2021
Nếu ngày ấy Đức Mẹ nói KHÔNG thì sao?
“Mẹ hoàn toàn tự do để nói không. Nếu Chúa ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu. Nhưng Thiên Chúa biết chọn lựa và Ngài đã chọn Đức Maria”.
Henry Ossawa Tanner
Cha Zezinho đã viết suy tư của mình trên mạng xã hội để trả lời cho những người đặt vấn đề với ngài về điều gì sẽ xảy ra nếu Đức Maria nói “KHÔNG” với Chúa.
Đây là những gì vị linh mục đã khẳng định quanh giả thuyết rằng Đức Mẹ có thể dùng tự do của mình để từ chối lời kêu mời của Thiên Chúa là trở thành Mẹ của Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người: “Họ đã hỏi và tôi trả lời. Nếu bất kỳ ai trong chúng ta nói “KHÔNG”, thì Thiên Chúa tối cao sẽ mời gọi một người khác”.
“Người đã đặt giả thuyết về lời thưa “KHÔNG” của Đức Maria đã kết luận rằng Chúa Giêsu vì vậy mà không nhập thể. Tôi đã chỉnh sửa lại tư tưởng của người đó. Đó làm một sai lầm khi nghĩ rằng sự nhập thể phụ thuộc vào Đức Maria. Đấng Cứu Thế sẽ được sinh ra bởi một người nữ khác. Thiên Chúa có quyền làm điều này. Hay bạn nghĩ rằng Chúa không có quyền đó?”
Nếu Maria nói KHÔNG thì sao?
“Tuy nhiên, sự thật là Đức Maria đã thưa VÂNG, kết thúc mọi cuộc thảo luận. Mặc dù vậy, việc nhập thể tùy thuộc vào ý muốn tối cao của Thiên Chúa duy nhất và Ba Ngôi. Người Con Hằng Hữu đã thưa VÂNG để thực thi ý muốn của Cha. Và Ngài đã trở thành Con của loài người.
Lời thưa VÂNG của Đức Maria thì vô điều kiện. Mẹ đã tự xưng mình là nữ tỳ của Thiên Chúa. Với Mẹ, Thiên Chúa có thể thực hiện những gì Ngài muốn, và Mẹ đã nói chính xác về điều này. Mẹ không thưa KHÔNG trước mặt Thiên Chúa dẫu cho Mẹ hoàn toàn có tự do để làm điều đó. Mẹ có tự do để nói tiếng KHÔNG! Và nếu Thiên Chúa đã ép buộc Mẹ thì đó không phải là tình yêu, và Thiên Chúa là tình yêu! Nghĩa là Đức Mẹ sẽ không được phép chọn lựa.
Nhưng Chúa biết cách lựa chọn! Và Ngài đã chọn Đức Maria.
Mẹ Maria đã chọn lời thưa VÂNG bởi vì Mẹ hiểu được giáo huấn của các tiên tri thời đại. Vì vậy nên Mẹ đã nói, theo những gì thánh sử Luca đã viết, “Xin cứ thực hiện cho tôi theo lời của ngài” (Lc 1, 38).
- Võ Tá Hoàngchuyển ngữ
2021
Tu sĩ và quê hương
Mỗi người chúng ta đều có một quê hương, nơi sinh ra và lớn lên. Khi trưởng thành, mỗi người chọn cho mình một nơi để sống và làm việc. Chắc chắn rằng quê hương ở trong ký ức mỗi người, nhưng vì cơm áo hay học tập mà chúng ta phải xa nhà, xa gia đình. Sau khi Sài Gòn gỡ bỏ lệnh giãn cách, mọi người ùn ùn kéo nhau về quê. Cũng có những người chỉ về khi có ba mẹ qua đời. Họ hy sinh tuổi thanh xuân của mình trong các Đan Viện kín. Đó là những người đã đáp trả lời mời gọi của Chúa sống đời dâng hiến hay những tu sĩ đang dấn thân truyền giáo ở khắp nơi trên thế giới theo lời mời gọi của Chúa Giêsu: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng” (Mc 16, 9-18).
Trong cuộc sống xa quê, môi trường khác văn hóa, khi gặp khó khăn các tu sĩ cũng cần sự an ủi, đỡ nâng. Một trong những nguồn an ủi lớn lao của họ là sự gắn kết với quê hương và gia đình. Quê hương là một phần máu thịt của mỗi người. Dù dấn thân phục vụ ở một đất nước xa xôi, các tu sĩ vẫn luôn mang trong mình hơi thở của quê hương. Ai nói mình đã hoàn toàn từ bỏ quê hương thì e rằng họ đang dối lòng. Thời buổi công nghệ 4.0 phát triển giúp con người kết nối với nhau dễ dàng hơn trước. Nếu như các nhà truyền giáo thời xưa muốn gửi thư về gia đình phải mất mấy tháng đường biển thì bây giờ người tu sĩ với chiếc smartphone có thể trò chuyện hàng giờ với người thân trong gia đình hay bạn bè gần xa. Ngay cả các công việc mang tính mục vụ như tư vấn, đồng hành thiêng liêng vẫn có thể được thực hiện dễ dàng qua mạng. Người tu sĩ trở nên gần gũi hơn với người khác khi họ đưa lên mạng những hình ảnh sinh hoạt hàng ngày hay những dòng tâm sự nhỏ to bày tỏ nỗi niềm.
Tuy nhiên, cái gì cũng có hai mặt của nó. Nếu như công nghệ là phương tiện giúp người tu sĩ kết nối với người khác thì nó cũng có nguy cơ làm người tu sĩ bớt nhiệt tình dấn thân cho lý tưởng đời tu. Khi tôi hỏi một bà cố có con đang tu ở nước ngoài “Bà cố có nhớ con mình không?”, bà trả lời: “Ối dào, có gì đâu mà nhớ, ngày nào cũng thấy nó chường mặt trên Facebook đó thôi!” Tôi không nghĩ đó không phải là lời nói bâng quơ, bởi vì đằng sau câu nói đó là cả một nỗi niềm về đời tu của con mình. Tâm lý con người vốn rất rõ ràng, mỗi khi quan tâm một điều gì đó quá nhiều thì những điều khác trở nên ít quan trọng hơn. Không có tu sĩ nào tu trên “cõi phây” cả. Dù người tu sĩ chia sẻ tất tần tật những việc họ làm, những điều họ nghĩ về đời tu trên facebook thì mạng xã hội vẫn không thay thế được tu viện hay đời sống cộng đoàn.
