2021
Đức Hồng y Dolan: Nhân quyền bắt đầu từ lòng mẹ
Đức Hồng y Dolan: Nhân quyền bắt đầu từ lòng mẹ
Đức Hồng y Timothy Dolan, Tổng giám mục giáo phận New York, Hoa Kỳ, tuyên bố rằng bước đầu tiên để chấm dứt mọi hình thức bạo lực trong xã hội – dù nó liên hệ tới các tội ác, kỳ thị chủng tộc, hay nghèo đói – là chấm dứt bạo lực phá thai.
Đức Hồng y Timothy Dolan. Ảnh: CNS photo/Gregory A. Shemitz
Trong bài đăng trên tuần báo “Công giáo New York”, số ra ngày 20/10/2021 vừa qua, Đức Hồng y Timothy viết: “Tôi thấy rằng bạo lực sẽ không chấm dứt bao lâu chúng ta chưa ngưng sự cho phép cực đoan phá thai và coi đây là điều bất khả xâm phạm, dường như đang thu hút một phần trong xã hội chúng ta”.
“Như Mẹ Têrêsa đã viết: “Chúng ta không nên ngạc nhiên khi chúng ta nghe nói về những vụ giết người, tàn sát, chiến tranh, oán ghét. Nếu một người mẹ có thể giết con của mình, thì chúng ta còn lại điều gì ngoài việc giết nhau?” Trong một xã hội bị chia rẽ về chính trị và văn hóa, một điều dường như liên kết mọi phe, đó là lo âu vì thế giới chúng ta đã đánh mất sự tôn trọng cơ bản đối với sự sống”.
Đức Hồng y Dolan trưng dẫn nhiều thí dụ mạnh mẽ về cách đối xử đáng tiếc đối với sự sống con người, trong đó có số phận của hàng triệu người tị nạn và di dân, những cảnh tượng kinh khủng về sự rút quân gần đây của Mỹ khỏi Afghanistan; sự coi thường một số sinh mạng trong thời đại dịch Covid-19; tội phạm bạo lực, trong đó có vụ giết ông George Floyd (người da đen); sự gia tăng số người tự tử, nhất là nơi những người trẻ; và tệ nạn thường xảy ra ở nhiều nơi, dùng súng bắn giết nhiều người.
Đức Hồng y Tổng giám mục New York viết: “Những ví dụ này chứng tỏ “sự sống con người bây giờ bị coi như vô dụng, không giá trị và tùy nghi người ta sử dụng.” Đức Hồng y lý luận rằng luật cho phép giết và cắt chặt những thai nhi vô tội trong lòng mẹ, nói lên một sứ điệp mạnh mẽ chống sự sống, đe dọa mỗi người. “Chúng ta hãy nghĩ xem: nếu một sự sống mong manh của một hài nhi vô tội ở trong lòng mẹ – mà thiên nhiên bảo vệ như nơi an toàn nhất – có thể bị loại trừ như vậy, thì ai được an toàn?… Nếu những tiện lợi, “những chọn lựa” hoặc “các quyền của tôi” có thể lấn át sự sống của một hài nhi trong lòng mẹ, thì có sự sống con người nào không bị đe dọa?… Khi luật pháp cho phép một sự sống dễ bị tổn thương bị phá hủy, buộc các nhân viên y tế phải thi hành điều đó trái ngược với lương tâm của họ, và yêu cầu dùng tiền thuế của chúng ta để tài trợ việc phá thai ấy, thì sứ điệp nào chúng ta đang phổ biến về phẩm giá con người và sự thánh thiêng của sự sống?”
Đức Hồng y Dolan nói đến nhận xét của Thượng Nghị sĩ Robert Kennedy theo đó, “mức độ sức khỏe và luân lý của xã hội được đo lường theo cách thức chúng ta bảo vệ những người yếu thế và dễ bị tổn thương nhất. Vậy ai mong manh và vô phương thế tự vệ cho bằng hài nhi bé bỏng trong lòng mẹ?” “Hút đứa bé đó ra khỏi lòng mẹ, cắt chặt nó, hoặc đánh thuốc độc cho nó, – như Đức Giáo hoàng Phanxicô mô tả-, giống như một kẻ giết mướn ám sát một nạn nhân”.
Sau cùng, Đức Hồng y Dolan kêu gọi mọi người nam nữ, dù có tín ngưỡng hay không, hãy lên tiếng bênh vực những thai nhi không có khả năng tự vệ, và tố giác cái gọi là “quyền phá thai” là “vô nhân đạo, là bạo lực và trái ngược với các quyền con người”.
(CNA 23-10-2021)
- Trần Đức Anh, O.P. | RVA
2021
Nếu ngày ấy Đức Mẹ nói KHÔNG thì sao?
“Mẹ hoàn toàn tự do để nói không. Nếu Chúa ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu. Nhưng Thiên Chúa biết chọn lựa và Ngài đã chọn Đức Maria”.
