2022
Tại sao chúng ta cần trở thành một Giáo hội biết lắng nghe?
TẠI SAO CHÚNG TA CẦN TRỞ THÀNH MỘT GIÁO HỘI BIẾT LẮNG NGHE?
Brett Salkeld
Thượng Hội đồng đang được tiến hành, đây là lý do tại sao chúng ta cần trở thành một Giáo hội biết lắng nghe.
Đức Giáo hoàng Phanxicô chủ tọa cuộc họp với đại diện các Hội đồng giám mục từ khắp nơi trên thế giới tại Vatican, năm 2021
Thượng Hội đồng Giám Mục về tính hiệp hành đã đặt ra nhiều câu hỏi, một trong những câu hỏi quan trọng nhất đơn giản là: Ý tưởng về “một Giáo hội lắng nghe” có nghĩa là gì?
Mối quan tâm đến từ nhiều góc độ khác nhau. Trong khi một nhóm lo ngại rằng Giáo hội có thể quá nghiêng về việc lắng nghe những ý tưởng đến từ nền văn hóa đương đại không phù hợp với Phúc âm, thì một nhóm khác lại cảm thấy rằng họ có thể được mời để phát biểu nhưng những đóng góp của họ có thể bị phớt lờ. Bây giờ, chúng ta hãy lưu ý rằng nhiều người trong cả hai nhóm này đều có xu hướng tưởng tượng mình là người bất lực, thậm chí có thể bị đàn áp và coi nhóm kia là một mối đe dọa. Mỗi bên đều hy vọng Giáo hội không nên lắng nghe những người kia.
Đối với tôi, có vẻ vấn đề cơ bản ở đây là khuynh hướng của chúng ta nhìn đời sống trong Giáo hội về cơ bản cũng tương tự như đời sống chính trị. Trong chính trị, chúng ta cố gắng đảm bảo quyền lực và sau đó sử dụng quyền lực đó để áp đặt quan điểm của mình thông qua việc thực thi chính sách. Điều này có thể được thực hiện thông qua các biện pháp hòa bình nhưng nó không làm thay đổi động lực cơ bản. Là những công dân của các nền dân chủ phương Tây, khi được giới thiệu về một thượng hội đồng như lần này, thì đối với hầu hết chúng ta, những phạm trù thấy rõ nhất để hiểu các khái niệm như “một Giáo hội biết lắng nghe” đều được rút ra từ kinh nghiệm chính trị này.
Ví dụ, điều này có nghĩa là nhiều người trong chúng ta vô tình giải thích “một Giáo hội lắng nghe” có nghĩa là một Giáo hội lắng nghe tôi, có trách nhiệm với tôi và quan điểm của tôi theo cách tương tự như cách mà một đại diện chính trị chịu trách nhiệm với tôi như một cử tri. Tuy nhiên, vấn đề ngay lập tức xuất hiện, là người hàng xóm của tôi, người không đồng ý với tôi về nhiều vấn đề quan trọng trong Giáo hội, cũng nghĩ như vậy! Và vì thế, thật dễ dàng để tưởng tượng rằng vai trò của tôi trong Thượng hội đồng là làm cho tiếng nói của tôi được nghe vượt lên tiếng nói của người hàng xóm của tôi.
Xin lưu ý rằng, trong cách hiểu này, “Giáo hội” về cơ bản có nghĩa là hệ thống phẩm trật. Và câu hỏi trở thành, “Nhóm tín hữu nào sẽ có ảnh hưởng nhiều nhất đến quyết định của những người nắm quyền?” Thượng hội đồng có thể được hiểu như một cuộc bầu cử. Và các cuộc bầu cử có kẻ thắng người thua. Hãy nhớ lại, chẳng hạn, biết bao nhiêu bài diễn văn Công giáo về thượng hội đồng Amazon đã tập trung vào một số ít các chủ đề gây tranh cãi (mà chúng ta thường nói là “bán giấy” hay được tìm thấy từ những cú nhấp chuột trên mạng) và tài liệu cuối cùng đã được đọc như thế nào: trong rất nhiều nơi, hầu như người ta chỉ quan tâm đến những gì tài liệu nói về những chủ đề tranh cãi đó. Nhiều người Công giáo ở Bắc Mỹ và Châu Âu dường như rất ít quan tâm đến kinh nghiệm sống và đức tin của anh chị em chúng ta vào Chúa Kitô trong vùng Amazon, nhưng lại quan tâm nhiều đến việc liệu những người nam đã kết hôn có thể được truyền chức linh mục không; hoặc phụ nữ được nhận chức phó tế hay không.
Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói rằng một Thượng Hội đồng không phải là hình thức dân chủ mà là sự phân định. Điều này thường bị hiểu lầm. Chúng ta tưởng tượng rằng các câu hỏi và câu trả lời tiềm năng của chúng đã được đặt sẵn, giống như trên diễn đàn các đảng phái, và nhiệm vụ trước mắt chúng ta là lựa chọn giữa chúng. Và không thiếu những người vận động hành lang ở cả hai bên về bất kỳ vấn đề gây tranh cãi nào để củng cố một quan điểm như thế. Tuy nhiên, lựa chọn như vậy chắc chắn sẽ làm cho những người mà lập trường ưa thích của họ bị từ chối, cảm thấy mình bị gạt ra ngoài lề trong toàn bộ quá trình, và sự chia rẽ trong Giáo hội sẽ chỉ càng sâu thêm. Nó cũng có nghĩa là chúng ta đã đặt chân lý của Tin Mừng vào một cái gì đó giống như một cuộc bỏ phiếu phổ thông. Và đó là một tin xấu ngay cả đối với những người chiến thắng. Bởi vì những gì có thể được bình chọn là đúng ngày hôm nay có thể được bình chọn là sai vào ngày mai.
Vậy, Đức Thánh Cha Phanxicô có ý gì khi gọi quá trình này là một sự phân định?
Liệu tôi có thể gợi ý rằng tham chiếu chính đối với “Giáo hội” trong cụm từ “một Giáo hội lắng nghe” không phải là phẩm trật, không phải là những người có quyền tiếp cận với đòn bẩy quyền lực, mà là tất cả những người đã chịu phép rửa không? Và câu hỏi thực sự không phải là nhóm nào trong số những người đã chịu phép rửa (hoặc ngay cả những người chưa chịu phép rửa!) sẽ có ảnh hưởng nhiều nhất đến phẩm trật, mà là liệu những người đã được rửa tội có thể học cách lắng nghe nhau hay không.
Đức Thánh Cha Phanxicô thực sự muốn thay đổi Giáo hội. Nhưng không phải theo cách mà nhóm này lo sợ và nhóm khác cổ vũ – nghĩa là bằng việc thay đổi giáo huấn của Giáo hội. Những người đặt hy vọng vào những thay đổi như vậy nơi Đức Thánh Cha Phanxicô đã liên tục thất vọng, ngay cả khi những người lo sợ những thay đổi đó tiếp tục lo lắng, bị thúc đẩy bởi những người nghiền truyền thông xã hội, những người đánh bơ bánh mì của họ bằng cách giữ cho khán giả của họ ở trong trạng thái lo lắng thường xuyên.
Đúng hơn, Đức Thánh Cha Phanxicô muốn thay đổi Giáo hội bằng việc trang bị cho tất cả những người đã được rửa tội tham gia vào sứ mạng của Giáo hội. Và ít có kỹ năng nào cần thiết cho sứ mạng này hơn sự lắng nghe. Lý do của điều này thật đơn giản: Chẳng ai sẵn sàng lắng nghe bất cứ người nào khác nếu trước hết họ không cảm thấy mình được lắng nghe và thấu hiểu. Chúng ta biết điều này là đúng nếu chúng ta chú ý đến các mối tương quan trong cuộc sống của chính mình. Nếu Giáo hội muốn nói và được lắng nghe, thì Giáo hội phải lắng nghe.
Hãy lưu ý rằng điều này không có nghĩa là Giáo hội phải đồng ý và khẳng định mọi điều mà Giáo hội nghe được. Sự bất đồng không chỉ có thể xảy ra mà còn là điều lành mạnh và đáng được mong đợi. Sự bất đồng thậm chí có thể mang lại hiệu quả. Nhưng sự bất đồng sẽ chỉ có hiệu quả nếu những người bị bất đồng ý kiến tin tưởng rằng trước hết họ đã được lắng nghe và thấu hiểu. Không có gì ngăn cản sự giao tiếp bằng cảm giác rằng phía bên kia thậm chí không quan tâm đến điều bạn phải nói ra.