Khi xưa các thừa sai “chân bước đi đầu không ngoảnh lại” thì ngày nay nhiều tu sĩ sống ở xa quê vẫn một lòng hướng về “quê hương.” Phải chăng đó là một dấu hiệu cho thấy họ vẫn chưa thực sự từ bỏ mọi sự để bước theo Chúa? Xin thưa, theo Chúa không có nghĩa là cắt đứt liên lạc với gia đình hay xóa bỏ tình liên đới với quê hương đất nước. Người môn đệ của Chúa được mời gọi dấn thân trọn vẹn trong sứ mạng được giao ở vùng đất mới. Người ta gọi đó là việc hội nhập văn hóa hay sống mầu nhiệm nhập thể. Vì lòng yêu mến dành cho các linh hồn, người tu sĩ hăng say phục vụ bất cứ người nào ở bất cứ nơi đâu, không nhất thiết phải là đồng bào dân tộc mình. Thực ra, căn cốt của đời tu ở đâu cũng giống nhau: sống tinh thần cầu nguyện và dấn thân phục vụ tha nhân. Nếu không có được điều căn cốt đó thì những mối tương quan trên mạng xã hội sẽ trở thành cám dỗ khiến tu sĩ xao nhãng đời tu.
Tôi thật sự khâm phục các tu sĩ đã quảng đại đáp lại lời mời gọi lên đường loan báo Tin Mừng ở những nơi người ta chưa biết Chúa hoặc đã biết Chúa nhưng bỏ bê đời sống đức tin. Họ là khí cụ loan báo Tin Mừng của Chúa. Họ phải chịu thiệt thòi không nhỏ về mặt tình cảm khi phải sống xa quê hương gia đình. Về mặt con người, họ không thể tránh được những phút giây yếu lòng, cô đơn, nản chí. Họ thực sự cần đến những lời động viên an ủi từ gia đình, bè bạn. Tuy nhiên, chính họ cũng phải tỉnh táo phân biệt giữa những nguồn an ủi lành mạnh và những cạm bẫy đến từ mạng xã hội. Họ cần đến những người bạn chân thành, ở trong dòng hay ngoài dòng, để trút bầu tâm sự. Họ cũng cần những tu sĩ lớn tuổi có nhiều kinh nghiệm làm vai trò linh hướng, giúp họ vượt qua khó khăn. Họ nên tìm niềm vui trong công việc phục vụ của mình, dù đó là những hy sinh thầm lặng ít ai biết đến. Quan trọng nhất là họ phải khát khao mong chờ tìm được hạnh phúc trong tương quan thân mật với Thiên Chúa qua đời sống cầu nguyện cá nhân.
Sứ mạng phục vụ của Giáo hội không phân biệt màu da, sắc tộc. Đã chọn lựa đời tu là sẵn sàng chấp nhận đi bất cứ nơi đâu và làm bất cứ việc gì để danh Chúa được tôn vinh. Chắc chắn trong lòng mỗi tu sĩ xa quê dù đang học tập hay làm việc thì họ vẫn luôn đậm tình quê hương đất nước. Tuy nhiên, càng yêu mến quê hương thì khí chất của người Việt nơi người tu sĩ càng cần phải thể hiện rõ ràng hơn: giữ lòng đạo sắc son, sống đời tu gương mẫu, bình an và triển nở trong sứ mạng được giao. Sống xa quê chính, Tu sĩ là những con người đang tiếp nối trang sử hào hùng của các thánh tử đạo Việt Nam, trung kiên làm chứng đức tin không chỉ trên quê hương mà còn trên khắp cả thế giới.
2021
Thường huấn về căn tính linh mục
“THƯỜNG HUẤN VỀ CĂN TÍNH LINH MỤC” –
MỘT ĐIỂM NHẤN QUAN TRỌNG TRONG CÔNG CUỘC ĐÀO TẠO LINH MỤC TRƯỚC THỰC TRẠNG LẠM DỤNG TÍNH DỤC
Tác giả: Lm. Giuse Đỗ Mạnh Thịnh
Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc, tháng 10 năm 2021
WHĐ (25.10.2021) – Trong vài năm qua, truyền thông xã hội tại nhiều quốc gia đồng loạt “phơi bày” thực trạng giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, kết quả điều tra tại nhiều nơi về những vụ lạm dụng tính dục trẻ em xảy ra trong nhiều thập niên trước đã được trưng ra cách công khai. Ngày 5-10-2021 vừa qua, báo chí thế giới lại bùng lên liên quan đến một kết quả điều tra được thực hiện trong hai năm qua tại Pháp theo đó, “trong khoảng thời gian 70 năm [từ năm 1950 – 2020], có tổng cộng khoảng 216.000 (với sai số 50 ngàn) người ở Pháp là nạn nhân vị thành niên bị lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, bởi khoảng từ 2.900 đến 3.200 linh mục và tu sĩ”[1]. Những tin tức như vậy dễ thu hút sự chú ý, tạo ra một làn sóng phẫn nộ từ nhiều người trong và ngoài Giáo Hội. Đối với Nhiệm Thể Giáo Hội, những thông tin đó trở nên như một cơn “địa chấn” mạnh mẽ gây khủng hoảng niềm tin, tổn thương tinh thần cho nhiều người, và cũng là “cớ vấp phạm” cho những người vốn thiếu thiện cảm với Giáo Hội. Điều này dẫn đến hậu quả tiêu cực đó là, một đàng người ta nghi ngờ Giáo Hội, mất niềm tin vào sự lãnh đạo của các mục tử; đàng khác, tại nhiều giáo hội địa phương, các linh mục phải sống trong sự nghi kỵ, bị giám sát hoặc tự hạn chế hoạt động mục vụ đến mức gây nên mặc cảm bị xa tránh hoặc sợ hãi, dẫn đến thái độ sống khép kín.
Khi nghe thông tin về một “scandal” lạm dụng tính dục xảy ra ở đâu đó, có thể người ta có nhiều phản ứng khác nhau. Ví dụ, có người ngay lập tức cho rằng truyền thông ngày nay dễ bị lèo lái theo những mưu đồ cá nhân hay chính trị đảng phái; cũng có người nghĩ rằng đó là sản phẩm của thái độ chống đối Giáo Hội được thực hiện bởi một nhóm nào đó; hoặc những người khác coi những sự việc lạm dụng tính dục là chuyện chỉ xảy ra ở Phương Tây xa xôi, nơi “thừa bứa” tự do, không liên quan lắm đến “tôi”. Đàng khác, có người nghi ngờ tính nghiêm túc và chân thật của những bản điều tra đó; hoặc biện minh rằng có phải chỉ giáo sĩ lạm dụng tính dục đâu, các đối tượng khác lạm dụng tính dục nhiều hơn, ví dụ phụ huynh, giáo viên, huấn luyện viên thể thao!
Khi xem xét về phương diện đào tạo linh mục, có không ít tác giả nỗ lực phân tích, nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân được cho là có nhiều khả năng đã dẫn đến thực trạng lạm dụng tính dục, ví dụ như nghiên cứu của George Weigel[2], Gerald D. Coleman[3]. Những nghiên cứu này mang lại rất nhiều thông tin, cũng như những phân tích chuyên môn, giải pháp hữu ích cho công cuộc đào tạo linh mục.
