội địa phương.
Sứ mệnh của gia đình là “bảo vệ, mạc khải, và thông truyền tình yêu, đây là một phản ánh sinh động và đồng thời là sự tham dự thực sự vào tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại và tình yêu của Đức Kitô đối với Hội thánh, Hiền Thê Người” (Thánh Gh. Gioan Phaolô II, Về Gia Đình). Sứ mệnh này không khác gì sứ mệnh của Hội Thánh.
2. Sứ mệnh của Gia đình
Nói đến sứ vụ truyền giáo người ta hay nghĩ ngay đến hình ảnh các nhà thừa sai rời bỏ quê hương mình để ra đi đến những miền đất xa lạ để loan báo tin mừng. Tuy nhiên, truyền giáo còn là gì hơn thế. Sứ vụ và “Hoạt động truyền giáo không gì khác hơn, cũng không gì đơn giản hơn là sự biểu lộ hay nói cách khác là sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại, trong đó rõ ràng Thiên Chúa đang hoàn thành lịch sử cứu độ nhờ việc truyền giáo. Qua lời rao giảng và cử hành các bí tích, mà trung tâm và tột đỉnh là bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo tỏ bày sự hiện diện Đấng tác thành công trình cứu rỗi là chính Đức Kitô”[8].
Các văn kiện hậu Công Đồng đều nói rõ sứ vụ truyền giáo là thuộc về mọi người như là thành phần của Hội Thánh, và thuộc về chính bản chất của đời sống Kitô hữu[9]. Hoạt động truyền giáo thật sự gắn liền mật thiết với bản tính của Hội Thánh[10]. Qua các thế kỉ Hội Thánh đã được nhận biết bởi các hoạt động truyền giáo của mình, và hoạt động này đã là dấu chỉ của sức sống của Hội Thánh và khi hoạt động này suy yếu đi đó là dấu chỉ của sự khủng hoảng đức tin[11].
Xưa kia việc truyền giáo này được xem trước hết như là sự ra đi đến những nơi xa xôi để rửa tội và Kitô hóa các dân tộc khác niềm tin. Nhưng thực ra truyền giáo còn là hơn thế nữa, vì: “vâng lệnh Chúa Kitô đồng thời được ân sủng và tình yêu Chúa Thánh Thần thúc đẩy, Giáo hội thực thi sứ mệnh, khi thực sự hiện diện giữa mọi người và mọi dân tộc, bằng cách hoạt động để nhờ gương mẫu đời sống, lời giảng dạy, các bí tích và những phương thế trao ban ân sủng khác, dẫn đưa tất cả đến với đức tin, đón nhận ơn giải thoát và bình an của Chúa Kitô, nhờ đó mở ra con đường thông suốt và vững chắc giúp họ thông dự trọn vẹn vào mầu nhiệm Chúa Kitô”[12].
Dấn thân truyền giáo thực sự đòi hỏi phải đầu tư thời gian, sức lực, tài năng, và điều quan trọng nhất là tạo lập quan hệ cá nhân với người dân, hầu trở nên một chứng từ hiển lộ sự hiện diện của Thiên Chúa đang ở giữa họ. Trước khi dấn thân và bắt đầu một hoạt động nào, tất cả đều cần phải nhận biết rằng truyền giáo có nghĩa là làm chứng và sống một đời sống gương mẫu tỏa sáng cho người khác[13], hầu chính chứng từ của đời Kitô hữu, và những công việc tốt đã làm trong tinh thần siêu nhiên, lôi kéo cách hiệu quả người ta đến với đức tin và gặp gỡ Thiên Chúa; và để thực thi điều Chúa đã nói: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt người ta để họ thấy được những việc tốt lành anh em làm mà ngợi khen Cha anh em ở trên trời” (Mt 5,16).[14]
Hình thức làm chứng đầu tiên là chính cuộc sống của người thi hành sứ vụ, của gia đình Kitô hữu và cộng đoàn hội thánh, biểu lộ một lối sống mới. Bởi vì nó dẫn đưa người ta vào một cách sống trong toàn thể các tập quán, nền văn hóa và môi trường xã hội – kinh tế – chính trị; chúng ta cần nhận biết rằng do bản chất của nó hoạt động truyền giáo nối kết thâm sâu với bản tính con người và khát vọng của con người. Khi bày tỏ Đức Kitô, Hội Thánh đồng thời cũng khai mở cho con người nhận biết chân lý đích thực liên quan đến thân phận và ơn gọi thực sự của họ, vì Đức Kitô chính là nguyên khởi và khuôn mẫu của nhân loại mới, thấm đẫm tình yêu huynh đệ, sự chân tình và tinh thần hòa bình, vốn là những điều mọi người hằng khao khát.[15]
Do hoàn cảnh sống đặc thù sống của mình, ở trong lòng và giữa lương dân, gia đình cần phải dấn mình vào hoạt động truyền giáo vì mục đích của truyền giáo là tiếp tục công trình của Đức Giêsu loan báo Nước Thiên Chúa và mang ơn cứu độ đến cho nhân loại. Bởi đó, “Sứ mệnh của Hội Thánh liên quan đến ơn cứu độ con người, ơn cứu độ nhờ ân sủng của Chúa Kitô và bởi tin vào Người. Như vậy, hoạt động tông đồ của Hội Thánh và của tất cả các tín hữu trước tiên nhằm loan báo sứ điệp của Chúa Kitô bằng lời nói và việc làm, đồng thời chuyển thông ân sủng của Người cho trần gian”[16].
Lệnh truyền của Chúa Giêsu “hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ Thầy” cũng nói với chúng ta ngày hôm nay trong khi thế giới, dẫu phát triển và tiến bộ nhiều, cũng vẫn khao khát tìm kiếm bình an và niềm vui. Như là Kitô hữu đây là thời đại để chúng ta làm chứng nhân. Đối với chúng ta, ngày nay sứ vụ truyền giáo là trực tiếp loan báo Tin mừng, lôi kéo người ta đến để được chia sẻ sự sống của cộng đoàn Thánh Thể.
Để thực hiện cho có hiệu quả chúng ta cần trở nên một dân có một kinh nghiệm thiêng liêng sâu xa về Thiên Chúa, dấn thân trọn vẹn và để cho Thần Khí hướng dẫn vì chỉ trong ánh sáng đức tin và nhờ suy gẫm Lời Chúa mà chúng ta có thể nhận ra được Chúa ở mọi nơi và trong mọi lúc, “trong Ngài chúng ta sống, hoạt động và hiện hữu” (Cv 17,28). Chỉ trong khi tìm kiếm thánh ý Chúa trong mọi biến cố cuộc sống và nhận ra Chúa Kitô nơi mọi người, chúng ta mới có thể thẩm định đúng đắn về ý nghĩa thật và giá trị của các thực tại trần thế, trong bản chất của chúng cũng như trong mối quan hệ với cứu cánh của con người.[17]
Người giáo dân, đặc biệt là người kết hôn, sống giữa đời dễ dàng liên lụy với các việc đời và lãnh lấy nhiệm vụ làm chứng cách cá nhân cho sự thánh thiện và thực tế đã nên một chứng từ thụ động bởi lẽ làm chứng tá còn là gì hơn nữa chứ không chỉ là làm việc lành và đọc kinh. Kitô giáo, còn hơn thế nhiều, mời gọi các cặp và gia đình có lối tư duy hoàn toàn mới mẻ, sẵn sàng vượt qua bản thân mình và sống một đời sống theo Tin mừng. Làm thế, họ sẽ nhận ra: “việc tông đồ không chỉ giới hạn trong việc làm chứng bằng đời sống; người tông đồ đích thực còn tìm dịp loan truyền Chúa Kitô bằng lời nói, hoặc cho những người chưa tin để đưa họ đến với đức tin, hoặc cho những người đã tin để hướng dẫn, củng cố và thúc đẩy họ sống nhiệt thành hơn; quả thật, “tình yêu Chúa Kitô thúc bách chúng ta” (2Cr 5,14), và hãy để lời Thánh Tông Đồ luôn vang vọng trong tâm trí tất cả chúng ta: Khốn cho tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng (1Cr 9,16)”[18].
Trong bí tích hôn phối, sứ mệnh này không được trao cho cá nhân nhưng cho cả gia đình. Khi chúng ta nói về sứ mệnh của gia đình là chúng ta đang nói đến một điều gì duy chỉ cho gia đình. Không một cá nhân hoặc một tập thể hay nhóm người nào có thể hoàn tất công trình của sứ mệnh này trong Hội Thánh cùng một cung cách như gia đình thực hiện. Thật vậy, gia đình được trang bị một cách độc đáo để cho sứ mệnh được thực thi trong Giáo hội. Để hiểu sứ mệnh của gia đình ta cần đến bí tích hôn phối. Trung tâm sứ mệnh này của gia đình là đôi vợ chồng, kẻ nhận thấy hôn nhân của mình vốn là một ơn gọi của Hội Thánh và cho Hội Thánh. Họ ý thức mình là Tông đồ, và là nhà Loan báo Tin mừng và những chứng nhân Phúc Âm trọn vẹn. Mặc dù họ nhận biết mình luôn là người chồng và là người vợ, luôn là cha là mẹ; nhưng họ cũng được mời gọi luôn là Kitô hữu hiến dâng sự sống mình và cởi mở ra với sự sống mới và phong nhiêu nơi đàn con cái. Bởi thế, ta có thể nói rằng: chìa khóa để mở lối vào bản chất bí tích của hôn nhân là xem hôn nhân như là một quan hệ giữa một người nam và một người nữ hướng đến những con người phối ngẫu hợp nhất và hoàn hảo và là Kitô hữu, để họ sinh hạ và phát triển những con người mới và Kitô hữu mới.