Trong Chương 17 của Phúc âm Gioan, Chúa Giêsu liên kết rõ ràng sự hiệp nhất của Giáo hội với sứ mạng của Giáo hội. Người cầu xin cho các môn đệ của Người được nên một, để thế giới có thể tin. Điều này có nghĩa là, đối với tôi, dường như việc lắng nghe nhau trong Giáo hội phải là ưu tiên hàng đầu của chúng ta. Chỉ có sự lắng nghe nhau cách chân thành mới có thể bắt đầu hàn gắn những chia rẽ đang gây ra cho Giáo hội ngày nay.
Lắng nghe luôn là công việc khó khăn (bao gồm cả phần khó nhất – cầu nguyện!) Bởi vì lắng nghe là cách luyện tập để cái tôi của bạn im lặng đủ lâu để nghe điều trong trái tim của người khác. Sự to tiếng trong chính trị và các phương tiện truyền thông xã hội đã làm cho hình thức lắng nghe này trở nên khó khăn hơn nhiều. Chúng ta bị đe dọa nhau đến nỗi cái tôi của chúng ta luôn trong trạng thái tự vệ. Nói cách khác, chúng ta ngày càng ít có khả năng sống sự tự do được ban tặng trong Chúa Giêsu Kitô. Chúng ta xem đó không phải là điều hấp dẫn.
Trong bối cảnh như vậy, tôi nghĩ rằng một trong những điều quan trọng nhất mà Giáo hội có thể cống hiến cho thế giới là một cộng đoàn nơi mọi người thực sự biết cách lắng nghe nhau. Và khi chúng ta thực sự lắng nghe nhau, chúng ta cũng lắng nghe Chúa Thánh Thần – Thần Khí của sự hiệp nhất và sự thật – để điều chỉnh lại một cách sáng tạo những vấn đề tưởng chừng khó chữa trong phạm vi giới hạn của chúng ta. Nếu chúng ta có thể làm được điều này, chúng ta sẽ thấy Giáo hội đã thay đổi, không phải vì phe chúng ta thắng hay thua trong trận chiến về một chủ đề nóng bỏng nào đó, nhưng bởi vì chúng ta thấy chính mình đã thay đổi.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
2022
Lời chứng của nữ diễn viên Beatrice Fazi: Tiếng Chúa nói trong tâm hồn
2022
Cuối cùng người phụ nữ Samaria cũng tìm thấy người đàn ông của đời mình
Cuối cùng người phụ nữ Samaria cũng tìm thấy người đàn ông của đời mình
Phụng vụ của Chúa nhật thứ ba Mùa Chay này cho chúng ta suy niệm về một trong những khung cảnh đặc biệt nhất của Tin Mừng, nơi Thánh Gioan mặc khải cho chúng ta toàn bộ mầu nhiệm hồng ân Thiên Chúa. Mầu nhiệm này nằm dưới biểu tượng của nước tưới tắm cho trái đất và mang lại sự sống cho trần thế.
Chúa Giêsu hiện diện tại giếng Giacóp như một người đang khát, một người cần được giúp đỡ, người đang mệt mỏi vì cuộc hành trình. Giữa trưa nắng nóng gay gắt, Ngài ngồi xuống bên miệng giếng. Ngài không thống trị, không áp đặt ý mình, Ngài tìm kiếm sự tiếp xúc. Việc Ngài xin nước uống khiến người phụ nữ Samaria ngạc nhiên. Vì sự thù hận tồn tại giữa người Do Thái và người Samari, người Do Thái sẽ phạm phải một sự ô uế xét theo lề luật nếu họ chấp nhận từ người Samari dù chỉ một ly nước. Do đó người phụ nữ Samaria liền hỏi khi Chúa Giêsu xin bà: “Chị cho tôi xin chút nước uống!”: “Ông là người Do thái, mà lại xin tôi, một phụ nữ Samaria, cho ông nước uống sao?” (Gioan 4: 7-9).
