2022
Nhìn lại Sài Gòn những ngày đau, và thương
Nguyễn Ngọc Lan Chi
“Thương quá Sài Gòn ơi” đã gởi về thành phố phương Nam trọn vẹn tấm lòng của cộng đoàn Dân Chúa ở khắp nơi.
Đầu tháng 7.2021, khi TPHCM bắt đầu áp dụng chỉ thị 16, giãn cách nghiêm ngặt vì tình hình nguy cấp của dịch bệnh, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh, Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã viết thư gởi đồng bào Công giáo. Trước tình cảnh “thành phố đầu tàu kinh tế đang lâm nguy”, ngài nhắn nhủ: “Anh chị em hãy nhớ lại: Chính người dân Sài Gòn hôm nay đang khốn khó, đã từng vội vã lên đường mỗi khi nghe tin đồng bào mình đây đó lâm cơn hoạn nạn… Các tỉnh miền Trung, qua trận bão lũ năm 2020, vẫn còn ghi lại dấu chân người Sài Gòn khắp hang cùng ngõ hẻm. Trái tim Việt Nam lúc nào cũng thì thào: Một miếng khi đói bằng một gói khi no; nhiễu điều phủ lấy giá gương, người trong một nước hãy thương nhau cùng. Lá lành đùm lá rách, lá rách ít đùm lá rách nhiều.”. Trong tâm tình đó, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh kêu gọi đồng bào trong nước và bà con hải ngoại, mọi thành phần Dân Chúa, các giáo phận, dòng tu, giáo xứ, tổ chức từ thiện, Bác ái – Caritas, đoàn thể, ngành giới, nhóm thân hữu… “hãy coi đây là cơ hội thực thi bác ái theo Lời Chúa dạy”. “Hãy khẩn cấp ra tay”. Lời kêu gọi của ngài đã được lập tức hồi đáp, bằng nhiều cách thức, với mọi phương tiện.
Bao gạo cột nơ, và “lạc” thành “đậu phộng”
Sá bấu, hành tím, đu đủ, “đặc sản Hương Lài”, rau củ Đà Lạt, cá khô, bầu, bí, chuối, tép khô, nước mắm, măng muối, nhút Thanh Chương – tương Nam Dan… Các chuyến xe cứu trợ từ khắp các miền gấp rút đổ về Sài Gòn trong những tháng ngày ấy. Mỗi chuyến xe là những ngày đội nắng, đội mưa thu hoạch nông sản, phơi cá, lựa tôm để mau mau gởi về miền Nam; là những đêm thức trắng chuyển hàng của người trao và người nhận; là những bữa ăn vội bên vệ đường khi các tiệm ăn dọc quốc lộ đều đóng cửa vì dịch bệnh; là những tính toán tỉ mỉ để giữ an toàn phòng dịch ở mức tối đa cho những anh chị em đến từ phương xa. Ai có gì góp đó, sản vật địa phương, hoa trái nhà trồng, sức vóc của tuổi trẻ, kinh nghiệm về phân phối, quản lý. Ai cũng thương, cũng quý Sài Gòn.
Cha Ngô Sĩ Đình, Giám đốc Caritas Việt Nam kể trong một bài viết được đăng trên website của Hội đồng Giám mục Việt Nam: “Trong số các món quà của Vinh, có một bao gạo mang theo lời thăm hỏi người anh em Sài Gòn chưa quen biết: ‘Gạo Gx Bàn Thạch, GP Vinh. Chào anh em!’. Còn những món quà khác cũng rất dễ thương, chẳng hạn một bao gạo không lớn lắm, nhưng người tặng quà đã chăm chút bằng chiếc nơ đơn sơ. Sự trân trọng còn được thể hiện qua cách thông tin về món hàng, có khi cần phải có… hai tên. Trên một bao hàng, chúng tôi đọc được ghi chú ‘Đậu phộng (lạc)’, hẳn chủ nhân món hàng biết rằng món quà này sẽ đến với người Sài Gòn, do đó, cách gọi của người miền Nam được đặt trước, sau đó mới đến cách gọi mà họ quen dùng”. Những tấm lòng gởi về Sài Gòn không chỉ quảng đại, mà còn rất ý nhị và tinh tế.
Nhờ những tấm lòng đó, cả hiện kim lẫn hiện vật, chương trình “Thương quá Sài Gòn ơi” đã có thể cụ thể hóa thành những hoạt động cứu trợ thiết thực.
Từ khẩu trang đến tiền thuê nhà
Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam, Tòa Tổng Giám mục và Caritas các cấp đã phối hợp chặt chẽ để có thể trợ giúp nhiều nhất, đúng nhu cầu nhất, cho những anh chị em lâm cảnh khốn khó trong dịch bệnh. Trước thực tế Covid-19 hoành hành nghiêm trọng ở Sài Gòn vào các tháng 7, 8, 9.2021, thì các vật tư, trang thiết bị y tế là rất cần thiết. “Thương quá Sài Gòn ơi” đã tặng tuyến đầu 2 máy tạo oxy; 4 thiết bị đo độ bão hòa oxy SpO2; 1.800 khẩu trang N95, 100 bộ đồ phòng dịch và 7.000 bộ xét nghiệm nhanh Covid-19 dành cho các nhóm tu sĩ phục vụ tuyến đầu, các cộng đoàn dòng tu có nhu cầu xét nghiệm, các đại chủng sinh và anh chị em phục vụ thiện nguyện trong chương trình cứu trợ. Ngoài ra, chương trình đã tiếp nhận thủ tục nhập khẩu 200.000 khẩu trang FFP2 trị giá 88.500 euro (gần 2,3 tỷ đồng) để trao tặng một số bệnh viện và anh chị em ở tuyến đầu.
Dịch bệnh không chỉ đe dọa đến sức khỏe, mà còn ảnh hưởng nặng nề đến sinh kế của nhiều bà con. Do đó, “Thương quá Sài Gòn ơi”, thông qua Caritas Tổng Giáo phận, đã thực hiện nhiều gói hỗ trợ hiện kim: Gói 10 ngày lương thực (750.000 đồng/người), giúp 24.439 người thuộc 178 giáo xứ và cộng đồng; Gói tiền thuê nhà (tối đa 1.500.000 đồng/nhà): 4.847 nhà; Gói trợ giúp các Bếp từ thiện xã hội (21.000.000 đồng/bếp): 31 Bếp; Gói trợ giúp các Mái ấm (21.000.000 đồng/mái ấm): 13 Mái ấm; Gói thuốc điều trị của người cao tuổi (theo toa): 69 người.
Với nhiều hộ nghèo, với những gia đình mà hầu hết các thành viên đều mất việc hoặc tạm phải ngưng việc, không có thu nhập, lại ở những khu trọ heo hút, khó tiếp cận thì việc lo đủ bữa ăn hoặc có được các nhu yếu phẩm cũng rất chật vật trong giai đoạn Sài Gòn giãn cách nghiêm ngặt để phòng dịch. Trước thực tế này, các giáo xứ và nhiều cộng đoàn dòng tu đã âm thầm nấu ăn, cung cấp lương thực và hỗ trợ tài chánh cho những hoàn cảnh khó khăn. Số lượng quá nhiều, đến mức khó có thể thống kê. Riêng chương trình “Thương quá Sài Gòn ơi” đã phân phối từ Văn phòng Hội đồng Giám mục Việt Nam và Caritas Tổng Giáo phận 5.133 thùng sữa (loại 48 hộp 110ml/thùng), 35.600 phần thực phẩm (cá, thịt), 14.062 thùng mì và cháo gói, 3.050 lít nước mắm và nước tương, 1 tấn đường, 1 tấn muối ăn, 3.000 lít dầu thực vật, 3 tấn cá khô, 700 kg tôm, hơn 110 tấn thịt (heo, gà, vịt), hơn 290 tấn gạo và hơn 1.032 tấn rau, củ, quả…
Đồng hành với chương trình, Giới Doanh nhân Công giáo cũng đóng góp 1.275 tấn gạo chia làm 25.500 phần quà giúp các gia đình khó khăn và chia sẻ với 1.704 gia đình có người qua đời vì Covid-19, mỗi nhà 3 triệu đồng. Bên cạnh đó, “Thương quá Sài Gòn ơi” cũng tặng 8 tỷ đồng thực hiện Siêu thị 0 đồng, mang những lựa chọn thiết yếu đến 20.000 gia đình khó khăn tại thành phố. Mùa Trung thu 2021, chương trình đã gởi 10.000 bánh trung thu và 10.000 lồng đèn tặng các em mắc Covid-19 và các em mồ côi.
Xông pha ở tuyến đầu
Khi Sài Gòn đang đau bệnh, thì tu sĩ của các dòng tu đã tất bật đêm ngày, mong cho thành phố sớm “khỏe” lại. Các nhóm tu sĩ tình nguyện đã tạm xếp lại tu phục để khoác lên mình chiếc áo bảo hộ kín bưng, trông không khác gì các phi hành gia, giữa tiết trời mùa hè của Sài Gòn. Ngộp không? Nhiều tu sĩ những ngày đầu phục vụ bệnh viện dã chiến chưa quen với đồ bảo hộ đã ngất xỉu trong lúc làm việc. Nóng không? Mồ hôi của họ trong những ngày ấy có lẽ không tính bằng giọt, mà phải bằng vũng, mỗi bước đi hay mỗi cử động lại nghe tiếng lép nhép vì nước đọng trong đồ bảo hộ. Ngại siêu vi Corona không? Nhìn sự trang bị “hầm hố” khi cần tiếp xúc với các ca nhiễm SARS-CoV-2, có lẽ bệnh viện dã chiến điều trị Covid-19 là nơi mà bất cứ ai cũng phải e dè. Thế nhưng, bệnh nhân cần người chăm sóc, các bác sĩ, nhân viên y tế cần tiếp sức, thì không chút ngần ngại, các tu sĩ vác ba lô xông pha vào thẳng những nơi “nóng” nhất.
Nhóm này về, nhóm khác tiếp bước, chia nhau phục vụ tại nhiều bệnh viện điều trị Covid-19 của thành phố. Có những tu sĩ dự kiến ban đầu là tham gia tình nguyện trong một tháng, nhưng chứng kiến các bác sĩ, nhân viên y tế làm việc quên mình, chứng kiến bệnh nhân khổ sở trong từng hơi thở để giữ lại sự sống, họ đã xin bề trên được ở lại để phục vụ thêm. Có những tu sĩ lỡ hẹn ở những kỳ tình nguyện đầu tiên, mong chờ từng ngày để được đến với bệnh nhân Covid-19, để được sống tinh thần cúi xuống phục vụ anh chị em, như Thầy Giêsu. Và tất cả tu sĩ, sau những ngày tháng hết mình ở bệnh viện dã chiến, đến lúc chia tay, trong tâm trí của họ không phải là sự nóng bức, ngột ngạt của bộ đồ bảo hộ, hay mối lo bị lây nhiễm, mà là những giây phút yêu thương chăm sóc từng miếng ăn, giấc ngủ cho bệnh nhân, là những cụ ông, cụ bà, cô dì, chú bác, anh chị em từ người lạ bỗng thành thân thương như người nhà, là tinh thần đồng đội với các bác sĩ, điều dưỡng, hộ lý…
Trong giai đoạn từ ngày 22.7 đến 30.10.2021, tổng cộng có 526 thiện nguyện viên (trong đó có 21 linh mục và 505 tu sĩ) phục vụ tại 8 bệnh viện điều trị Covid-19. Sau đó, dù tình hình tại Sài Gòn đã ổn định hơn, nhưng khi tuyến đầu cần trợ giúp, từ ngày 1.11.2021 cho đến giữa tháng 1.2022, 131 tình nguyện viên – gồm 2 linh mục và 129 tu sĩ – lại tiếp tục đến với 5 bệnh viện.
Tận lực ở hậu phương
Các tu sĩ không nề hà bất kỳ việc gì, từ dấn thân phục vụ bệnh nhân Covid-19 tại các bệnh viện dã chiến đến phụ trách tiếp nhận, phân loại rau củ, thực phẩm do các giáo phận gởi về, rồi hì hụi với các bếp ăn thiện nguyện. Ở những dòng phụ trách nhận hàng cứu trợ, các nữ tu không ngại lái xe bán tải, xe ba gác to dềnh dàng để chuyển hàng đến các khu trọ, rồi giữa đêm khuya xe tải về thì xắn tay áo mang vác các bao rau củ có khi còn to hơn thân mình để dỡ hàng. Tại nhiều dòng khác thì khói bếp không ngừng bốc lên nghi ngút, mỗi người một tay, lặt rau, vo gạo, chiên xào, nấu nướng, vào hộp…, để có những phần ăn ngon lành nhất. Từ ngày 3.8.2021, trong khuôn khổ chương trình “Thương quá Sài Gòn ơi”, hệ thống 11 Bếp Tu sĩ của Tổng Giáo phận đã nấu mỗi ngày trung bình 3.000 suất ăn phục vụ tuyến đầu và các khu vực phong tỏa y tế, các bệnh viện tại Quận 3, Quận 7, Quận Gò Vấp và Thành phố Thủ Đức. Tính đến nay, đã thực hiện tổng cộng 190.114 suất ăn. Bên cạnh đó, Bếp Văn phòng Hội đồng Giám mục mỗi ngày đảm nhận khoảng 250 suất ăn cho tuyến đầu và người dân khu vực cách ly y tế từ ngày 8.6 đến ngày 31.10.2021.
Phóng viên Ngọc Lan ghi nhận trong bài viết trên Báo Công giáo và Dân tộc hồi cuối tháng 10.2021 về việc cung ứng nguyên liệu, thực phẩm cho Bếp Tu sĩ: “Thực đơn được cân đối dinh dưỡng một cách khoa học, bao gồm các món ăn phổ biến thường ngày của người Việt Nam, hài hòa khẩu vị giữa ba miền. Ngoài ra, hai loại hộp đen và trắng dùng để đựng các phần ăn sau khi chế biến không phải là loại hộp xốp thông dụng ngoài thị trường, mà là loại có đăng ký hợp quy để sử dụng cho thực phẩm, bảo đảm an toàn cho người sử dụng. Cứ 3 ngày một lần, mỗi bếp cơm sẽ được cung cấp khoảng 500 kg nguyên liệu, thực phẩm”.
Chưa kể, vì không thể làm bài toán nhân cho đủ, hầu hết các giáo xứ tại Sài Gòn và đa số các cộng đoàn dòng tu đã liên tục có những nỗ lực và sáng kiến phục vụ như “ATM lương thực” của giáo xứ Tân Sa Châu thuộc giáo hạt Chí Hòa hoặc như “quán ăn” cung cấp trên 2000 phần ăn/ ngày của giáo xứ Martinô ở giáo hạt Gia Định. Nhiều nhóm giới trẻ cũng có sáng kiến kêu gọi anh chị em cùng giới và các “đầu mối” hàng cứu trợ khắp nơi để thu gom nhu yếu phẩm, thực phẩm, khẩu trang, đồ bảo hộ… mang đi phân phát và chia sẻ với những xóm nghèo hoặc các gia đình khó khăn chưa được giúp đỡ.