Henry Ossawa Tanner
Cha Zezinho đã viết suy tư của mình trên mạng xã hội để trả lời cho những người đặt vấn đề với ngài về điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Maria nói “KHÔNG” với Chúa.
Đây là những gì vị linh mục đã khẳng định quanh giả thuyết rằng Đức Mẹ có thể dùng tự do của mình để từ chối lời kêu mời của Thiên Chúa là trở thành Mẹ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người: “Họ đã hỏi và tôi trả lời. Nếu bất kỳ ai trong chúng ta nói “KHÔNG”, thì Thiên Chúa tối cao sẽ mời gọi một người khác”.
“Người đã đặt giả thuyết về lời thưa “KHÔNG” của Đức Maria đã kết luận rằng Chúa Giêsu vì vậy mà không nhập thể. Tôi đã chỉnh sửa lại tư tưởng của người đó. Đó làm một sai lầm khi nghĩ rằng sự nhập thể phụ thuộc vào Đức Maria. Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người nữ khác. Thiên Chúa có quyền làm điều này. Hay bạn nghĩ rằng Chúa không có quyền đó?”
Nếu Maria nói KHÔNG thì sao?
“Tuy nhiên, sự thật là Đức Maria đã thưa VÂNG, kết thúc mọi cuộc thảo luận. Mặc dù vậy, việc nhập thể tùy thuộc vào ý muốn tối cao của Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi. Người Con Hằng Hữu đã thưa VÂNG để thực thi ý muốn của Cha. Và Ngài đã trở thành Con của loài người.
Lời thưa VÂNG của Đức Maria thì vô điều kiện. Mẹ đã tự xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa. Với Mẹ, Thiên Chúa có thể thực hiện những gì Ngài muốn, và Mẹ đã nói chính xác về điều này. Mẹ không thưa KHÔNG trước mặt Thiên Chúa dẫu cho Mẹ hoàn toàn có tự do để làm điều đó. Mẹ có tự do để nói tiếng KHÔNG! Và nếu Thiên Chúa đã ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu, và Thiên Chúa là tình yêu! Nghĩa là Đức Mẹ sẽ không được phép chọn lựa.
Nhưng Chúa biết cách lựa chọn! Và Ngài đã chọn Đức Maria.
Mẹ Maria đã chọn lời thưa VÂNG bởi vì Mẹ hiểu được giáo huấn của các tiên tri thời đại. Vì vậy nên Mẹ đã nói, theo những gì thánh sử Luca đã viết, “Xin cứ thực hiện cho tôi theo lời của ngài” (Lc 1, 38).
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Tu sĩ và quê hương
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nơi sinh ra và lớn lên. Khi trưởng thành, mỗi người chọn cho mình một nơi để sống và làm việc. Chắc chắn rằng quê hương ở trong ký ức mỗi người, nhưng vì cơm áo hay học tập mà chúng ta phải xa nhà, xa gia đình. Sau khi Sài Gòn gỡ bỏ lệnh giãn cách, mọi người ùn ùn kéo nhau về quê. Cũng có những người chỉ về khi có ba mẹ qua đời. Họ hy sinh tuổi thanh xuân của mình trong các Đan Viện kín. Đó là những người đã đáp trả lời mời gọi của Chúa sống đời dâng hiến hay những tu sĩ đang dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng” (Mc 16, 9-18).
Trong cuộc sống xa quê, môi trường khác văn hóa, khi gặp khó khăn các tu sĩ cũng cần sự an ủi, đỡ nâng. Một trong những nguồn an ủi lớn lao của họ là sự gắn kết với quê hương và gia đình. Quê hương là một phần máu thịt của mỗi người. Dù dấn thân phục vụ ở một đất nước xa xôi, các tu sĩ vẫn luôn mang trong mình hơi thở của quê hương. Ai nói mình đã hoàn toàn từ bỏ quê hương thì e rằng họ đang dối lòng. Thời buổi công nghệ 4.0 phát triển giúp con người kết nối với nhau dễ dàng hơn trước. Nếu như các nhà truyền giáo thời xưa muốn gửi thư về gia đình phải mất mấy tháng đường biển thì bây giờ người tu sĩ với chiếc smartphone có thể trò chuyện hàng giờ với người thân trong gia đình hay bạn bè gần xa. Ngay cả các công việc mang tính mục vụ như tư vấn, đồng hành thiêng liêng vẫn có thể được thực hiện dễ dàng qua mạng. Người tu sĩ trở nên gần gũi hơn với người khác khi họ đưa lên mạng những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày hay những dòng tâm sự nhỏ to bày tỏ nỗi niềm.
Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt của nó. Nếu như công nghệ là phương tiện giúp người tu sĩ kết nối với người khác thì nó cũng có nguy cơ làm người tu sĩ bớt nhiệt tình dấn thân cho lý tưởng đời tu. Khi tôi hỏi một bà cố có con đang tu ở nước ngoài “Bà cố có nhớ con mình không?”, bà trả lời: “Ối dào, có gì đâu mà nhớ, ngày nào cũng thấy nó chường mặt trên Facebook đó thôi!” Tôi không nghĩ đó không phải là lời nói bâng quơ, bởi vì đằng sau câu nói đó là cả một nỗi niềm về đời tu của con mình. Tâm lý con người vốn rất rõ ràng, mỗi khi quan tâm một điều gì đó quá nhiều thì những điều khác trở nên ít quan trọng hơn. Không có tu sĩ nào tu trên “cõi phây” cả. Dù người tu sĩ chia sẻ tất tần tật những việc họ làm, những điều họ nghĩ về đời tu trên facebook thì mạng xã hội vẫn không thay thế được tu viện hay đời sống cộng đoàn.
Khi xưa các thừa sai “chân bước đi đầu không ngoảnh lại” thì ngày nay nhiều tu sĩ sống ở xa quê vẫn một lòng hướng về “quê hương.” Phải chăng đó là một dấu hiệu cho thấy họ vẫn chưa thực sự từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa? Xin thưa, theo Chúa không có nghĩa là cắt đứt liên lạc với gia đình hay xóa bỏ tình liên đới với quê hương đất nước. Người môn đệ của Chúa được mời gọi dấn thân trọn vẹn trong sứ mạng được giao ở vùng đất mới. Người ta gọi đó là việc hội nhập văn hóa hay sống mầu nhiệm nhập thể. Vì lòng yêu mến dành cho các linh hồn, người tu sĩ hăng say phục vụ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu, không nhất thiết phải là đồng bào dân tộc mình. Thực ra, căn cốt của đời tu ở đâu cũng giống nhau: sống tinh thần cầu nguyện và dấn thân phục vụ tha nhân. Nếu không có được điều căn cốt đó thì những mối tương quan trên mạng xã hội sẽ trở thành cám dỗ khiến tu sĩ xao nhãng đời tu.
Tôi thật sự khâm phục các tu sĩ đã quảng đại đáp lại lời mời gọi lên đường loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa biết Chúa hoặc đã biết Chúa nhưng bỏ bê đời sống đức tin. Họ là khí cụ loan báo Tin Mừng của Chúa. Họ phải chịu thiệt thòi không nhỏ về mặt tình cảm khi phải sống xa quê hương gia đình. Về mặt con người, họ không thể tránh được những phút giây yếu lòng, cô đơn, nản chí. Họ thực sự cần đến những lời động viên an ủi từ gia đình, bè bạn. Tuy nhiên, chính họ cũng phải tỉnh táo phân biệt giữa những nguồn an ủi lành mạnh và những cạm bẫy đến từ mạng xã hội. Họ cần đến những người bạn chân thành, ở trong dòng hay ngoài dòng, để trút bầu tâm sự. Họ cũng cần những tu sĩ lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm làm vai trò linh hướng, giúp họ vượt qua khó khăn. Họ nên tìm niềm vui trong công việc phục vụ của mình, dù đó là những hy sinh thầm lặng ít ai biết đến. Quan trọng nhất là họ phải khát khao mong chờ tìm được hạnh phúc trong tương quan thân mật với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện cá nhân.
Sứ mạng phục vụ của Giáo hội không phân biệt màu da, sắc tộc. Đã chọn lựa đời tu là sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để danh Chúa được tôn vinh. Chắc chắn trong lòng mỗi tu sĩ xa quê dù đang học tập hay làm việc thì họ vẫn luôn đậm tình quê hương đất nước. Tuy nhiên, càng yêu mến quê hương thì khí chất của người Việt nơi người tu sĩ càng cần phải thể hiện rõ ràng hơn: giữ lòng đạo sắc son, sống đời tu gương mẫu, bình an và triển nở trong sứ mạng được giao. Sống xa quê chính, Tu sĩ là những con người đang tiếp nối trang sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, trung kiên làm chứng đức tin không chỉ trên quê hương mà còn trên khắp cả thế giới.