Vì có sáu người chồng, nên người vợ thành Sykar đã chọn thời điểm đi đến giếng sao cho không bị những người phụ nữ khác chế giễu. Với quá khứ dày vò của mình, người phụ nữ Samaria thực sự cho thấy mình là một người xấu nết. Cô ấy là một kẻ thân tàn ma dại, một người phụ nữ hư hỏng, bầm dập. Cô ấy là món đồ chơi phục vụ nửa tá đàn ông. Tuy nhiên, chính cho cô ấy mà Chúa Giêsu sẽ tiết lộ bí mật của mình. Cô được chọn để đón nhận tâm tư riêng của Chúa Giêsu về chính mình và trở thành nhân chứng ưu tiên về căn tính của ngài.
Kẻ lạ mặt đang mệt mỏi, người đàn ông Do Thái bị khinh ghét đó đã đoán được vết thương lòng của cô. Ông dò xét trái tim nữ tính của cô một cách tế nhị, mà không làm cô khó chịu. Ông đã đoán được nỗi khát khao hạnh phúc của cô mà những cuộc tình đã qua không thể làm cô nguôi ngoai? Người bạn không quen biết này dường như muốn tiếp cận cô để bộc lộ cho cô thấy rằng, mặc dù trải qua những đau đớn, có lẽ cuộc sống của cô không phải là một thất bại?
Chúa Kitô biết cô là ai, nhưng Ngài không chỉ tay vào cô, không giơ tấm gương buộc tội cô và nói: Hãy nhìn xem, cô thật tội nghiệp làm sao. Ngài không ném thẳng vào mặt cô mọi thứ không vận hành êm xuôi trong cuộc sống tình yêu của cô. Ngài không cố làm bẽ mặt cô. Ngược lại, Ngài tâm sự với cô.
Khi Ngài hỏi cô có chồng chưa, cô trả lời rằng cô không có chồng. Chúa Giêsu nhắc nhở cô rằng cô đã có năm người và người đàn ông bây giờ cô đang sống chung với không phải là chồng của cô. Chúa Giêsu bộc lộ hoàn cảnh của cô nhưng không thái quá sa vào sự phán xét. Cảm thấy cuộc đối thoại trở nên quá riêng tư, người phụ nữ Samaria cố gắng trốn thoát bằng cách hỏi một câu hỏi mang tính thần học về ngọn núi miền Samaria và núi Giêrusalem. Chúa Kitô không thúc giục cô ấy. Cuộc đối thoại diễn ra với sự thẳng thắn nhưng cũng đầy tôn trọng và dịu dàng.
Để khôi phục niềm hy vọng cho người phụ nữ Samaria bên giếng Giacóp, Chúa Giêsu đã vi phạm mọi điều cấm kỵ: điều cấm kỵ về chủng tộc, điều cấm kỵ về tình dục và điều cấm kỵ về tôn giáo. Chúa Giêsu là một người tự do. Ngài không tin vào sự bế tắc dứt khoát, vào nhãn mác gây tổn thương, vào sự thù hận của tổ tiên cha ông. Như mọi khi, Ngài biết cách khôi phục hy vọng cho những người đang bị đánh gục bởi những khó khăn của cuộc sống: “Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28)
Đối với Chúa Giêsu, vấn đề là làm phát sinh ra con người mới trong người phụ nữ này, như Ngài sẽ làm cho Nicôđêmô, Giakêu và Maria Mđalêna. Chúa Giêsu khơi nguồn một cái giếng trong tạo vật mới này, một cái giếng trở thành nguồn nước sự sống và sinh hoa kết trái. Ngài bôc lộ với cô ấy rằng cô đáng giá hơn nhiều so với tổng số tất cả những thất bại của cô ấy.
Chính lúc đó, Chúa Giêsu đã tiết lộ cho cô hai điều tuyệt vời: điều thứ nhất về bản chất thật của Thiên Chúa: “Nhưng giờ đã đến – và chính là lúc này đây- giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng Ngài như thế” (Gioan 4: 2); và câu thứ hai về căn tính của chính Ngài: “Tôi biết Đấng Mêsia, gọi là Chúa Kitô, sẽ đến. Khi Ngài đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự.” Chúa Giêsu nói: “Đấng ấy chính là tôi, người đang nói với chị đây” (Gioan 4: 25-26).