Những phòng học “lạ” tại Đại Chủng viện
Tháng 9 là tháng của tựu trường, của sách vở. Tháng 9 những năm trước, Đại Chủng viện Thánh Giuse Sài Gòn đã mang đậm sắc màu của học thuật, nhưng tháng 9 vừa qua, vì Sài Gòn vẫn còn giãn cách, các chủng sinh chưa học trực tiếp trở lại nên các phòng học đã được dùng làm nơi chứa… lương thực, thực phẩm. Đây là những phần quà mà “Thương quá Việt Nam” phối hợp cùng Ban Caritas tặng những gia đình khó khăn của 203 giáo xứ và 15 giáo điểm trong Tổng Giáo phận. Chương trình đã tặng 26.160 phần quà (350.000đ/ phần), tổng giá trị 9.156.000.000đ.
Sau 3 tháng chịu quá nhiều thương tổn vì đại dịch, Sài Gòn từng bước hồi phục, nhưng vẫn còn đó nhiều cảnh đời bấp bênh. Vì vậy, “Thương quá Sài Gòn ơi” tiếp tục cùng với Ban Caritas thực hiện nhiều chương trình hỗ trợ. Tháng 10.2021, Chương trình cứu trợ Di dân Tháng Mân Côi đã tặng 38.500 phần quà cho những gia đình khốn khó, khu chế xuất, khu công nghiệp và bệnh viện trong Tổng Giáo phận, với tổng chi phí là 4.169.000.000đ. Tháng 11.2021, 7.002 hộ tại 14 Giáo hạt trong Tổng Giáo phận đã được “tiếp sức” mỗi hộ 1 triệu đồng, tổng cộng 7.002.000.000đ. Ngoài ra, 600 phần quà (105.000đ/phần) đã được gởi đến các gia đình có hoàn cảnh khó khăn tại Phường Võ Thị Sáu, Quận 3. Tháng 12.2021, Ban Caritas đã gởi tặng các gia đình khó khăn tại huyện Cần Giờ 200 phần quà, tổng giá trị là 58.260.000đ; và tổ chức chương trình Giáng Sinh 2021 tại các bệnh viện, thăm hỏi, tặng quà cho 800 bệnh nhân mắc Covid-19, tổng chi phí là 148.744.000đ. Tháng đầu năm 2022, Chương trình Xuân Yêu Thương tặng quà và tiền lì xì mừng năm mới đến 22.060 hộ dân có hoàn cảnh khó khăn tại 14 giáo hạt trong Tổng Giáo phận, tổng chi phí là 22.060.000.000đ.
“Thương quá Sài Gòn ơi” đã, đang và sẽ tiếp tục là nhịp cầu nối của tinh thần bác ái, từ muôn nơi với Sài Gòn, và giữa người Sài Gòn với nhau.
2022
Làm sao để biết Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn ta?
Làm sao để biết Chúa Thánh Thần đang hướng dẫn ta?
Chúng ta rất thường xuyên cầu xin Chúa Thánh Thần soi sáng, hướng dẫn, đặc biệt khi ta cần đưa ra một quyết định quan trọng hay những lúc khó khăn. Tuy nhiên, mọi chuyện xem ra không dễ, vì Chúa Thánh Thần không hướng dẫn bằng những lời nghe được bằng lỗ tai thông thường.
Để nhận ra tiếng Chúa Thánh Thần, hãy nhìn vào trạng thái của linh hồn
Thánh Inhaxiô Lôyola đã nói về sự nhận định trong quyển Linh Thao của ngài, ngài ghi chú: hiểu được trạng thái của linh hồn là điều quan trọng trước khi ta có thể nhận tiếng Thiên Chúa.
Ví dụ, nếu linh hồn được thôi thúc từ “tốt đến tốt hơn”, Chúa Thánh Thần có lẽ đang thúc đẩy chúng ta cách ngọt ngào, với cảm xúc bình an.
Ngược lại, nếu linh hồn cảm thấy “tệ đến tệ hơn” nghĩa là Chúa Thành Thần có thể đang cứng rắn, đẩy chúng ta về con đường đúng đắn.
Chúng ta phải thành thật với chính mình, nhận ra được chúng ta đang tiến đến gần hay ra xa điều răn của Chúa hơn.
Cảm giác bình an
Tổng quan, nếu chúng ta đang phấn đấu để đến gần hơn vói Chúa, Người sẽ nói với chúng ta trong sự thinh lại của trái tim bằng một cảm giác bình an và vui vẻ. Như Thánh Kinh mô tả, tiếng Chúa không giống như động đất, không như sấm sét, không như lửa cháy, nhưng là “một giọng nhỏ nhẹ êm dịu” (1V 19,12).
Khi suy xét quyết định chúng ta sắp đưa ra, nếu tâm tư cảm thấy bình an, thì có lẽ là Chúa Thánh Thần đang dẫn dắt chúng ta theo hướng đó. Trong trường hợp tâm tư đầy lo âu, bất an, đó phần nhiều là dấu hiệu Thánh Thần Chúa muốn chúng ta suy nghĩ lại vấn đề và khoan quyết định.
Trong mọi hoàn cảnh và mọi lúc, đừng quên kêu cầu Chúa Thánh Thần trợ giúp, và hãy mở tâm hồn ra để đón nhận những gì Người sẽ nói với chúng ta.
Theo Aleteia
2022
Đức Giê-su Ki-tô – Đường trung tín
Trong tiếng Do-thái, אֱמֻנָה /emunah /faith /đức tin thường được dịch là trung tín (faithfulness). Từ אֱמֻנָה /emunah cùng gốc với từ אָמֵן /amen với nghĩa là chắc chắn, sự thật, đúng vậy, khả tín. Đặc biệt, cùng một gốc với hai hạn từ trên, từ אֱ֭מֶת (emet) của tiếng Do-thái vừa có nghĩa là sự thật (truth /vérité) vừa có nghĩa là trung tín, trung thành, vững vàng, bền bỉ. Chẳng hạn, từ אֱ֭מֶת (emet) trong Tv 85,11-12 hay Cn 3,3, được dịch là sự thật hay chân lý (veritas, truth, vérité) trong bản dịch Kinh Thánh tiếng La-tinh hay một số bản dịch tiếng Anh hoặc tiếng Pháp, trong khi một số bản dịch khác lại dịch là trung tín (faithfulness). Con người cần ‘nương tựa’ hay ‘gắn bó’ với אֱ֭מֶת (emet) để luôn đi đúng đường lối của Thiên Chúa. Người sống theo אֱ֭מֶת (emet) là người trung tín với huấn lệnh của Thiên Chúa và được Người thương yêu, nâng đỡ, phù trì. Trong các ngôn ngữ hiện đại, nhiều từ gần nghĩa với từ trung tín, chẳng hạn, trung thành hay thành tín (loyalty), trung thực (truthfulness), đáng tin cậy (trustworthiness), công chính (righteousness), cam kết (commitment), kiên định (steadfastness), trách nhiệm (responsibility), kiên quyết (firmness), bảo đảm (security), tận tâm (devotion), cống hiến (dedication), ổn định (stability).
Trong Tân Ước, từ πíστiς /pistis của tiếng Hy-lạp có thể được dịch là tin (faith) hay trung tín, trung thành, thành tín (faithfulness). Chẳng hạn, ở Rm 3,3, từ này được dịch là trung tín (τὴν πίστιν τοῦ θεοῦ: Lòng trung tín của Thiên Chúa). Tương tự như vậy, ở Mt 23,23; Gl 5,22; Dt 3,1-2; Tt 2,10, πíστiς cũng được dịch là trung tín hay thành tín. Đối nghịch với trung tín là bất tín ἀπιστία /apistia (unfaithfulness hay unbelief). Khi so sánh sự ảnh hưởng của hai nền văn hóa Do-thái và Hy-lạp đối với các chủ đề quan trọng trong Kinh Thánh, chúng ta nhận thức rằng văn hóa Do-thái thiên về nghĩa thực hành hơn là nghĩa suy tư như văn hóa Hy-lạp. Đó là lý do tại sao πíστiς /pistis của Hy-lạp thường được dịch là tin hơn là trung tín. Trong tiếng Việt, từ tin và trung tín đi đôi với nhau nhưng trung tín thường được hiểu theo nghĩa rộng hơn, trung tín bao gồm tin và thực hành điều mình tin nữa, chứ không chỉ ‘tin trong lòng’. Nói cách khác, trung tín có thể được hiểu là ‘đức tin trong hành động’.
Theo mặc khải Ki-tô Giáo, trung tín vừa là thuộc tính của Thiên Chúa vừa là thuộc tính của con người. Hơn thế nữa, trong nhãn quan Cựu Ước, trung tín thuộc về ‘bản tính’ của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là Người không cần phải cố gắng hay làm gì để trở nên trung tín bởi vì Người là trung tín. Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Nhờ đức tin, cả bà Xa-ra vốn hiếm muộn, cũng đã có thể thụ thai và sinh con nối dòng vào lúc tuổi đã cao, vì bà tin rằng Đấng đã hứa là Đấng trung tín” (Dt 11,11). Trong sách Đệ Nhị Luật, Mô-sê nói với dân Do-thái: “Anh (em) phải biết rằng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh (em), thật là Thiên Chúa, là Thiên Chúa trung thành [אמן/ πιστóς/ trung tín]: Cho đến muôn ngàn thế hệ, Người vẫn giữ giao ước và tình thương đối với những ai yêu mến Người và giữ các mệnh lệnh của Người” (Đnl 7,9). Tác giả Thánh Vịnh 89 thân thưa cùng Thiên Chúa: “Lạy Chúa là Chúa Tể càn khôn, nào ai được như Chúa? Lạy Chúa quyền năng, đức thành tín hầu cận quanh Ngài” (Tv 89,9). Trong sách ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa cũng được nhìn nhận là Đấng trung tín: “Vua chúa sẽ thấy và đứng lên, chư hầu sẽ thấy và bái lạy vì uy quyền của Đức Chúa là Đấng trung thành, là Đức Thánh của Ít-ra-en, Đấng đã tuyển chọn ngươi” (Is 49,7). Đặc biệt, Thiên Chúa trung tín cứu chữa con người khỏi tội bất tín: “Ta sẽ chữa chúng khỏi tội bất trung, sẽ yêu thương chúng hết tình, vì cơn giận của Ta sẽ không còn đeo đuổi chúng” (Hs 14,5); “Sứ giả gian manh chỉ gây nên tai họa, sứ giả trung tín là phương thuốc chữa lành” (Cn 13,17). Thiên Chúa luôn mời gọi mọi người sống đời trung tín để được thông phần sự sống của Người.
Tác giả Thánh Vịnh 31 cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa là Đấng trung tín bảo vệ những ai cầu khẩn Người: “Núi đá và thành luỹ bảo vệ con, chính là Chúa. Vì danh dự Ngài, xin dẫn đường chỉ lối cho con. Lưới kẻ thù giăng, xin gỡ con ra khỏi, vì nơi con trú ẩn, chính là Ngài. Trong tay Ngài, con xin phó thác hồn con, Ngài đã cứu chuộc con, lạy Chúa Trời thành tín” (Tv 31,4-6). Tác giả sách Huấn Ca đề cao sự trung tín: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15,15); “Hãy giữ lời và trung tín luôn luôn, thì bất cứ lúc nào cần điều chi, con cũng sẽ được” (Hc 29,3). Còn tác giả sách Châm Ngôn tán thưởng sự trung tín của người được sai đi: “Sứ giả trung tín với kẻ sai mình đi thì đáng quý như tuyết mát ngày mùa: Người đó làm vững lòng ông chủ” (Cn 25,13). Đặc biệt, dưới nhãn quan Cựu Ước, trung tín và thử thách đi đôi với nhau hay trung tín được tôi luyện qua thử thách. Điều này có nghĩa rằng người trung tín với Thiên Chúa là người chấp nhận những gian lao, khốn khó hay những nghịch cảnh liên lỉ hoặc bất ngờ xảy đến đối với bản thân mình cũng như những người thân thuộc. Những nhân vật trung tín điển hình trong Cựu Ước từ Nô-ê tới Áp-ra-ham, từ Mô-sê tới Đa-vít, không nhân vật nào lại không phải nếm mùi thử thách, đau khổ. Các ngôn sứ từ Giô-suê tới Sa-mu-en, từ I-sai-a tới Giê-rê-mi-a, từ Ê-dê-ki-en tới Ma-la-khi, không ngôn sứ nào lại không đối diện với nhiều gian nan, khốn khó để trung tín thực thi sứ mệnh được Thiên Chúa giao phó.
Sách Sáng Thế cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa đã chọn Áp-ra-ham để qua ông, chương trình của Người được thực hiện. Thiên Chúa trung tín với lời hứa của Người đối với ông, cho ông và bà Xa-ra có con trai là I-xa-ác trong khi tuổi già: “Đức Chúa viếng thăm bà Xa-ra như Người đã phán, và Người đã làm cho bà như Người đã hứa. Bà Xa-ra có thai và sinh cho ông Áp-ra-ham một con trai khi ông đã già, vào thời kỳ Thiên Chúa đã hứa” (St 21,1-2). Áp-ra-ham thường được gọi là cha của những kẻ tin hay cha của những người trung tín. Thiên Chúa đã thử thách ông và ông đã diễn tả sự trung tín của mình (St 22,1-15). Ông tin vào Thiên Chúa và Thiên Chúa “kể ông là người công chính” (St 15,6). Sau này, tác giả sách Ma-ca-bê minh định rõ hơn khi viết: “Ông Áp-ra-ham lại không được kể là người trung tín trong cơn thử thách, và lại chẳng được kể là người công chính đó sao?” (1 Mcb 2,52). Tương tự như vậy, theo tác giả sách Huấn Ca: “Ông Áp-ra-ham là người cha vĩ đại của muôn dân tộc, vinh quang của ông chẳng ai sánh tày. Lề Luật của Đấng Tối Cao, ông hằng tuân giữ và ông được giao ước với Người. Nơi thân xác mình, ông đã lập giao ước, trong cơn thử thách, ông được nhìn nhận là trung thành” (Hc 44,19-20).