Bài viết này không lạm bàn những tranh luận trên, cũng như không có ý đọc lại những “giả thuyết” về nguyên nhân của lạm dụng tính dục mà nhiều tác giả đã trình bày; đúng hơn, nó muốn gợi lên một cách tiếp cận vấn đề lạm dụng tính dục trong mối liên hệ đến lĩnh vực đào tạo linh mục. Một cách cụ thể, mỗi chủng sinh, linh mục có thể tự vấn: làm thế nào để chính mình có thể bảo vệ bản thân trong sứ vụ và bảo vệ các “chi thể” khác trong nhiệm thể Giáo Hội? Nói cách khác, “lỗ hổng” nào trong quá trình đào tạo có thể dẫn linh mục đến những thực hành đáng buồn đó?
Bằng cách tiếp cận như thế, bài viết nhấn mạnh đến một yếu tố nền tảng trong công cuộc đào tạo và trong đời sống cũng như sứ vụ linh mục. Yếu tố đó chính là “thường huấn về căn tính linh mục”. Trong thực tế, đây là yếu tố nòng cốt không thể thiếu, xong nó cũng dễ dàng, một cách vô tình hay hữu ý, bị xem nhẹ hoặc không thể duy trì trong một giai đoạn nào đó của đời sống linh mục.
“Thường huấn về căn tính linh mục” giúp cho người môn đệ có thể giữ “lửa” trong ơn gọi và trong khi thực thi sứ vụ. Căn tính linh mục được thể hiện một cách cụ thể và sống động trong hai chiều kích chính yếu: (1) “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, (2) trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô.”[4] Chính hai chiều kích này gợi đến một nhu cầu, một đòi hỏi và như một thách đố triền miên cho tiến trình đào tạo, đó là: (3) “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”.[5] Chúng ta đi sâu vào từng lĩnh vực.
- Cảm thức yêu mến Giáo Hội, Mẹ và Hiền Thê của Đức Kitô
Thực sự, không phải đợi đến những năm gần đây, khi mà truyền thông phơi bày ra ánh sáng nhiều vụ việc lạm dụng tính dục, thì Giáo Hội mới quan tâm, mới cảm thấy lo âu và nỗ lực tìm phương “giải quyết”. Đúng hơn, đọc lại lịch sử Giáo Hội, chúng ta sẽ thấy rằng vấn đề lạm dụng tính dục, một cách nào đó, đã tồn tại trong hàng ngũ những môn đệ của Đức Kitô như một “vết nhăn nheo” không đáng có trên khuôn mặt Giáo Hội. Từ thời các thánh giáo phụ, ví dụ thánh Ba-si-li-ô Cả[6], thánh Gio-an Kim Khẩu[7], thánh Au-gút-ti-nô[8] đến thánh Phê-rô Đa-mi-an-nô[9]…, vấn đề lạm dụng tính dục của hàng ngũ tu sĩ và giáo sĩ cách riêng luôn làm dấy lên những lo âu, trăn trở cho các mục tử thánh thiện này. Tùy hoàn cảnh và thời đại, các ngài luôn mạnh mẽ lên tiếng chống lại những thực hành tính dục sai trái đó, đàng khác không ngừng dạy dỗ, trong tư cách cá nhân hay tập thể, bằng lời giáo huấn, những chỉ dẫn và cả những hình thức “kỷ luật” mạnh mẽ.
Cũng vậy, trong những năm qua, Giáo Hội đã có những hành động cụ thể để đương đầu với vấn đề này. Ví dụ, ngày 4/6/2016, Đức Thánh Cha Phanxicô đã ban hành sắc lệnh Như Người Mẹ Yêu Thương. Đây là những hướng dẫn cụ thể liên quan đến vấn đề giáo sĩ lạm dụng tính dục. Thêm vào đó, Đức Thánh Cha đã thành lập một Uỷ ban Giáo hoàng về Bảo vệ Trẻ vị thành niên. Uỷ ban này có trách nhiệm nghiên cứu các biện pháp bảo vệ, đề phòng và giải quyết các trường hợp lạm dụng tính dục trên phạm vi Giáo Hội hoàn vũ… Dựa vào những định hướng đó, nhiều Hội đồng Giám mục đã đề ra những hành động cụ thể để giúp các nạn nhân, các linh mục, đồng thời ngăn ngừa “sự lây lan” của thực trạng lạm dụng tính dục.
Nhắc lại những điều đó, chúng ta không có ý biện minh cho vấn đề lạm dụng tính dục như một thứ bệnh “mãn tính” (không thể chữa khỏi). Trái lại, qua đó chúng ta một đàng xác tín rằng Giáo Hội không bao giờ im tiếng, thỏa hiệp, hoặc làm ngơ trước sự lộng hành của điều dữ gây nên bởi chính các chi thể của mình; đàng khác, quan trọng hơn, khi nhắc lại những lo âu, quan tâm và nỗ lực đương đầu với thực trạng lạm dụng tính dục của hàng giáo sĩ, chúng ta được mời gọi làm sống lại “cảm thức yêu mến Giáo Hội”, Hiền Thê của Đức Ki-tô và là Mẹ của chúng ta.
Thiết tưởng chúng ta không cần nhắc lại những vụ án lạm dụng tính dục đã xảy ra tại nhiều nơi trên thế giới được truyền thông đề cập trong những năm qua. Điều cần thiết hơn đó là: chúng ta cần có trăn trở, ý thức rằng lạm dụng tính dục đang là một trong những quan tâm hàng đầu của Giáo Hội, nó là một thách đố lớn lao cho Giáo Hội trong vai trò là “Mẹ và Thầy”, nó đang gây nên nghi kỵ, chia rẽ, và làm cho nhiều “chi thể” trong Nhiệm Thể Giáo Hội phải đau đớn. Nói cách khác, đối mặt với thực trạng lạm dụng tính dục, trước hết, chúng ta được mời gọi củng cố lại cảm thức yêu mến Giáo Hội nơi mỗi người bằng một thái độ đồng cảm, ưu tư, lo lắng và hành động trong sự hiệp nhất của toàn Nhiệm Thể Giáo Hội.
Thực sự, cảm thức yêu mến Giáo Hội không phải là một hạn từ trừu tượng được nghe nói đến hay đọc thấy ở đâu đó. Nhưng, đó là một tâm thức thường hằng, được diễn tả qua một lối sống cụ thể gồm hai yếu tố chính yếu: vâng phục và hiệp thông.
Sự vâng phục và hiệp thông có thể được diễn giải theo ngôn từ của thánh Phao-lô: Nhìn Giáo Hội như một thân thể có Đức Ki-tô là Đầu, chúng ta thấy mình như một chi thể cần phải gắn kết với Đầu trong sự vâng phục vì đó là “sự sống còn” của chúng ta. Nhìn Giáo Hội như một thân thể gồm nhiều chi thể, chúng ta thầy mình có trách nhiệm với chính mình trong tư cách là một chi thể, đồng thời có trách nhiệm liên đới với các chi thể khác để làm nên sự sống hài hòa cho toàn thân thể (x. 1 Cr 12,12–26). Như vậy, chủng sinh, linh mục cần xác tín rằng, mình thuộc về một Nhiệm Thể, và mình chỉ có sự sống trong sự tương quan mật thiết với Đầu và các chi thể khác. Đó đích thực là cách thể hiện cụ thể một cảm thức yêu mến Giáo Hội!