2021
Thường huấn về căn tính linh mục
“THƯỜNG HUẤN VỀ CĂN TÍNH LINH MỤC” –
MỘT ĐIỂM NHẤN QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRƯỚC THỰC TRẠNG LẠM DỤNG TÍNH DỤC
Tác giả: Lm. Giuse Đỗ Mạnh Thịnh
Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, tháng 10 năm 2021
WHĐ (25.10.2021) – Trong vài năm qua, truyền thông xã hội tại nhiều quốc gia đồng loạt “phơi bày” thực trạng giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, kết quả điều tra tại nhiều nơi về những vụ lạm dụng tính dục trẻ em xảy ra trong nhiều thập niên trước đã được trưng ra cách công khai. Ngày 5-10-2021 vừa qua, báo chí thế giới lại bùng lên liên quan đến một kết quả điều tra được thực hiện trong hai năm qua tại Pháp theo đó, “trong khoảng thời gian 70 năm [từ năm 1950 – 2020], có tổng cộng khoảng 216.000 (với sai số 50 ngàn) người ở Pháp là nạn nhân vị thành niên bị lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, bởi khoảng từ 2.900 đến 3.200 linh mục và tu sĩ”[1]. Những tin tức như vậy dễ thu hút sự chú ý, tạo ra một làn sóng phẫn nộ từ nhiều người trong và ngoài Giáo Hội. Đối với Nhiệm Thể Giáo Hội, những thông tin đó trở nên như một cơn “địa chấn” mạnh mẽ gây khủng hoảng niềm tin, tổn thương tinh thần cho nhiều người, và cũng là “cớ vấp phạm” cho những người vốn thiếu thiện cảm với Giáo Hội. Điều này dẫn đến hậu quả tiêu cực đó là, một đàng người ta nghi ngờ Giáo Hội, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của các mục tử; đàng khác, tại nhiều giáo hội địa phương, các linh mục phải sống trong sự nghi kỵ, bị giám sát hoặc tự hạn chế hoạt động mục vụ đến mức gây nên mặc cảm bị xa tránh hoặc sợ hãi, dẫn đến thái độ sống khép kín.
Khi nghe thông tin về một “scandal” lạm dụng tính dục xảy ra ở đâu đó, có thể người ta có nhiều phản ứng khác nhau. Ví dụ, có người ngay lập tức cho rằng truyền thông ngày nay dễ bị lèo lái theo những mưu đồ cá nhân hay chính trị đảng phái; cũng có người nghĩ rằng đó là sản phẩm của thái độ chống đối Giáo Hội được thực hiện bởi một nhóm nào đó; hoặc những người khác coi những sự việc lạm dụng tính dục là chuyện chỉ xảy ra ở Phương Tây xa xôi, nơi “thừa bứa” tự do, không liên quan lắm đến “tôi”. Đàng khác, có người nghi ngờ tính nghiêm túc và chân thật của những bản điều tra đó; hoặc biện minh rằng có phải chỉ giáo sĩ lạm dụng tính dục đâu, các đối tượng khác lạm dụng tính dục nhiều hơn, ví dụ phụ huynh, giáo viên, huấn luyện viên thể thao!
Khi xem xét về phương diện đào tạo linh mục, có không ít tác giả nỗ lực phân tích, nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân được cho là có nhiều khả năng đã dẫn đến thực trạng lạm dụng tính dục, ví dụ như nghiên cứu của George Weigel[2], Gerald D. Coleman[3]. Những nghiên cứu này mang lại rất nhiều thông tin, cũng như những phân tích chuyên môn, giải pháp hữu ích cho công cuộc đào tạo linh mục.
Bài viết này không lạm bàn những tranh luận trên, cũng như không có ý đọc lại những “giả thuyết” về nguyên nhân của lạm dụng tính dục mà nhiều tác giả đã trình bày; đúng hơn, nó muốn gợi lên một cách tiếp cận vấn đề lạm dụng tính dục trong mối liên hệ đến lĩnh vực đào tạo linh mục. Một cách cụ thể, mỗi chủng sinh, linh mục có thể tự vấn: làm thế nào để chính mình có thể bảo vệ bản thân trong sứ vụ và bảo vệ các “chi thể” khác trong nhiệm thể Giáo Hội? Nói cách khác, “lỗ hổng” nào trong quá trình đào tạo có thể dẫn linh mục đến những thực hành đáng buồn đó?
Bằng cách tiếp cận như thế, bài viết nhấn mạnh đến một yếu tố nền tảng trong công cuộc đào tạo và trong đời sống cũng như sứ vụ linh mục. Yếu tố đó chính là “thường huấn về căn tính linh mục”. Trong thực tế, đây là yếu tố nòng cốt không thể thiếu, xong nó cũng dễ dàng, một cách vô tình hay hữu ý, bị xem nhẹ hoặc không thể duy trì trong một giai đoạn nào đó của đời sống linh mục.
“Thường huấn về căn tính linh mục” giúp cho người môn đệ có thể giữ “lửa” trong ơn gọi và trong khi thực thi sứ vụ. Căn tính linh mục được thể hiện một cách cụ thể và sống động trong hai chiều kích chính yếu: (1) “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, (2) trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.”[4] Chính hai chiều kích này gợi đến một nhu cầu, một đòi hỏi và như một thách đố triền miên cho tiến trình đào tạo, đó là: (3) “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”.[5] Chúng ta đi sâu vào từng lĩnh vực.