Cơ sở của sứ mệnh gia đình phải khởi đi từ chính các cặp. Đôi bạn không còn chỉ là hai người bạn quyết định sống chung với nhau và cho nhau, nhưng bởi hôn ước họ trở thành một dấu chỉ của tình yêu Chúa Kitô và Hội Thánh và được gọi sống cách phù hợp cuộc đời của họ. Vì tình yêu của Chúa Kitô với sức mạnh cứu chuộc trong hôn nhân Kitô giáo được biểu lộ trong những hoàn cảnh sống của gia đình khác nhau, cho nên mỗi dấu chỉ yêu thương biểu lộ giữa vợ và chồng là một diễn tả ý muốn thông truyền sự sống của Chúa Kitô cho người khác. Tình yêu vợ chồng dành cho nhau đòi hỏi hơn rất nhiều không chỉ là những điều tốt đẹp làm cho nhau. Mục đích không chỉ là sống chung hòa bình nhưng là hợp nhất trong tình yêu thương thân mật vợ chồng, điều đó không chỉ vì hạnh phúc riêng tư của họ, nhưng còn vì Hội Thánh và vì sứ mệnh của Hội Thánh nữa.
Truyền giáo không chỉ thuộc vai trò của giáo sĩ và tu sĩ, nhưng là nhiệm vụ cơ bản của toàn thể gia đình Kitô giáo tham dự tích cực vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Điều này thật quan trọng vì gia đình Kitô hữu, như một “Hội Thánh thu nhỏ” được mời gọi theo hình ảnh của “Hội Thánh lớn”, trở nên một dấu chỉ của sự hiệp nhất cho thế giới và qua đó mà thực thi vai trò tiên tri của mình là làm chứng cho Vương quốc và sự bình an của Đức Kitô, điều mà toàn thế giới đang hướng về.[19]
Sứ mệnh gia đình đòi hỏi các thành viên trong gia đình, cha mẹ và con cái, phải sống yêu thương nhau, và mọi thành viên đều dấn mình vào sứ mệnh vì đó là một sứ mệnh gia đình chứ không chỉ là một sứ mệnh của những kẻ tình cờ là những thành viên của một gia đình. Cứ điểm truyền giáo của gia đình trước hết là ở trong chính gia đình và trong cộng đồng láng giềng nơi ta sống; để rồi mở ra với cộng đồng giáo xứ và đến sở làm. Sứ mệnh đầu tiên của gia đình là mạc khải Hội Thánh cho chính gia đình. Đó không phải là làm một điều gì phục vụ cho Hội Thánh như là gia đình, nhưng là sống ý nghĩa của gia đình không chỉ như là khuôn mẫu mà còn như là men kêu mời dân Chúa sống như là một gia đình của Thiên Chúa. Chính trong môi sinh đó gia đình trở thành như men trong xã hội. Chứng tá gia đình rất đẹp ấy là sứ mệnh ưu tiên số một hơn mọi việc phục vụ trong các bối cảnh khác, cả việc phục vụ trong Giáo hội cơ chế.
3. Gia đình và Thánh Thể
Thánh Thể đã luôn luôn và sẽ mãi là trung tâm điểm của đời sống Hội Thánh bởi vì Thánh Thể vừa có nghĩa vừa thực sự thông dự vào sự sống của Thiên Chúa và hiệp nhất dân Chúa nhờ đó mà Hội Thánh hiện hữu. Thánh Thể là đỉnh cao của việc nhờ đó Thiên Chúa thánh hóa thế giới trong Đức Kitô, và đỉnh cao của việc thờ phượng Chúa Kitô và nhờ Người thờ phượng Thiên Chúa Cha trong Chúa Thánh Thần.
Đối với Hội Thánh, Thánh Thể là sự tưởng niệm việc Chúa Giêsu chịu chết và sống lại. Đó là bí tích của tình yêu của Thiên Chúa và cũng là hoàn tất sứ vụ vì đó mà Chúa Giêsu đã đến trần gian. Vì thế, mỗi hoạt động, mỗi việc phục vụ, và mọi bí tích khác đều nối kết với Thánh Thể và hướng đến Thánh Thể, làm Thánh Thể trở nên là trung tâm của đời sống Kitô giáo.
Thánh Thể và Hôn phối rất giống nhau vì cả hai bí tích đều liên hệ đến Giao ước giữa Thiên Chúa và con người. Thế nhưng, trong khi Hôn phối là dấu chỉ của Giao ước Thiên Chúa với con người trong Chúa Giêsu Kitô; thì Thánh Thể là sự làm mới lại Giao ước và làm cho Giao ước thành hiện thực. Trong bí tích Thánh Thể chúng ta tưởng niệm Mầu nhiệm Vượt Qua, còn trong bí tích Hôn phối đôi vợ chồng sống mầu nhiệm ấy trong tình yêu, vì đời sống hôn nhân và gia đình mang những đau khổ không kể xiết và thánh giá là thành phần của cuộc sống ơn gọi ấy để nó trở thành trọn vẹn. Yêu là tự hiến, không thể yêu mà lại muốn chạy trốn thập giá. Chỉ trong tình yêu, giống như mầu nhiệm Thánh Thể, hôn nhân mới trở nên là hiến ban sự sống, và trong hình thức cao cả nhất của nó, hôn nhân mang lấy khuôn mặt của Thập giá và lấy Chúa Kitô Chịu-Đóng-Đinh làm người mẫu cho mình. Nếu hôn nhân gia đình là dấu chỉ của Giao ước, thì nó không thể tách rời khỏi dấu chỉ của Giao ước trung tâm, là Thập Giá. Ở đâu người ta tuyên bố tình yêu mà loại bỏ thập giá, ở đó không có tình yêu con người đích thực.
Vì vậy, có thể nói, hôn nhân Kitô giáo là một cuộc Vượt Qua và đôi bạn là lời nhắc nhở cho nhau, cũng như cho con cái và cho giáo hội cũng như thế giới, về những gì đã xảy ra trên Thập Giá, và một cách thâm sâu họ thông dự vào hành động cứu độ.
“Hôn nhân, như mọi bí tích khác, là một sự tưởng niệm, hiện tại hóa và là lời tiên tri về biến cố cứu độ. Là một sự tưởng niệm, bí tích này ban cho họ ân sủng lẫn bổn phận phải tưởng niệm những kì công của Thiên Chúa và làm chứng về những kì công ấy trước mặt con cái. Là một sự hiện tại hóa, bí tích ban cho họ ân sủng lẫn bổn phận phải thực hành trong hiện tại những đòi hỏi của một tình yêu tha thứ và cứu chuộc, giữa họ với nhau và giữa họ với con cái. Là một lời tiên tri, bí tích ban cho họ ân sủng và bổn phận sống và làm chứng về niềm hi vọng sẽ được gặp gỡ Đức Kitô sau này”[20].
Thánh Thể trong đời sống của đôi bạn và trong đời sống của mọi thành viên trong Hội Thánh rất quan trọng và nền tảng, vì ý muốn của Chúa Giêsu là tất cả chúng ta phải nên một (Ga 17,21) và được quy tụ lại dưới sự hướng dẫn của chỉ một Chủ Chiên (Ga 10,16). Chính nhiệm tích tấm bánh Thánh Thể diễn tả và thực hiện sự hợp nhất các tín hữu, những người kết nên một thân mình trong Đức Kitô[21]. Và vì “khi thực sự thông phần vào Thân Mình của Chúa trong việc bẻ bánh Thánh Thể, chúng ta được đưa vào hiệp thông với Người và với nhau. Vì chỉ có một tấm bánh, và tất cả chúng ta tuy nhiều người, chúng ta cũng chỉ là một thân thể. Bằng cách này tất cả chúng ta được trở nên những chi thể của Thân Mình Người, vì mỗi người đều là chi thể của nhau”[22].
Bởi đó, Thánh Thể là bí tích của tình yêu và hiệp thông, xây dựng nên Hội Thánh, bởi vì chính nhờ bí tích Thánh Thể mà Hội Thánh không ngừng sống và tăng trưởng. Hôn nhân cũng là một bí tích của tình yêu và hiệp thông. Nhưng Thánh Thể là nguồn mạch của Bí tích Hôn nhân và chính nhờ tham dự tích cực vào bí tích Thánh Thể mà đôi bạn lớn lên trong tình yêu và hiệp thông; cho họ sức mạnh để hoàn tất mọi trách nhiệm của đời sống hôn nhân. Khi cử hành Thánh Thể đôi bạn và gia đình dâng lên Thiên Chúa Cha nhờ Đức Kitô, mọi công việc, niềm vui đời sống hôn nhân và gia đình, và tất cả những gì họ sống lời thề nguyện hôn phối.
Chính nhờ tham dự thường xuyên Bí tích Thánh Thể mà đôi bạn và gia đình về mặt thiêng liêng nâng đỡ nhau trong ân sủng qua toàn bộ đời sống tăng trưởng trong tình yêu thương và hiệp thông với nhau. Kinh nghiệm về tình yêu Chúa trong hiến tế Thánh Thể được đôi vợ chồng và gia đình khám phá ra ý nghĩa trong những hi sinh của đời sống gia đình.
Đối với đôi hôn phối và gia đình, sống một đời sống viên mãn bao hàm việc tham dự và chia sẻ tấm bánh cuộc đời mình tại ba cái bàn, Bàn tiệc Thánh Thể, Bàn ăn Gia đình, và Bàn thờ Giường cưới. Việc tham dự và bẻ tấm bánh cuộc đời mình tại ba chiếc bàn này mang lại cho đời sống hôn nhân và gia đình tính Công giáo.
Gia đình còn được củng cố hơn nữa khi dành thời gian để cầu nguyện, riêng và chung cùng nhau vì thật đúng khi người ta nói rằng gia đình cùng cầu nguyện thì cùng sống bên nhau (family that prays together stays together).
4. Gia đình và Cộng Đoàn Kitô Nhỏ
Cộng Đoàn Kitô Nhỏ (CĐKN) còn gọi là Cộng Đoàn Kitô Cơ Bản (CĐKCB) hay Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản (CĐGHCB). Việc thiết lập Cộng Đoàn Giáo Hội Cơ Bản trong nhiều Giáo phận đặt trên cơ sở các gia đình sống trong cùng một khu vực hay vùng địa lí tương đối gần nhau. Sự liên đới của làng xóm láng giềng nhất là khi ‘tối lửa tắt đèn’ rất được quí trọng ở miền quê cũng như thành thị Việt Nam. Tục ngữ Việt Nam có câu “bán bà con xa mua láng giềng gần”. Các gia đình lân cận được qui tụ lại với nhau thành các Nhóm được gọi là Cộng Đoàn Kitô Nhỏ như Xóm Đạo Nhỏ. Các CĐKN này làm thành một nhóm các gia đình (liên gia) sống trong cùng một địa phương, nơi đó họ có thể gặp gỡ nhau đều đặn cũng như tương tác với nhau thường xuyên hoặc hằng ngày. Họ có chung những vấn đề, niềm vui nỗi buồn thường nhật và sống kinh nghiệm Hội Thánh tại địa phương.
Thánh Kinh nói với chúng ta các cộng đoàn hội thánh sơ khai hiểu thế nào là Hội Thánh khi “họ chia sẻ mọi sự với nhau và không ai thiếu thốn một điều gì” và làm chứng về Chúa phục sinh với lòng hân hoan vui vẻ, và số tín hữu ngày mỗi gia tang (Cv 2; 4).
Đàng khác, khi các gia đình cùng xóm giềng mà không sống tình liên đới và hiệp thông với nhau, thì đức tin không được thông chuyển và giá trị chứng tá của đời sống đức tin bị thiệt hại. Nhiều người nhận định rằng:
– Dân chúng đói khát Lời Chúa và họ đã không nhận được lương thực thiêng liêng trong cộng đoàn giáo xứ đủ để dưỡng nuôi mình;
– Có một khao khát sâu sắc được chăm sóc mục vụ;
– Mất cảm thức cộng đoàn trong các giáo xứ của chúng ta, vì giáo dân cảm giác mình như lạc lõng trong một đám đông vô danh.
Tình trạng đó là do nhiều nhân tố đang tác động đến gia đình, như chủ nghĩa cá nhân đang trở thành ngày càng thịnh hành, và tôn giáo cũng như ảnh hưởng của tôn giáo trên đời sống con người ngày càng trở nên ít quan trọng, các thứ linh đạo liên hệ tới đời sống ngày càng nhiều bị đặt thành vấn đề.
Giải đáp cho vấn đề của chúng ta ở đây là Các Cộng Đoàn Kitô Nhỏ, những tập thể nhỏ này giúp các tín hữu sống niềm tin, cầu nguyện và yêu mến cộng đoàn giống như các Kitô hữu thời sơ khai (cf. Cv 2,44-47; 4,32-35). Các Cộng Đoàn nhỏ giúp các thành viên mình sống Phúc âm trong tinh thần huynh đệ yêu thương và phục vụ, và từ đó là một khởi đầu chắc chắn để kiến tạo một xã hội mới, tỏ lộ nền văn minh tình thương[23] và là những tác nhân công cuộc phúc âm hóa[24].
Chính trong bối cảnh đó mà Liên Hiệp các Hội Đồng Giám Mục Á Châu (FABC) tại Đại hội Toàn Thể lần thứ V tuyên bố rằng Hội Thánh tại Châu Á cần phải là mối hiệp thông của các Cộng Đoàn với những đặc tính mong ước sau đây:
1/ Giáo sĩ, tu sĩ và Giáo dân sống như anh chị em
2/ Lấy Lời Chúa làm trung tâm
3/ Một Giáo hội tham gia.
4/ Cộng đoàn Làm chứng và Loan báo tin mừng.
5/ Một dấu chỉ tiên tri của Nước Chúa giữa môi trường xung quanh.
6/ Lãnh đạo phục vụ với tinh thần phi-thống-trị.
7/ Sống Linh đạo Con Đường (Cách Thế) Mới.
8/ Một cộng đoàn làm việc cho đối thoại liên tôn và sự hài hòa nhân bản.
Từ đó đã thực sự có những bước phát triển tích cực, ý thức hơn về chỗ đứng và vai trò của gia đình trong việc xây dựng các Cộng đoàn cơ bản hội thánh hay dân sự để hướng đến một cách hiện diện mới của Hội Thánh.[25] Gia đình như là Hội Thánh tại gia được mời gọi sống ơn gọi của mình trong ánh sáng của Tin mừng và thực thi sứ mệnh trở thành cộng đoàn sự sống và tình yêu trong Nước Thiên Chúa. Huấn Quyền Hội Thánh gợi ý mỗi giáo xứ phải có Hiệp hội các gia đình nhằm phục vụ các gia đình, có vai trò làm dấy lên một ý thức bén nhạy về tình liên đới, làm chứng tá cho Tin mừng, từ đó giúp củng cố đức tin, huấn luyện lương tâm sống các giá trị Kitô giáo và trở thành một nguồn nâng đỡ lẫn nhau, để các tín hữu trở thành muối men trong xã hội và giáo hội.[26] Để dễ dàng đạt tới mục đích này các gia đình nên quy tụ thành các hội đoàn.[27]
Hiệp hội các gia đình nhằm phục vụ các gia đình xét như là các Cộng Đoàn Kitô Nhỏ đã hiện diện và sống trong hàng ngàn Cộng đoàn nhỏ trên thế giới, đặc biệt tại các Giáo hội tại Á châu. Các Cộng đoàn này được hình thành do cha xứ hoặc được ngài tham vấn. Cộng đoàn nhỏ này được điều hợp bởi chính cha xứ hoặc một người được ngài ủy thác có đời sống đức tin chắc chắn và sâu sắc, nhằm mục đích củng cố đức tin các gia đình qua huấn giáo các gia đình, làm sao để các cha mẹ làm giáo lý viên đầu tiên cho con cái mình, biến gia đình thành nhà cầu nguyện nơi có Chúa Kitô ở giữa trung tâm. Cộng đoàn thực hiện bằng hai khí cụ cốt yếu là Lời Chúa được sống và chia sẻ thường xuyên và sứ vụ tông đồ cùng nhau xem-xét-làm xuất phát từ đức tin.
5. Gia đình và Lời Chúa
Khi Chúa Giêsu nói «nếu các ông ở lại trong lời của tôi, thì các ông thật là môn đệ tôi; các ông sẽ biết sự thật, và sự thật sẽ giải phóng các ông,» (Ga 8,31-32) đó là Người nhắc nhở chúng ta rằng việc làm môn đệ Người hệ tại ở sự trung thành sống Lời Chúa. Biết và sống Lời Chúa phải dẫn đưa ta vào quan hệ thâm sâu với Thiên Chúa hơn nhờ Chúa Thánh Thần[28]. Hội Thánh được mời gọi trở thành dấu chỉ bí tích của ơn Cứu độ và các Gia đình trong các CĐKN nhờ đức tin sâu sắc và sự dấn thân nghe và thực hành Lời Chúa xây dựng mình và cộng đoàn trở thành anh em chị em với Đức Giêsu (cf. Lc 8,19-21). Các gia đình trong các CĐKN tại những buổi hội họp chia sẻ Lời Chúa bằng các phương pháp khác nhau, chẳng hạn như ‘Chia sẻ Phúc âm theo 7 bước’, ‘Nhìn, Nghe, Yêu’, ‘các chương trình Amos’, v.v… Gặp gỡ đó với Chúa Phục Sinh dẫn các gia đình trong các CĐKN trở thành các cộng đoàn tiên tri qua việc sống cam kết của bí tích Rửa tội thông dự vào ba chức vụ của Chúa Kitô. Lời Chúa và Bí tích liên kết chặt chẽ với nhau[29] dẫn tới sự sống viên mãn trong Hội Thánh và trong các CĐKN. Các cộng đoàn nhỏ gồm các gia đình cần được tạo lập tại đó các tín hữu cùng nhau thực hành việc cầu nguyện và suy niệm chung những đoạn Kinh Thánh được chọn.[30] Chính khi chia sẻ tấm bánh Lời Chúa và sống Lời Chúa trong bầu khí riêng tư và gia đình như thế mà các gia đình trong các CĐKN tham dự vào đời sống và sứ vụ của Hội Thánh. Ý thức rằng chỉ khi trung thành với Lời trong thực hành ta mới có thể loan báo Lời cách hiệu quả trong cuộc sống, các gia đình trong các CĐKN cố gắng triển nở trong mối thâm tình đó phản chiếu trong cuộc sống như những chứng nhân cho Tin Mừng, vì “con người ngày sẵn sàng nghe các chứng nhân hơn thầy dạy, và nếu như họ nghe các thầy dạy đó là vì các thầy dạy cũng là chứng nhân”[31].