Chỉ khi nào chúng ta thực lòng yêu mến Giáo Hội bằng những thực hành cụ thể như vậy, chúng ta mới cảm nhận sâu xa tính nghiêm trọng của nạn lạm dụng tính dục, nó đã gieo đau khổ lâu dài cho nhiều tâm hồn, những chi thể yếu đau của Giáo Hội mà lẽ ra phải được bảo vệ và chăm sóc, cũng như gây nên những “vết thương” đau đớn cho Nhiệm Thể Giáo Hội có Đức Ki-tô là Đầu. Cảm thức yêu mến Giáo Hội – “vâng phục và hiệp thông” – sẽ thúc đẩy chúng ta nỗ lực tìm kiếm sự hoán cải, chữa lành, chăm sóc và bảo vệ các chi thể khác, nhất là những chi thể “đau yếu”.
Như vậy, trước thực trạng lạm dụng tính dục, thiết tưởng mỗi chủng sinh, linh mục, bị đặt trước một “đòi hỏi” quan trọng trong tiến trình đào tạo về đời sống và sứ vụ linh mục, đó là: người môn đệ biết tự huấn luyện và hoán cải thường xuyên về cảm thức yêu mến giáo hội, thể hiện một cách sống động qua tâm tình cũng như thái độ “vâng phục và hiệp thông”. Chúng ta nghe lại lời của Bộ Giáo Sĩ như một nhắc nhở và định hướng quan trọng mang tính tiên tri trong bối cảnh mà chúng ta đang phải đối diện: “Bản chất và sứ vụ của linh mục phải được hiểu trong lòng Giáo Hội, là Dân Chúa, là Thân Thể Chúa Ki-tô và là Đền Thờ của Chúa Thánh Thần. Chính là để phục vụ Giáo Hội mà linh mục tận hiến cuộc đời mình.”[10]
Thực sự, thường khi trái tim một linh mục không còn chung nhịp đập với Giáo Hội, không còn cảm thức yêu mến Giáo Hội – đoạn tuyệt với tinh thần vâng phục và hiệp thông – hoạt động mục vụ và cả các cử hành thánh thiêng của linh mục sẽ mất “hồn sống”. Ân sủng và sự đỡ nâng siêu nhiên sẽ dần mất theo.
- Trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô
Đối với vấn đề lạm dục tính dục, chúng ta có thể lựa chọn nhiều cách tiếp cận khác nhau. Tuy nhiên, có một điều không thể chối cãi, đó là: chính thực trạng lạm dụng tính dục như đang “chất vấn” trực tiếp mỗi người, chủng sinh, linh mục, trước công cuộc đào tạo chính mình như là một môn đệ của Đức Ki-tô: “bạn trở nên mẫu linh mục nào?”
Thực sự, theo Bộ Giáo Sĩ, đào tạo linh mục không phải như việc trưng ra cho thấy “lớp sơn” bề ngoài về đức hạnh, sự lịch thiệp hoặc khả năng tuân thủ những nguyên tắc trừu tượng cũng như kỷ luật bề ngoài đối với một con người. Nhưng, đó là việc đào tạo một con người để được biến đổi nên giống Chúa Giê-su. Nghĩa là, “biết nội tâm hóa tinh thần Tin Mừng, nhờ vào tương quan bằng hữu và cá vị với Chúa Ki-tô, đến độ chia sẻ những tình cảm và thái độ của Người.”[11] Nói một cách vắn gọn, đào tạo linh mục là tiến trình biến đổi một con người, cả con tim và trí óc, trở nên “đồng hình đồng dạng trong hữu thể với Chúa Ki-tô, là Thủ Lãnh, Mục Tử, Tôi Tớ và Phu Quân”[12] hoặc, nói theo thánh Phao-lô, trở nên như “người của Thiên Chúa” (x. 1 Tm 6,11).[13]
Trong tinh thần đó, một đàng theo Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI, được hiến thánh để “đứng trước tôn nhan và phụng sự Chúa”, linh mục được biến đổi tận căn. Điều này đòi hỏi linh mục hiến mình, gắn bó “trọn vẹn” với Thiên Chúa, và tác vụ thánh. Như một hệ quả, linh mục phải đoạn tuyệt với những mối ràng buộc luyến ái khác, để có thể “hiến lễ” con người mình một cách hoàn toàn và tự do cho việc phục vụ Thiên Chúa và tha nhân. Bên cạnh đó, cũng như các tư tế thuộc dòng Lê-vi, các tư tế Tân Ước cũng có thể nói về “mối bận tâm” và “gia tài” duy nhất của mình chính là Thiên Chúa: “Lạy Chúa, Chúa là phần sản nghiệp con được hưởng, là chén phúc lộc dành cho con; số mạng con, chính Ngài nắm giữ. Phần tuyệt hảo may mắn đã về con, vâng, gia nghiệp ấy làm con thỏa mãn” (Tv 16,5–6).[14]
Đàng khác, như Đức Thánh Cha Phan-xi-cô ngỏ lời với các bạn trẻ trong ngày Đại hội Giới trẻ ở Bra-sil (28/7/2013): “Các bạn hãy để cho cuộc sống của mình được đồng nhất với cuộc sống của Chúa Giê-su, để có cảm xúc, suy nghĩ, hành động như Chúa Giê-su.” Thực ra, đó chính là lời mời gọi phổ quát đầy thách thức cho những ai muốn trở nên môn đệ của Đức Ki-tô, một thách thức “có trái tim mục tử” theo gương người Mục Tử Nhân Lành, đấng luôn biết chạnh lòng thương những người nhỏ bé, yếu đuối, và sẵn sàng hiến mình vì tha nhân. Như vậy, hơn ai hết, chủng sinh, linh mục, phải nhận lấy như của riêng mình về một lời mời gọi, một lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” – Thượng Tế, Mục Tử Nhân Lành và Người Tôi Tớ[15].
Sống và duy trì “cảm thức yêu mến giáo Hội”, và lòng khát khao trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô”, là những yếu tố quan trọng thuộc về căn tính linh mục. Đây không phải là điều mà người ta có thể thủ đắc ngay sau một khóa học; cũng không phải là một thành quả có thể đo đếm bằng các tiêu chuẩn vật chất; cũng không phải là một thành quả người ta đạt được một lần và nó tồn tại mãi. Thực sự, “căn tính linh mục” là một giá trị mà từng ngày chủng sinh, linh mục, phải nỗ lực khám phá, thăng tiến và bảo vệ. Như vậy, sống căn tính linh mục gợi đến một đòi hỏi cấp thiết khác, đó là: “tự giáo dục” thường xuyên hay “thường huấn”.