Đa-vít cũng được gọi là người trung tín của Thiên Chúa. Trước khi trở thành vị vua lỗi lạc nhất trong lịch sử Do-thái, ông được xem là người trung tín, kính sợ Thiên Chúa và tôn trọng người được xức dầu là Sa-un. Đa-vít có nhiều cơ hội để giết và chiếm quyền vua Sa-un, nhưng ông đã không làm như vậy. Khi vua Sa-un buộc tội ông A-khi-me-léc (là một tư tế) ủng hộ Đa-vít chống lại vua, ông A-khi-me-léc nói với vua: “Trong triều thần của ngài, có ai trung tín như ông Đa-vít, con rể của nhà vua, chỉ huy cận vệ của ngài, người được kính nể trong triều đình?” (1 Sm 22,14). Mặc dù Đa-vít lắm phen làm điều dữ, chẳng hạn như ngoại tình với bà Bát Se-va, lập mưu giết U-ri-gia để cướp lấy vợ ông, nhưng sau đó, ông đã thành tâm nhìn nhận tội lỗi mình và cầu xin sự tha thứ của Thiên Chúa. Ông đã ăn năn hối cải và được nghĩa với Thiên Chúa. Đa-vít trở thành mẫu gương hối cải, mẫu gương người tội lỗi trở thành người trung tín cho muôn người học hỏi qua bao thế hệ. Sự trung tín của Đa-vít có thể được gọi là ‘sự trung tín hoán cải’.
Lịch sử tương quan giữa Thiên Chúa và dân Do-thái cũng là lịch sử của vị Thiên Chúa luôn trung tín và dân Do-thái bất tín. Đặc biệt, trong hành trình 40 năm về Đất Hứa, nhiều phen dân Do-thái đã lỗi phạm, than trách Thiên Chúa, thờ phượng tà thần, bất tuân phục Mô-sê. Chẳng hạn, khi không có nước uống, dân Do-thái đã gây sự với Mô-sê và ông đã cầu xin Thiên Chúa cho nước phun ra từ tảng đá để họ giải khát. Mô-sê đặt tên cho nơi mà dân Do-thái lỗi phạm với Thiên Chúa là ‘Ma-xa và Mơ-ri-va, nghĩa là thử thách và gây sự’, bởi vì họ nghi ngờ sự hiện diện của Người mà rằng: “Có Đức Chúa ở giữa chúng ta hay không?” (Xh 17,7). Các ngôn sứ và những người lãnh đạo dân Do-thái luôn nói về sự cần thiết phải trung tín với Thiên Chúa, chẳng hạn như Sa-mu-en nói với dân Do-thái: “Chỉ có một điều là anh em hãy kính sợ Đức Chúa và trung tín phụng thờ Người hết lòng: Anh em hãy xem việc vĩ đại Người đã làm giữa anh em” (1 Sm 12,24). Lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh 81 thật uy nghi, mạnh mẽ và dứt khoát: “Dân Ta hỡi, nghe Ta cảnh cáo, Ít-ra-en này, phải chi ngươi chịu nghe Ta, thì đừng đem thần lạ về nhà, thần ngoại bang, chớ hề cúng bái” (Tv 81,9-10). Tương tự như vậy, lời của Thiên Chúa trong Thánh Vịnh 95 gợi lại lỗi phạm của dân Do-thái trong quá khứ: “Các ngươi chớ cứng lòng như tại Mơ-ri-va, như ngày ở Ma-xa trong sa mạc, nơi tổ phụ các ngươi đã từng thách thức và dám thử thách Ta, dù đã thấy những việc Ta làm” (Tv 95,8-9).
Trong bối cảnh Cựu Ước, sự trung tín của Thiên Chúa đối với con người và sự trung tín của con người đối với Thiên Chúa hệ tại ở việc thực thi giao ước. Theo tác giả Thánh Vịnh 25 và 36: “Tất cả đường lối Chúa đều là yêu thương và thành tín đối với những kẻ nào giữ giao ước và lề luật Chúa” (Tv 25,10); “Lạy Chúa, tình thương Ngài cao ngất trời xanh, lòng thành tín vượt ngàn mây biếc” (Tv 36,6). Lời của Thiên Chúa trong sách ngôn sứ I-sai-a tiên báo về vị minh quân thuộc dòng dõi vua Đa-vít là Đức Giê-su, Đấng trung tín như sau: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành” (Is 11,5) hay: “Cây lau bị giập, nó không đành bẻ gãy, tim đèn leo lét, cũng chẳng nỡ tắt đi. Nó sẽ trung thành làm sáng tỏ công lý” (Is 42,3). Quả thực, khi thời gian tới thời viên mãn, Đức Giê-su là Con Thiên Chúa đã đến với gia đình nhân loại. Người thể hiện sự trung tín của Thiên Chúa khi thiết lập Giao Ước Mới. Giao ước này làm cho lời của Thiên Chúa trở thành hiện thực: “Này sắp đến những ngày Ta hoàn thành một Giao Ước Mới với nhà Ít-ra-en và nhà Giu-đa. Giao ước đó sẽ không như giao ước Ta đã thiết lập với cha ông của chúng, trong ngày Ta cầm tay dẫn chúng ra khỏi Ai-cập” (Dt 8,8-9). Đức Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa trung tín mà lề luật và các ngôn sứ diễn tả trong Cựu Ước. Nhờ sự trung tín của Đức Giê-su, tất cả những lề luật và lời ngôn sứ trong Cựu Ước được thực hiện, bởi vì, “Người là trung gian của một Giao Ước Mới, lấy cái chết của mình mà chuộc tội lỗi người ta đã phạm trong thời giao ước cũ, và đem lại cho những ai được Thiên Chúa kêu gọi quyền lãnh nhận gia nghiệp vĩnh cửu Thiên Chúa đã hứa” (Dt 9,15).
Cuộc đời Đức Giê-su cho chúng ta thấy rằng trung tín không chỉ là một trong những thuộc tính của Người như bao thuộc tính khác nhưng gắn liền với ‘bản tính’ của Người. Trong thư gửi Ti-mô-thê, thánh Phao-lô viết: “Đây là lời đáng tin cậy: Nếu ta cùng chết với Người, ta sẽ cùng sống với Người. Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ cùng hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình” (2 Tm 2,11-13). Theo tác giả sách Khải Huyền, tên của Đức Giê-su là Trung Thành và Chân Thật (πιστὸς καὶ ἀληθινός): “Bấy giờ tôi thấy trời rộng mở: Kìa một con ngựa trắng, và người cỡi ngựa mang tên là ‘Trung Thành và Chân Thật’” (Kh 19,11). Tương tự như thế, thánh Phao-lô diễn tả Thiên Chúa là Đấng trung tín và sự bất tín của con người không phương hại đến sự trung tín của Thiên Chúa. Người viết: “Nếu có một số người Do-thái không trung tín thì sao? Chẳng lẽ sự bất trung bất tín của họ lại làm cho lòng trung tín của Thiên Chúa ra vô hiệu? Không phải thế! Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối” (Rm 3,3-4).
Đức Giê-su diễn tả sự trung tín qua việc làm theo ý Chúa Cha ngay trong thời thơ ấu. Chẳng hạn, lúc mười hai tuổi, Người lên Giê-ru-sa-lem và giảng dạy giữa các bậc thầy Do-thái. Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se tìm được Người và nói: “Con ơi, sao con lại xử với cha mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2,48). Đức Giê-su đã trả lời: “Sao cha mẹ lại tìm con? Cha mẹ không biết là con có bổn phận ở nhà của Cha con sao?” (Lc 2,49). Trong sứ mệnh công khai, khi những người Do-thái chất vấn Đức Giê-su về việc Người chữa bệnh trong ngày sa-bát cho một người đau ốm đã ba mươi tám năm, Đức Giê-su nói với họ: “Tôi không thể tự ý mình làm gì. Tôi xét xử theo như tôi được nghe, và phán quyết của tôi thật công minh, vì tôi không tìm cách làm theo ý riêng tôi, nhưng theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 5,30). Trong hội đường Ca-phác-na-um, sau khi hóa bánh ra nhiều và thực hiện dấu lạ đi trên mặt biển, Đức Giê-su nói với những Người Do-thái: “Tôi tự trời mà xuống, không phải để làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (Ga 6,38).
Khi giảng dạy, Đức Giê-su cho các môn đệ biết rằng người trung tín là người luôn dành toàn tâm, toàn ý, toàn trí, toàn lực để phục vụ chủ mình sao cho mọi công việc của chủ được diễn ra tốt đẹp. Người nói: “Không gia nhân nào có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa, vừa làm tôi Tiền Của được” (Lc 16,13). Đức Giê-su dùng hình ảnh hai chủ để mời gọi mọi người ý thức hơn về ‘những ông chủ’ trong đời sống mình. Quả thực, nhiều người không chỉ làm tôi hai chủ mà là nhiều chủ. Có người cho rằng mình yêu mến Thiên Chúa và thực thi lời của Người. Tuy nhiên, vì tính ích kỷ, họ sẵn sàng làm tôi nhiều chủ khác nữa hầu đem lại lợi lộc tối đa cho mình và những người thân thuộc. Đức Giê-su mời gọi mọi người, trước hết, hãy trung tín với Thiên Chúa là Cha của Người như Người đã thực hiện. Nhờ đó, họ sẽ có thái độ phù hợp hơn với ‘những ông chủ’ khác trong đời sống mình.
Như đã đề cập ở trên, người trung tín cũng là người trung thực (truthfulness). Đức Giê-su luôn đề cao sự trung thực. Chẳng hạn, khi triển khai Bài Giảng Trên Núi về Tám Mối Phúc, Đức Giê-su nói: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5,37). Hơn ai hết, thấm nhuần giáo huấn của Đức Giê-su, thánh Phao-lô viết cho các tín hữu ở Cô-rin-tô: “Đức Ki-tô Giê-su, Con Thiên Chúa, Đấng mà chúng tôi, là Xin-va-nô, Ti-mô-thê và tôi, rao giảng cho anh em, đã không vừa là ‘có’ vừa là ‘không’, nhưng nơi Người chỉ toàn là ‘có’. Quả thật, mọi lời hứa của Thiên Chúa đều là ‘có’ nơi Người. Vì thế, cũng nhờ Người mà chúng ta hô lên ‘A-men’ để tôn vinh Thiên Chúa. Đấng củng cố chúng tôi cùng với anh em trong Đức Ki-tô và đã xức dầu cho chúng ta, Đấng ấy là Thiên Chúa” (2 Cr 1,19-21). Như vậy, nhờ Đức Giê-su, con người có thể luôn thưa ‘có’ để diễn tả lòng trung tín và hiếu thảo của mình đối với Thiên Chúa là Cha của Đức Giê-su cũng là Cha của mọi người.
Đường lối sư phạm của Đức Giê-su về trung tín rất cụ thể: Trung tín trong việc nhỏ để có thể trung tín trong việc lớn. Với Người, “ai trung tín trong việc rất nhỏ, thì cũng trung tín trong việc lớn; ai bất lương trong việc rất nhỏ, thì cũng bất lương trong việc lớn” (Lc 16,10). Trong ‘dụ ngôn những yến bạc’, khi người đầy tớ nhận của ông chủ năm yến và làm lợi thêm năm yến khác đến với ông chủ thì ông nói: “Khá lắm! hỡi đầy tớ tài giỏi và trung thành! Được giao ít mà anh đã trung thành, thì tôi sẽ giao nhiều cho anh. Hãy vào mà hưởng niềm vui của chủ anh!” (Mt 25,21). Thông thường, con người muốn làm những việc lớn lao, cả thể, để phô diễn thanh danh đối với người khác. Tuy nhiên, Đức Giê-su mời gọi mọi người hãy bắt đầu từ những việc nhỏ và trung tín trong những việc nhỏ. Quả thực, kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng cái vĩ đại chỉ có thể đến từ những cái nhỏ nhất. Chẳng hạn, để có bức tranh đẹp thì những chi tiết nhỏ nhất phải đẹp, thậm chí giá trị của bức tranh nhiều khi nằm ở những nơi bí ẩn, nhỏ bé, khó quan sát hơn là những nơi nổi trội. Những gì ‘làm nền’ cho bức tranh nhiều khi lại được trân quý hơn nội dung chính yếu của bức tranh nữa. Tương tự như vậy, một ngôi nhà đẹp được hình thành từ những chi tiết đẹp. Do đó, trung tín trong việc nhỏ là điều kiện cần và đủ cho trung tín trong việc lớn.
Khi người Do-thái đưa đến cho Đức Giê-su một người bị quỷ ám mắc bệnh động kinh, họ nói với Đức Giê-su: “Thầy có thể làm được gì, thì xin chạnh lòng thương mà cứu giúp chúng tôi” (Mc 9,22). Đức Giê-su trả lời: “Sao lại nói: nếu Thầy có thể? Mọi sự đều có thể đối với người tin” (Mc 9,23). Sau đó, Đức Giê-su đã trục xuất quỷ dữ ra khỏi người bệnh (Mc 9,25-28). Quả thực, lời nói và việc làm của Đức Giê-su minh chứng rằng mọi sự đều có thể đối với người tin, mọi sự đều có thể đối với người trung tín. Đây là Tin Mừng lớn lao cho gia đình nhân loại. Chúng ta biết rằng, trước những khó khăn thử thách, con người thường có hai thái độ: (1) Ngã lòng, nhụt chí, buông xuôi hoặc (2) kiên tâm, trông cậy, tin tưởng Thiên Chúa. Đức Giê-su mời gọi mọi người luôn hướng về Thiên Chúa và thực thi thánh ý Người. Nhờ đó, họ sẽ lãnh nhận hoa trái dồi dào nhờ sự trung tín của mình. Như Đức Giê-su đã chiến thắng tội lỗi và sự chết vì Người luôn trung tín, mọi người luôn được mời gọi cộng tác với Người để có thể chiến thắng chính mình và muôn cạm bẫy tiềm tàng trong cuộc sống.
Sách ngôn sứ I-sai-a cho mọi người biết về người tôi trung của Thiên Chúa, chịu đau khổ tột cùng, mặt mày tan nát, không còn dáng vẻ con người (Is 52,14). Vì trung tín với Thiên Chúa, người tôi trung bị khinh khi, nhục mạ, đau khổ, bệnh tật. Người tôi trung mang lấy tất cả đau khổ, bệnh tật, lỗi lầm của người khác. Người tôi trung bị buộc tội, bị giết chết, bị chôn giữa bọn ác nhân. Nhờ người tôi trung, Thiên Chúa làm cho mọi người nên công chính và được chung hưởng hạnh phúc miên trường (Is 53,1-12). Những gì được đề cập trong sách ngôn sứ I-sai-a đã được ứng nghiệm nơi Đức Giê-su, Đấng trung tín của Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa, là Thiên Chúa thật và con người thật, Đức Giê-su vừa trung tín với Thiên Chúa vừa trung tín với con người qua mọi thời đại. Sự trung tín của Đức Giê-su là sự trung tín vĩnh cửu. Do đó, Người thiết lập Giao Ước Mới và vĩnh cửu một lần cho tất cả hầu cứu chuộc muôn người.
Đức Giê-su hứa ban phần thưởng là sự sống đời đời cho những ai trung tín với Người: “Thầy bảo thật anh em: Chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái hay ruộng đất, vì Thầy và vì Tin Mừng, mà ngay bây giờ, ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất, gấp trăm, cùng với sự ngược đãi, và sự sống vĩnh cửu ở đời sau” (Mc 10,29-30). Với Đức Giê-su, trung tín với Người cũng chính là trung tín với Thiên Chúa là Cha của Người: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai nghe lời tôi và tin vào Đấng đã sai tôi, thì có sự sống đời đời và khỏi bị xét xử, nhưng đã từ cõi chết bước vào cõi sống” (Ga 5,24). Người cũng nói: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết là Tôi Hằng Hữu, và biết tôi không tự mình làm bất cứ điều gì, nhưng Chúa Cha đã dạy tôi thế nào, thì tôi nói như vậy” (Ga 8,28). Với Đức Giê-su, hoán cải là điều kiện không thể thiếu được để trở nên trung tín và lãnh nhận hoa trái dành cho người trung tín. Chẳng hạn, trước sự hoán cải và lòng thành tín của tên gian phi, Đức Giê-su nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).
Chúng ta biết rằng trình thuật Tin Mừng Đức Giê-su theo thánh Gio-an từ chương 13 – 17 là trình thuật về cuộc đối thoại riêng giữa Đức Giê-su và các môn đệ trước khi Người bước vào cuộc khổ nạn. Thánh Gio-an viết câu đầu tiên của trình thuật này như sau: “Trước lễ Vượt Qua, Đức Giê-su biết giờ của Người đã đến, giờ phải bỏ thế gian mà về với Chúa Cha. Người vẫn yêu thương những kẻ thuộc về mình còn ở thế gian, và Người yêu thương họ đến cùng” (Ga 13,1). Đức Giê-su yêu thương các môn đệ cũng như mọi người cho đến giọt máu cuối cùng (Ga 19,34). Đức Giê-su đã chết và sống lại để diễn tả tình yêu đến cùng của Người. Đức Giê-su đã thiết lập Bí Tích Thánh Thể để ở lại với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến cùng. Tình yêu của Người là tình yêu trung tín cho đến cùng. Sự trung tín của Đức Giê-su cho đến cùng cũng chính là sự vâng phục của Người cho đến cùng (Pl 2,8). Câu hỏi được đặt ra là ‘con người có yêu Thiên Chúa, yêu Đức Giê-su, yêu anh chị em đồng loại cho đến cùng không?’. Để có thể ‘yêu cho đến cùng’ như Đức Giê-su đã yêu, yêu đến nỗi gọi các môn đệ là bạn và hy sinh tính mạng vì họ, mọi người cần gắn bó với Người để ngày càng trở nên đồng hình đồng dạng với Người trong sự trung tín.
Với hành trình trần thế, Đức Giê-su vừa diễn tả sự trung tín của Thiên Chúa đối với con người vừa diễn tả sự trung tín của con người đối với Thiên Chúa. Chính Đức Giê-su đã minh chứng Người là Đấng trung tín của Thiên Chúa trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống Người. Là Thiên Chúa, Đức Giê-su cho mọi người biết rằng Thiên Chúa luôn trung tín chờ đợi sự hoán cải, trở về của con người, đồng thời, Người cũng ban dồi dào ơn lành cho những ai trung tín. Là con người, Đức Giê-su diễn tả cách thức thể hiện sự trung tín đối với Thiên Chúa. Đặc biệt, nhân danh toàn thể nhân loại, Đức Giê-su diễn tả Người là Thượng Tế, Bàn Thờ và là Con Chiên hầu đền tội cho nhân loại và phụng thờ Thiên Chúa. Trong các sách Kinh Thánh, thư gửi tín hữu Do-thái là tài liệu duy nhất diễn tả Đức Giê-su là Thượng Tế. Đặc biệt, phẩm vị Thượng Tế của Người vượt xa mọi thượng tế trong lịch sử Do-thái bởi vì Người là Thượng Tế siêu phàm (Dt 4,14). Các tư tế hay thượng tế trong lịch sử Do-thái là những hình ảnh hay biểu tượng hướng về Đức Giê-su là Thượng Tế siêu phàm.
Dưới nhãn quan của tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Đức Giê-su là vị Thượng Tế trung tín hiến dâng chính mình như Của Lễ hoàn hảo lên Thiên Chúa: “Người đã phải nên giống anh em mình về mọi phương diện, để trở thành một vị Thượng Tế nhân từ và trung tín trong việc thờ phượng Thiên Chúa, hầu đền tội cho dân” (Dt 2,17). Vì giống anh em mình trong gia đình nhân loại, Đức Giê-su cảm nghiệm được những bấp bênh, tủi nhục của kiếp người dưới ách thống trị của ma quỷ, thế gian, xác thịt (Dt 4,15-16). Người là Thượng Tế nhân từ và trung tín. Do đó, Người thấu hiểu những yếu đuối của anh em mình và yêu thương nâng đỡ họ trong mọi hoàn cảnh. Mặt khác, Người có khả năng đến với Thiên Chúa nhân danh anh em mình bởi vì Người trung tín cho đến nỗi bằng lòng chịu chết trên cây thập tự (Pl 2,8). Lời của Thiên Chúa Cha không chỉ vang vọng trong biến cố Đức Giê-su chịu Phép Rửa để bắt đầu sứ mệnh công khai mà còn vang vọng trong mọi biến cố của cuộc sống Người: “Đây là Con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,17). Câu hỏi đặt ra là ‘tại sao nhân loại lại cần vị Thượng Tế nhân từ và trung tín?’ Thưa, tại vì trong gia đình nhân loại không ai có thể được gọi là người nhân từ và trung tín đến mức có thể làm trung gian cho mọi người trước mặt Thiên Chúa. Bởi vì, là con cái của gia đình nhân loại, ai cũng là tội nhân, do vậy, không thể đền tội cho mình hay cho người khác được. Kinh nghiệm cuộc sống cho chúng ta nhận thức rằng một chiếc khăn bị vấy bẩn không thể lau sạch những vết bẩn nơi bất cứ vật dụng nào.
Tiếp tục chủ đề trung tín, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái so sánh giữa Đức Giê-su và Mô-sê, được mệnh danh là người lãnh đạo và tôi tớ trung tín của Thiên Chúa. Trong Cựu Ước, Mô-sê là tôi tớ trung tín của Thiên Chúa như lời Thiên Chúa phán: “Ngay cả điều ngươi vừa nói đó, Ta cũng sẽ làm, vì ngươi đã được nghĩa với Ta, và Ta biết đích danh ngươi” (Xh 33,17) hay: “Hãy nghe Ta nói đây! Nếu trong các ngươi có ai là ngôn sứ, thì Ta, Đức Chúa, Ta sẽ tỏ mình ra cho nó trong thị kiến, hoặc sẽ phán với nó trong giấc mộng. Nhưng với Mô-sê tôi tớ Ta thì khác: Tất cả nhà Ta, Ta đã trao cho nó” (Ds 12,6-7). Tương tự như Mô-sê, thời thơ ấu, Đức Giê-su đã sang Ai-cập (Mt 2,13-15). Như Mô-sê dẫn dắt dân Do-thái 40 năm trong sa mạc, Đức Giê-su cũng vào sa mạc 40 đêm ngày để ăn chay, cầu nguyện và chịu cám dỗ. Trong sa mạc, dân Do-thái bị cám dỗ về (1) chuyện ăn uống, (2) thử thách Thiên Chúa và (3) phụng thờ tà thần. Họ đã sa chước cám dỗ. Đức Giê-su cũng bị cám dỗ như vậy nhưng Người không sa chước cám dỗ (Mt 4,1-11). Nói cách khác, dân Do-thái bất tín với Thiên Chúa và sa chước cám dỗ, còn Đức Giê-su luôn trung tín với Thiên Chúa và không sa chước cám dỗ.
Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái viết: “Anh em hãy ngắm nhìn Đức Giê-su là Sứ Giả, là Thượng Tế, là Trung Gian cho chúng ta tuyên xưng đức tin. Người trung thành với Đấng đã đặt Người lên chức vụ đó, cũng như ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa” (Dt 3,1-2). Đối với dân Do-thái, Mô-sê là mẫu gương trung tín cho mọi người Do-thái trong việc lắng nghe, tin tưởng và thực thi thánh ý Thiên Chúa. Tuy nhiên, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái còn đi xa hơn khi khẳng định: “Như người làm nhà đáng tôn vinh hơn chính ngôi nhà, thì Đức Giê-su cũng được coi là đáng tôn vinh hơn ông Mô-sê. Quả thật, nhà nào cũng phải có người làm ra, và Đấng làm ra mọi sự là Thiên Chúa” (Dt 3,3-4). Đặc biệt, tác giả thư gửi tín hữu Do-thái diễn tả Đức Giê-su là điểm đến của sự trung tín mà Mô-sê là đại diện và là điểm quy chiếu về sự trung tín của tất cả mọi người: “Ông Mô-sê đã trung thành khi thi hành chức vụ đối với toàn thể nhà Thiên Chúa, với tư cách là tôi tớ để làm chứng về các điều Thiên Chúa sẽ phán truyền. Còn Đức Ki-tô thì trung thành với tư cách là người Con đứng đầu nhà Thiên Chúa. Mà nhà Thiên Chúa là chính chúng ta, miễn là chúng ta giữ vững đến cùng lòng tin tưởng và thái độ hiên ngang về niềm hy vọng của chúng ta” (Dt 3,5-6). Như vậy, dưới nhãn quan tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, sự trung tín của Đức Giê-su kiện toàn sự trung tín của Mô-sê cũng như mọi người trong dòng lịch sử, đồng thời, sự trung tín của Đức Giê-su đem lại ơn cứu độ vĩnh cửu cho những ai trung tín với giáo huấn của Người.
Thư gửi tín hữu Do-thái viết cho các Ki-tô hữu từng được gọi là dân riêng của Thiên Chúa (Xh 6,7). Đây là dân thấm nhuần tinh thần truyền thống Cựu Ước, trong đó Mô-sê là nhân vật vĩ đại đã dẫn dắt cha ông họ ra khỏi ách nô lệ Ai-cập về với Đất Hứa. Đối với họ, nói rằng Đức Giê-su cao trọng hơn Mô-sê là điều lạ lùng, khó có thể chấp nhận. Tuy nhiên, đối với tác giả thư gửi tín hữu Do-thái, Mô-sê là người trung tín của Thiên Chúa nhưng sự trung tín của Mô-sê không trọn hảo (imperfect faithfulness) vì nhiều lúc ông mất niềm hy vọng, than trách Thiên Chúa hay không diễn tả sự thánh thiện của Người cách xứng hợp (Ds 20,12; Đnl 32,48-52). Trong khi đó, sự trung tín của Đức Giê-su là sự trung tín trọn hảo (perfect faithfulness). Mặt khác, sự trung tín thực thi thánh ý Thiên Chúa của Đức Giê-su không chỉ cho dân Do-thái mà cho mọi người trong gia đình nhân loại. Tác giả thư gửi tín hữu Do-thái mời gọi mọi người hãy mở rộng tâm trí đến đón nhận Đức Giê-su. Mô-sê là mẫu gương trung tín với Thiên Chúa cho dân Do-thái, còn Đức Giê-su là mẫu gương trung tín với Thiên Chúa cho mọi người trong mọi thời và khắp mọi nơi.
Trong thư gửi tín hữu Rô-ma, thánh Phao-lô viết: “Nếu chúng ta đã cùng chết với Đức Ki-tô, chúng ta cũng sẽ cùng sống với Người” (Rm 6,8). Đối với thánh nhân, chỉ có những người sống trung tín với Đức Ki-tô mới có thể cùng chết với Người. Mục đích của người trung tín là được sống trong ân nghĩa của Thiên Chúa như Đức Giê-su đã sống hầu đáng lãnh nhận sự sống vĩnh cửu với Người. Gửi thư cho tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Tôi đã phái người con yêu quý và trung tín của tôi trong Chúa, là anh Ti-mô-thê, đến với anh em. Anh ấy sẽ nhắc cho anh em những quy tắc hướng dẫn đời sống trong Đức Ki-tô mà tôi đã đề ra, những quy tắc mà tôi vẫn giảng dạy khắp nơi, trong mọi Hội Thánh” (1 Cr 4,17). Chúng ta biết rằng Ti-mô-thê vừa là người con trung tín của thánh Phao-lô trong Chúa, vừa là bạn đồng hành của thánh nhân trong việc loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại trong Giáo Hội thuở ban đầu. Ti-mô-thê đã học hỏi nhiều điều nơi thánh Phao-lô, nhất là việc hoán cải và gắn bó với Đức Giê-su cho đến hơi thở cuối cùng.
Kinh nghiệm gặp gỡ Đức Giê-su phục sinh giúp thánh Phao-lô cảm nhận được sự trung tín của Thiên Chúa qua sự trung tín của Đức Giê-su. Trong thư gửi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh nhân viết: “Hỡi anh em là những kẻ được Chúa yêu mến, chúng tôi phải luôn luôn tạ ơn Thiên Chúa về anh em, vì Thiên Chúa đã chọn anh em ngay từ lúc khởi đầu, để cứu độ anh em nhờ Thần Khí thánh hóa và nhờ lòng tin vào chân lý” (2 Tx 2,13). Đặc biệt, theo thánh nhân: “Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ làm cho anh em được vững mạnh, và bảo vệ anh em khỏi ác thần” (2 Tx 3,3). Như vậy, Đấng trung tín vừa làm cho con người kiên vững trong đức tin vừa bảo vệ con người khỏi muôn hình thức sự dữ. Với tín hữu Cô-rin-tô, thánh nhân viết: “Thiên Chúa là Đấng trung thành, Người đã kêu gọi anh em đến hiệp thông với Con của Người là Đức Giê-su Ki-tô, Chúa chúng ta” (1 Cr 1,9). Vì Thiên Chúa là Đấng trung tín, Người luôn nâng đỡ con người và ban ân sủng cần thiết để con người có thể vượt qua những chướng ngại như thánh Phao-lô viết cho các tín hữu tại Cô-rin-tô: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10,13).
Theo mặc khải Kinh Thánh, Nguyên Tổ của gia đình nhân loại là A-đam và E-và đã không trung tín với Thiên Chúa và tội lỗi xâm nhập trần gian (St 3,1-7; Rm 5,12). Do đó, bất cứ hình thức tội lỗi nào đều mang âm hưởng của sự bất tín. Người phạm tội và người nên cớ cho người khác phạm tội đều là bất tín. Trong Cựu Ước, Thiên Chúa cáo tội các tư tế của Ít-ra-en qua trung gian Ma-la-khi rằng: “Các ngươi đã đi trệch đường và làm cho nhiều người lảo đảo trên đường Luật dạy. Các ngươi đã hủy hoại giao ước với Lê-vi, – Đức Chúa các đạo binh phán. Còn Ta, Ta sẽ làm cho các ngươi đáng khinh và ra hèn mạt trước mặt toàn dân, vì các ngươi không tuân giữ đường lối Ta, và hay nể vì khi áp dụng Luật” (Ml 2,8-9). Trong Tân Ước, Đức Giê-su nói rằng: “Ai làm cớ cho một trong những kẻ bé mọn đang tin đây phải sa ngã, thì thà buộc cối đá lớn vào cổ nó mà ném xuống biển còn hơn” (Mc 9,42). Tương tự như vậy, thánh Phao-lô viết cho các tín hữu Rô-ma: “Thưa anh em, tôi khuyên nhủ anh em hãy coi chừng những kẻ gây chia rẽ và làm cớ vấp ngã, vì đi ngược lại với đạo lý anh em đã học hỏi; anh em hãy xa lánh họ” (Rm 16,17). Do đó, người trung tín với Thiên Chúa không chỉ tuân giữ lề luật của Người mà còn thường xuyên quan tâm đến câu hỏi ‘phải chăng mình là nguyên cớ cho người khác bất tín?’.