Trái tim của người phụ nữ này đã được cứu. Trong cuộc sống hời hợt, khô héo bởi một sự sinh tồn quá thấp lè tè trên mặt đất, một nguồn nước sự sống đã nảy nở. Cuối cùng cô cũng tìm được người đàn ông mà cô đang tìm kiếm. Cô không còn liên quan gì đến cái giếng này và cái bình của nó nữa. Cô chạy đi để truyền đạt những gì cô vừa khám phá được.
Buổi trưa mặt trời trên cao, cái nóng, sự mệt mỏi trên đường đi, trong văn bản tuyệt vời này của thánh Gioan thể hiện cuộc sống khó khăn và đơn điệu mỗi ngày của chúng ta. Ai là người khát trong câu chuyện này? Tất nhiên là Chúa Giêsu Trong biểu tượng của thánh Gioan, chúng ta có thể hiểu ở đây là sự khao khát của Thiên Chúa đối với con người, sự tìm kiếm của Ngài từ muôn thuở: “Ađam, ngươi đang ở đâu?” (Sáng thế ký 3: 9.) “Tôi không đến để kêu gọi người công chính, mà để kêu gọi người tội lỗi” (Máccô 2, 17).
Người phụ nữ Samaria này, là người đã tìm kiếm hạnh phúc cho mình, sự thật của cô ấy nằm trong tình yêu thoáng qua và chỉ biết đến thất bại, lại bị tiêu hao bởi một cơn khát khác mà chỉ Chúa Kitô sẽ cho phép cô ấy dập tắt. Cô ấy sẽ không bao giờ “khát” nữa vì nguồn nước sự sống này là trong cô ấy và cô ấy được Chúa yêu thương.
Còn chúng ta, chúng ta đang ở đâu trong cuộc đời? Chúng ta tìm kiếm hạnh phúc của mình ở đâu? Chúng ta có những khát khao nào?
Đối với người phụ nữ Samaria, Chúa có thể làm cho một suối nước ngọt ngào chảy ra, một nguồn mạch sự sống mới: “Còn ai uống nước tôi cho, sẽ không bao giờ khát nữa. Và nước tôi cho sẽ trở thành nơi người ấy một mạch nước vọt lên, đem lại sự sống đời đời” (Gioan 4, 14).
Phêrô Phạm Văn Trung, theo cursillos.ca
2022
Tưởng nhớ một nhà truyền giáo vừa đổ máu
Tưởng nhớ một nhà truyền giáo vừa đổ máu
Lẽ thường, tháng hai không có ngày 29. Có thể xem hôm nay, ngày cuối tháng 2.2022 là ngày tưởng niệm tròn một tháng:
VỊ LINH MỤC NHIỆT THÀNH CỦA CHÚA;
NGƯỜI ANH EM TRONG LINH MỤC ĐOÀN GIÁO PHẬN KONTUM;
NGƯỜI ANH EM THƯƠNG QUÝ CỦA CỘNG ĐOÀN TU SĨ ĐAMINH;
ÂN NHÂN CỦA NHIỀU CỘNG ĐOÀN SẮC TỘC;
NHÀ TRUYỀN GIÁO TÂM HUYẾT CỦA GIÁO HỘI VIỆT NAM;
TẤM GƯƠNG HY SINH CỦA HÀNG LINH MỤC;
NIỀM THƯƠNG TIẾC VÔ HẠN CỦA MỌI TÍN HỮU VIỆT NAM;
NIỀM KÍNH PHỤC CỦA BAO NHIÊU NGƯỜI THIỆN CHÍ,
CHA GIUSE TRẦN NGỌC THANH O.P. về Nhà Cha (29.1 – 2022 – 28.2) sau khi dâng tặng dòng máu của mình trên chính nơi mà Cha đêm ngày miệt mài truyền giáo, gắn bó, yêu thương và tự nguyện làm nơi hiến dâng đời tu.
Như Chúa Kitô đã sống cho trần gian, đã chết cho trần gian, chết tại trần gian, cũng vậy, Cha Giuse Thanh đã sống cho mảnh đất mà Cha chọn làm nơi vinh danh Chúa, để cũng đã chết cho nơi đó và chết tại chính nơi đó.