- Tự giáo dục thường xuyên hay thường huấn
Theo tác giả Amadeo Cencini, ngoài tác nhân thần linh, tiến trình đào tạo một linh mục gồm hai nhịp – huấn luyện và giáo dục. Xét về phương diện người thụ huấn, “huấn luyện” mang ý nghĩa thụ động, ví dụ sự dạy bảo, chỉ dẫn, truyền thụ kiến thức, kỷ luật giờ giấc và quy luật cho những thực hành tâm linh, tri thức, mục vụ và nhân bản. Theo đó, người thụ huấn là người “được hay bị” đón nhận sự đào tạo, uốn nắn (formation) từ một cơ chế hay từ những nhà đào tạo. Trong khi “giáo dục” (education) thiên về hành vi và ý thức chủ động, nghĩa là người thụ huấn tìm hiểu để nhận ra con người thật của mình, khám phá mình về phương diện tâm sinh lý, và những ý hướng ẩn sâu trong mỗi hành vi và trong ơn gọi của mình, qua đó thăng tiến những ưu điểm hay hoán cải các khiếm khuyết liên quan đến hiện sinh và ơn gọi mình. Yếu tố giáo dục chủ động này là rất quan trọng trong suốt hành trình ơn gọi của một linh mục[16]. Đó cũng là điều mà Bộ Giáo Sĩ định nghĩa như là một phần quan trọng của việc “thường huấn” (ongoing formation): “[…] Đừng quên rằng chính [chủng sinh,] linh mục là người đầu tiên và là người chính yếu phải chịu trách nhiệm về sự thường huấn mình.”[17]
Việc huấn luyện (thụ động) tại chủng viện là quan trọng và cần thiết, nhưng nhất thiết không thể thiếu việc “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn” (giáo dục chủ động). “Thường huấn”, bắt đầu nơi chủng viện, và được tiếp tục sau chủng viện, trải dài suốt hành trình đời linh mục, là rất quan trọng và không thể thiếu. Điều này có nghĩa là: “Thường huấn diễn tả rằng người được gọi vào chức linh mục không bao giờ được thôi trải nghiệm mình là người môn đệ.”[18] Nói cách khác, chương trình đào tạo không thể nào hoàn thành nếu thiếu việc “thường huấn” của mỗi chủng sinh, linh mục, hoặc nếu chấm dứt việc đó ở một giai đoạn nhất định trong hành trình ơn gọi.
Trong thực tế, một đàng, theo A. Cencini, “[n]nhiều khi chúng ta làm ầm lên, gieo lộn xộn bằng cách bắt đầu trực tiếp việc huấn luyện (formation)”: chúng ta dạy dỗ, huấn luyện, truyền thụ kiến thức triết học, thần học, nhân văn và tâm linh qua những giờ lớp hoặc những thời khóa biểu dày đặc, mà lại bỏ qua hoặc xem nhẹ tư duy “tự giáo dục” trường kỳ hay “thường huấn”. Tác giả nhận định, như thế việc huấn luyện liệu có ích gì nếu ta không bắt đầu trước hết bằng việc gây nên nơi ứng sinh một tâm thức “tự giáo dục” trường kỳ.[19] Điều này làm cho chúng ta liên tưởng đến một bức tường được trát vữa một cách vội vã, sau đó quét vôi; càng quét, lớp vôi càng dày thêm và nhờ đó cũng xoá đi được những sần sùi thô lỗ của bức tường, nhưng khi lớp vôi càng dày thì cũng là lúc nó dễ dàng bị bong tróc khỏi bức tường.[20] Thực tế, theo nhiều nghiên cứu ở các nước phương tây, những trường hợp lạm dụng tính dục xảy ra tại nhiều nơi phần lớn do chính người chủng sinh, linh mục không ý thức tầm quan trọng của việc “tự giáo dục” hoặc chấm dứt việc “tự giáo dục” chính mình sau khi trở thành linh mục[21]. Vì vậy, có thể nói rằng, cuộc “khủng hoảng lạm dụng tính dục” thực chất là “khủng hoảng căn tính linh mục”[22].
Thực sự, muốn khởi sự và duy trì tâm thức “thường huấn”, chúng ta cần tìm kiếm và xác tín vào một động lực. Theo Bộ Giáo Sĩ, “Đức ái mục tử là linh hồn và là mô thể của việc thường huấn linh mục.” Như vậy, trở nên “đồng hình đồng dạng với Chúa Ki-tô” vừa là lý tưởng và cũng là động lực trong đời sống và sứ vụ của linh mục. Đó chính là “ngọn lửa” nhờ đó, linh mục có thể chiếu sáng và sưởi ấm sứ vụ. Do đó, Bộ Giáo Sĩ nhắn nhủ: các linh mục “phải thường xuyên nuôi dưỡng ‘ngọn lửa’ mang lại ánh sáng và nhiệt huyết để thi hành thừa tác vụ.”[23]
Tóm lại, trước thực trạng lạm dụng tính dục, mỗi chủng sinh, linh mục, dường như bị chất vấn “tìm ra một chân giá trị” có tính xuyên suốt trong tiến trình đào tạo ơn gọi của mình. Giá trị nền tảng đó chính là: “hành trình trường kỳ khám phá, duy trì và thăng tiến căn tính linh mục”, được gọi là “thường huấn về căn tính linh mục”. Chính công việc này (thường huấn) “nâng đỡ linh mục để luôn trung thành với thừa tác vụ linh mục theo một hành trình hoán cải liên tục, ngõ hầu làm sống lại ơn ban đã lãnh nhận vào lúc [được] truyền chức.”[24] Hy vọng rằng: việc tìm lại, sống và thăng tiến căn tính linh mục trong một tâm thức thường huấn sẽ giúp cho mỗi chủng sinh, linh mục hôm nay có thể đương đầu trước những “sóng gió” của thời đại, cách riêng trước thực trạng lạm dụng tính dục.
[1] Hồng Thủy – Vatican News, Đức Thánh Cha cầu nguyện cho các nạn nhân của nạn lạm dụng tính dục trong Giáo hội Pháp, tại https://www.vaticannews.va/vi/pope/news/2021-10/dtc-phanxico-cau-nguyen-nan-nhan-lam-dung-tinh-duc-giao-hoi-phap.html
[2] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic, Crisis, Reform, and the Future of the Church, Basics Books, USA 2002.
[3] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood, Formation and Human Development, Ligouri, Missouri 2006.
[4] Xem BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30–40.
[5] Ibid., s. 80–88.
[6] Xem T. P. Halton et al. (eds.), The Fathers of the Church: Medieval Continuation, vol. II, Catholic University of America Press, Washington, D.C. 1990, 29.
[7] Xem St. JOHN CHRYSOSTOM, Homilies on Titus V (P. Schaff {ed.}, A Select Library of Nicene and Post-Nicene Fathers of the Christian Church, vol. XIII, WM. B. Eerdmans Publishing Company, Michigan 1979, 535–540).