- Cảm thức yêu mến Giáo Hội, Mẹ và Hiền Thê của Đức Kitô
Thực sự, không phải đợi đến những năm gần đây, khi mà truyền thông phơi bày ra ánh sáng nhiều vụ việc lạm dụng tính dục, thì Giáo Hội mới quan tâm, mới cảm thấy lo âu và nỗ lực tìm phương “giải quyết”. Đúng hơn, đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề lạm dụng tính dục, một cách nào đó, đã tồn tại trong hàng ngũ những môn đệ của Đức Kitô như một “vết nhăn nheo” không đáng có trên khuôn mặt Giáo Hội. Từ thời các thánh giáo phụ, ví dụ thánh Ba-si-li-ô Cả[6], thánh Gio-an Kim Khẩu[7], thánh Au-gút-ti-nô[8] đến thánh Phê-rô Đa-mi-an-nô[9]…, vấn đề lạm dụng tính dục của hàng ngũ tu sĩ và giáo sĩ cách riêng luôn làm dấy lên những lo âu, trăn trở cho các mục tử thánh thiện này. Tùy hoàn cảnh và thời đại, các ngài luôn mạnh mẽ lên tiếng chống lại những thực hành tính dục sai trái đó, đàng khác không ngừng dạy dỗ, trong tư cách cá nhân hay tập thể, bằng lời giáo huấn, những chỉ dẫn và cả những hình thức “kỷ luật” mạnh mẽ.
Cũng vậy, trong những năm qua, Giáo Hội đã có những hành động cụ thể để đương đầu với vấn đề này. Ví dụ, ngày 4/6/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành sắc lệnh Như Người Mẹ Yêu Thương. Đây là những hướng dẫn cụ thể liên quan đến vấn đề giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, Đức Thánh Cha đã thành lập một Uỷ ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên. Uỷ ban này có trách nhiệm nghiên cứu các biện pháp bảo vệ, đề phòng và giải quyết các trường hợp lạm dụng tính dục trên phạm vi Giáo Hội hoàn vũ… Dựa vào những định hướng đó, nhiều Hội đồng Giám mục đã đề ra những hành động cụ thể để giúp các nạn nhân, các linh mục, đồng thời ngăn ngừa “sự lây lan” của thực trạng lạm dụng tính dục.
Nhắc lại những điều đó, chúng ta không có ý biện minh cho vấn đề lạm dụng tính dục như một thứ bệnh “mãn tính” (không thể chữa khỏi). Trái lại, qua đó chúng ta một đàng xác tín rằng Giáo Hội không bao giờ im tiếng, thỏa hiệp, hoặc làm ngơ trước sự lộng hành của điều dữ gây nên bởi chính các chi thể của mình; đàng khác, quan trọng hơn, khi nhắc lại những lo âu, quan tâm và nỗ lực đương đầu với thực trạng lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ, chúng ta được mời gọi làm sống lại “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, Hiền Thê của Đức Ki-tô và là Mẹ của chúng ta.
Thiết tưởng chúng ta không cần nhắc lại những vụ án lạm dụng tính dục đã xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới được truyền thông đề cập trong những năm qua. Điều cần thiết hơn đó là: chúng ta cần có trăn trở, ý thức rằng lạm dụng tính dục đang là một trong những quan tâm hàng đầu của Giáo Hội, nó là một thách đố lớn lao cho Giáo Hội trong vai trò là “Mẹ và Thầy”, nó đang gây nên nghi kỵ, chia rẽ, và làm cho nhiều “chi thể” trong Nhiệm Thể Giáo Hội phải đau đớn. Nói cách khác, đối mặt với thực trạng lạm dụng tính dục, trước hết, chúng ta được mời gọi củng cố lại cảm thức yêu mến Giáo Hội nơi mỗi người bằng một thái độ đồng cảm, ưu tư, lo lắng và hành động trong sự hiệp nhất của toàn Nhiệm Thể Giáo Hội.
Thực sự, cảm thức yêu mến Giáo Hội không phải là một hạn từ trừu tượng được nghe nói đến hay đọc thấy ở đâu đó. Nhưng, đó là một tâm thức thường hằng, được diễn tả qua một lối sống cụ thể gồm hai yếu tố chính yếu: vâng phục và hiệp thông.
Sự vâng phục và hiệp thông có thể được diễn giải theo ngôn từ của thánh Phao-lô: Nhìn Giáo Hội như một thân thể có Đức Ki-tô là Đầu, chúng ta thấy mình như một chi thể cần phải gắn kết với Đầu trong sự vâng phục vì đó là “sự sống còn” của chúng ta. Nhìn Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể, chúng ta thầy mình có trách nhiệm với chính mình trong tư cách là một chi thể, đồng thời có trách nhiệm liên đới với các chi thể khác để làm nên sự sống hài hòa cho toàn thân thể (x. 1 Cr 12,12–26). Như vậy, chủng sinh, linh mục cần xác tín rằng, mình thuộc về một Nhiệm Thể, và mình chỉ có sự sống trong sự tương quan mật thiết với Đầu và các chi thể khác. Đó đích thực là cách thể hiện cụ thể một cảm thức yêu mến Giáo Hội!