6. Vai trò của Gia đình trong công trình Phúc Âm hóa.
Gia đình được mời gọi tham dự vào sứ vụ của Hội Thánh và thực hiện điều đó theo cung cách riêng của gia đình. Sứ vụ của gia đình phải luôn hòa hợp trong sứ vụ của Hội Thánh, vì sứ vụ và hiệp thông nối kết sâu xa với nhau. Cái này ở trong và bao hàm cái kia đến độ hiệp thông chính vừa là nguồn mạch vừa là kết quả của sứ vụ: hiệp thông tạo nên sứ vụ và sứ vụ hoàn tất hiệp thông.[32]
Gia đình như là thành phần của Hội Thánh chỉ có một sứ vụ là Phúc Âm hóa. Phần lớn trách nhiệm đó ở nơi người giáo dân và các gia đình vì họ chiếm phần đa số và vì tính cách quan trọng của môi trường lao động và thường trú của họ giữa đời, cũng như vô số cơ hội để làm chứng. Các lãnh vực nơi các gia đình có thể làm chứng và phúc âm hóa rất hiệu quả là các lãnh vực của việc tái phúc-âm-hóa, hoạt động truyền giáo và đối thoại liên tôn.
Cách thế hiện diện mới của Hội Thánh ngày nay qua các CĐKN phát triển việc tân phúc-âm-hóa và phúc-âm-hóa dựa trên Lời Chúa. Hoa trái phong phú từ thực tế cho ta hi vọng vì con người ngày nay tin vào chứng từ hơn thầy dạy, tin trải nghiệm hơn các giáo huấn và tin vào đời sống và hành động hơn lí thuyết.[33] Thực tế nhiều nơi cho thấy ở đâu có các cộng đoàn, đời sống của các thành viên tham gia tích cực biến đổi, gia đình của họ hạnh phúc hơn và cầu nguyện nhiều hơn. Đời sống của họ qua một thời gian trở thành đời chứng nhân ảnh hưởng trên các gia đình chung quanh. Họ trở thành là trung tâm của phúc-âm-hóa và tân phúc-âm-hóa, ảnh hưởng của họ như chất men trong bột. Hình thành các CĐKN trong cuộc sống người dân tạo cơ hội rất tốt cho các gia đình tham gia vào đời sống của Giáo hội, họ có thể góp phần tài năng của họ làm cho chính họ được triển nở và làm triển nở người khác. Chính nơi đây gia đình thực sự trở thành trao hiến sự sống và hướng tới sứ vụ.
7. Sứ mạng của Gia đình trong CĐKN
Như một thân thể cấu thành bởi nhiều tế bào và mỗi tế bào được liên kết với nhau trong mối quan hệ với thân thể, cũng vậy gia đình như một tế bào của Hội Thánh chỉ có nghĩa khi liên kết với nhau trong địa phương như là CĐN cũng là Hội Thánh trong vùng đó. Mối quan hệ này và nhu cầu hiệp nhất bắt đầu trước hết từ trong gia đình nơi mà mỗi thành viên như một tế bào liên kết với các thành viên khác và cùng nhau tạo nên thân thể, là gia đình. Chỉ trong các mối liên kết hợp nhất và quan hệ gia đình mới có thể phản ánh tình yêu và quan hệ của Thiên Chúa Ba Ngôi.
Vì các CĐKN là Hội Thánh ở xóm làng địa phương, nên CĐKN được mời gọi trở thành điều mà Hội Thánh được mời gọi, là hiện hữu cho xứng hợp với căn tính của mình và loan báo tin mừng. Hội Thánh do bản chất mình là truyền giáo[34] vì Hội Thánh chỉ có một sứ vụ là loan báo tin mừng. Hoạt động loan báo tin mừng ban cho Hội Thánh chính căn cước của mình; đó không phải là một tùy chọn nhưng là một bổn phận phát xuất từ lệnh truyền của chính Chúa Giêsu Kitô.
Nhưng để Hội Thánh có thể làm người loan báo tin mừng trước tiên Hội Thánh phải được thanh luyện và được loan báo tin mừng cho chính mình trước khi sai đi các nhà thừa sai. Trước khi được sai đi người môn đệ phải ‘ở với’ Chúa Giêsu và kết mối quan hệ cá nhân với Người trước đã, bởi vì “loan báo tin mừng không gì khác hơn là loan báo điều mình đã kinh nghiệm và lời mời gọi bước vào mối hiệp thông mầu nhiệm với Chúa Kitô” và “một tông đồ là người được sai đi, nhưng trước hết là một ‘chuyên viên về Đức Giêsu’.” (ĐGH Bênêđictô XVI) . Công trình loan báo tin mừng này tuôn trào từ một quan hệ cá nhân thâm sâu với Chúa Giêsu vì hoạt động truyền giáo là một đáp trả tình yêu mà Chúa đã dành cho ta; tình yêu của Người cứu chuộc chúng ta và thúc bách chúng ta ra đi truyền giáo cho muôn dân (missio ad gentes).
Kết luận
Lời Chúa mời gọi chúng ta hướng tới hiệp thông và truyền giáo. Huấn Quyền dạy “Hội Thánh ở Á châu phải là mối hiệp thông của các cộng đoàn, tại đó giáo dân, tu sĩ và linh mục nhận biết và đón nhận nhau như anh chị em”[35]. Từ đó chúng ta kết luận nếu Hội Thánh với tư cách như là Gia đình và các Cộng Đoàn Kitô Nhỏ là thật sự thích đáng cũng như là dấu chỉ bí tích của ơn Cứu độ, thì mọi nguồn lực và nỗ lực của chúng ta phải được tập trung vào việc đào tạo các gia đình cho các CĐKN: Hội Thánh địa phương tại làng xóm chúng ta.
Theo Mr Gordon Morris, Secunderabad, “SCCs and Families” in Breaking Ground
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGM VN, Số 91 (Tháng 11 & 12 năm 2015)
[1] Cf. GLGHCG 2202, 2203.
[2] Cf. FABC Đại hội lần thứ 8, Gia đình châu Á hướng về nền Văn hóa sự Sống toàn diện, s.3.
[3] FC 21; cf. LG 11.
[4] Cf. AA 11.
[5] Cf. BGL đ.226.
[6] Cf. FC 49.
[7] FC 75.
[8] AG 9.
[9] Cf. Redemptoris Missio 1.2.
[10] Cf. AG 6.
[11] Cf. Redemptoris Missio 2.2.
[12] AG 5.
[13] Cf. Redemptoris Missio 26.
[14] Cf. AA 6.
[15] Cf. AG 8.
[16] AA 6.
[17] Cf. AA 4.
[18] AA 6.
[19] Cf. FC 48, 49.
[20] FC 13.
[21] Cf. LG 3.
[22] LG 7.
[23] Cf. RM 51.
[24] Cf. EN 58.
[25] Cf. FABC, Đại hội Toàn thể lần thứ VIII, s. 46.
[26] Cf. FC 72.
[27] Cf. AA 11.
[28] Cf. DV 2.
[29] Cf. Verbum Domini (VD) 52-55.
[30] Cf. VD 85.
[31] Evangelii Nuntiandi 41.
[32] FABC, Đại hội Toàn Thể lần thứ VIII, số 46.
[33] Cf. RM 41.
[34] AG 2; 6.
[35] Tuyên bố Chung kết của Đại hội Toàn thể FABC lần thứ V, Bandung 1990, số 8.11.
2021
Kinh Mân côi – Nguồn gốc và sự phát triển
NHẬP ĐỀ
Bài chia sẻ này không phải là một suy niệm theo nghĩa chặt (mặc dù ở phần kết, chúng ta sẽ thấy rằng bản chất của kinh Mân Côi là việc suy niệm hoặc chiêm niệm các mầu nhiệm của Chúa Kitô), nhưng chỉ trình bày lịch sử kinh Mân Côi theo những nghiên cứu trong thế kỷ XX. Năm nay chúng ta mừng hai kỷ niệm lịch sử quan trọng.
1/ Thứ nhất là kỷ niệm 800 năm ngày tạ thế của thánh Đa Minh. Nếu không phải tất cả các bức họa vẽ thánh Đa Minh đều gắn liền với kinh Mân Côi, thì ngược lại, có đến 80 phần trăm các bức học về Đức Mẹ Mân Côi đều có sự hiện diện của thánh Đa Minh; 20 phần trăm còn lại thì sao? Thưa rằng 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Lộ Đức và 10 phần trăm dành cho Đức Mẹ Fatima. Trong cả hai lần hiện ra này, Đức Mẹ đều mang tràng chuỗi và khuyến khích đọc kinh Mân Côi nhưng không có thánh Đa Minh đi kèm; nhưng mỗi khi đề cập đến nguồn gốc kinh Mân Côi thì không thể nào vắng bóng thánh Đa Minh. Theo tục truyền, chính Đức Mẹ đã hiện ra trao tràng hạt cho thánh Đa Minh, và thậm chí người ta còn xác định thời gian và nơi chốn nữa: đó là vào năm 1208, tại Prouilhe (miền Nam nước Pháp). Lúc ấy thánh Đa Minh đang giảng đạo cho lạc giáo Albigeois, và không được thành công cho lắm; thế nhưng nhờ chuỗi Mân Côi từ trời ban, ngài đã thu được kết quả phi thường.
2/ Kỷ niệm thứ hai đáng nhớ trong năm nay là chiến thắng của đội quân Kitô giáo ở Lepanto, ngày 7/10/1571 (nghĩa là cách đây 450 năm), đưa đến việc thiết lập lễ Mân Côi trong lịch phụng vụ. Ngoài ra, còn một kỷ niệm nho nhỏ nữa, như sẽ nói sau, là năm nay kỷ niệm 600 năm ấn định hình thức đọc kinh Mân Côi (năm 1421).
Thế nhưng, từ cuối thế kỷ XIX, kỷ niệm thứ nhất đã bị khoa lịch sử xét lại, theo đó thánh Đa Minh chẳng có dính dáng gì đến kinh Mân Côi hết! Vấn nạn dựa trên hai luận cứ chính: thứ nhất, các tài liệu cổ điển không hề nhắc đến việc thánh Đa Minh rao giảng Kinh Mân Côi; thứ hai, kinh Mân Côi được thành hình qua một tiến trình kéo dài nhiều thế kỷ: một đàng nó bắt đầu trước khi thánh Đa Minh xuất hiện, đàng khác nó hoàn tất gần 300 năm sau khi thánh nhân qua đời. Phần lớn bài nói chuyện hôm nay được dành cho luận cứ thứ hai, ôn lại nguồn gốc và sự tiến triển của kinh Mân Côi, bởi vì luận cứ thứ nhất đơn giản, khỏi cần dài dòng. Thực vậy, các nguồn sử liệu đầu tiên kể lại cuộc đời của thánh nhân và việc thành lập Dòng Giảng thuyết (thế kỷ XIII) [1], không hề đả động đến kinh Mân Côi, mặc dù nói rất nhiều về lòng hiếu thảo của ngài cũng như của thế hệ tiên khởi của Dòng đối với Đức Thiên Chúa Thánh Mẫu, mà dấu chỉ độc đáo nhất là các anh em khấn vâng lời Người[2]. Bài này gồm hai phần. Trước hết, chúng ta sẽ theo dõi sự tiến triển của Kinh Mân Côi dưới hai khía cạnh: hình thức và nội dung (hay nói kiểu kinh viện: chất thể và mô hình). Kế đó, xin đưa ra vài suy nghĩ về bản chất kinh Mân Côi, thêm vào vài nhận xét liên quan đến bối cảnh Việt Nam, cách riêng là chuyện từ ngữ. Tạm thời, chúng ta tạm dùng hạn từ “Mân Côi” vì đã quen thuộc, mặc dù trên thực tế, có khi còn được gọi là Mai khôi, Môi khôi, Văn côi; thời xưa gọi là kinh Rosa (mà ta có thể dịch là “hoa hồng” hay “bông hường”).
- LỊCH SỬ TIẾN TRIỂN KINH MÂN CÔI
Như vừa nói, kinh Mân Côi có một tiến trình hình thành kéo dài nhiều thế kỷ trước và sau cuộc đời ngắn ngủi của thánh Đa Minh (k.1172-1221). Thực ra, nói đến sự tiến triển của kinh Mân Côi không phải là chuyện đơn giản. Để có thể nói đến sự tiến triển, trước phải xác định căn tính của nó: cái gì làm nên kinh Mân Côi? phải chăng đó là đọc 150 (hay là 50, hay là 200) kinh Kính Mừng? Việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng đã đủ để cấu thành Kinh Mân Côi chưa, hay còn phải kèm theo việc suy gẫm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Giêsu nữa? Ta tạm coi đây là khía cạnh hình thức; còn phần nội dung thì phải thêm vài câu hỏi nữa: đây là kinh nguyện dâng kính Đức Mẹ hay là kính nguyện hướng về Chúa Giêsu? Nên xếp vào khẩu nguyện hay tâm nguyện, suy niệm hay chiêm ngắm? Xin thưa trước rằng những câu hỏi vừa nói chỉ tìm được giải đáp vào giai đoạn cuối, chứ không phải vào lúc khởi đầu công trình, tựa như một ngôi nhà chỉ mặc hình thù nhất định sau khi đã hoàn thành, chứ vào lúc khởi công thì chỉ thấy một đống gạch và bao xi-măng. Bây giờ chúng ta hãy bắt đầu với việc thu gom chất liệu, rồi dần dần cất lên ngôi nhà.
- Tiến triển về hình thức
Về hình thức cấu thành kinh Mân Côi, chúng ta sẽ lần lượt tìm hiểu lịch sử của các yếu tố sau đây: 1) tràng chuỗi đọc kinh; 2) bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ; 3) liên kết với cuộc đời Chúa Cứu thế.
1/ Chuỗi đọc kinh
Lối tiếp cận đơn giản nhất là xâu chuỗi (“lần chuỗi Mân Côi”). Trong lịch sử các tôn giáo, việc sử dụng xâu chuỗi để đọc kinh không phải là cái gì độc đáo của Kitô giáo. Chung quanh ta, Phật giáo cũng có tràng chuỗi, với nhiều loại khác nhau, từ 16,18 cho đến 108 hạt. Tôi còn nhớ bài thơ “Hương Sơn phong cảnh ca” của Chu Mạnh Trinh được học thuộc lòng khi còn ở cấp hai: “Lần tràng hạt, niệm Nam mô Phật”. Đi xa hơn một chút về phía Tây, các tín đồ Islam cũng có tràng chuỗi 99 hạt kính các danh hiệu của Thượng Đế. Chúng ta cũng biết là các tràng chuỗi được dùng bằng các chất liệu khác nhau (xương, đá, ngà voi, thủy tinh, vân vân). Các đan sĩ Đông phương Kitô giáo cũng sử dụng các xâu chuỗi khi niệm danh Chúa Giêsu (Lạy Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa, xin thương xót con là kẻ tội lỗi). và lặp đi lặp lại cả ngàn lần mỗi ngày[3]. Không hiểu tục lệ này là do sáng kiến của các đan sĩ, hay là chịu ảnh hưởng của các Ấn giáo và Phật giáo. Cần nói thêm là bởi vì các đan sĩ nghèo cho nên họ không chế ra những chuỗi hạt đắt tiền, mà chỉ dùng những sợi dây thắt nút[4].
2/ Tràng chuỗi 150 kinh Kính Mừng
Như vừa nói, tràng chuỗi chỉ là một dụng cụ để đếm, và cụ thể là đếm các kinh đọc vắn tắt. Từ đó ta có thể mường tượng nhiều loại chuỗi khác nhau, tùy theo chúng được sử dụng để đọc kinh gì. Đến đây, chúng ta hãy tiến thêm một bước nữa, đó là tràng chuỗi 150 hạt. Chúng ta hãy để các tôn giáo khác ra ngoài và chỉ tập trung vào đạo Công giáo. Tràng chuỗi 150 hạt dùng để đọc kinh gì? Thưa để đọc 150 thánh vịnh. Nên biết là cho đến công đồng Vaticanô II, các tu sĩ mỗi tuần phải đọc trọn bộ thánh vịnh (cuộc cải tổ dưới thời ĐTC Phaolô VI năm 1970 kéo dài ra chu kỳ 4 tuần như hiện nay). Các tu sĩ nào không đọc tiếng Latinh thì thay thế 150 thánh vịnh bằng 150 kinh Lạy Cha. Tục lệ này được ghi nhận nơi các tu sĩ Cluny (dòng Biển Đức) vào thế kỷ X.
Sang thế kỷ XI, nhờ việc cổ động lòng kính mến Đức Mẹ của thánh Bênađô (1090-1153), ngoài tràng chuỗi 150 kinh Lạy Cha, các đan sĩ Xitô còn thêm tràng chuỗi 150 hạt để đọc kinh Kinh Mừng. Tràng chuỗi được gọi là bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ (Psalterium Beatae Mariae Virginis). Nên lưu ý là đang khi kinh “Lạy Cha” đã có hình thức cố định trong Tân Ước (với hai mẫu thức theo Tin Mừng Matthêu 6,9-13 và Luca 11,9-13, tuy mẫu thức của Matthêu phổ biến hơn), thì kinh “Kính Mừng” phải chờ 16 thế kỷ mới mang hình thức cố định. Trong thiên niên kỷ thứ nhất, có người đã sử dụng lời chào của sứ thần và của bà Elizabeth để chào Đức Maria (Lc 1,28.42), nhưng mãi đến thế kỷ XI, người ta mới dùng như lời cầu nguyện, và kết thúc tại đó (Ave Maria gratia plena, Dominus tecum, / benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui). Thánh danh “Giêsu” được thêm vào giữa thế kỷ XII. Phần thứ hai của kinh Kính Mừng xuất hiện từ thế kỷ XIV (nghĩa là sau thánh Đa Minh), lúc đầu ngắn ngủi (“Sancta Maria, ora pro nobis”), rồi dần dần, mỗi nơi mỗi thời kèm thêm một vài lời khẩn nài (chẳng hạn: “xin Mẹ cầu cho chúng con là kẻ tội lỗi”). Mãi đến khi đức thánh Piô V công bố sách nguyện cải tổ theo ý định công đồng Trentô (năm 1568), kinh Kính Mừng mới mang một hình thức cố định trong toàn thể Hội thánh.