[8] Xem J. J. O’DONNELL, Augustine Confessions II: Commentary on Books 1–7, Clarendon Press, Oxford 1992, 189–191
[9] Xem St. PETER DAMIAN, Book of Gomorrah: An Eleven-Century Treatise against clerical Homosexual Practices, Wilfrid Laurier University Press, Canada 1982.
[10] BỘ GIÁO SĨ, Đào Tạo Linh Mục: Hồng Ân Ơn Gọi Linh Mục (Ratio Fundamentalis Institutionis Sacerdotalis 2016 [= Ratio 2016]), s. 30.
[11] Ibid., s. 41.
[12] Ibid., s. 35.
[13] Xem ĐGM. GIO-AN ĐỖ VĂN NGÂN, “Hỡi người của Thiên Chúa (1 Tm 6,11)”, Lời Chủ Chăn cho giáo phận Xuân Lộc, trong trang web http://giaophanxuanloc.net/loi-chu-chan/loi-chu-chan-thang-102021–hoi-nguoi-cua-thien-chua-1tm-6-11-17844.html.
[14] Xem BENEDICT XVI – ROBERT CARDINAL SARAH, From the Depths of Our Hearts, Ignatius Press, San Francisco 2020, 48–57.
[15] Xem Ratio 2016, s. 35–40.
[16] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành: Một Sư Phạm Giúp Một Người Thể Hiện Ơn Gọi Mình, NXB. Đồng Nai, Đồng Nai 11–46.
[17] Ratio 2016, s. 82.
[18] Xem Ibid., s. 80–88.
[19] A. CENCINI, Giáo Dục, Huấn Luyện và Đồng Hành…, 15.
[20] Xem Ratio 2016, s. 41.
[21] Xem G. D. COLEMAN, Catholic Priesthood…, 149–164.
[22] Xem G. WEIGEL, The Courage To Be Catholic…, 93–95.
[23] Ratio 2016, s. 80.
[24] Ibid., s. 81.
2021
Đồng hành với tuổi vị thành niên
Trong nhiều dịp gặp gỡ cha mẹ hay Giáo lý viên tại các buổi học chuyên đề hay thảo luận, cũng có khi trao đổi trong các giờ tham vấn, tôi lắng nghe được những ưu tư, trăn trở và cả buồn bã, đôi khi thất vọng bế tắc trong việc đồng hành đức tin với các em tuổi vị thành niên. Nhiều cha mẹ từ yêu thương quay sang trút hết những cơn tức giận lên con mình. Nhiều anh chị Giáo lý viên cảm thấy chán nản trong các giờ lớp giáo lý. Bên cạnh đó, một số em tuổi vị thành niên đang khủng hoảng vì sự thay đổi bản thân lại thêm hoảng loạn vì hành vi và cách đối xử của cha mẹ; anh chị Giáo lý viên với mình trở nên gắt gỏng, lạnh lẽo, và coi thường. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và cách thức nào để có thể đồng hành với các em cho hiệu quả?
Trong bài viết này, tôi muốn trình bày hai điểm giúp người đồng hành đạt hiệu quả.
– Hiểu một số điểm tâm lý căn bản của giai đoạn phát triển tuổi vị thành niên.
– Những bước đồng hành cho tuổi vị thành niên.
- Hiểu biết một số điểm tâm lý căn bản của giai đoạn phát triển tuổi vị thành niên
Theo tâm lý học phát triển[1], tuổi vị thành niên là thời kỳ chuyển tiếp cả về phương diện sinh lý, tâm lý và xã hội của một con người. Giai đoạn này rất quan trọng vì có nhiệm vụ làm nền tảng cơ bản cho những bước phát triển nhân cách, căn tính và tình cảm người trưởng thành sau này.
Một số thay đổi về tâm sinh lý của tuổi vị thành niên trong giai đoạn này:
– Sự biến đổi nhanh về thể lý và tâm sinh lý. Đây là giai đoạn cuối cùng cho sự hoàn thiện các bộ phận của cơ thể. Điểm đặc biệt của bước chuyển đổi từ trạng thái thiếu niên sang ‘người lớn’ là hiện tượng sinh lý sinh dục: nam xảy ra hiện tượng mộng tinh hay còn gọi là giấc mơ ướt; và nữ xảy ra hiện tượng kinh nguyệt. Yếu tố thay đổi này dễ gây ra khủng hoảng tâm lý nếu các em không nhận được sự hướng dẫn, giải thích cho biết đó là điều bình thường và cần thiết của sự phát triển của mỗi người.
– Các em quan tâm nhiều đến sự thay đổi của cơ thể, hay nghĩ về hình ảnh cơ thể, dễ băn khoăn, buồn rầu về những nhược điểm của cơ thể. Các em nữ để ý hơn đến hình dáng, trang điểm và ăn mặc.
– Cái tôi của cá nhân được xác định và cần được công nhận. Nghĩa là khả năng biết mình là ai và mình sẽ hội nhập vào môi trường đời sống gia đình, bạn bè và xã hội như thế nào? Các em bắt đầu thể hiện bản thân bằng việc tạo ra những hành vi và lối ứng xử riêng của mình hoặc pha trộn từ những gì các em học được. Tuy nhiên, các em cũng dễ rơi vào nhầm lẫn về vai trò của mình: vừa muốn làm người lớn lại vừa thấy mình như trẻ con.
– Các em tuổi vị thành niên muốn được người lớn tôn trọng, muốn được đối xử công bằng, muốn khám phá cái mới nhưng vẫn phụ thuộc nhiều vào gia đình.
– Các em bắt đầu quan tâm đến bạn bè, muốn tách rời khỏi sự quản lý và kiểm soát của cha mẹ. Nhu cầu tình bạn của các em trở thành cấp thiết và quan trọng nhất, đặc biệt là nhu cầu về bạn khác giới. Tuy nhiên, giai đoạn này các em cũng dễ nhầm lẫn giữa tình bạn và tình yêu. Các em cũng bắt đầu muốn khám phá năng lực về tình dục nhưng thiếu khả năng làm chủ cảm xúc tính dục.[2]
– Tuổi này có xu hướng hay căng thẳng, hay thay đổi tình cảm, muốn được thỏa mãn nhu cầu ngay, dễ có những hành động bất chấp hậu quả.
– Các em cố gắng phấn đấu và khám phá xem mình là ai. Các em có khuynh hướng trung thành với những giá trị nhân cách mà các em có ấn tượng. Nếu không phát triển bình thường, các em dễ rơi vào khó khăn, lúng túng, rối loạn hành vi, tâm lý và mất phương hướng.
Những đặc điểm căn bản nêu trên của tuổi vị thành niên cho thấy các em rất cần sự đồng hành để đối diện và vượt qua giai đoạn khủng hoảng cho quá trình trưởng thành. Sự quan tâm của gia đình, nhà trường và toàn xã hội là hết sức cần thiết để các em vượt qua khủng hoảng, hoàn thành nhân cách, và vững tin bước vào đời.
- Những bước chân đồng hành đức tin cho tuổi vị thành niên.
2.1. Bốn “đừng” mong người đồng hành áp dụng triệt để nhằm tránh tổn thương và lòng tự trọng của các em.
– Đừng bao giờ sửa dạy các em trước mặt người khác khi bản thân đang tức giận. Lúc đó, chúng ta không thực hiện nhiệm vụ dạy và dỗ các em nhưng là đang đổ cơn tức giận lên các em. Nếu làm điều này sẽ để lại một hậu quả tai hại cho tâm hồn các em.
– Đừng bao giờ áp đặt suy nghĩ của mình lên các em (người lớn nói, các em phải nghe). Như đã nói ở trên, các em tuổi vị thành niên đã hình thành lòng tự trọng rất cao. Các em mong chờ người lớn lắng nghe các em chứ không mong đợi người lớn chỉ dùng quyền để áp đặt và khống chế. Hơn nữa, suy nghĩ của người lớn không phải lúc nào cũng đúng.
– Đừng bao giờ mất bình tĩnh khi các em có những thái độ và hành vi trái với ý muốn. Các em bị cảm xúc chi phối nên đôi lúc tỏ ra bốc đồng, đặc biệt với điều trái ý các em và với những người không cùng sở thích với các em. Thái độ tốt nhất của người đồng hành trong hoàn cảnh này là lắng nghe và nhẫn nại.
– Đừng bao giờ dạy các em điều mà chúng ta không hề làm. Các em tuổi vị thành niên rất nhạy cảm với gương sáng. Các em không thích nghe nhiều, nhất là nghe những lời lên lớp, khuyên răn không hợp với tâm lý các em. Đặc biệt, tránh nói đến những điều mà các em biết rõ chúng ta chẳng bao giờ thực hành, vì như thế các em sẽ coi thường những gì chúng ta nói và cả khinh thường cách sống của chúng ta thêm thôi.
2.2. Những bước cần thiết để đồng hành có hiệu quả.
Tôi xin gợi lên một số điểm cản bản cả về đời sống nhân bản lẫn hành trình giáo dục đức tin để giúp các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và anh chị em GLV có thể đồng hành với các em tuổi vị thành niên.
– Dành thời gian cho các em và học để hiểu về các em bằng ngôn ngữ các em. Đây là điều quan trọng cho những ai đồng hành đời sống và đức tin với các em tuổi vị thành niên. Dẫu chúng ta hiểu những đặc điểm tâm lý chung, nhưng mỗi em lại có những điểm đặc biệt, không giống ai. Nếu ở trên, chúng ta biết nói với chính mình ‘đừng áp đặt suy nghĩ của mình lên các em’ thì thật quan trọng để hiểu tính tình, sở thích, dự tính, khả năng… và môi trường sống của các em. Trong những buổi tham vấn tâm lý, tôi nghe rất nhiều các em phàn nàn: cha mẹ hoặc người lớn chẳng hiểu các em và cũng chẳng chịu lắng nghe các em. Đó là lý do các em không muốn nói chuyện. Các em cho rằng có nói cũng chẳng thèm nghe và người lớn chỉ đưa ra những lời khuyên sáo rỗng.
– Nhận ra điểm tốt và dùng điểm tốt để khuyến khích, động viên các em. Đây là điểm tâm lý chung và rất cần để giúp các em tuổi vị thành niên vượt qua khủng hoảng. Các em mong được thông cảm hơn bỏ rơi; các em cần được động viên hơn là mắng nhiếc… Cha mẹ Việt Nam rất tiết kiệm lời khen mà lại hào phóng chê bai. Khi con cái hay các em mình có điều gì sai lầm, chúng ta cứ lấy điều đó mà nói đi nói lại làm tổn thương thêm các em mà thôi. Hãy cố gắng học biết những điểm tốt của các em và khen các em cũng như khích lệ các em mạnh mẽ tự tin hơn.
– Sử dụng ‘lời cám ơn’ và cả ‘lời xin lỗi’ với các em. Đây không chỉ là thái độ tôn trọng các em mà còn là mẫu gương sáng dạy các em thực hành. Người đồng hành cần tập cho mình một thói quen nói lời “cám ơn” và “xin lỗi” với các em bằng sự khiêm tốn thật của mình.
– Trao nhiệm vụ và quyền lợi cho các em trong gia đình hay đoàn thể với sự tin tưởng. Huấn luyện cho các em tính tự lập và biết chịu trách nhiệm về việc mình đã làm. Đừng coi các em là trẻ con nữa. Các em đang tập làm ‘người lớn’. Hãy cho các em cơ hội thực hành làm người lớn. Người đồng hành cần đi bên cạnh để động viên, đi phía trước đôi khi để nắm tay các em kéo lên; và có lúc đi phía sau để đẩy các em tới.
– Khuyến khích các em chia sẻ những khó khăn đang gặp, đặc biệt, tình cảm với người khác phái/cùng phái đang lẫn lộn trong tâm trí các em. Muốn đạt được điểm này, người đồng hành cần tạo được sự tin tưởng, thân thiện, không kết án để các em có thể mạnh dạn chia sẻ.
– Trở thành người bạn của các em. Người đồng hành trước tiên phải là người bạn của các em, mà phải là người bạn thân và tin tưởng. Khi các em coi cha mẹ/ thầy cô/ hay anh chị GLV là người bạn thân, các em mới cởi mở tâm hồn và bộc bạch cuộc sống, chia sẻ cảm xúc và ước mơ thầm kín của các em.
– Biết những gì đang nói với các em. Nếu người đồng hành muốn chia sẻ điều gì với các em, họ cần biết nội dung và mục đích của việc chia sẻ này. Đừng nói theo cảm tính và thích gì nói đó. Điều này sẽ phản tác dụng đồng hành và càng làm các em coi người đồng hành như ‘kẻ thù’.
2.3. Cha mẹ – Người đồng hành đức tin cho các em tuổi vị thành niên.
Tôi muốn góp một vài điểm nhấn cho các bậc cha mẹ trong việc đồng hành đức tin cho con cái giai đoạn tuổi vị thành niên. Ngoài những bước đồng hành chung trên, cha mẹ-nhà giáo dục đức tin cho con cái từ những năm đầu đến hôm nay cần thêm một số điểm sau:
– Xây dựng ‘nhà thờ tại gia’. Chúng ta vẫn được nhắc nhở rằng gia đình là mái trường giáo dục đức tin đầu tiên[3]. Đặc biệt, thời gian dịch bệnh vẫn còn nguy cơ cao, các nhà thờ chưa thể mở lại các sinh hoạt đức tin, các lớp giáo lý thì cha mẹ cần xây dựng gia đình thành nơi đời sống đức tin được nuôi dưỡng và thực hành là một phần cần thiết và quan trọng. Một số việc cần thực hành:
– Cầu nguyện chung trong bữa ăn. Đây là một việc làm đơn giản nhưng hiệu quả cao và lâu dài. Một lời nguyện ngắn trước và sau bữa ăn tạo một thói quen cầu nguyện. Cha mẹ hãy làm và hướng dẫn các con làm cách ý thức.
– Duy trì giờ kinh gia đình: Dù cuộc sống bận rộn và nhiều nhu cầu, cha mẹ đừng bao giờ bỏ qua nhu cầu thiêng liêng – cùng nhau trước bàn thờ Chúa để cầu nguyện. Hãy chọn những lời kinh, lời cầu nguyện phù hợp với hoàn cảnh gia đình, với tâm lý tuổi các con.
– Kể cho nhau nghe câu chuyện Giêsu. Nhiều cha mẹ dành thời gian cho con cái vì hiểu tầm quan trọng của việc gần gũi con cái. Cũng vậy, càng dành nhiều thời gian kể cho con cái nghe câu chuyện Giêsu, tâm hồn các em càng được nuôi dưỡng của Chúa Giêsu. Trên các kênh YouTube có rất nhiều câu chuyện ngắn về Chúa Giêsu. Cha mẹ hãy dành thời gian trong ngày mở và cùng con cái lắng nghe. Sau khi nghe, cha mẹ hãy khéo léo hỏi con kể lại những gì các em đã nghe. Hãy tạo thói quen chia sẻ câu chuyện Giêsu thay vì các câu chuyện nhảm nhí và gây hại cho đức tin của con.
– Mở các bài nhạc thánh ca ngày cuối tuần: Đây cũng là cách thức mưa dầm thấm đất. Ngày trong tuần, con cái phải học online nên không tiện mở nhạc. Ngày cuối tuần, cha mẹ thảo luận với con để cùng nhau đồng ý mở nhạc thánh ca cho cả nhà nghe. Cha mẹ hãy chọn các bài thánh ca phù hợp với đời sống đức tin của con để tâm hồn chúng cảm nhận được những lời bài hát.
Ngoài ra, cha mẹ cần cho mình thêm những điểm sau:
Đừng bao giờ bỏ cầu nguyện. Có những ngày con cái tỏ thái độ chống đối và không muốn cầu nguyện chung trong gia đình. Đừng cố ép buộc các em. Cha mẹ hãy bình tĩnh vì có thể các em mệt, tâm trạng rối bời. Chỉ cần cho các em biết, “cha mẹ sẽ cầu nguyện cho con” và cho các em thấy gương sáng và sự trung thành cầu nguyện.
Đủ mạnh mẽ thừa nhận cha mẹ cũng là người tội lỗi. Mang thân phận con người, cha mẹ cũng có những yếu đuối riêng, đôi lúc làm sai. Cha mẹ cũng cần sự cảm thông và nâng đỡ của con cái khi thừa nhận sự mỏng giòn của mình. Đó cũng là bài học giúp con biết khiêm tốn chấp nhận bản thân và yêu thương cha mẹ.
Đừng hoảng loạn khi con không muốn đến nhà thờ. Các em tuổi vị thành niên bắt đầu thể hiện bản thân và muốn có những cách riêng của mình ngay trong đời sống đức tin. Khi các em tỏ thái độ này, cha mẹ cần bình tĩnh tìm xem điều gì đang xảy ra với các em? Ai đang ảnh hưởng đến suy nghĩ và chọn lựa các em? Hoặc các em cảm thấy việc đến nhà thờ trước đây quá xáo rỗng và nhàm chán… Cần tìm hiểu những hành vi hiện tại của các em và bình tĩnh xử lý tình huống.
Đừng ngại tìm kiếm sự giúp đỡ của người ngoài khi gặp khó khăn. Tâm lý tốt khoe xấu che đôi lúc vẫn làm cho cha mẹ lúng túng khi đối diện với khủng hoảng của con. Phần vì không muốn cho người khác biết nên cứ cố che giấu. Cha mẹ cần thừa nhận giới hạn của chính mình mà tìm kiếm sự giúp đỡ của người khác (một linh mục, một chuyên viên tham vấn, một người đã kinh nghiệm…). Đó cũng là cách thức Chúa đang đồng hành và ban ơn trợ giúp cho cha mẹ.
Cuối cùng, đối thoại và lắng nghe con chia sẻ về suy nghĩ và cảm nhận đời sống. Như đã nói ở trên, các em tuổi vị thành niên mong được người lớn hiểu, tôn trọng và cảm thông. Cha mẹ cần dành thời gian để nói chuyện với con, nhất là lắng nghe con chia sẻ về đời sống, cảm nhận, đức tin… Nếu con không xin thì đừng đưa ra lời khuyên. Cũng đừng bao giờ xét đoán nếu chia sẻ của con có điều tiêu cực. Hãy lắng nghe với tâm hồn thấu cảm. Hãy tỏ cho con biết là cha mẹ cảm thông và cầu nguyện nhiều cho con. Tốt nhất, cha mẹ nên kết thúc cuộc trò chuyện bằng cách mời con tự phát một lời cầu nguyện ngắn.
Đồng hành với con cái/các em tuổi vị thành niên thật cần thiết và quan trọng để giúp các em đủ sức vượt qua giai đoạn khủng hoảng hướng đến tuổi trưởng thành. Đây là một nhiệm vụ thiêng liêng và cao quý bởi người đồng hành góp phần làm thành toàn đời sống các em, góp công vào chương trình của Thiên Chúa là giáo dục con người theo đúng mục đích và kế hoạch của Chúa; và góp tâm hồn chia sẻ sứ mạng của Đức Kitô, “Ta đến cho họ được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tuy nhiên, đây cũng là giai đoạn khó khăn của các bậc cha mẹ, thầy cô giáo và anh chị Giáo lý viên trong các lớp giáo lý. Người đồng hành dễ thất bại, buồn bã và mất kiên nhẫn vì thái độ thờ ơ, thiếu cộng tác và đôi khi tỏ ra chống đối của các em. Người đồng hành trong những tình huống như thế hãy bình tâm và đừng mất niềm hy vọng. Giây phút ấy, hãy dành khoảng thời gian và không gian thinh lặng để đọc đi đọc lại định nghĩa về “Tình yêu-đức mến” của thánh Phaolô trong thư thứ nhất Côrintô như sau, “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Đức mến không bao giờ mất được” (1Cr 13, 4-8).
Tài liệu tham khảo
– Philomena Agudo (2010). I chose you, Ta đã chọn con, Nguyễn Ngọc Kính chuyển ngữ, NXB Phương Đông.
– Breig James (1992). Finding God in your house, Chicago, Illinois.
– Sprinthall & Collins (1995). Adolescent psychology: A developmental view, McGraw-Hill, New York.
– Michel Quoist (2000). Xây dựng con người nhân bản, Nguyễn Thị Chung dịch, NXB Tôn Giáo.
Nguồn: giaophanxuanloc.net
[1] x. Sprinthall & Collins (1995). Adolescent psychology: A developmental view, McGraw-Hill, New York.
[2] Philomena Agudo, I chose you, Ta đã chọn con, Nguyễn Ngọc Kính chuyển ngữ, NXB Phương Đông, 2010
[3] GLHTCG số 2682