Chỉ khi nào chúng ta thực lòng yêu mến Giáo Hội bằng những thực hành cụ thể như vậy, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tính nghiêm trọng của nạn lạm dụng tính dục, nó đã gieo đau khổ lâu dài cho nhiều tâm hồn, những chi thể yếu đau của Giáo Hội mà lẽ ra phải được bảo vệ và chăm sóc, cũng như gây nên những “vết thương” đau đớn cho Nhiệm Thể Giáo Hội có Đức Ki-tô là Đầu. Cảm thức yêu mến Giáo Hội – “vâng phục và hiệp thông” – sẽ thúc đẩy chúng ta nỗ lực tìm kiếm sự hoán cải, chữa lành, chăm sóc và bảo vệ các chi thể khác, nhất là những chi thể “đau yếu”.
Như vậy, trước thực trạng lạm dụng tính dục, thiết tưởng mỗi chủng sinh, linh mục, bị đặt trước một “đòi hỏi” quan trọng trong tiến trình đào tạo về đời sống và sứ vụ linh mục, đó là: người môn đệ biết tự huấn luyện và hoán cải thường xuyên về cảm thức yêu mến giáo hội, thể hiện một cách sống động qua tâm tình cũng như thái độ “vâng phục và hiệp thông”. Chúng ta nghe lại lời của Bộ Giáo Sĩ như một nhắc nhở và định hướng quan trọng mang tính tiên tri trong bối cảnh mà chúng ta đang phải đối diện: “Bản chất và sứ vụ của linh mục phải được hiểu trong lòng Giáo Hội, là Dân Chúa, là Thân Thể Chúa Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chính là để phục vụ Giáo Hội mà linh mục tận hiến cuộc đời mình.”[10]
Thực sự, thường khi trái tim một linh mục không còn chung nhịp đập với Giáo Hội, không còn cảm thức yêu mến Giáo Hội – đoạn tuyệt với tinh thần vâng phục và hiệp thông – hoạt động mục vụ và cả các cử hành thánh thiêng của linh mục sẽ mất “hồn sống”. Ân sủng và sự đỡ nâng siêu nhiên sẽ dần mất theo.
- Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô
Đối với vấn đề lạm dục tính dục, chúng ta có thể lựa chọn nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, có một điều không thể chối cãi, đó là: chính thực trạng lạm dụng tính dục như đang “chất vấn” trực tiếp mỗi người, chủng sinh, linh mục, trước công cuộc đào tạo chính mình như là một môn đệ của Đức Ki-tô: “bạn trở nên mẫu linh mục nào?”
Thực sự, theo Bộ Giáo Sĩ, đào tạo linh mục không phải như việc trưng ra cho thấy “lớp sơn” bề ngoài về đức hạnh, sự lịch thiệp hoặc khả năng tuân thủ những nguyên tắc trừu tượng cũng như kỷ luật bề ngoài đối với một con người. Nhưng, đó là việc đào tạo một con người để được biến đổi nên giống Chúa Giê-su. Nghĩa là, “biết nội tâm hóa tinh thần Tin Mừng, nhờ vào tương quan bằng hữu và cá vị với Chúa Ki-tô, đến độ chia sẻ những tình cảm và thái độ của Người.”[11] Nói một cách vắn gọn, đào tạo linh mục là tiến trình biến đổi một con người, cả con tim và trí óc, trở nên “đồng hình đồng dạng trong hữu thể với Chúa Ki-tô, là Thủ Lãnh, Mục Tử, Tôi Tớ và Phu Quân”[12] hoặc, nói theo thánh Phao-lô, trở nên như “người của Thiên Chúa” (x. 1 Tm 6,11).[13]
Trong tinh thần đó, một đàng theo Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, được hiến thánh để “đứng trước tôn nhan và phụng sự Chúa”, linh mục được biến đổi tận căn. Điều này đòi hỏi linh mục hiến mình, gắn bó “trọn vẹn” với Thiên Chúa, và tác vụ thánh. Như một hệ quả, linh mục phải đoạn tuyệt với những mối ràng buộc luyến ái khác, để có thể “hiến lễ” con người mình một cách hoàn toàn và tự do cho việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Bên cạnh đó, cũng như các tư tế thuộc dòng Lê-vi, các tư tế Tân Ước cũng có thể nói về “mối bận tâm” và “gia tài” duy nhất của mình chính là Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn” (Tv 16,5–6).[14]
Đàng khác, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ngỏ lời với các bạn trẻ trong ngày Đại hội Giới trẻ ở Bra-sil (28/7/2013): “Các bạn hãy để cho cuộc sống của mình được đồng nhất với cuộc sống của Chúa Giê-su, để có cảm xúc, suy nghĩ, hành động như Chúa Giê-su.” Thực ra, đó chính là lời mời gọi phổ quát đầy thách thức cho những ai muốn trở nên môn đệ của Đức Ki-tô, một thách thức “có trái tim mục tử” theo gương người Mục Tử Nhân Lành, đấng luôn biết chạnh lòng thương những người nhỏ bé, yếu đuối, và sẵn sàng hiến mình vì tha nhân. Như vậy, hơn ai hết, chủng sinh, linh mục, phải nhận lấy như của riêng mình về một lời mời gọi, một lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” – Thượng Tế, Mục Tử Nhân Lành và Người Tôi Tớ[15].
Sống và duy trì “cảm thức yêu mến giáo Hội”, và lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”, là những yếu tố quan trọng thuộc về căn tính linh mục. Đây không phải là điều mà người ta có thể thủ đắc ngay sau một khóa học; cũng không phải là một thành quả có thể đo đếm bằng các tiêu chuẩn vật chất; cũng không phải là một thành quả người ta đạt được một lần và nó tồn tại mãi. Thực sự, “căn tính linh mục” là một giá trị mà từng ngày chủng sinh, linh mục, phải nỗ lực khám phá, thăng tiến và bảo vệ. Như vậy, sống căn tính linh mục gợi đến một đòi hỏi cấp thiết khác, đó là: “tự giáo dục” thường xuyên hay “thường huấn”.
- Tự giáo dục thường xuyên hay thường huấn
Theo tác giả Amadeo Cencini, ngoài tác nhân thần linh, tiến trình đào tạo một linh mục gồm hai nhịp – huấn luyện và giáo dục. Xét về phương diện người thụ huấn, “huấn luyện” mang ý nghĩa thụ động, ví dụ sự dạy bảo, chỉ dẫn, truyền thụ kiến thức, kỷ luật giờ giấc và quy luật cho những thực hành tâm linh, tri thức, mục vụ và nhân bản. Theo đó, người thụ huấn là người “được hay bị” đón nhận sự đào tạo, uốn nắn (formation) từ một cơ chế hay từ những nhà đào tạo. Trong khi “giáo dục” (education) thiên về hành vi và ý thức chủ động, nghĩa là người thụ huấn tìm hiểu để nhận ra con người thật của mình, khám phá mình về phương diện tâm sinh lý, và những ý hướng ẩn sâu trong mỗi hành vi và trong ơn gọi của mình, qua đó thăng tiến những ưu điểm hay hoán cải các khiếm khuyết liên quan đến hiện sinh và ơn gọi mình. Yếu tố giáo dục chủ động này là rất quan trọng trong suốt hành trình ơn gọi của một linh mục[16]. Đó cũng là điều mà Bộ Giáo Sĩ định nghĩa như là một phần quan trọng của việc “thường huấn” (ongoing formation): “[…] Đừng quên rằng chính [chủng sinh,] linh mục là người đầu tiên và là người chính yếu phải chịu trách nhiệm về sự thường huấn mình.”[17]
Việc huấn luyện (thụ động) tại chủng viện là quan trọng và cần thiết, nhưng nhất thiết không thể thiếu việc “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn” (giáo dục chủ động). “Thường huấn”, bắt đầu nơi chủng viện, và được tiếp tục sau chủng viện, trải dài suốt hành trình đời linh mục, là rất quan trọng và không thể thiếu. Điều này có nghĩa là: “Thường huấn diễn tả rằng người được gọi vào chức linh mục không bao giờ được thôi trải nghiệm mình là người môn đệ.”[18] Nói cách khác, chương trình đào tạo không thể nào hoàn thành nếu thiếu việc “thường huấn” của mỗi chủng sinh, linh mục, hoặc nếu chấm dứt việc đó ở một giai đoạn nhất định trong hành trình ơn gọi.
Trong thực tế, một đàng, theo A. Cencini, “[n]nhiều khi chúng ta làm ầm lên, gieo lộn xộn bằng cách bắt đầu trực tiếp việc huấn luyện (formation)”: chúng ta dạy dỗ, huấn luyện, truyền thụ kiến thức triết học, thần học, nhân văn và tâm linh qua những giờ lớp hoặc những thời khóa biểu dày đặc, mà lại bỏ qua hoặc xem nhẹ tư duy “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”. Tác giả nhận định, như thế việc huấn luyện liệu có ích gì nếu ta không bắt đầu trước hết bằng việc gây nên nơi ứng sinh một tâm thức “tự giáo dục” trường kỳ.[19] Điều này làm cho chúng ta liên tưởng đến một bức tường được trát vữa một cách vội vã, sau đó quét vôi; càng quét, lớp vôi càng dày thêm và nhờ đó cũng xoá đi được những sần sùi thô lỗ của bức tường, nhưng khi lớp vôi càng dày thì cũng là lúc nó dễ dàng bị bong tróc khỏi bức tường.[20] Thực tế, theo nhiều nghiên cứu ở các nước phương tây, những trường hợp lạm dụng tính dục xảy ra tại nhiều nơi phần lớn do chính người chủng sinh, linh mục không ý thức tầm quan trọng của việc “tự giáo dục” hoặc chấm dứt việc “tự giáo dục” chính mình sau khi trở thành linh mục[21]. Vì vậy, có thể nói rằng, cuộc “khủng hoảng lạm dụng tính dục” thực chất là “khủng hoảng căn tính linh mục”[22].
Thực sự, muốn khởi sự và duy trì tâm thức “thường huấn”, chúng ta cần tìm kiếm và xác tín vào một động lực. Theo Bộ Giáo Sĩ, “Đức ái mục tử là linh hồn và là mô thể của việc thường huấn linh mục.” Như vậy, trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” vừa là lý tưởng và cũng là động lực trong đời sống và sứ vụ của linh mục. Đó chính là “ngọn lửa” nhờ đó, linh mục có thể chiếu sáng và sưởi ấm sứ vụ. Do đó, Bộ Giáo Sĩ nhắn nhủ: các linh mục “phải thường xuyên nuôi dưỡng ‘ngọn lửa’ mang lại ánh sáng và nhiệt huyết để thi hành thừa tác vụ.”[23]
Tóm lại, trước thực trạng lạm dụng tính dục, mỗi chủng sinh, linh mục, dường như bị chất vấn “tìm ra một chân giá trị” có tính xuyên suốt trong tiến trình đào tạo ơn gọi của mình. Giá trị nền tảng đó chính là: “hành trình trường kỳ khám phá, duy trì và thăng tiến căn tính linh mục”, được gọi là “thường huấn về căn tính linh mục”. Chính công việc này (thường huấn) “nâng đỡ linh mục để luôn trung thành với thừa tác vụ linh mục theo một hành trình hoán cải liên tục, ngõ hầu làm sống lại ơn ban đã lãnh nhận vào lúc [được] truyền chức.”[24] Hy vọng rằng: việc tìm lại, sống và thăng tiến căn tính linh mục trong một tâm thức thường huấn sẽ giúp cho mỗi chủng sinh, linh mục hôm nay có thể đương đầu trước những “sóng gió” của thời đại, cách riêng trước thực trạng lạm dụng tính dục.
[1] Hồng Thủy – Vatican News, Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các nạn nhân của nạn lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-10/dtc-phanxico-cau-nguyen-nan-nhan-lam-dung-tinh-duc-giao-hoi-phap.html
[2] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic, Crisis, Reform, and the Future of the Church, Basics Books, USA 2002.
[3] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood, Formation and Human Development, Ligouri, Missouri 2006.
[4] Xem BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30–40.
[5] Ibid., s. 80–88.
[6] Xem T. P. Halton et al. (eds.), The Fathers of the Church: Medieval Continuation, vol. II, Catholic University of America Press, Washington, D.C. 1990, 29.
[7] Xem St. JOHN CHRYSOSTOM, Homilies on Titus V (P. Schaff {ed.}, A Select Library of Nicene and Post-Nicene Fathers of the Christian Church, vol. XIII, WM. B. Eerdmans Publishing Company, Michigan 1979, 535–540).
[8] Xem J. J. O’DONNELL, Augustine Confessions II: Commentary on Books 1–7, Clarendon Press, Oxford 1992, 189–191
[9] Xem St. PETER DAMIAN, Book of Gomorrah: An Eleven-Century Treatise against clerical Homosexual Practices, Wilfrid Laurier University Press, Canada 1982.
[10] BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30.
[11] Ibid., s. 41.
[12] Ibid., s. 35.
[13] Xem ĐGM. GIO-AN ĐỖ VĂN NGÂN, “Hỡi người của Thiên Chúa (1 Tm 6,11)”, Lời Chủ Chăn cho giáo phận Xuân Lộc, trong trang web http://giaophanxuanloc.net/loi-chu-chan/loi-chu-chan-thang-102021–hoi-nguoi-cua-thien-chua-1tm-6-11-17844.html.
[14] Xem BENEDICT XVI – ROBERT CARDINAL SARAH, From the Depths of Our Hearts, Ignatius Press, San Francisco 2020, 48–57.
[15] Xem Ratio 2016, s. 35–40.
[16] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành: Một Sư Phạm Giúp Một Người Thể Hiện Ơn Gọi Mình, NXB. Đồng Nai, Đồng Nai 11–46.
[17] Ratio 2016, s. 82.
[18] Xem Ibid., s. 80–88.
[19] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành…, 15.
[20] Xem Ratio 2016, s. 41.
[21] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood…, 149–164.
[22] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic…, 93–95.
[23] Ratio 2016, s. 80.
[24] Ibid., s. 81.