3/ Việc đọc kinh Kính Mừng gắn liền với cuộc đời Chúa Cứu thế
Việc đọc bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ chưa đủ để tạo nên căn tính của Kinh Mân Côi. Cần phải đi thêm bước thứ ba nữa, đó là gắn liền kinh Kính Mừng với các mầu nhiệm của Chúa Cứu thế. Giai đoạn này diễn ra vào thế kỷ XV với nhiều sáng kiến khác nhau, trở thành nguyên nhân cho nhiều cuộc tranh luận giữa các sử gia. Có hai sáng kiến nổi bật nhất, một của Dòng Chartreux, một của Dòng Đa Minh.
- a) Sáng kiến thứ nhất củaDòng Chartreux[5]do hai tu sĩ sống hầu như đồng thời nhưng có lẽ không quen biết nhau. Một là cha Henricus Egher Kalcar (1328-1408) ở Koln, chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra thành 15 chục (có lẽ dễ đếm trên các ngón tay), và đầu mỗi chục thì thêm một kinh Lạy Cha. Hai là cha Dominicus Prussia (1384-1460)[6]: vào cuối mỗi kinh Kính Mừng (lúc đó chỉ có phần thứ nhất, sau thánh danh Giêsu, thêm một câu ngắn liên quan đến cuộc đời Chúa Cứu thế. Tất cả là 50 câu: 14 câu về thời thơ ấu, 6 câu về thời hoạt động công khai, 23 câu về cuộc tử nạn, 7 câu về cuộc Khải hoàn. Thí dụ Ave Maria, gratia plena, Dominus tecum. Benedicta tu in mulieribus, et benedictus fructus ventris tui Jesus Christus, quem Angelo nuntiante de Spiritu Sancto concepisti. Amen… (và Giêsu, Đấng mà Bà thụ thai do Chúa Thánh Thần khi sứ thần truyền tin. Amen)
- b) Sáng kiến thứ hai củaDòng Đa Minh, do chaAlain de la Roche O.P.[7] quảng bá. Sự đóng góp của cha Alain vào sự phát triển kinh Mân Côi thật lớn: cha đã phân chia bộ thánh vịnh Đức Mẹ ra làm ba phần để kính nhớ cuộc Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô. Vào mỗi kinh Kính Mừng, cha thêm một tư tưởng suy niệm các chân lý đức tin. Như vậy ngoài việc lặp đi lặp lại kinh Kính Mừng, cha Alain còn thêm việc suy ngắm các mầu nhiệm về cuộc đời Chúa Kitô. Cha đã xuất bản nhiều tác phẩm để giải thích ý nghĩa của kinh Mân Côi (Tractatus de Rosario B. Mariae Virginis, Koln 1472 ; Quodlibet de veritate fraternitatis Rosarii seu Psalterii beatae Mariae Virginis, Koln 1476). Từ nay, “thánh vịnh đức Mẹ” được đổi tên thành “vòng hoa hường trinh nữ Maria”.
Ngoài việc rao giảng Kinh Mân Côi, cha Alain còn thành lập “Hiệp hội thánh vịnh Mẹ Maria” (Confrérie du psautier de Notre Dame), bắt đầu tại Douai (1470). Các hội viên cam kết đọc hết 150 kinh Kính Mừng mỗi ngày[8], cũng như cam kết xưng tội rước lễ vào lúc ghi danh và mỗi năm ba lần (lễ Hiện xuống, lễ thánh Đa Minh, lễ Giáng sinh). Như vậy qua việc đọc kinh Mân Côi, các hội viên được thúc giục đào sâu các mầu nhiệm đức tin và tham gia các bí tích nữa.
Phong trào của cha Alain tiến triển mau lẹ, một phần cũng nhờ sự hợp tác của anh em cùng Dòng. Năm 1474, một bàn thờ dành cho Hội Mân Côi đã được thành lập tại tu viện Frankfurt. Năm 1475 (năm mà cha qua đời), cha bá cáo cho biết rằng số hội viên lên tới hơn 50 ngàn. Cũng vào năm ấy, Huynh đoàn Mân Côi (Fraternitas Rosarii) được thành lập tại Koln (do bề trên Giacôbê Sprenger). Tuy gặp vài chống đối đây đó nhưng cả hai hiệp hội tại Lille và Koln đã được giáo quyền địa phương châu phê. Sang năm 1479, chính Đức Giáo hoàng Sixtô IV đã châu phê hiệp hội, với bulla Ea quae ex fidelium (8/5/1479), mở màn cho các văn kiện Toà thánh về kinh Mân Côi.
Trước sự bành trướng mạnh mẽ của kinh Mân Côi như vậy, cha Alain nghĩ rằng chắc là phải có sự can thiệp từ trời cao. Trong bối cảnh ấy, cha đã gán việc thành lập kinh Mân Côi cho một “thị kiến” trông thấy Đức Mẹ đã trao tràng hạt cho thánh Đa Minh như khí cụ bài trừ lạc giáo[9]. Đây là một “lý luận” rất thông thường vào thời đó. Cha Dominico de Prussia cũng cho rằng mình đã nhận sáng kiến từ một “thị kiến”. Không thiếu sử gia cho rằng cha Alain đã lẫn lộn cha Dominico de Prussia với thánh Đa Minh (Dominico de Guzman). Nhưng có ý kiến phản biện rằng Cha Alain không lẫn lộn đâu, vì cha có quen biết cha Dominico de Prussia, nhưng không đồng ý với sáng kiến của dòng Chartreux muốn rút gọn kinh Mân Côi xuống còn 50 kinh Kính Mừng, đang khi nguồn gốc của bộ thánh vịnh kính Đức Mẹ phải gồm đủ 150 kinh.
Một chặng nữa trên đường tiến triển của kinh Mân Côi là trong một cuốn sách xuất bản tại Venezia vào năm 1521 (năm nay kỷ niệm 500 năm), cha Alberto da Castello O.P. đã phân chia ba mầu nhiệm lớn của bộ thánh vịnh kinh Đức Mẹ (Nhập thể, Tử nạn, Vinh hiển của Chúa Kitô) thành 15 mầu nhiệm nhỏ.
Văn kiện quan trọng nhất của Toà thánh về kinh Mân Côi là bulla Consueverunt Romani Pontifices (17/9/1569) của Đức Thánh Giáo Hoàng Piô V (OP), trong đó ngài kể lại nguồn gốc, mô tả bản chất, và những mục tiêu của việc đọc kinh Mân Côi. Việc đọc kinh Mân Côi đã được phổ biến rộng rãi trong toàn thể Hội Thánh nhất là từ khi đức Piô V nhìn nhận sự chiến thắng của đạo quân Công giáo chống lại sự tấn công của quân Thổ Nhĩ Kỳ tại Lêpantô (5/10/1571) là do lời chuyển cầu của Đức Mẹ Maria. Trong công hội (consistorium) ngày 17/3/1572 ngài quyết định thiết lập lễ Mân Côi để kính nhớ biến cố này. Tiếc rằng ngài đã qua đời (1/5/1572) trước khi thực hiện ý định. Theo lời thỉnh nguyện của cha Serafino Cavalli (tổng quyền Dòng Đa Minh), Đức Grêgôriô XIII đã thiết lập lễ Mân Côi (bulla Monet Apostolus, 1/4/1573) và cho phép cử hành vào chúa nhựt đầu tháng 10 tại bất cứ thánh đường nào có bàn thờ kính Đức Mẹ Mân Côi. Ngày 3/10/1716, đức Clêmentê XI nới rộng lễ này ra toàn thể Hội thánh để ghi nhớ một cuộc chiến thắng khác của lực lượng công giáo đẩy lui quân Thổ-nhĩ-kỳ tại Peterwarodine (gần Vienna, ngày 5/8/1716).
Dù sao, kinh Mân Côi từ thời thánh Piô V đã được ấn định là 150 kinh Kính Mừng được phân ra làm 15 chục. Cầu trúc này được duy trì cho đến ngày này. Duy có điều là với tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002), ĐTC Gioan Phaolô II đã thêm 50 chục kinh mầu nhiệm Ánh sáng. Như vậy, tràng chuỗi Mân Côi ngày nay gồm 200 hạt, nhưng có lẽ ít người muốn “cập nhật” bởi vì dài quá! Chúng ta thường chỉ mang chuỗi 50 kinh.
- Tiến triển về nội dung
Việc mô tả sự tiến triển hình thức vừa rồi đã cho thấy phần nào sự tiến triển về nội dung, từ chỗ đọc 150 kinh Kính Mừng đến việc gắn với việc suy niệm các mầu nhiệm cuộc đời Chúa Cứu thế. Ở đây, khi bàn về sự tiến triển về nội dung, chúng tôi chỉ muốn nêu bật sự chuyển hướng từ kinh nguyện kính Đức Mẹ sang kinh nguyện kính Chúa Giêsu, và điều này xảy ra sau công đồng Vaticano II.
Kinh Mân Côi dịch từ Rosarium tiếng Latinh. Cha Alain tránh dùng tên ấy, và muốn gọi kinh này là Psalterium B.M.V., bởi vì vào thời ấy từ Rosarium mang ý nghĩa hàm hồ. Rosarium đôi khi được hiểu là một hợp tuyển những bài ca hay các danh ngôn. Rosarium cũng có nghĩa là vòng hoa hường mà các công tử mang biếu người đẹp. Rosarium cũng có nghĩa vòng hoa hường mà các cô bé đội trên đầu. Vết tích của ý nghĩa này còn được lưu lại trong tiếng Pháp chapelet (cái nón nhỏ: petit chapeau). Dù nói thế nào đi nữa, đây là một lời kinh kính Đức Mẹ, muốn dâng lên Mẹ những tràng hoa hồng để tỏ lòng thảo hiếu.
Sang thế kỷ XX, trong bối cảnh canh tân phụng vụ cũng như đối thoại đại kết, trọng tâm của kinh này đã được di chuyển từ Đức Maria sang Chúa Kitô. Trong số những văn kiện Toà thánh sau công đồng Vaticanô II bàn về kinh Mân Côi, cần phải nhắc đến tông huấn Marialis cultus của Đức Phaolô VI (2/2/1974) và tông thư Rosarium Virginis Mariae (16/10/2002). Hai văn kiện này không chỉ khuyến khích tăng gia việc lần hạt nhưng nhất là vạch cho thấy giá trị thần học của Kinh Mân Côi, theo đó kinh Mân Côi không phải là kinh kính Đức Mẹ cho bằng kinh kính Chúa Giêsu ; hay nói cách chính xác hơn : đây là kinh nguyện chiêm ngắm cuộc đời Chúa Giêsu nhờ cặp mắt và trái tim của Mẹ Maria[10]. Trong tông huấn Marialis cultus (số 42 ; 46), Đức Thánh Cha Phaolô VI đã gọi kinh Mân Côi là “toát yếu Tin Mừng” totius Evangelii breviarium[11]; và “kinh nguyện Tin Mừng” (oratio evangelica) bởi vì nhắm đến trung tâm là mầu nhiệm Nhập thể và Cứu chuộc của Chúa Kitô (xc. GLCG số 971).
Tông thư của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II một đàng lặp lại giáo huấn của vị tiền nhiệm, đàng khác đã mở ra nhiều hướng mới về đạo lý cũng như về thực hành. Xét về nội dung, tông thư giới thiệu kinh Mân Côi như kết hiệp với Đức Maria để chiêm ngắm Chúa Kitô : từ chỗ nhớ lại cuộc đời của Chúa, đến chỗ bắt chước, khẩn cầu cũng như loan báo. Những chiều kích này trùng hợp với kinh nguyện phụng vụ, xoay quanh các biến cố Nhập thể, Tử nạn và Phục sinh của Chúa Kitô (số 18-25). Xét về thực hành, có thể ví buổi đọc kinh Mân Côi như một buổi Lectio divina (số 26-38) với bốn bước cổ điển: công bố Lời Chúa (lectio), thinh lặng (meditatio), cầu nguyện (oratio, đọc kinh Lạy Cha, Kính Mừng), chiêm ngắm (contemplatio kinh Sáng danh).
- VÀI SUY TƯ
Vì thời giờ ngắn ngủi, tôi chỉ xin đưa vài suy tư ngắn ngủi, xoay quanh hai mục: 1/ bản chất Kinh Mân Côi. 2/ Kinh Mân Côi trong bối cảnh Việt Nam
- Bản chất Kinh Mân Côi
Chúng tôi chỉ muốn dừng lại ở hai điểm: 1/ hình thức cầu nguyện, 2/ đối tượng cầu nguyện
1/ Hình thức cầu nguyện
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo kê ra ba hình thức cầu nguyện: khẩu nguyện (số 2700-2703); suy niệm (số 2705-2708); chiêm ngắm (số 2709-2719). Kinh Mân Côi bao gồm cả ba hình thức ấy. Quả là tuyệt vời! Tông thư Rosarium Virginis Mariae của ĐTC Gioan Phaolô II đã vạch ra 5 chiều kích của việc chiêm ngắm Kitô giáo như sau (số 13-17): a) Hồi tưởng công trình của Thiên Chúa; b) Học hỏi Chúa Kitô; c) Họa theo Chúa Kitô; d) Khẩn cầu Chúa Kitô; e) Loan báo Chúa Kitô.
2/ Đối tượng cầu nguyện
Đối tượng của việc chiêm ngắm là mầu nhiệm Đức Kitô. Như đã nói trên đây, có một sự chuyển hướng quan trọng trong việc xác định bản chất của kinh Mân Côi. Vào lúc đầu, kinh này được quan niệm như là một tràng hoa hồng dâng kính Mẹ Maria (bộ thánh vịnh 150 kinh Kính Mừng); nhưng ĐTC Phaolô VI và Gioan Phaolô II nhấn mạnh rằng đây là một việc chiêm ngắm các mầu nhiệm Đức Kitô, với cặp mắt và trái tim của Mẹ Maria. Lối giải thích này hợp lý hơn bởi vì trong khi năm mầu nhiệm mùa Vui, ta thấy có sự hiện diện của Mẹ, nhưng qua các mầu nhiệm mùa Sáng (ngoại trừ tiệc cưới Cana) và mùa Thương thì Mẹ rút vào bóng tối.
Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo đã dành các số 512-560 để bàn về đề tài “Các mầu nhiệm cuộc đời Đức Kitô”: các biến cố cuộc đời Đức Kitô mặc khải Thiên Chúa và thực hiện ơn cứu độ nhân loại. Chúng tôi chỉ muốn ghi nhận bốn điểm
- a) Trước đây, nhiều khi chúng ta chú trọng đến chi tiết của 15 mầu nhiệm (mùa Vui – Thương – Mừng) mà quên rằng tất cả xoay quanh ba trục chính của công trình Đức Kitô, đó là: mầu nhiệm Nhập thể, Thập giá và Phục sinh (hay Vượt qua).
- b) Trong lịch sử thần học, ngay từ thời các giáo phụ, có hai điểm nhấn khác nhau về ý nghĩa ơn cứu độ. Bên Đông phương, ơn cứu độ hệ tại việc “Con Thiên Chúa làm người ngõ hầu con người được làm con Thiên Chúa”; do đó ơn cứu độ được thực hiện kể từ lúc Nhập thể. Bên Tây phương, ơn cứu độ hệ tại con người tội lỗi được hòa giải với Thiên Chúa; và điều này được thực hiện nơi thập giá của Đức Kitô (cuộc phục sinh không được nhấn mạnh lắm)[12].
- c) Có một khoảng trống giữa việc nhập thể và vượt qua của Đức Kitô. Cuộc đời ẩn dật tại Nazareth và cuộc đời công khai giảng đạo có góp phần vào công trình cứu độ không? Lấy lại tư tưởng của thánh Tôma Aquinô, sách Giáo lý Hội thánh Công giáo coi cuộc đời ẩn dật, các lời giảng, các việc thương xót chữa lành cũng mang tính cách cứu độ (số 517; 535-560). Đó là lý do Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã chen thêm “Năm sự sáng” vào kinh Mân Côi.
- d) Dựa theo tiêu chuẩn nào để “chọn lọc” 5 mầu nhiệm cuộc đời công khai của Chúa Kitô? Thật là khó nói. Người ta nhận thấy rằng ngay từ năm 1957, thánh Georges Preca, một linh mục hăng say với công cuộc huấn giáo ở Malta (1880-1962), đã viết một cuốn sách về Năm mầu nhiệm ánh sáng: (1) Đức Giêsu lãnh phép rửa tại sông Giordan và được đưa vào hoang địa; (2) Đức Giêsu tự mặc khải là Thiên Chúa bằng lời nói và phép lạ; (3) Đức Giêsu giảng dạy các mối phúc trên núi; (4) Đức Giêsu biến hình trên núi; (5) Đức Giêsu dùng bữa tiệc lý với các tông đồ[13]. Phải chăng Đức Gioan Phaolo II đã được gợi hứng từ đây?
- Trong bối cảnh Việt Nam
Chúng tôi muốn thêm bốn nhận xét về việc chuyển dịch các từ ngữ liên quan đến kinh Mân Côi, các mầu nhiệm, các hoa trái và cuối cùng Kinh Kính Mừng.
1/ Tên gọi của kinh
Theo ông Nguyễn Cung Thông[14], lúc đầu, ở nước ta, kinh này được gọi là kinh Rosa (hoặc Rosario). Mãi đến từ điển Taberd (1838) mới thấy tên gọi “Hoa Môi khôi”. Dù sao nên biết ở miền Trung và Nam, từ “Môi khôi” thông dụng hơn, còn miền Bắc thì quen gọi là “Mân Côi, hay Văn côi” từ thế kỷ XIX. Những từ này gốc Hán Việt và có thể đọc theo nhiều cách khác nhau: Mai (hoặc Mân, Môi) là hoa hồng, bông hường; Côi (Khôi) là đá quý.
2/ Tên gọi ba mùa
Chúng ta quen gọi năm sự Vui -Thương – Mừng. Nhưng thử hỏi: có cái vui nào mà chẳng mừng, và có cái mừng nào mà chẳng vui? Thực ra nếu muốn dịch sát nghĩa, thì phải gọi là các mầu nhiệm “Vui mừng” (gaudiosa, joyful) – “Đau thương” (sầu khổ, dolorosa, sorrowful) – “Vinh hiển” (vinh quang: gloriosa, glorious).
3/ Các hoa trái
Nếu ai có dịp tham dự buổi đọc kinh Mân Côi ở nước ngoài, thì sẽ thấy người ta chỉ xướng lên mầu nhiệm (thí dụ Truyền tin cho Đức Mẹ); ở Việt nam còn thêm “ta hãy xin cho được ở khiêm nhường”. Tục lệ này bắt nguồn từ đâu vậy? Sau khi đi tra cứu, tôi thấy rằng đây không phải là sáng kiến của dân ta, nhưng là do thánh Louis Marie Grigion de Montfort, (Le Secret Admirable du Très Saint Rosaire)[15]. Sau khi suy niệm một mầu nhiệm, ngài thêm ý nguyện xin bắt chước bằng việc thực hành một nhân đức, được gọi là “hoa trái” (fruits). Thực ra danh sách các hoa trái trong nguyên bản rộng hơn là tập tục của Việt Nam. Xin trưng dẫn để đối chiếu[16].
- a)Các mầu nhiệm vui mừng: Khiêm nhường; Bác ái với tha nhân; Thoát ly khỏi của cái thế gian, yêu mến đức thanh bần và những người nghèo; Vâng lời (hoặc: Thanh tịnh xác hồn); Sự khôn ngoan của Thiên Chúa (hoặc: niềm vui gặp gỡ Chúa Giêsu).
- b)Các mầu nhiệm đau thương: Thống hối tội lỗi (hoặc: vâng theo ý Chúa); Khổ chế giác quan; Khinh chê thế gian (hoặc lòng can đảm); Kiên nhẫn vác các thánh giá của mình; Cầu xin cho các tội nhân được hoán cải, người lành được bền tâm; Các linh hồn trong luyện tội được nâng đỡ (hoặc: tha thứ; chết lành).
- c)Các mầu nhiệm hiển vinh: Lòng yêu mến Thiên Chúa và nhiệt tâm phụng sự Ngài (hoặc: đức tin); Ước mong quê thật trên trời (hoặc: đức hy vọng); Chúa Thánh Linh ngự xuống tâm hồn chúng ta (hoặc: đức mến, ơn thâm hiểu); Lòng thảo hiếu với Đức Mẹ; Bền đỗ trong ân sủng và xin được hạnh phúc trên thiên đàng (hoặc: tin tưởng vào lời chuyển cầu của Đức Mẹ).
Dĩ nhiên, không ai cấm chúng ta thay đổi các ý chỉ này. Chẳng hạn như khi chiêm ngắm mầu nhiệm truyền tin chúng ta có thể xin cho biết đáp lại lời Fiat như Đức Mẹ, hoặc sống sự tự hủy (kenosis) của Đức Kitô.
4/ Kinh Kính Mừng
Kinh Kính Mừng đã mất hơn 15 thế kỷ mới có hình thức nhất định. Sang nước Việt Nam, cũng cần ba thế kỷ mới đạt được bản dịch như ngày nay[17]. Chúng tôi chỉ trưng dẫn vài mẫu tượng trưng.
- a) Tiền bán thế kỷ XVII: “A Ve Ma Ri A, đầy ga ra sa, Chúa Dêu ở cùng Bà, nữ trung Bà có phúc lạ, Bà thai tử Giê Su , Người là Mẹ Đức Chúa Trời, thì xin cầu cho chúng tôi vì là kẻ có tội, lại xin phù hộ khi còn sống và khi rình qua đời”.
- b) Năm 1869: “A Ve Ma Ri A đầy ga ra sa, Chúa Deo ở cùng bà, nữ trung bà có phúc lạ, bà thai tử Giê Su gồm phúc lạ. Sang Ta Ma Ri A đức mẹ chúa Deo, cầu cho chúng tôi kẻ có tội khi nay cập thần đẳng tử hầu”.
- c) Đầu thế kỷ XX: “Ave Maria, đầy ga-la-ti-a, Chúa Dêu ở cùng bà, nữ trung bà có phước lạ, thai tử Giê-su gồm phước lạ. Xăng-ta Maria, Đức Mẹ Chúa Dêu, cầu cho chúng tôi, khi nay và cập thần đẳng tử hậu. Amen”.
- d) Giữa thế kỷ XX (sau công đồng Đông Dương):“Kính Mừng Maria đầy ơn phúc (phước), Ðức Chúa Trời ở cùng Bà, Bà có phúc lạ, hơn mọi người Nữ, và Giêsu con lòng Bà gồm phúc lạ. Thánh Maria Ðức Mẹ Chúa Trời cầu cho chúng con là kẻ có tội, khi này (nay) và trong giờ lâm tử. Amen”.
Điều chúng tôi muốn lưu ý là “benedictus” và “benedicta” trong lời chào của bà Elizabeth (Lc 2,42) được dịch là “có phúc lạ”. Nhóm Các Giờ kinh phụng vụ dịch sát nghĩa hơn là “được chúc phúc” (Em được chúc phúc hơn mọi người phụ nữ, và người con em đang cưu mang cũng được chúc phúc). Theo nghĩa này, người ta có thể xen thêm “và Giêsu, Đấng (Bà đã cưu mang, Đấng Bà mang đến viếng thăm bà Ysave, Đấng Bà đã sinh ra, Đấng được dân hiến cho Chúa Cha, Đấng dạy dỗ trong đền thờ, vv.) được chúc phúc”.
KẾT LUẬN: KINH MÂN CÔI VỚI DÒNG ĐA MINH
Như đã nói ở đầu, mỗi khi nói đến nguồn gốc Kinh Mân Côi, người ta không thể nào bỏ qua thánh Đa Minh. Liệu những nghiên cứu lịch sử gần đây có làm lung lay mối tương quan ấy không?
Xin thưa rằng kinh Mân Côi không do Đức Mẹ trao cho thánh Đa Minh, nhưng nó trở thành gia sản của Dòng. Ta có thể chứng tỏ điều này qua nỗ lực truyền bá kinh Mân Côi kể từ cha Alain de la Roche, xuyên qua các Hiệp Hội Mân Côi[18]. Trong cuốn “Tìm hiểu Dòng Đa Minh”, tôi cũng đã trình bày những sáng kiến khác trong thế kỷ XX nhằm cổ vũ kinh này: hội Mân Côi sống (do chị Pauline Jaricot sáng lập), hội Mân Côi liên lỉ (do cha Augustin Chardon), Equipes du Rosaire, vv.[19]. Về mặt cơ chế, tại Trung ương của Dòng có một vị Tổng đặc trách Kinh Mân Côi, và mỗi tỉnh dòng cũng có một đặc trách cổ võ kinh Mân Côi[20].
Dù sao, với hướng đi của Huấn quyền ngày nay, kinh Mân Côi không chỉ là một việc đạo đức nội bộ, nhưng được gắn liền với trung tâm của Kitô giáo, tức là các mầu nhiệm của Chúa Kitô. Rao giảng kinh Mân Côi cũng là rao giảng Tin Mừng, bằng ngôn ngữ sát với đời sống thường ngày. Cầu nguyện kinh Mân Côi cũng mang một hình thức tương tự như cử hành phụng vụ và lectio divina. Thật là một gia sản đáng cho chúng ta cần trân trọng, đặc biệt khi những cổ động viện của kinh Mân Côi không chỉ là các giáo hoàng nhưng nhất là chính Đức Mẹ Maria khi hiện ra ở Lourdes và Fatima.
Thư mục
(Những tác phẩm bàn về nguồn gốc kinh Mân Côi)
Thomas Esser, Unserer lieben Frauen Rosenkranz, Schöningh, Paderbon, 1889.
Franz Michel Willam, Die Geschichte und Gebetsschule des Rosenkranzes, Herder, Wien 1948.
Stefano Orlandi (a cura di), Libro del Rosario della Gloriosa Vergine Maria, Centro Internazionale Domenicano Rosariano, Roma, 1965.
Gilles Gérard Meersseman, Ordo Fraternitatis. Confraternite e pietà dei laici nel Medioevo, 3 voll., Herder, Roma 1977
Riccardo Barile, Il Rosario della Vergine, ESD Bologna 1990.
Anne Winston-Allen, Stories of the Rose. The Making of the Rosary in the Middle Ages, Penn State University Press, University Park (Pennsylvania) 1997.
Boguslaw Kochaniewicz, The contribution of the Dominicans in the development of the Rosary, in: Angelicum 81 (2004), 377-403.