Như đã đề cập ở trên, trong bối cảnh Kinh Thánh, niềm tin (faith) và sự trung tín (faithfulness) đi đôi với nhau. Tuy nhiên, chúng ta có thể nhận thức rằng sự trung tín có nghĩa rộng hơn. Bởi vì, sự trung tín đích thực không chỉ tin mà còn hành động nữa. Về điểm này, thánh Gia-cô-bê khẳng định: “Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: ‘Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin’” (Gc 2,17-18). Trong thực tế, chúng ta thấy rằng có nhiều người đặt niềm tin vào Thiên Chúa. Tuy nhiên, họ không trung tín với Thiên Chúa bởi vì thiếu vắng hành động diễn tả niềm tin trong cuộc sống thường ngày. Đặc biệt, trong thế giới hôm nay, số người tin tưởng vào Đức Giê-su và chương trình của Người ngày càng tăng nhưng số người thực hành niềm tin xem ra ngày càng giảm. Hơn nữa, nhiều người cho rằng niềm tin mang tính cá nhân hơn là cộng đoàn. Hậu quả là, họ chỉ có tin mà không hành động, không gắn bó với cộng đoàn đức tin, không ý thức sự cần thiết phải loan báo Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho anh chị em đồng loại.
Thực thi thánh ý Thiên Chúa cách trung tín là điều cần thiết đối với các Ki-tô hữu. Sự trung tín mà Đức Giê-su muốn nơi các Ki-tô hữu không phải là sự trung tín chóng qua, nhất thời (moment) mà là tiến trình (process) luôn mãi. Có người cho rằng mình tin vào Thiên Chúa và hiểu giáo huấn của Người, nhưng ‘tạm hoãn’ thực thi giáo huấn Thiên Chúa để mưu cầu lợi ích cho bản thân và gia đình. Họ cho rằng họ sẽ ‘ăn năn hối cải’ trong tương lai. Họ quan tâm đến việc lãnh nhận Bí Tích Hòa Giải, Xức Dầu Bệnh Nhân và Của Ăn Đàng vào phút chót hơn là sống trung tín, vác thập giá mình mỗi ngày mà theo chân Đức Giê-su (Mc 8,34). Quả thực, cây nghiêng bên nào thì ngả bên đó: Ai trung tín thì được hưởng hoa trái dành cho người trung tín; ai bất tín thì phải lãnh lấy hậu quả thích đáng với sự bất tín của mình. Điều Thiên Chúa muốn là con người hãy luôn trung tín với Thiên Chúa, với nhau và với muôn vật muôn loài do Người sáng tạo.
Một trong những khủng hoảng điển hình của thế giới hôm nay là ‘khủng hoảng sự trung tín’: Khủng hoảng sự trung tín trong đời sống cá nhân và tập thể; khủng hoảng sự trung tín trong đời sống gia đình và xã hội; khủng hoảng sự trung tín trong đời sống văn hóa và tôn giáo. Câu hỏi mà mọi người cần phải quan tâm: ‘Đâu là nguyên nhân chính yếu của hình thức khủng hoảng này?’ Thưa, nguyên nhân chính yếu xuất phát từ việc loại trừ Thiên Chúa là Đấng trung tín ra khỏi cuộc sống con người. Quả thực, khi con người không nhìn nhận Thiên Chúa là Đấng trung tín tuyệt đối, hằng hữu và phổ quát, cũng là khi con người quy chiếu đời sống mình về các hình thức trung tín do mình đặt ra. Hậu quả là con người chạy theo những ‘ngẫu tượng trung tín’. Trong Cựu Ước, ông Giô-suê nói với dân Do-thái: “Bây giờ anh em hãy kính sợ Đức Chúa, hãy chân thành và trung tín phụng thờ Người. Anh em hãy vất bỏ các thần cha ông anh em đã phụng thờ bên kia Sông Cả và ở Ai-cập, và hãy phụng thờ Đức Chúa” (Gs 24,14). Đức Giê-su là hiện thân của Thiên Chúa trung tín tuyệt đối, hằng hữu và phổ quát. Nhờ Người, con cái của gia đình nhân loại được cứu chữa khỏi hậu quả của các hình thức bất tín và được chung hưởng bình an, hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu.
Trung tín là điều kiện tiên quyết giúp xã hội loài người phát triển lành mạnh. Qua mọi thời đại, trung tín luôn là đặc tính mà bất cứ cá nhân, gia đình hay tổ chức nào cũng phải coi trọng. Chẳng hạn, điều mà ông chủ muốn nơi những người làm việc cho mình là sự trung tín; điều mà cha mẹ muốn nơi con cái là sự trung tín; điều mà người chồng muốn nơi người vợ cũng như người vợ muốn nơi người chồng là sự trung tín; điều mà thầy cô giáo muốn nơi học trò và học trò muốn nơi thầy cô giáo là sự trung tín. Nói cách khác, trung tín phải là kim chỉ nam của đời sống con người trên bình diện cá nhân cũng như tập thể. Đặc biệt, trung tín là nền tảng cho việc diễn tả căn tính, đời sống và sứ mệnh của người Ki-tô hữu giữa dòng đời. Do đó, là Ki-tô hữu, mỗi người hãy trung tín với ơn gọi của mình. Ai trung tín thì được mọi người tín nhiệm, được giao phó trọng trách và được Thiên Chúa yêu mến.
Là con người, ai cũng thích người khác trung tín với mình. Không chỉ những người với lương tâm tốt lành muốn bạn bè trung tín với mình, những người với lương tâm sa đọa cũng muốn như vậy. Ai cũng lo lắng, sợ hãi, dè chừng khi giao phó hay ủy thác công việc cho những người bất tín. Nói cách khác, không ai muốn bạn bè của mình là những người bất tín. Theo tác giả sách Huấn Ca: “Người bạn trung thành là một nơi nương tựa vững chắc, ai gặp được người bạn như thế, là gặp được kho tàng. Không gì đổi lấy được một người bạn trung thành, và giá trị của người bạn ấy, không cân nào lường được. Người bạn trung thành là phương thuốc xoa dịu cuộc đời, những ai kính sợ Đức Chúa sẽ gặp được người như vậy” (Hc 6,14-16). Đức Giê-su là Bạn trung thành, Bạn trung tín của tất cả mọi người trong gia đình nhân loại (Ga 15,12-15). Do đó, những ai đến với Người sẽ không bao giờ thất vọng bởi vì Người nhân từ, yêu thương và trung tín đến cùng.
Con người không thể trở nên trung tín với sức riêng của mình. Dưới nhãn quan của thánh Phao-lô, trung tín như là hoa trái của Chúa Thánh Thần. Trong thư gửi tín hữu Ga-lát, ngài viết: “Hoa quả của Thần Khí là: Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5,22-23). Như vậy, con người cần luôn ở lại trong Thần Khí của Đức Giê-su và hành động theo sự hướng dẫn của Thần Khí như lời dạy của thánh Phao-lô đối với các tín hữu Ê-phê-xô: “Theo Thần Khí hướng dẫn, anh em hãy dùng mọi lời kinh và mọi tiếng van nài mà cầu nguyện luôn mãi” (Ep 6,18). Do đó, điều cần thiết nơi mỗi Người là đừng bao giờ cho mình đã đạt được sự trung tín sung mãn, không cần thiết phải biến đổi gì nữa. Chúng ta biết rằng sự trung tín của con người không phải là ‘sự trung tín một lần cho tất cả’. Cạm bẫy của ma quỷ, thế gian, xác thịt vẫn còn đó. Theo tác giả Thánh Vịnh 89, “đức thành tín hầu cận quanh Thiên Chúa” (Tv 89,9). Còn con người trong hành trình trần thế thì sao? Nếu không có sự trợ giúp và bảo vệ của Thiên Chúa thì ‘sự bất tín bao phủ quanh con người’.
Thiên Chúa ban sự trung tín cho chúng ta và mời gọi chúng ta luôn biết cộng tác với Người để không ngừng ‘làm mới sự trung tín’ của mình. Nghĩa là chúng ta cần hướng về Thiên Chúa để ngày càng trở nên trung tín hơn, đồng thời, diễn tả sự trung tín của mình trong các tương quan của đời sống với niềm hy vọng rằng những gì Thiên Chúa hứa ban cho những ai trung tín đều trở thành hiện thực. Theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Vì Thiên Chúa muốn chứng minh rõ hơn cho những người thừa hưởng lời hứa được biết về ý định bất di bất dịch của Người, nên Người đã dùng lời thề mà bảo đảm điều Người đã hứa… cả lời hứa lẫn lời thề đều bất di bất dịch, và khi thề hứa, Thiên Chúa không thể nói dối được. Do đó, chúng ta là những kẻ ẩn náu bên Thiên Chúa, chúng ta được mạnh mẽ khuyến khích nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6,17-18). Cũng theo tác giả thư gửi tín hữu Do-thái: “Chúng ta hãy tiếp tục tuyên xưng niềm hy vọng của chúng ta cách vững vàng, vì Đấng đã hứa là Đấng trung tín. Chúng ta hãy để ý đến nhau, làm sao cho người này thúc đẩy người kia sống yêu thương và làm những việc tốt” (Dt 10,23-24). Như vậy, nói đến trung tín là nói đến hy vọng được diễn tả bằng tình yêu thương nhau cũng như làm việc tốt theo mẫu gương Đức Giê-su là Đường Trung Tín giữa lòng nhân loại như thánh Phao-lô khuyên dạy các tín hữu Cô-rin-tô: “Anh em hãy bắt chước tôi, như tôi bắt chước Đức Ki-tô” (1 Cr 11,1).
Kinh nghiệm đời sống Ki-tô hữu cho chúng ta nhận thức rằng trung tín (faithfulness) và bất tín (unfaithfulness) luôn là chọn lựa của mỗi cá nhân giữa lòng xã hội. Cách cụ thể là mỗi người được tự do chọn lựa hay không chọn lựa Đường của Đức Giê-su là Đường Trung Tín cho đời sống mình. Trong bài giảng về thời cánh chung, Đức Giê-su dùng dụ ngôn người đầy tớ trung tín, Người nói: “Vậy thì ai là người đầy tớ trung tín và khôn ngoan mà ông chủ đã đặt lên coi sóc gia nhân, để cấp phát lương thực cho họ đúng giờ đúng lúc? Phúc cho đầy tớ ấy nếu chủ về mà thấy anh ta đang làm như vậy. Thầy bảo thật anh em, ông sẽ đặt anh ta lên coi sóc tất cả tài sản của mình” (Mt 24,45-47). Đức Giê-su luôn mời gọi mọi người trong gia đình nhân loại luôn là những đầy tớ trung tín, những đầy tớ kiên tâm lắng nghe, học hỏi, suy niệm và thực thi lời của Thiên Chúa. Là Con Thiên Chúa và là Thiên Chúa nhưng Đức Giê-su đã trút bỏ chính mình, mặc lấy thân phận tôi tớ trung tín để phục vụ Thiên Chúa và nhân loại. Người đã đi Đường Trung Tín cho đến tận cùng hầu mang lại ơn cứu độ vĩnh viễn cho mọi người. Như vậy, ơn cứu độ của con người hệ tại ở việc theo hay không theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su giữa dòng đời.
Cuộc sống của người Ki-tô hữu luôn đối diện với nghịch lý: Tận đáy lòng, không ai muốn mình là người bất tín đối với Thiên Chúa, với anh chị em mình và với muôn vật muôn loài trong thế giới thụ tạo nhưng thực tế cho thấy xu hướng bất tín luôn tiềm tàng nơi mỗi người. Ai cũng cảm thấy mình mọn hèn, yếu đuối, dễ bị tổn thương trong hành trình theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su. Như đề cập ở trên, trong Cựu Ước, dân Do-thái chịu nhiều thử thách và lắm phen bất tín với Thiên Chúa. Trong Tân Ước, các môn đệ Đức Giê-su dù được Người thương yêu dạy dỗ nhưng họ vẫn tỏ ra bất tín, nhất là khi phải đối diện với những nghịch cảnh. Chẳng hạn, trong cuộc thương khó của Đức Giê-su, thánh Phê-rô đã bất tín, phủ nhận tương quan mật thiết giữa ngài và Đức Giê-su, không chỉ một lần mà là ba lần (Mt 26,69-74). Tuy nhiên, thánh nhân đã ăn năn hối cải và được Đức Giê-su tha thứ. Chính Đức Giê-su phục sinh đã hiện ra để củng cố đức tin cho ngài cũng như các môn đệ. Từ đó, họ trở nên những nhân chứng thực thụ của Đức Giê-su và Tin Mừng của Người cho đến cùng. Đức Giê-su phục sinh đã thúc giục tác giả sách Khải Huyền viết thư cho Hội Thánh Xi-miếc-na rằng: “Đừng sợ các nỗi đau khổ ngươi sắp phải chịu… Hãy trung thành cho đến chết, và Ta sẽ ban cho ngươi triều thiên sự sống” (Kh 2,10). Hãy trung thành, hãy trung tín, hãy yêu thương đến cùng là mệnh lệnh của Đức Giê-su phục sinh cho mọi người.
Trong Cựu Ước, khi dân Do-thái trở về Đất Hứa Ca-na-an, dưới sự dẫn dắt của Mô-sê, họ đã không đi đường ngắn hơn mà lại đi đường dài hơn. Họ đã tin tưởng vào Thiên Chúa qua trung gian Mô-sê để vào sa mạc. Đây là hành trình lắm thử thách và nhiều gian truân nhưng họ đã vượt qua tất cả. Như dân Do-thái nhờ Mô-sê đã về được với Đất Hứa Ca-na-an, mọi người trong gia đình nhân loại nhờ Đức Giê-su, Đường Trung Tín, sẽ được về sum họp cùng Thiên Chúa. Đường Trung Tín của Đức Giê-su không phải là Đường ngắn nhất nhưng là Đường duy nhất cho phép con người đến với Thiên Chúa, đến với Đất Hứa vĩnh cửu là Quê Hương đích thực của mọi người (Pl 3,20). Do đó, dõi theo Đường Trung Tín của Đức Giê-su luôn là bảo chứng cho những ai được gọi là Ki-tô hữu, là môn đệ và tông đồ của Đức Giê-su giữa dòng đời.
Chúng ta có thể kết luận rằng theo mặc khải Ki-tô Giáo, trung tín vừa là thuộc tính của Thiên Chúa vừa là thuộc tính của con người. Hơn nữa, trung tín thuộc về ‘bản tính’ Thiên Chúa. Sự trung tín của Thiên Chúa được diễn tả cách cụ thể trong chương trình cứu độ nhân loại được Đức Giê-su thực hiện: Người trung tín trong việc trở nên người phàm; trung tín với Đức Ma-ri-a và thánh Giu-se trong gia đình Na-da-rét; trung tín trong việc lên Giê-ru-sa-lem để phụng thờ Thiên Chúa; trung tín trong việc thực thi truyền thống Do-thái; trung tín trong việc đón nhận Phép Rửa của Gio-an Tẩy Giả; trung tín trong việc vào sa mạc 40 đêm ngày và chịu ma quỷ cám dỗ; trung tín trong việc giảng dạy lời của Thiên Chúa; trung tín trong việc trừ quỷ, chữa bệnh, tha tội, hồi sinh kẻ chết, nhằm diễn tả quyền năng và tình yêu của Thiên Chúa; trung tín bước vào cuộc khổ nạn; trung tín khi các môn đệ bất tín trong cuộc khổ nạn; trung tín cho đến hơi thở cuối cùng trên thập giá; trung tín hiện diện với các môn đệ sau khi sống lại; trung tín ở lại với mọi người trong gia đình nhân loại cho đến tận thế, nhất là trong Bí Tích Thánh Thể. Nói cách khác, Đường của Người trong hành trình trần thế là Đường Trung Tín. Mọi người trong gia đình nhân loại được mời gọi đi Đường Trung Tín của Người, Đấng vẫn là một, hôm qua cũng như hôm nay và như vậy mãi tới muôn đời (Dt 13,8).
2022
Từ góc nhìn Kinh thánh: “đồng hành” hay “hiệp hành”?
TỪ GÓC NHÌN KINH THÁNH: “ĐỒNG HÀNH” HAY “HIỆP HÀNH”?
I-nha-xi-ô Hồ Thông
Từ chủ chốt của “Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI, 2021-2023” là nguyên ngữ tiếng Ý: “synodalità”. Nguyên ngữ này xuất phát từ từ nguyên Hy-lạp: “synodos”, theo chiết tự, được cấu tạo từ tiếp đầu ngữ: “syn” (“cùng với”) với ngữ căn: “odos” (“con đường”), nghĩa sát từ: “cùng chung đường” hay “đồng hành”. Vì thế, nguyên ngữ này mới về từ loại nhưng không mới về nội dung.
Theo cha Yves-Marie Blanchard, trong Tân Ước chúng ta không gặp thấy từ nguyên Hy lạp: “syn-odos”, nhưng danh từ: “syn-odia” và động từ: “syn-odeuô” được gặp thấy chỉ trong hai tác phẩm của thánh Lu-ca. Trong Lc 2, 44, danh từ: “synodia” chỉ đoàn người hành hương trở về sau khi mừng lễ Vượt Qua tại Giê-ru-sa-lem và trong Cv 9, 7 động từ “synodeuô” chỉ nhóm người cùng chung đường với thánh Phao-lô trên đường Đa-mát để bắt những người Ki-tô hữu. Tuy nhiên, cha nêu lên vấn đề: “Việc quy chiếu đến con đường băng qua ở đây thì minh nhiên: tuy nhiên phải chăng liên kết từ nguyên này cách có hệ thống với các từ “synode” và “synodalité” của ngày nay?”.[1]
Dù từ nguyên Hy-lạp: “synodos” không là từ ngữ Kinh Thánh, nhưng được Giáo Hội sử dụng trong thời gian dài lâu, không chuyển ngữ, nhưng chỉ phiên âm: La-tin: “synodus”, tiếng Anh: “synod” và tiếng Pháp: “synode”, trong khi tiếng Việt không phiên âm nhưng chuyển ngữ theo nhiều cách khác nhau, tùy theo ngữ cảnh: “Đồng Hành”, “Công Đồng”, “Công Nghị”, “Thượng Hội Đồng”…
Cũng vậy, nguyên ngữ tiếng Ý: “sinodalità” mà tiếng Anh và tiếng Pháp không chuyển ngữ, nhưng chỉ phiên âm: “synodalité” và “synodality”, trong khi tiếng Việt không phiên âm, nhưng chuyển ngữ: “Hiệp Hành”. Từ đó, thuật ngữ hiệp hành được dùng cách rộng rải trong các bài viết và bài giảng mà không cho người đọc biết tại sao nguyên ngữ tiếng Ý: “synodalità” được chuyển ngữ sang tiếng Việt là “hiệp hành” và hiệp hành có nghĩa gì?Dù từ nguyên Hy-lạp: “synodos” và từ phát xuất tiếng Ý: “synodalità” không là thuật ngữ Kinh Thánh, nhưng khái niệm Thiên Chúa đồng hành với dân Ngài chạy xuyên suốt từ Cựu Ước sang Tân Ước. Trong bài viết này, tôi xin được tìm hiểu xem trong hai khái niệm: “đồng hành” và “hiệp hành”, khái niệm nào diễn tả chính xác hơn mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài trong Kinh Thánh. Để thẩm định của mình được chính xác, tôi sẽ tìm hiểu “sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài” và “sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc hành trình về Đất Hứa”.
1-SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA Ở GIỮA DÂN NGÀI:
Để có thể hiểu cách thức Thiên Chúa hiện diện ở giữa dân Ngài, tôi xin chọn phần đầu của sách Xuất Hành từ các chương 1, 1-15, 21 được gọi là “Cuộc Xuất Hành Ra Khỏi Ai-cập”. Phần thứ nhất này bắt đầu với chương 1 và chương 2 tường thuật những cảnh đời khốn khổ của dân Ít-ra-en dưới những biện pháp hà khắc của Pha-ra-ô; trong cảnh đời khốn khổ đó, tiếng kêu than của con cái Ít-ra-en thấu đến trời khiến Thiên Chúa quyết định can thiệp.
Chương 3 và chương 4 thuật lại việc Thiên Chúa vạch ra kế hoạch giải thoát dân Ít-ra-en khi kêu gọi ông Mô-sê làm vị lãnh đạo của dân Ngài; sự kiện này khai mào một loạt những hành động của Thiên Chúa với mục đích là giải phóng dân Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập (ch. 5-14) và kết thúc với bài thánh thi ca ngợi những kỳ công của Thiên Chúa (15, 1-21).
A-Về phía Thiên Chúa:
Trong cuộc gặp gỡ của Thiên Chúa với ông Mô-sê, Thiên Chúa tự giới thiệu mình: “Ta là Thiên Chúa của tổ tiên ngươi, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp” (3, 6). Lời giới thiệu này rất quan trọng vì cho thấy Thiên Chúa không là một vị thần xa lạ, nhưng là vị thần mà tổ tiên của ông Mô-sê đã thân quen. Như vậy, ông Mô-sê không là một nhà sáng lập một tôn giáo mới, nhưng nối tiếp truyền thống tôn giáo của các tổ phụ. Điều này cho thấy Thiên Chúa là vị thần luôn trung thành với lời giao kết ước của Ngài và xác nhận Ít-ra-en được Thiên Chúa tuyển chọn là dân Thiên Chúa.
Tiếp đó, Thiên Chúa thổ lộ với ông Mô-sê về kế hoạch giải phóng của Ngài: “Ta đã thấy rõ cảnh khổ cực của dân Ta bên Ai-cập, Ta đã nghe tiếng chúng kêu than vì bọn cai hành hạ. Phải, Ta đã biết cảnh nỗi khổ đau của dân chúng. Ta xuống giải thoát chúng khỏi tay người Ai-cập, và đưa chúng từ đất ấy lên miền đất tốt tươi, rộng lớn, miền đất trần trề sữa và mật…” (Xh 3, 7-8). Lời thổ lộ này cho thấy chân tính của Thiên Chúa dân Ít-ra-en, Ngài vừa siêu việt, nhưng lại vừa gần gũi thân tình với dân Ngài: Ngài đã “thấy”, đã “nghe” và đã “biết” các nỗi khổ của dân Ngài, vì thế Ngài ra tay hành động bằng cách “giải thoát” chúng khỏi tay người Ai-cập và “đưa” chúng vào miền đất tốt tươi. Vì thế, Ngài ủy thác cho ông Mô-sê sứ mạng: “Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến gặp Pha-ra-ô và ngươi hãy đưa dân Ta là con cái Ít-ra-en ra khỏi Ai-cập” (3, 10).
Khi ông Mô-sê tìm cách thoái thác sứ mạng của mình, Thiên Chúa bảo đảm với ông là Ngài sẽ ở với ông, đồng thời Ngài cũng cho ông một dấu chỉ là hẹn ngày tái ngộ với ông và với dân Ít-ra-en ở chính nơi núi thánh này (3, 12). Điều này muốn nói rằng sứ mạng của ông dù khó khăn đến mấy đi nữa rồi sẽ thành công, vì có Chúa ở với ông.
Ông Mô-sê chấp nhận sứ mạng, nhưng để cho sứ mạng của mình được danh chính ngôn thuận trước dân Ít-ra-en, ông đánh bạo hỏi tên Thiên Chúa: “Vậy nếu họ hỏi con: Tên Đấng là gì? Thì con sẽ nói với họ làm sao?”. Đây là một lời xin thật táo bạo, vì đối với người Do thái, tên một người chính là người ấy. Lúc đó, Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê được diễn tả bằng động từ “là” ở dạng thức chưa hoàn thành, được dịch sát từ theo cú pháp Híp-ri: “Ta là Đấng Ta sẽ là” (3, 14a).
Trong cuộc nói chuyện trực tiếp với ông Mô-sê, Thiên Chúa xưng danh của Ngài ở ngôi thứ nhất: “Ta sẽ là” (3, 14b) và Ngài bảo ông Mô-sê nói lại cho dân Ít-ra-en biết danh Ngài ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là” (3, 15). Danh Thiên Chúa ở ngôi thứ ba đóng chức năng chủ từ của động từ “sai đi” của câu 14b và câu 15. Như vậy, danh của Ngài được Thiên Chúa mặc khải trực tiếp cho ông Mô-sê ở ngôi thứ nhất: “Ta sẽ là”, còn ông Mô-sê nói lại với dân chúng ở ngôi thứ ba: “Đấng sẽ là”.[2]
Người Do thái tôn kính danh Thiên Chúa đến mức hễ khi nào gặp danh cực thánh được ký hiệu bằng bốn phụ âm thánh: YHWH, họ không dám phát âm, nhưng thay vào đó bằng một tước hiệu cao trọng khác: “A-đô-nai”, nghĩa là “Đức Chúa của tôi” mà Bản Hy-ngữ dịch là “Kurios” và bản La-tin dịch là “Dominus”.[3]
Trong lịch sử giải thích, Danh Thiên Chúa được hiểu theo nhiều cách khác nhau. Chúng ta có thể ghi nhận ba cách hiểu cơ bản sau đây.
a-Câu trả lời có chủ ý thoái thác:
Danh Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê bí ẩn đủ để người ta có thể kết luận rằng Thiên Chúa không thật sự muốn trao ban Danh của Ngài, vì theo não trạng sê-mít, biết tên của một vị thần linh, chính là có quyền làm chủ vị thần ấy, có quyền điều khiển sai khiến vị thần ấy, như khi gọi tên của vị thần linh trong các câu thần chú, thì câu thần chú mới hiệu nghiệm.
Vì thế, trong câu chuyện của chúng ta, Thiên Chúa không thể trao ban Danh Ngài vào tay con người để con người tự ý sai khiến Ngài. Hơn nữa, Ngài là một Mầu Nhiệm vô phương dò thấu, không ai có thể hiểu được bản chất của Thiên Chúa. Cách giải thích này được ủng hộ bởi các chuyện tích Kinh Thánh, như chuyện tổ phụ Gia-cóp nài xin Thiên Chúa: “Xin cho tôi biết tên Ngài”, nhưng Thiên Chúa từ chối: “Sao ngươi lại hỏi tên Ta?” (St 32, 30); hay như chuyện ông Ma-nô-ác nài xin cho biết tên vị sứ giả của Thiên Chúa, thì được trả lời: “Sao ông lại hỏi tên tôi? Đó là một điều bí nhiệm” (Tl 13, 17-18).
Vì thế, khi Thiên Chúa nói: “Ta là Đấng Ta là”, có nghĩa, “Thiên Chúa là Thiên Chúa” như bản dịch của cha Nguyễn Thế Thuấn: “Ta có sao Ta có vậy”, nghĩa là Thiên Chúa là một mầu nhiệm bất khả chuyển thông: “Danh khả Danh phi thường Danh”. Qua câu trả lời từ chối đó, Thiên Chúa hàm ý rằng: “chuyện ấy có liên quan gì đến ngươi” hay “đó không phải là điều ngươi quan tâm”.
Nhưng cách hiểu này gặp phải một trở ngại. Theo ngữ cảnh của cuộc đối thoại này, rõ ràng Thiên Chúa chấp nhận mặc khải Danh Ngài. Hơn nữa, Thiên Chúa còn căn dặn: “Đó là danh Ta cho đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đời nọ đến đời kia” (3, 15).
b-Câu trả lời về phương diện Hữu Thể
Căn cứ trên động từ “là” được dùng để diễn tả Danh Thiên Chúa, Bản Bảy Mươi dịch danh Thiên Chúa: “Egô eimi” được thánh Tô-ma A-qui-nô hiểu theo nghĩa Hữu Thể của triết học Hy-lạp “Ta là Hữu Thể”. Từ đó, Danh Thiên Chúa được chuyển ngữ theo nhiều cách khác nhau, nhưng chung quy theo cùng cách hiểu của thánh Tô-ma, như “Ta là Đấng Hiện Hữu” hay “Ta là Đấng Tự Hữu” hoặc “Ta là Đấng Hằng Hữu”…
Việc hiểu Danh Thiên Chúa theo Hữu Thể của triết học Hy lạp này đem đến một sự hiểu biết phong phú về Danh Thiên Chúa. Tuy nhiên, các nhà chú giải hiện đại bác bỏ cách hiểu này vì hai lý do: trước hết, động từ “là” ở dạng thức “chưa hoàn thành”, nghĩa là, một trạng thái đang tiếp diễn, chưa chấm dứt, nên không diễn tả một trạng thái hoàn thành được; thứ nữa, niềm tin của dân Ít-ra-en vào Thiên Chúa tự bản chất thì rất thực tiển, tích cực và năng động. Vì thế, quan niệm siêu hình về một Hữu Thể tuyệt đối, thường hằng, bất biến, tự hữu thì hoàn toàn xa lạ với niềm tin cụ thể và sống động của dân Ít-ra-en.
c-Câu trả lời là một Mặc Khải tiệm tiến:
Theo nhận định của A. B. Davidson, việc Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài trong một nền văn hóa theo đó tên đồng nghĩa với người mang tên ấy, vì thế “Mặc khải mà Thiên Chúa ban cho về chính mình là mặc khải về chính Ngài như Ngài thật sự là như vậy, dù Ngài không thể mặc khải chính mình cho con người một cách tròn đầy được”.[4] Vì thế, Davidson mời gọi chúng ta chú ý đến hai đặc tính của động từ “là” trong ngôn ngữ Híp-ri liên quan đến danh Thiên Chúa được ban cho trong câu chuyện bụi gai cháy đỏ này.
Trước hết, động từ này không có nghĩa “là” về phương diện hữu thể để diễn tả “sự hiện hữu”, nhưng về phương diện hiện tượng để diễn tả “sự hiện diện”. Thứ nữa, dạng thức chưa hoàn thành của động từ này không có nghĩa ở hiện tại nhưng ở tương lai. Từ nhận xét này, ông giải thích ý nghĩa của Danh Thiên Chúa như sau: “Xem ra rõ ràng trong quan điểm của người viết, ‘Ta sẽ là’ và ‘Đấng sẽ là’ thì như nhau: ‘Ta sẽ là’ khi Thiên Chúa nói về chính mình, và ‘Đấng sẽ là’ khi Thiên Chúa được những người khác nói về Ngài. Điều Ngài sẽ là để lại không được diễn tả – Ngài sẽ hiện diện với dân Ngài như Đấng Trợ Giúp, Đấng Quyền Năng và Đấng Giải Thoát” (God in the OT, 199).
Như vậy, khi Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê, Ngài nói về chính mình: “Ta sẽ hiện diện với ngươi”. Còn đối với dân Ít-ra-en được ông Mô-sê truyền đạt cho biết danh mặc khải này, Thiên Chúa hứa “Ngài sẽ hiện diện với họ”. Trong cả hai trường hợp, động từ “là” được dùng ở nơi Danh Thiên Chúa không nhấn mạnh trên “sự hiện hữu” cho bằng “sự hiện diện” của Thiên Chúa với ông Mô-sê và với dân Ít-ra-en. Lúc đó, “Ta là Đấng Ta sẽ là” là một lời khẳng định về sự hiện diện của Thiên Chúa: “Ta thật sự là Đấng hiện diện”, nghĩa là “Ta thật sự là Đấng ở cùng”.
Đồng thời, Danh Thiên Chúa “Ta là Đấng Ta sẽ là” được hiểu như “điều chưa xác định”. Điều chưa xác định này chứa đựng những khả thể vô hạn tùy thuộc hoàn cảnh. Danh Thiên Chúa được mặc khải trong câu chuyện này đã không được bất kỳ thế hệ nào của Ít-ra-en hiểu trọn vẹn, vì thế Thiên Chúa vẫn cứ tiếp tục bày tỏ tất cả những gì Ngài sẽ là đối với dân Ngài: “Thiên Chúa sẽ là Đấng mà Ngài sẽ chứng tỏ Ngài là ai cho thế hệ này đến thế hệ khác; mỗi một thời đại sẽ khám phá những phẩm tính mới về Sự Hiện Diện của Ngài”.[5] Chúng ta gặp thấy Danh Thiên Chúa như một sự hiện diện ở nơi lời giải thích mang tính hiện sinh của Is 52, 6: “Vì vậy, trong ngày ấy, dân Ta sẽ nhận biết danh Ta, nhận biết rằng: chính Ta là Đấng đã phán: ‘Này Ta đây!’”.
Trong bối cảnh trực tiếp của việc mặc khải danh Thiên Chúa, Thiên Chúa tự giới thiệu cho ông Mô-sê Ngài là Đấng ở với ông để cứu giúp, bảo vệ che chở dân Ít-ra-en (3, 10tt; 4, 12tt). Vì hoàn cảnh bị áp bức của dân Ít-ra-en, nên hành động của Thiên Chúa là giải thoát (3, 8). Sách Xuất Hành cho thấy Đức Chúa là vị Thiên Chúa làm cho mình liên lụy vào những biến cố có tác động đến dân Ít-ra-en. Tôn giáo phụng thờ Đức Chúa bắt nguồn từ tình nghĩa keo sơn bền chặt với tiến trình giải phóng chính trị-xã hội của một nhóm dân Híp-ri bị dân Ai-cập bốc lột, trấn áp gạt ra ngoài lề xã hội.
Trong cảnh đời cơ cực nầy, hành động của Đức Chúa có mối liên hệ trực tiếp với hoàn cảnh bi thương của nhóm dân nầy, hành động của Ngài mặc lấy một chiều kích chính trị-xã hội chứ không thuần túy tín ngưỡng. Hành vi giải phóng đầu tiên của Đức Chúa, qua đó Ngài tỏ mình ra như Thiên Chúa cứu độ, mang tính chất chính trị và xã hội. Việc Thiên Chúa can thiệp để cứu giúp dân Ít-ra-en dẫn Ngài đến mức đối đầu với Pha-ra-ô được xem như nhân vật phản diện đối kháng với Thiên Chúa. Theo J. A. Soggin, “Điều mà bản văn tuyên xưng… đó là cuộc can thiệp của Thiên Chúa bên cạnh những kẻ hèn mọn, những kẻ bị áp bức, và sự chiến thắng của những kẻ thấp cổ bé miệng này trên quyền tối thượng của thời đại và trên vị tối cao mà thời đại đó tôn phong như vị thần linh”.
Trong Tin Mừng Gioan, khi nào Chúa Giê-su tự nhận mình: “Egô eimi”, Ngài ngầm quy chiếu đến Danh Thiên Chúa được mặc khải trước bụi gai cháy đỏ này: “Nếu các ông không tin là Tôi Là (Egô eimi), các ông sẽ mang tội mình mà chết” (8, 24) hay: “Khi các ông giương cao Con Người lên, bấy giờ các ông sẽ biết Tôi Là (Egô eimi)” (8, 28) hoặc: “Thật, tôi bảo thật các ông: trước khi có ông Áp-ra-ham, thì tôi, Tôi Là (Egô eimi)” (Ga 8, 58).[6] Trong Tin Mừng Mát-thêu, ngay từ đầu sách Tin Mừng, Hài Nhi Giê-su sẽ được gọi là “Em-ma-nu-en”, nghĩa là, “Thiên Chúa ở cùng chúng ta” (Mt 1, 23) và cuối Tin Mừng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
B-Về phía dân Ngài:
Trong bản văn này, dân Ít-ra-en bảy tỏ thái độ của mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa qua hai giai đoạn: Trong giai đoạn thứ nhất khi nghe ông Mô-sê trình bày kế hoạch giải phóng của Thiên Chúa, dân Ít-ra-en đáp trả bằng một thái độ tin tưởng tuyệt đối vào kế hoạch cứu độ của Ngài: “Và họ đã tin. Họ đã hiểu là Đức Chúa đến viếng thăm con cái Ít-ra-en và nhìn thấy cảnh khổ cực của họ. Và họ đã phủ phục mà thờ lạy” (4, 31).
Trong giai đoạn thứ hai, khi chứng kiến những hành động đầy quyền năng của Thiên Chúa trước hết ở nơi chín tai ương giáng xuống Pha-ra-ô và dân Ai-cập qua trung gian của ông Mô-sê, và sau cùng ở nơi hai kỳ công Thiên Chúa đích thân thực hiện không qua trung gian của ông Mô-sê: giết các con trai đầu lòng của Pha-ra-ô cũng như của dân Ai-cập và cứu thoát dân Ít-ra-en khỏi Biển Đỏ trong khi vùi thây toàn thể chiến bình hùng mạnh của Pha-ra-ô trong Biển Đỏ. Giai đoạn thứ hai kết thúc với niểm tin tưởng của dân Ít-ra-en vào những hành động của Thiên Chúa: “Ít-ra-en thấy Đức Chúa đã ra tay hùng mạnh đánh quân Ai-cập. Toàn dân kính sợ Đức Chúa, tin vào Đức Chúa, tin vào ông Mô-sê, tôi trung của Người” (14, 31).
C-Kết luận về sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài:
Trong khi người Hy lạp và rồi người Tây Phương ưa thích suy luận siêu hình về Thiên Chúa bao nhiêu, thì người Do thái trầm tư nghĩ ngợi về những vấn đề cụ thể bấy nhiêu trong mối liên hệ của con người với Thiên Chúa, của con người với con người, của con người với những sự vật. Nếu người Hy-lạp hiểu biết Thiên Chúa bằng những con đường tư duy, thì người Do thái hiểu biết Thiên Chúa từ con đường kinh nghiệm, luôn luôn liên hệ đến những vấn đề “cuộc sống” và đòi hỏi những cam kết cụ thể. Do đó, nhiều nhà chú giải hiểu Danh Thiên Chúa: “Ta là Đấng Ta sẽ là” này không diễn tả sự “hiện hữu” về phương diện hữu thể cho bằng sự “hiện diện” về phương diện hiện tượng,[7] một sự hiện diện vừa hiển lộ nhưng đồng thời vừa phủ che, vừa rất gần gũi thân quen nhưng đồng thời hoàn toàn siêu việt.
Hai chiều kích này để lộ cho thấy một chuyển động tích cực và năng động không chỉ về phía Thiên Chúa, nhưng cả về phía dân Ngài. Về phần mình, Thiên Chúa sẽ vẫn tiếp tục chứng tỏ Ngài thật sự hiện diện ở giữa dân Ngài bằng cách tỏ mình ra qua hành động này nối tiếp hành động khác để dân Ngài ngày càng nhận biết Thiên Chúa của mình là ai. Còn về phía dân Ngài, “kinh nghiệm từng trải của dân Ít-ra-en với Thiên Chúa trong lịch sử của mình sẽ khẳng định ý nghĩa của Danh Thiên Chúa này. Dân Ít-ra-en hiểu lịch sử của mình từ Danh Thiên Chúa này, cũng như hiểu Danh Thiên Chúa từ lịch sử của mình”.[8]
2-SỰ HIỆN DIỆN CỦA THIÊN CHÚA TRONG CUỘC HÀNH TRÌNH VỀ ĐẤT HỨA:
Trong Kinh Thánh không nơi nào cho thấy rõ nhất mối quan hệ của Thiên Chúa đối với dân Ngài và mối quan hệ của dân Ngài đối với Thiên Chúa của mình cho bằng cuộc hành trình về Đất Hứa. Cuộc hành trình đầy gian khổ của dân Chúa về Đất Hứa được mô tả thành hai thời kỳ (Xh 15, 22-18, 27 và Ds 10, 11-36: 12) được phân định bởi cuộc gặp gỡ của dân với Thiên Chúa trên núi Xi-nai (Xh 19, 1-Ds 10, 10).
A-Về phía Thiên Chúa:
Trong cả hai thời kỳ trước và sau cuộc gặp gỡ của dân với Thiên Chúa trên núi Xi-nai, Thiên Chúa hiện diện với dân Ngài để đáp ứng những vấn đề mà họ gặp phải trong hoang địa: những nhu cẩu tự nhiên (vấn đề đói và khát), những khó khăn giữa cộng đoàn Ít-ra-en (vấn đề quyền bính) và những cuộc tấn công của nhóm dân hung dữ và hiếu chiếu trong sa mạc (vấn đề bảo vệ và che chở). Sự hiện diện của Thiên Chúa trong hai thời kỳ được biểu lộ bằng hai cách khác nhau.
Trong thời kỳ thứ nhất, Thiên Chúa hiện diện với dân qua đám mây và cột lửa. Thiên Chúa Ít-ra-en là Đấng siêu việt không nhận bất kỳ hình tượng vật chất nào, nhưng chỉ chấp nhận tỏ mình ra qua đám mây hay cột lửa. Đám mây cùng với cột lửa biểu thị sự hiện diện vừa siêu việt vừa gần gũi của Thiên Chúa, Đấng dẫn đường chỉ lối cho dân đi. Ban ngày Thiên Chúa hiện diện với dân qua đám mây để phủ bóng mát trên dân, còn ban đêm qua cột lửa để soi sáng và sưởi ấm cho dân trong cuộc hành trình xuyên qua sa mạc khắc nghiệt. Con cái Ít-ra-en xác tín rằng qua hai hình ảnh đám mây và cột lửa, (8, 16-19; x. 3, 12-13), sự hiện diện của Thiên Chúa vừa là một sự hiện diện hữu hình, có thể thấy được, một sự hiện diện gần gũi thân tình để bảo vệ che chở và hướng dẫn họ; nhưng mặt khác, sự hiện diện của Ngài thì siêu việt, khôn dò, bất khả đạt. Như vậy, đám mây và cột lửa là những dấu chỉ hữu hình biểu lộ những thực tại siêu nhiên vô hình.
Trong thời kỳ thứ hai, Thiên Chúa không chỉ hiện diện với dân Ngài qua đám mây và cột lửa, nhưng nhất là nơi Lều Hội Ngộ trong đó đặt Hòm Bia Chứng Ước. Như tên gọi của chúng, Lều Hội Ngộ là nơi Thiên Chúa gặp gỡ dân Ngài và Hòm Bia Chứng Ước nhắc cho dân Ngài biết Thiên Chúa đã giao ước với dân Ngài tại núi Xi-nai, từ nay Thiên Chúa là Thiên Chúa của họ và họ là dân của Ngài.
Như vậy, sự hiện diện của Thiên Chúa nơi Lều Hội Ngộ cho thấy mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Ngài càng thân thiết gần gũi hơn. Quả thật, trong cuộc hành trình về Đất Hứa, khi nào dân dỡ lều ra đi thì Thiên Chúa cũng dỡ Lều của Ngài mà ra đi cùng với dân và nơi nào dân dựng lều tạm nghỉ thì Thiên Chúa cũng dựng lều ở giữa dân Ngài. Đó là lý do tại sao sách Xuất Hành dành một không gian rộng lớn cho việc xây dựng nơi thánh (Xh 24, 12-40, 38) và trình bày cách công phu sự hiện của Thiên Chúa trong Lều Hội Ngộ có liên hệ đến mối quan hệ của Thiên Chúa với dân Ngài ba giai đoạn:
-Giai đoạn 1 (ch. 25-31) trình bày những huấn thị của Đức Chúa cho ông Mô-sê về việc xây dựng nơi thánh, nơi Thiên Chúa đích thân ngự giữa dân Ngài (25, 8). Mối liên hệ cấu trúc giữa hai đề tài: đề tài về những chỉ thị xây dựng nơi thánh (ch. 25-31) được đóng khung bởi đề tài về những bia đá ghi khắc những lệnh truyền của Chúa (24, 12 và 31, 18), để cho dân hiểu rằng sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài tùy thuộc vào việc dân có trung thành tuân giữ những lệnh truyền của Ngài hay không.
-Giai đoạn 2 (ch. 32-34) trình bày việc ông Mô-sê ở trên núi bốn mươi ngày đêm tạo dịp cho dân Ít-ra-en bội giáo. Quả thật, trong khi ông Mô-sê đón nhận những chỉ thị để xây dựng nơi thánh, thì dân Ít-ra-en lại đúc cho mình một con bê bằng vàng (ch. 32) và phụng thờ nó như là Thiên Chúa cứu độ của mình (32, 8), như vậy vi phạm giới răn thứ nhất (x. Xh 20, 3-5). Con bê vàng, một loại tội “nghịch-nơi thánh”[9] trong mạch văn hiện nay, làm tổn hại đến sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ít-ra-en (x. 33, 3-5). Ông Mô-sê phá hủy con bê vàng và cũng đập vỡ hai bia đá. Nhưng sau đó, ông chuyển cầu cùng Thiên Chúa cho dân, nhờ đó Thiên Chúa nguôi cơn giận và hứa Ngài sẽ tiếp tục hiện diện giữa dân Ngài (33, 12-17). Đoạn, Đức Chúa tái lập giao ước với dân Ít-ra-en, hai bia đá được đẽo lại và trên đó những điều khoản của giao ước được ghi lại (ch. 34).
-Giai đoạn 3 (ch. 35-40) kể cho chúng ta rằng sau khi mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài được phục hồi, dân chúng khởi công xây dựng nơi thánh theo những đề án Thiên Chúa đã chỉ thị cho ông Mô-sê trước đây (x. ch. 25-31). Giai đoạn thứ ba đạt đến tột đỉnh với việc khánh thành nơi thánh (40, 1-33) khi đám mây và vinh quang của Đức Chúa xuất hiện (40, 34-38), đây là hai dấu chỉ cho thấy Thiên Chúa hiện diện ở giữa dân Ngài. Như vậy, hai hình ảnh về đám mây và về vinh quang của Thiên Chúa ở đầu (24, 15-18) và ở cuối (40, 34-38) công trình xây dựng nơi thánh nầy hình thành nên thể đóng khung cho toàn bộ bản văn này.
Tin Mừng Gioan mô tả cuộc nhập thể của Ngôi Lời Thiên Chúa bằng hình ảnh của sách Dân Số: “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và dựng lều giữa chúng ta” (1, 14). Trong Tin Mừng Lu-ca, sứ thần Gáp-ri-en loan báo cuộc nhập thể của Đức Giê-su trong cung lòng của Đức Trinh Nữ Ma-ri-a cũng bằng hình ảnh của sách Xuất Hành: “Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà, và quyền năng Đấng Tối Cao sẽ rợp bóng trên bà, vì thế, Đấng Thánh sắp sinh ra sẽ được gọi là Con Thiên Chúa” (Lc 1, 35).
B-Về phía dân Ngài:
Những bản văn mô tả cuộc hành trình trong sa mạc trước khi đến núi Xi-nai (Xh 15, 21-18, 27), trong đó những kêu trách của dân không bị Thiên Chúa trừng phạt; trái lại, những văn bản về cuộc hành trình trong sa mạc sau khi đã đến núi Xi-nai (Ds 11, 11-21, 35), trong đó những kêu trách kêu trách của dân lại bị Thiên Chúa trừng phạt dẫn đến việc dân hối cải và được tha thứ. Những vấn đề trước và sau khi đến núi Xi-nai xem ra cũng như nhau, nhưng thực chất thì khác vì hoàn cảnh đã thay đổi giữa chúng với nhau. Quả thật, ở núi Xi-nai, dân đã chứng kiến cuộc Thẩn Hiển trong cảnh tượng kinh thiên động địa, dân đã được Thiên Chúa ban Thập Giới như bản hiến pháp và đã được Thiên Chúa ký kết giao ước với họ thành dân riêng của Ngài.
Đối với sách Dân Số, thời gian hành trình trong sa mạc là thời gian Thiên Chúa thanh luyện dân Ngài qua một loạt những thử thách. Những thử thách tự chúng nói lên rằng hễ khi nào dân chúng bước đi theo thánh ý Đức Chúa, thì những gì họ thực hiện đều thành công; trái lại, hễ khi nào dân chúng nghịch lại ý muốn của Ngài, thì những nổ lực của họ rốt cuộc đều thất bại. Hình phạt theo sau những phản loạn này mang ý nghĩa thanh luyện họ và thúc đẩy họ hối cải.
Những nét đặc trưng của sách này: những thử thách và bất trung của dân, sẽ trở đi trở lại trong lịch sử Ít-ra-en, nhưng trên tất cả là Thiên Chúa đầy lòng xót thương, Ngài luôn kêu gọi con người phải nên một lòng một dạ với Ngài, dù con người có yếu đuối và do dự như thế nào thì kế hoạch của Ngài đạt được kết quả. Do bởi tính chất mẫu mực của chúng, những chuyện tích nầy không chỉ hữu ích cho thế hệ xuất Ai-cập, nhưng cũng cho những thế hệ nối tiếp sau này. Từ đó, bài học được rút ra rất rõ ràng: cách hành xử của các tín hữu phải phù hợp với thánh ý Thiên Chúa được biểu lộ ở nơi Luật của Ngài. Theo viễn cảnh nầy, những bản văn thuật chuyện và những bản văn luật pháp luân phiên đặt bên cạnh nhau và bổ sung cho nhau.[10]
Đối với các ngôn sứ, thời kỳ Ít-ra-en trải qua trong sa mạc là thời hoàng kim trong mối quan hệ với Thiên Chúa. Các ngôn sứ sẽ nhắc lại những năm tháng trong hoang địa này như thuở ban đầu duyên thắm tình nồng giữa Thiên Chúa với dân. Phản ứng lại tội bất trung thờ ngẫu tượng của Ít-ra-en, ngôn sứ Hô-sê loan báo Thiên Chúa sẽ đưa dân vào sa mạc một lần nữa, tại đây Ngài sẽ thổ lộ tâm can của Ngài với dân, để dân sống lại tình yêu nồng ấm mà họ đã có với Ngài trong thời thanh xuân (Hs 2, 16; x. Gr 2, 2-3). Ngôn sứ I-sai-a xem cuộc hành trình trong hoang địa là biểu tượng cuộc hồi hương của những người Do thái lưu đày tại Ba-by-lon, được diễn tả bằng hình ảnh sa mạc biến thành vườn cây ăn trái (x. Is 32, 15; 35, 1). Cũng thế, để khơi lại lòng nhiệt thành đối với sứ mạng Thiên Chúa gởi gắm mình, ngôn sứ Ê-li-a lên đường vào sa mạc, đến núi thánh của Thiên Chúa (1V 19, 1-18).
Các Thánh Vịnh cũng ca ngợi những kỳ công mà Thiên Chúa thực hiện trong sa mạc – đặc biệt vì lòng thương xót, Thiên Chúa không hủy diệt dân dù dân phản loạn (Tv 78, 15-24; 106, 7-11). Khi nhắc lại các biến cố trong sa mạc, các Thánh Vịnh kêu gọi dân ngày nay trở về với Thiên Chúa (x. Tv 95, 7-11).
C-Kết Luận về việc Thiên Chúa hiện diện trong cuộc hành trình về Đất Hứa:
Đối với dân Ít-ra-en, những chuyện tích của sách Dân Số không chỉ là tưởng nhớ những gì đã qua, nhưng còn là khuôn mẫu cho toàn thể lịch sử của họ, thì đối với Giáo Hội khuôn mẫu ấy là Chúa Giê-su Ki-tô, nơi Ngài các lời của sách này được thành tựu. Ngài trở nên con đường của chúng ta và vị dẫn đường của chúng ta, chỉ cho chúng ta phải tiến bước thế nào trong cuộc sống, làm thế nào đương đầu với những thử thách đầy cam go như dân Ít-ra-en đã gặp phải trong sa mạc.
Chính Giáo Hội cũng đi con đường của mình xuyên qua lịch sử giữa trăm chiều thử thách, nhưng phó thác vào sự bảo vệ che chở của Thiên Chúa, cũng giống như dân Ít-ra-en xưa đã làm trong sa mạc: “Tiến bước qua các thử thách và bách hại, Giáo Hội được kiện cường nhờ sức mạnh của ơn Chúa đã được hứa ban để, cho dù với xác thịt yếu hèn, Giáo Hội vẫn không đánh mất sự trung tín hoàn toàn, nhưng vẫn luôn là Hiền Thê xứng đáng của Chúa, và không ngừng canh tân chính mình dưới tác động của Thánh Thần cho đến khi qua Thập Giá đạt đến ánh sáng không hề tắt” (Vatican II, LG, 9).
KẾT LUẬN
Sau khi đã tìm hiểu những chứng liệu Kinh Thánh về “sự hiện diện của Thiên Chúa ở giữa dân Ngài” và “sự hiện diện của Thiên Chúa trong cuộc hành trình về Đất Hứa”, chúng ta có thể khẳng định rằng khái niệm: “Đồng Hành” mà chúng ta quen dùng cho đến nay chưa đủ để diễn tả mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài.
Về phía Thiên Chúa, Ngài hiện diện giữa dân Ngài không như có mặt ở đó, nhưng theo nghĩa năng động, tích cực: Ngài hiện diện với dân Ngài để đáp trả lòng mong ước của dân là được cứu thoát, Ngài hiện diện với dân Ngài để đáp ứng những nhu cầu mà dân gặp phải trong cuộc hành trình về Đất Hứa. Như vậy, Thiên Chúa không chỉ chung bước chung đường với dân Ngài, nhưng còn chung lòng chung dạ với dân Ngài. Về phía dân Ngài, họ phải đặt trọn niềm tin tưởng vào kế hoạch của Ngài và vào những hành động cứu độ của Ngài. Như vậy, dân Ngài không đơn giản chung bước chung đường với Thiên Chúa, nhưng phải nên một lòng một dạ với Thiên Chúa, Đấng giải thoát, bảo vệ che chở và cứu độ dân Ngài. Vì thế, mối quan hệ giữa Thiên Chúa và dân Ngài không đơn thuần “đồng hành”, nghĩa là chung bước chung đường, nhưng phải “hiệp hành”, nghĩa là phải nên một lòng một dạ với nhau và với Thiên Chúa của mình.
Đức Thánh Cha Phan-xi-cô cho hai dấu chỉ để hiểu nguyên ngữ tiếng Ý: “synodalità” của “Thượng Hội Đồng Giám Mục lần thứ XVI, 2021-2023”, đó là hai cặp bộ ba: bộ ba thứ nhất: “Hiệp Thông, Tham Gia và Sứ Vụ” và bộ ba thứ hai: “Gặp Gỡ, Lắng Nghe và Phân Định”. Với hai cặp bộ ba này, nguyên ngữ: “synodalità” không đơn giản được hiểu là “đồng hành”, nghĩa là chung bước chung đường, nhưng phải được hiểu là “hiệp hành”, nghĩa là phải nên một lòng một dạ với nhau và với Thiên Chúa để nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong thời đại của mình và khám phá ra ý muốn của Thiên Chúa trong thời đại này. Đây là một trong những đề tài lớn của Công Đồng Vatican II: khám phá ra những dấu chỉ của thời đại để nhận ra sự hiện diện và hoạt động của Thiên Chúa trong thời đại của mình.
Nguồn: ubkinhthanh.net
_________
[1] Yves-Marie Blanchard, “Synode et synodalité selon le Nouveau Testament”, trích từ Spritus n. 245, tr. 410.
[2] Chúng ta gặp thấy danh Thiên Chúa được mặc khải ở ngôi thứ nhất trong các bản văn Cựu Ước khác như trong Đnl 32, 38: “Ta chính là Ta, bên cạnh Ta, chẳng có thần nào khác, Ta cầm quyền sinh tử, Ta đánh phạt, rồi Ta lại chữa lành, không ai cứu khỏi tay Ta được”; hay trong Is 41, 4: “Chính là Ta. Ta là Đức Chúa, Ta là Khởi Nguyên, và ở giữa những người của thời sau hết, Ta vẫn là Ta”; hay trong Is 43, 10-11: “Ta vẫn là Ta: trước Ta, chẳng có thần nào khác được hình thành và sau Ta cũng vậy. Chính Ta, chính Ta đây là Đức Chúa, ngoài Ta ra, chẳng có ai cứu độ”.
Xin được nhắc lại hai truyền thống lớn về tên gọi của Thiên Chúa được ghi lại trong hai chương đầu của sách Sáng Thế về công trình Sáng Tạo: Truyền thống thứ nhất (St 1, 1-2, 3a) gọi Thiên Chúa là “Ê-lô-him” được dịch sang La ngữ: “Deus” và sang tiếng Việt: “Thiên Chúa”. Truyền thống thứ hai (St 1, 2b-25) gọi Thiên Chúa là “A-đô-nai” được dịch sang La ngữ: “Dominus” và sang tiếng Việt: “Đức Chúa”. Trong Hiến Chế Mặc Khải với nhan đề: “Dei Verbum” Giáo Hội nói đến toàn bộ Lời Chúa từ Cựu Ước đến Tân Ước, còn Tông Huấn của Đức Thánh Cha Bê-nê-đic-tô XVI với nhan đề: “Domini Verbum” Đức Thánh Cha chỉ nhắm đến Lời của Đức Giê-su.
[3] Về việc Thiên Chúa mặc khải danh Ngài ở Xh 3, 14-15 được nhóm CGKPV chuyển ngữ như sau: 3, 14: “Thiên Chúa phán với ông Mô-sê: ‘Ta là Đấng Hiện Hữu’. Người phán: ‘Ngươi nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đấng Hiện Hữu sai tôi đến với anh em’”. 3, 15: “Thiên Chúa lại phán với ông Mô-sê: ‘Ngươi sẽ nói với con cái Ít-ra-en thế này: ‘Đức Chúa, Thiên Chúa của cha ông anh em, Thiên Chúa của Áp-ra-ham, Thiên Chúa của I-xa-ác, Thiên Chúa của Gia-cóp, sai tôi đến với anh em. Đó là danh Ta đến muôn thuở, đó là danh hiệu các ngươi sẽ dùng mà kêu cầu Ta từ đợi nọ đến đời kia’”.
[4] A. B. Davidson, God in the OT, in Dictionary of the Bible, vol. 2, 197.
[5] C. Westminster, The book of Exodus, London: 1908, 22.
[6] Ở những câu trích dẫn Tân Ước này, nhóm CGKPV chuyển ngữ “Egô eimi” thành “Tôi Hằng Hữu” để giúp người đọc hiểu chân tính thần linh của Đức Giê-su.
[7] Davidson, God in the OT; in Dictionary of the Bible, vol. 2, 197.
[8] W. Johnstone, Exodus, Old Testament Guide, 104.
[9] X. R. P. KNIERIM, The Composition of the Pentateuch, in R. P. KNIERIM (éd.), The Task of the Old Testament Theology. Substance, Method, and Cases, Grand Rapids, Eerdmans, 1995, p. 351-379 (p. 364).
[10] X. O. ARTUS, Etudes sur le livre des Nombres. Récits, Histoire et Loi en Nombres 13, 1-20, 13 (OBO 157), Fribourg-Göttingen, Press Universitaires-Vandenhoeck & Ruprecht, 1997.