Cái chết của Cha khiến không ít người bàng hoàng, rúng động. Cái chết của Cha cũng làm cho những ngày Tết vừa qua không trọn niềmvui. Cái chết của Cha khiến nhiều người không giữ được im lặng nhưng đã lên tiếng theo cách của họ…
Trên hết, theo những dòng chữ tôi đọc được từ rất nhiều người yêu mến Cha, tôi thấy Cha để lại quá nhiều dang dở nơi cánh đồng truyền giáo. Điều đó chứng minh cho mọi người, Cha nhiệt thành và không mệt mỏi cho sáng danh Chúa, Cha yêu mến Giáo Hội, yêu mến đất nước này, đặc biệt là yêu mến những con người ở rẻo cao mà Cha đảm nhận trách vụ phục vụ họ.
Dẫu công trình của Cha còn dang dở, nhưng không một ai cảm thấy lo lắng, vì tất cả đều hiểu, không một chiến sĩ chính danh, đích thực và đúng nghĩa nào của Chúa Kitô lại bạc nhược, chùn bước, khiếp sợ trước những bão bùng của cuộc đời và của thế gian.
Một GIUSE TRẦN NGỌC THANH này ngã xuống sẽ có nhiều Giuse Trần Ngọc Thanh khác đứng lên trám vào chỗ bỏ trống của ngài.
Gọi là trám vào, nhưng chắc chắn sẽ mạnh mẽ hơn, bất khuất hơn, táo bạo hơn, kiên vững hơn. Chẳng những mọi chiến sĩ của Chúa Kitô không bao giờ khiếp sợ, mà vì cái chết oan nghiệt của người anh em mình, họ sẽ để cho lòng họ quyết tâm hơn, trưởng thành hơn, đi đến cùng con đường thánh giá mà Chúa Kitô, Thầy của họ đã đi.
Hình ảnh thánh giá của Chúa Kitô và dòng máu của người anh em mà họ đã chứng kiến sẽ làm cho lý tưởng dâng hiến của họ càng được thúc bách, càng được nung đốt. Nói cho đúng, cái chết ấy chẳng những vô phương trói tay, trói chân mà còn trở thành tiếng gọi thúc giục lên đường, trở thành niềm gợi hứng, nguồn cảm hứng cho vô vàn những chiến sĩ cùng lý tưởng đang ở lại trần thế. Đó chính là lời sai đi dữ dội giúp họ chân cứng đá mềm nhằm đạp đầu sóng gió trong một tinh thần quật khởi, và quật khởi ngày một hơn mà thôi…
Bởi có Giáo Hội địa phương nào, từ khi đặt nền móng đến lúc hình thành và phát triển mà không đóng góp xương máu, công sức, tài năng, trí tuệ, lòng quả cảm, tình yêu… của con cái mình!
Cám ơn Cha Giuse Trần Ngọc Thanh. Mãi mãi Cha là tấm gương sáng của chúng tôi, những tín hữu Kitô nói chung và những người anh em trong lý tưởng thánh chức nói riêng.
Chúng tôi chỉ là những con người yếu hèn mà còn rung lòng trước cái chết vinh phúc của Cha, thì chắc chắn lòng yêu thương của Đấng thánh thiện và toàn năng, Cha chung của tất cả chúng ta, sẽ ấp ủ Cha ấm áp đến dường nào!
Chúng tôi tin rằng, Ngài đang dìu Cha về bên Ngài như đã từng dìu đưa trùng trùng lớp lớp những người con đã vì Ngài mà đổ máu thấm cả lịch sử, thấm cả dải đất mênh mông của quê hương này.
Kính chào Cha quý yêu. Cha cứ bình yên ngơi nghỉ nơi lòng Đấng Hằng Sống. Xin hằng cầu nguyện cho đất nước, cho từng con dân đất Việt, cho Hội Thánh Việt Nam đang còn nhiều thách thức phải vượt qua và cho tất cả chúng tôi.
Xin được một lần nữa, cho tôi ghi khắc tên của người anh em, một nhà truyền giáo nhiệt thành vừa ngã xuống tròn một tháng: CHA GIUSE TRẦN NGỌC THANH!…
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG