2022
Tính bổ trợ, tình liên đới và lòng bác ái trổ sinh hoa trái giữa mùa dịch Covid
TÍNH BỔ TRỢ, TÌNH LIÊN ĐỚI VÀ LÒNG BÁC ÁI TRỔ SINH HOA TRÁI GIỮA MÙA DỊCH COVID
Sr. M. Theresia Kim Dung
MỤC LỤC
1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO |
WHĐ (11.7.2022) – Bác ái đóng vai trò quan trọng trong Học thuyết Xã hội của Giáo hội.[1] Mỗi trách nhiệm và cam kết được giải thích trong giáo huấn xã hội, đều bắt nguồn từ tình yêu, từ đức ái. Giáo hội nhìn thấy nơi mỗi người hình ảnh sống động của chính Thiên Chúa (x. St 1,27). Từ đó, tất cả các giá trị được nối kết với phẩm giá con người được xem là giá trị chủ đạo. Khởi đi từ niềm tin Kitô giáo về phẩm giá bất khả xâm phạm của con người, Giáo hội đã rút ra một số nguyên tắc, chuẩn mực, và nhận định về giá trị nhằm đóng góp vào việc xây dựng một xã hội tốt đẹp. Đó là bước đầu để thúc đẩy nền nhân bản toàn diện và liên đới. Vì thế, bài viết này được chia làm hai phần chính: Phần thứ nhất trình bày hai nguyên tắc cột trụ trong học thuyết xã hội – bổ trợ và liên đới – để chúng ta cùng nhau suy tư; Phần thứ hai đề cập đến lòng bác ái trổ sinh giữa mùa dịch Covid khi áp dụng các định hướng của Giáo hội vào trong thực tế cuộc sống.
1. NGUYÊN TẮC BỔ TRỢ VÀ NGUYÊN TẮC LIÊN ĐỚI TRONG HỌC THUYẾT XÃ HỘI CÔNG GIÁO
1.1 Nguyên tắc bổ trợ
Bổ trợ là một trong những định hướng bền vững và đặc thù nhất của Học thuyết Xã hội Công giáo và cũng là nguyên tắc quan trọng
nhất của triết học xã hội. Nguyên tắc bổ trợ hiện diện trong tất cả các văn kiện xã hội quan trọng đầu tiên của Giáo hội. Sách Giáo lý Giáo hội Công giáo đã đưa ra một định nghĩa về nguyên tắc bổ trợ như sau: Hội thánh đề ra nguyên tắc bổ trợ: một tập thể cấp cao không được can thiệp vào nội bộ tập thể cấp thấp đến độ tước mất các thẩm quyền của nó, nhưng đúng hơn phải nâng đỡ nó khi cần thiết, và giúp nó phối hợp hoạt động với những tập thể khác, để mưu cầu công ích”. [2]
Dưới góc nhìn quản trị điều hành, nguyên tắc bổ trợ đề ra một giới hạn phù hợp trong việc quản lý của tổ chức cấp cao, tạo ra mối tương quan hài hòa giữa cá nhân với xã hội, chống lại mọi hình thức lãnh đạo gia trưởng, tập quyền, quan liêu giấy tờ… Nguyên tắc này cũng đòi hỏi tổ chức cấp cao hơn tôn trọng sự hiện hữu, tính tự lập và thẩm quyền của các tổ chức trung gian (vd: tổ chức địa phương, hiệp hội, nhóm, gia đình, cá nhân). Nói cách khác, nguyên tắc bổ trợ phải được thực hiện thông qua sự tôn trọng quyền tự chủ và năng lực chủ động của tất cả mọi người, trong đó sáng kiến, khả năng và trách nhiệm của những cá nhân và các tổ chức nhỏ được đề cao và khuyến khích. “Nguyên tắc bổ trợ ra đời để gia tăng quyền tự do của cá nhân, nhóm, đoàn thể, và để ngăn chặn sự tập trung quyền lực quá mức. Sáng kiến cá nhân cần phải được khuyến khích vì có khả năng giúp đỡ chính mình là một yếu tố quan trọng của phẩm giá làm người”.[3] Dựa trên nguyên tắc này, các cá nhân có thẩm quyền cao hơn hoặc các tổ chức cấp trên chỉ hỗ trợ (subsidium), giúp đỡ, thúc đẩy, bổ túc và phát triển các cá nhân và tổ chức xã hội (nhỏ hơn), họ chỉ can thiệp khi các cá nhân hoặc tổ chức trung gian không đủ khả năng chu toàn nhiệm vụ. Đức cha Phaolô Nguyễn Thái Hợp gọi đây là hành động “can thiệp kỹ thuật” của người có thẩm quyền hay tổ chức cấp trên để hỗ trợ các cấp dưới.[4]
Hệ quả đặc trưng của bổ trợ là sự tham gia. Nguyên tắc bổ trợ cho phép mọi người đảm nhận trách nhiệm đối với vận mệnh của xã hội. Đức Thánh Cha (ĐTC) Phanxicô đề cập đến nguyên tắc bổ trợ qua việc trao quyền (empowerment) cho các tổ chức trung gian. Ngài nhắc đi nhắc lại từ khóa “khả năng” (capacity) nhiều lần trong Thông điệp Laudato Si’ nhằm thúc đẩy người Kitô hữu phát huy khả năng của mình trong sự hoán cải vừa sinh thái vừa xã hội. Theo đó, trao quyền hoặc ủy quyền được hiểu là giao một phần công việc cho cá nhân hoặc tổ chức trung gian chịu trách nhiệm thi hành và đồng thời giao cho họ quyền hành tương xứng với trách nhiệm được giao. Việc trao quyền cần có một số điều kiện kèm theo như sự hiểu biết, sự trưởng thành và tinh thần trách nhiệm mà các thuộc cấp cần phải có. Để được như thế, người lãnh đạo cần hỗ trợ những người cấp dưới thông qua việc đào tạo nhằm nâng cao năng lực.
Con người được tạo dựng giống hình ảnh của Thiên Chúa và được Chúa Giêsu cứu chuộc. Từ niềm tin Kitô giáo này, các Học thuyết xã hội của Giáo hội đều nhìn nhận phẩm giá và ngôi vị của con người, điều mà xã hội phải tôn trọng, bảo vệ và phát huy. “Tôn trọng nhân vị gồm cả việc tôn trọng các quyền phát sinh từ phẩm giá của thụ tạo con người. Các quyền này không do xã hội ban cho và xã hội phải công nhận chúng”.[5] Chỉ khi phẩm giá con người được phát huy và tôn trọng, thì cơ cấu xã hội mới vững chắc. ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong Thông điệp Caritas in Veritate: “Sự bổ trợ tôn trọng phẩm giá con người, khi nhìn họ như một chủ thể có khả năng trao ban một cái gì đó cho người khác. Khi công nhận tính hỗ tương như tâm điểm của đời sống con người, sự bổ trợ thực sự là phương tiện đối kháng hữu hiệu với bất cứ hình thức nào của hệ thống xã hội nặng tính gia trưởng”.[6]
Giáo hội đặt nguyên tắc bổ trợ trên nền tảng thần học về tạo dựng. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa ban cho con người tự do. Ngài luôn đồng hành hỗ trợ con người chứ không làm hoặc quyết định thay họ. “Thiên Chúa không muốn dành cho riêng mình việc thi hành mọi quyền hành. Người trao lại cho mỗi thụ tạo những phận vụ có thể thi hành theo khả năng của bản tính riêng. Cách lãnh đạo này phải được noi theo trong đời sống xã hội. Đường lối hành động lãnh đạo của Thiên Chúa khi cai trị thế giới cho thấy Ngài rất tôn trọng quyền tự do của con người. Đó phải là đường hướng chỉ đạo cho những ai cầm quyền trong các cộng đồng nhân loại. Họ phải xử sự như những thừa tác viên của Chúa quan phòng”.[7]
Lược lại dòng lịch sử về các giáo huấn xã hội của Giáo hội, chúng ta nhận thấy các ĐTC đã suy tư và áp dụng nguyên tắc bổ trợ này trong hoàn cảnh lịch sử và bối cảnh xã hội toàn cầu của các ngài. Những phần liên quan này sẽ không được đề cập chi tiết trong khuôn khổ bài viết.
1.2 Nguyên tắc liên đới
Tình liên đới xuất phát từ tình yêu, là sự thể hiện của bác ái và là mối dây liên kết tất cả mọi người thành một gia đình nhân loại. Tình liên đới nhân loại đem lại lợi ích cho chúng ta, đồng thời cũng là một bổn phận, một trách nhiệm phổ quát. Tình liên đới thúc bách chúng ta chia sẻ không những của cải vật chất mà cả của cải tinh thần.[8] “Nguyên tắc liên đới diễn tả chiều kích xã hội của con người. Không ai có thể sống cho riêng mình, mà luôn dựa vào người khác, không chỉ để nhận sự giúp đỡ thực tế, mà còn để trò chuyện, để thăng tiến nhờ hiểu biết các ý tưởng, lý lẽ, nhu cầu, mong ước của người khác, và có thể phát triển nhân cách của mình trọn vẹn hơn”.[9]
Cũng như nguyên tắc bổ trợ, tình liên đới được nhắc tới một cách xuyên suốt và hệ thống trong giáo huấn xã hội của Giáo hội. Học thuyết Xã hội Công giáo kể tình liên đới vào số những nguyên tắc căn bản, nhưng không đưa ra một định nghĩa chính xác về thuật ngữ này. Điều chúng ta ngày nay gọi là nguyên tắc liên đới, thì ĐTC Lêô XIII thường sử dụng cụm từ “tình thân hữu”, ĐTC Piô XI đề cập đến thuật ngữ “tình bác ái xã hội”, và ĐTC Phaolô VI nói về “nền văn minh tình yêu”, khi ngài mở rộng khái niệm này để bao hàm nhiều khía cạnh hiện đại của vấn đề xã hội.[10]
Tình liên đới là một nguyên tắc xã hội và là một đức tính luân lý.[11] Trước tiên, là một nguyên tắc xã hội, liên đới giúp khắc phục “các cơ cấu tội lỗi” từng chi phối các quan hệ giữa các cá nhân và các dân tộc, giúp xây dựng một “nền văn minh tình yêu”. Thứ đến, liên đới cũng là một đức tính luân lý đích thực, bởi vì tình liên đới nhấn mạnh đến sự cam kết muốn dấn thân lo cho công ích. Một cá nhân không thể mang lại lợi ích chung cho cộng đồng xã hội, công ích chỉ đạt được bằng những nỗ lực của nhiều người hợp lại. “Nhân đức liên đới được định nghĩa là ‘ý định bền bỉ và kiên quyết cam kết cho điều thiện chung; nghĩa là cho điều thiện của tất cả và mỗi người, ngõ hầu tất cả mọi người thực sự mang trách nhiệm với hết mọi người’”.[12]
Ngoài ra, liên đới còn là một thái độ xã hội. Nói về mối tương quan mật thiết giữa liên đới và công ích, ĐTC Phanxicô diễn giải trong Thông điệp Fratelli Tutti: “Liên đới có nghĩa là suy nghĩ và hành động vì cộng đồng, ưu tiên cho cuộc sống của tất cả mọi người hơn là cho việc sở hữu thiện ích của một ít người”.[13] Điều này mời gọi người Kitô hữu quan tâm đến thiện ích chung của tất cả mọi người, bao gồm cả những người nghèo khổ, những người yếu thế và bị gạt ra bên lề xã hội vì họ không có tiếng nói cũng không có quyền lực. Trong tinh thần đó, tình liên đới cổ võ sự hiệp nhất trong đời sống xã hội và sự bình đẳng của các phần tử, cũng như chống lại mọi hình thức cá nhân chủ nghĩa, lối sống ích kỷ, vô cảm, bàng quan trước những mất mát, khó khăn của anh chị em đồng loại.
Đề cập đến liên đới và sự phát triển chung của nhân loại, sách Tóm lược Học thuyết Xã hội, số 195 ghi rõ: “Nguyên tắc liên đới đòi hỏi con người hôm nay phải ngày càng nhận thức rõ hơn rằng họ chính là người mắc nợ xã hội mà trong đó họ là thành viên”.[14] Tự bản chất sâu xa, con người là một hữu thể xã hội, một thành phần của nhân loại, vận mệnh của người này nối kết và gắn chặt với vận mệnh của người khác, vì thế, khi mời gọi các tín hữu chung tay chăm sóc Ngôi nhà chung, xây dựng một nền sinh thái toàn diện, ĐTC Phanxicô nhắc đến tầm quan trọng của tình liên đới giữa các thế hệ hướng tới sự phát triển bền vững. Ngài lên tiếng cách mạnh mẽ: “Nếu không có sự liên đới giữa các thế hệ, thì không thể nào nói đến việc phát triển lâu dài được”.[15]
Tình liên đới của Đức Giêsu với nhân loại giải thích lý do tại sao người Kitô hữu cần phải thực hành tình liên đới. Nơi Người chúng ta luôn nhận ra dấu chỉ sống động của một tình yêu khôn lường và siêu việt của Thiên Chúa. Thật vậy, Chúa Giêsu “không chỉ công bố tình liên đới của mình với toàn thể loài người mà còn từ bỏ mạng sống vì chúng ta nữa. Sự tự hiến đến cùng này vì người khác thể hiện mức độ cao nhất của tình yêu và tình liên đới, và phải trở thành chuẩn mực cho hành động của các tín hữu Kitô giáo”.[16] Noi gương Chúa Giêsu, Giáo hội mời gọi chúng ta thực hiện tình liên đới với con người và thế giới hôm nay: “Vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của con người ngày nay, nhất là của người nghèo và của bất cứ ai đang đau khổ, cũng là vui mừng và hy vọng, ưu sầu và lo âu của các môn đệ Chúa Kitô, và không có gì thực sự là của con người mà họ lại không cảm nhận trong đáy lòng họ”.[17]
1.3. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới
Liên đới là đức tính Kitô giáo, là nhân đức thúc đẩy mọi thành viên trong gia đình nhân loại chia sẻ của cải vật chất và tinh thần. Nguyên tắc bổ trợ được nhắc đến ở đây là cách điều phối các hoạt động của xã hội, tránh sự lạm quyền của cấp cao hơn, khi họ lấy đi những gì các cá nhân và các đoàn thể trung gian có thể tự làm được. Hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ đều xây dựng trên việc tôn trọng phẩm giá siêu việt của con người và đều hướng đến lợi ích chung, hướng về công ích. Mối tương quan giữa hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới không bao giờ có thể được xem là điều đương nhiên, điều “tất nhiên phải có”, trong thực tế mối tương quan này thường không đối xứng (not symmetrical), đặc biệt khi liên quan đến kinh tế xã hội. Tình liên đới có thể rất cao và sự bổ trợ, phụ đới thấp là điều có thể xảy ra. Tương tự, sự bổ trợ không thể thực hiện được nếu không có tình liên đới.[18] Ngày nay, tình liên đới dựa vào cộng đồng đóng vai trò quan trọng trong những hoạt động bác ái. Trong Thông điệp Caritas in Veritate, ĐTC Bênêđictô XVI nhấn mạnh đến sự liên kết chặt chẽ của hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới trong việc cứu trợ như sau: “Nguyên tắc bổ trợ phải liên kết chặt chẽ với nguyên tắc liên đới và ngược lại. Vì bổ trợ nếu không có tình liên đới sẽ rơi vào chủ nghĩa địa phương xã hội; cũng thế, liên đới mà không có bổ trợ cũng rơi vào một hệ thống gia trưởng, hạ thấp giá trị của những người được giúp đỡ”.[19]
1.4 Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới qua việc thúc đẩy sự tham gia của các thành phần trong cơ cấu tổ chức Caritas
Giới thiệu về UB. BAXH – Caritas Việt Nam
- BAXH – Caritas Việt Nam là tổ chức hoạt động bác ái xã hội trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam. Caritas Việt Nam (CVN) bao gồm Văn phòng CVN và 27 Caritas Giáo phận (CGP). Trong mỗi CGP, mạng lưới Caritas được triển khai đến giáo hạt, giáo xứ. Dưới ánh sáng của Lời Chúa và Học thuyết Xã hội của Giáo hội, mọi thành viên trong gia đình Caritas thực thi hoạt động bác ái mang đặc tính Kitô giáo, hướng đến việc loan báo Tin Mừng. Việc phục vụ bác ái này không những bao gồm các công việc cứu trợ khẩn cấp, đặc biệt khi có lũ lụt thiên tai, dịch bệnh, mà còn hướng đến việc thăng tiến và phát triển con người toàn diện. CVN là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế.
Áp dụng hai nguyên tắc bổ trợ và liên đới
Nói về việc áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới, Caritas Quốc tế và các tổ chức thành viên buộc phải tuân theo những quy định đã được ghi rõ trong bộ quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử của Caritas Quốc tế.
Bổ trợ: “Chúng tôi bảo đảm rằng quyền lực, các quyết định và trách nhiệm được chuyển giao cho cấp thấp nhất mà tại đó những điều này có thể được thực thi một cách hợp lý. Khi làm như vậy, chúng tôi cố gắng tối đa hóa và xây dựng dựa trên khả năng và nguồn lực của địa phương. Bản sắc trung tâm của Caritas bao gồm các thành viên Caritas quốc gia, giáo phận và giáo xứ, và tất cả chúng tôi sẽ cố gắng thúc đẩy và củng cố những điều này để giúp họ có thể tự chủ và chịu trách nhiệm nhiều hơn”.[20]
Liên đới: “Chúng tôi làm việc liên đới với những người nghèo khổ và người bị thiệt thòi, qua đó mà đạt được những thành quả của hòa bình, công lý và phát triển con người. Tình liên đới gắn kết chúng tôi với nhau trong tầm nhìn chung về việc thiết lập một thế giới nơi tất cả mọi người nhận được những gì thuộc về mình một cách chính đáng với tư cách là con cái của Thiên Chúa”.[21]
Là một tổ chức thành viên của Caritas Quốc tế, CVN cam kết tuân thủ các quy tắc trên. Nói cách khác, mọi hoạt động bác ái xã hội của CVN đều được chi phối bởi hai nguyên tắc liên đới và bổ trợ. Thật vậy, tình liên đới gắn kết mọi thành viên trong đại gia đình CVN với nhau, có chung một tầm nhìn, một sứ mạng, một đối tượng phục vụ là anh chị em nghèo khó và đau khổ. Ở mỗi cấp Caritas (quốc gia, giáo phận hay giáo xứ) nguyên tắc bổ trợ nhắc nhở các cá nhân hoặc tập thể cấp cao hơn không can thiệp vào nội bộ của cấp thấp hơn, nếu như họ có thể tự mình giải quyết được vấn đề. Nguyên tắc này mời gọi các nhà lãnh đạo cấp trên đặt niềm tin vào người cấp dưới, trao cho họ trách nhiệm và quyền tương ứng đi theo để họ chu toàn công việc. Lãnh đạo là một nghệ thuật, người lãnh đạo không phải là người làm hết mọi việc nhưng là người truyền cảm hứng và thúc đẩy người khác cùng nhau thực hiện để đạt mục đích đã đề ra. Vì thế, nguyên tắc bổ trợ nói lên bổn phận hỗ trợ lẫn nhau để hoàn thành nhiệm vụ, thúc đẩy trách nhiệm và sáng kiến cá nhân, nhấn mạnh đến tầm quan trọng của sự bổ túc cho nhau. UB. BAXH – CVN là thực thể / tổ chức mà chính các thành viên (CGP, Caritas Giáo xứ, hội viên, tình nguyện viên…) làm nên. Vì thế, việc khích lệ từng thành viên sẵn sàng đóng góp sức lực, khả năng và sáng tạo của mình vào việc chung là điều cần thiết. Qua đó, nguyên tắc bổ trợ giúp Caritas các cấp (giáo phận, giáo hạt, giáo xứ), các nhóm (người khuyết tật, người có HIV, người di dân…) hoặc cá nhân (nhân viên, cộng tác viên, tình nguyện viên), tự tin và phát triển năng lực của mình để đóng góp xây dựng cộng đồng xã hội.[22] Việc trao quyền (empowerment) ở đây không đồng nghĩa với chia quyền, vì chia quyền thường dẫn đến việc tạo ra “địa phương chủ nghĩa” và cạnh tranh.
Áp dụng nguyên tắc bổ trợ và liên đới vào trong thực tế, Văn phòng CVN đã nỗ lực thực hiện các hoạt động sau: tổ chức các khóa tập huấn đào tạo nhằm nâng cao năng lực nhân viên CGP, đồng hành hỗ trợ CGP thiết lập văn phòng, xây dựng và kết nối mạng lưới CGP với các tổ chức khác, hợp tác và thực hiện các chương trình dự án… Trong tinh thần đó, mỗi CGP có thể chủ động và phát huy sáng kiến khi triển khai các hoạt động bác ái phù hợp với hoàn cảnh địa phương, vùng miền. Tuy nhiên, trong bối cảnh Việt Nam việc áp dụng hai nguyên tắc trên vào thực tế vẫn còn là thách đố lớn cho những cá nhân và tập thể cấp cao hơn. Điều này cần đến sự đổi mới tư duy và phong cách lãnh đạo sao cho phù hợp với những chỉ dẫn nguyên tắc của Giáo hội và với con người ngày nay. Thiết nghĩ, để có thể từng bước vận dụng các nguyên tắc liên đới và bổ trợ vào thực tế, việc học hỏi các nguyên tắc này cần được đẩy mạnh trước tiên. Hướng tới phát triển tổ chức cách bền vững, CVN cần có những quy chế hướng dẫn rõ ràng, bao gồm cả quy tắc đạo đức và quy tắc ứng xử cho mọi thành viên để họ thi hành.
2. ĐỨC ÁI KITÔ GIÁO TRONG ĐẠI DỊCH COVID
Xuất phát từ tình yêu Đức Kitô, người Kitô hữu cảm thấy được thôi thúc phải yêu thương anh em đồng loại. “Mọi thứ đều bắt nguồn từ tình yêu của Thiên Chúa, mọi thứ đều được định hình bởi tình yêu, mọi thứ đều quy hướng về tình yêu. Tình yêu là quà tặng lớn nhất mà Thiên Chúa trao ban cho loài người; tình yêu là lời hứa của Ngài, và là niềm hy vọng của chúng ta”.[23] Trong sự hiệp thông của Giáo hội, tình yêu Thiên Chúa được con người tiếp nối, và tỏa lan đến anh chị em đồng loại. Nói cách khác, mọi hoạt động của Giáo hội đều là lời diễn tả tình yêu – một tình yêu tìm kiếm điều thiện ích cho con người. Thật vậy, “Giáo hội sống trong thế giới, và dù không thuộc về thế giới (x. Ga 17,14-16), Giáo hội cũng được mời gọi phục vụ thế giới theo ơn gọi sâu xa của mình”.[24] Vì thế “tình yêu chính là công việc phục vụ mà Giáo hội tiến hành để luôn đáp ứng với đau khổ và những nhu cầu của con người, kể cả những nhu cầu vật chất”.[25]
Đại dịch Covid-19 xảy ra như một thảm họa đau thương cho toàn nhân loại. Chúng ta đã chứng kiến biết bao tang thương, mất mát, đổi thay, xáo trộn, khủng hoảng trong mọi lãnh vực từ kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo, v.v… nhưng đồng thời đại dịch cũng là cơ hội để chia sẻ và trao ban yêu thương, là cơ hội để phản tỉnh giúp con người tìm về những giá trị cốt lõi của cuộc sống. ĐTC Phanxicô từng chia sẻ rằng đại dịch Covid-19 đã nhắc nhở nhân loại nói chung và người Kitô hữu nói riêng về sự mong manh của thân phận con người. Và chính trong những giây phút đau thương tàn khốc, tình liên đới là mối dây liên kết chúng ta lại với nhau. Tất cả chúng ta phụ thuộc lẫn nhau về mọi mặt, cả tốt lẫn xấu, mọi hành động của chúng ta đều ảnh hưởng đến người khác, chúng ta cùng trên một con thuyền. “Đại dịch Covid-19, có lúc đã khơi lại rõ ràng cái cảm thức chúng ta là một cộng đồng thế giới đang chèo chống trên cùng một con thuyền, ở đó điều gây tổn hại cho người này cũng gây tổn hại cho những người khác”.[26] Để có thể vượt qua cơn khủng hoảng Covid, chúng ta cần phải chung lòng chung sức với nhau. Đại dịch này cần phải được điều trị bằng kháng thể của tình liên đới. Tình yêu thúc đẩy con người liên đới với nhau thành cái “Chúng ta”. “Sự liên đới, được biểu lộ cụ thể trong việc phục vụ, có thể có những hình thức rất khác nhau trong trách nhiệm chăm lo cho người khác. Mà phục vụ ‘phần lớn là quan tâm đến những hoàn cảnh bấp bênh. Phục vụ có nghĩa là chăm sóc những thành viên yếu kém của gia đình chúng ta, xã hội chúng ta, dân tộc chúng ta’”.[27]
Tình liên đới, nghĩa đồng bào, tinh thần “Lá lành đùm lá rách” đã làm cho đức ái được trổ sinh trong thời gian dịch bệnh Covid. Giữa những khó khăn bủa vây chồng chất, người ta lại càng thấy tình người trở nên ấm áp. Sài Gòn trước đây luôn sẵn sàng chia sẻ quảng đại với các nạn nhân thiên tai trên cả nước. Giờ đây, khi Sài Gòn gặp thử thách, hàng triệu con tim ở mọi miền đất nước đều hướng về Sài Gòn với tất cả sự yêu thương, đùm bọc. Mọi người đều cảm thấy có trách nhiệm với nhau, cảm nhận nỗi đau của người khác là nỗi đau của chính mình. Ở đây, tình liên đới được hiểu là cho đi nhưng không, một cách vô vị lợi và không tính toán. Điều này mời gọi chúng ta nhìn nhận mỗi người, dù thân quen hay xa lạ, nhất là những người nghèo và đau khổ, là anh chị em của mình, những người “mà Đức Kitô đã chết cho họ” (Rm 14,15). Dụ ngôn người Samari nhân hậu vẫn là một chuẩn mực đòi buộc chúng ta tỏ bày tình yêu phổ quát đối với người gặp nạn trong những tình huống khẩn thiết (x. Lc 10,31). Thật vậy, đáp lời kêu gọi của Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Chí Linh – Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam – trong thư “Thương quá Sài Gòn ơi!”, hàng ngàn chuyến xe chở đầy yêu thương đã hướng về Sài Gòn và miền Nam thân yêu. Các Caritas giáo phận, nhiều dòng tu nam nữ, các tổ chức… phát huy sáng kiến để có thể hỗ trợ sẻ chia nỗi đau với người cùng khổ. Mọi nhà, mọi xứ, già trẻ ngày đêm vẫn thống thiết vang lên lời kinh cầu mong cho đại dịch mau qua. Nhiều linh mục, nam nữ tu sĩ, giáo dân đã tham gia vào đội ngũ tình nguyện viên chăm sóc người nhiễm Covid trong các bệnh viện dã chiến. Phối hợp với y bác sĩ Công giáo và tình nguyện viên, CVN có chương trình đồng hành và chăm sóc F0 tại nhà. Thật là cảm kích, khi biết rằng nhiều người quanh ta, dẫu có sợ hãi, vẫn sẵn sàng dấn thân chấp nhận rủi ro nguy hiểm. Mỗi người đều cảm nghiệm rằng cuộc sống của chúng ta được đan dệt và đỡ nâng bởi những con người bình thường nhưng dũng cảm, họ là những bác sĩ, y tá, điều dưỡng, tài xế lái xe cấp cứu… và đã có người hy sinh khi tham gia điều trị, cứu chữa bệnh nhân Covid. Tại nhiều giáo xứ, cha xứ cùng với Caritas giáo xứ thực hiện những bữa cơm 0 đồng, chia sẻ những bó rau, củ hành, bao gạo… cho những gia đình đang gặp khó khăn, không phân biệt tôn giáo. Cũng vậy. một bức tranh Đức ái muôn màu muôn sắc được các dòng tu dệt nên, nhằm xoa dịu nỗi đau của anh chị em mình. Người tu sĩ đã trở thành những cánh tay nối dài giữa những mạnh thường quân và những người nghèo khổ qua việc cung cấp lương thực cho anh chị em di dân trong những khu nhà trọ chật hẹp, cho những người dân trong khu cách ly hoặc thăm viếng ủi an những mảnh đời bất hạnh. Các hội viên, tình nguyện viên Caritas Phan Thiết, Nha Trang, Qui Nhơn, Mỹ Tho, Vĩnh Long chia sẻ gói lương thực đi đường, xăng dầu cho đoàn người trốn dịch, bỏ phố về quê… Kể sao cho hết những tấm lòng quảng đại, những nghĩa cử yêu thương. Đức ái Kitô giáo trở nên nhịp cầu đến với anh chị em, và cũng là con đường ngắn nhất để đến với tha nhân và đến với Thiên Chúa. Việc phục vụ bác ái là hoa trái của đức tin. Nói cách khác, hành động của đức tin chính là đức ái. Mỗi việc bác ái chúng ta làm cho anh chị em là làm cho chính Chúa (x. Mt 25, 34-36). Nơi những gương mặt của người nghèo, chúng ta nhận ra những đường nét đau khổ của Đức Kitô. “Mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 25,40).
Hoạt động bác ái là trách nhiệm của Hội thánh, nó thuộc về bản chất của Hội thánh.[28] Những gì mà Giáo hội Công giáo Việt Nam làm là quan tâm đến người nghèo, bảo vệ và chia sẻ với họ. Vâng, người nghèo phải là ưu tiên hàng đầu trong sứ vụ của Giáo hội, nếu không, Giáo hội đi ngược lại sứ mệnh của mình. “Một Giáo hội không thể hiện tình liên đới sẽ hóa ra mâu thuẫn với chính danh nghĩa của mình. Giáo hội là nơi diễn ra tình liên đới vĩnh viễn của Thiên Chúa với con người”.[29] Giáo hội Công giáo Việt Nam nói chung, UB. BAXH – CVN nói riêng, không phải là một tổ chức phi chính phủ chuyên lo việc từ thiện, nhưng Giáo hội thực thi sứ vụ bác ái theo lệnh truyền yêu thương của Chúa Giêsu. Trong cơn đại dịch, Giáo hội Việt Nam với những nỗ lực của mình cùng với ơn Chúa đang đưa ra một lời chứng đức tin sống động về tình bác ái huynh đệ.
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 128 (Tháng 3 & 4 năm 2022)
[1] x. Caritas in Veritate (2009), số 2
[2] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1883
[3] Docat, số 95
[4] x. Nguyên tắc bổ trợ http://www.conggiaovietnam.net/index.php?=module2&v=detailarticle&id=98&ia=8992
[5] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1930
[6] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 57
[7] Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1884
[8] x. Sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, số 1948
[9] Docat, số 100
[10] x. Thông điệp Centesimus Annus (1991), số 10: Sách Giáo Lý Hội thánh Công giáo, số 1939
[11] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 193
[12] Thông điệp Sollicitudo Rei Socialis – Quan tâm đến vấn đề xã hội (1987), số 38
[13] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 116
[14] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 195
[15] Thông điệp Laudato Si’ (2015), số 159
[16] Docat, số 103
[17] Gaudium et Spes, số 1
[18] x. Solidarity, Subsidiarity, and Preference for the Poor: Extending Catholic Social Teaching In Response to the Climate Crisis; How Solidarity and Subsidiarity can work together
[19] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 58
[20] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff
[21] Caritas Internationalis Code of Ethics & Code of Conduct for Staff
[22] x. Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 187
[23] Thông điệp Caritas in Veritate (2009), số 2
[24] Tóm lược Học thuyết Xã hội (2004), số 18
[25] Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 19
[26] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 35
[27] Thông điệp Fratelli Tutti (2021), số 115
[28] x. Thông điệp Deus Caritas Est (2005), số 20
[29] Docat số 27
2022
Cảm nghiệm tình yêu chân thật
CẢM NGHIỆM TÌNH YÊU CHÂN THẬT
Tác giả: HEATHER GALLAGHER và PETER VLAHUTIN
Chuyển ngữ: Gm. Luy Nguyễn Anh Tuấn – Gioan Lê Quang Vinh
Trích từ: “A Case for Chastity”
❈ Tình dục không phải là một diễn tả tự nhiên của tình yêu sao?
Bạn có muốn trở nên một người yêu tuyệt vời hay không? Ai lại không muốn điều ấy chứ. Để có thể là người yêu thương tuyệt vời đối với bạn bè, gia đình và ngay cả trong phòng ngủ, trước tiên chúng ta phải hiểu được tình yêu và hết sức thường xuyên thực hành yêu thương. Để hiểu tình yêu là gì, chúng ta phải có cái nhìn vượt lên trên các huyền thoại truyền thông cho rằng tình yêu chỉ đơn thuần là cảm thấy khoan khoái ngay giây phút này. Trái ngược với các thông tin trên các video ca nhạc, những người yêu tuyệt vời không phải là những người (dù nam hay nữ) biết đem bạn tình lên giường cách quyến rũ nhất. Thật ra, là người yêu tuyệt vời thì khác hẳn: nó đòi hỏi một người phải biết thật sự yêu thương những người khác.
❈ Tình yêu sôcôla
Chúng ta nói chúng ta “yêu” thật nhiều trong cuộc đời này, nhưng chúng ta có thật sự yêu tất cả những gì mà chúng ta cho rằng mình yêu thương? Hãy xem xét ví dụ so sánh này nhé: Jane yêu bố, và cô ấy yêu sôcôla. Cô ấy rất có cảm tình với sôcôla, một thanh sôcôla làm từ châu Âu sẽ cho hương vị ngon tuyệt biết bao khi cô ấy thèm đồ ngọt. Cũng tương tự như thế, cô ấy rất có cảm tình với bố, và cô ấy biết cô ấy yêu bố. Như vậy, có thể nói là Jane yêu sôcôla không?
Nếu không có sôcôla, Jane hẳn là không mất ngủ nhiều vì nó. Cô ấy nghĩ “Ô, tiếc thật, nhưng thôi, tôi sẽ dùng bánh pudding vani để thay thế”. Chắc chắn Jane sẽ không hy sinh thứ gì đó để có thanh sôcôla mà giờ này có thể đang chảy nước và vướng đâu đó bên vệ đường. Đó là vì cô ấy dùng sôcôla, làm món ăn thì ngon tuyệt. Jane nói rằng cô ấy yêu sôcôla vì nó làm cho cô ấy cảm thấy sảng khoái, nhưng dĩ nhiên cô ấy không thật sự yêu sôcôla. Cô ấy dùng nó, vui hưởng nó hết mức.
Tuy nhiên, không giống như sôcôla, nếu có điều gì không tốt lành xảy đến cho bố cô ấy, thì cô ấy sẽ làm bất cứ điều gì cho bố. Jane sẽ không chỉ nghĩ “Thật là tội nghiệp, bố bị bệnh rồi. Tôi ước mong sao mọi điều tốt đẹp hơn sẽ đến với bố! Nhưng không sao, luôn có một mạnh thường quân ra tay rồi mà”. Không, Jane sẽ không chỉ nghĩ như thế, mà sẽ bán xe, thậm chí nghỉ việc nếu cần, để lo cho bố vì cô ấy muốn điều tốt đẹp nhất cho bố. Đó là tình yêu. Cảm tình tốt đẹp là phần thêm vào thôi.
❈ Tình yêu đích thật
Là người Kitô hữu, chúng ta tin rằng Thiên Chúa là tình yêu, và gương mẫu của tình yêu đích thật chính là Đức Kitô. Với một tình yêu tuyệt diệu, Chúa muốn đến ở với chúng ta, ước muốn tha thiết đến nỗi Người chịu khổ hình và chịu chết để chúng ta được giải thoát khỏi tội lỗi, được sống muôn đời và được sống tình yêu của Người mãi mãi. Nếu chúng ta xem việc Chúa Giêsu chết trên Thánh Giá là dấu chỉ tận cùng của tình yêu, thì rõ ràng tình yêu đích thật đâu có đòi những cảm xúc dễ chịu. Chúa Giêsu đổ mồ hôi máu ra vì Người quá lo sợ. Người bị những người bạn thân tín nhất phản bội và bị quân lính đánh đập. Chắc chắn những điều ấy không làm cho Người có cảm giác dễ chịu. Tình yêu đích thật không hệ tại ở cảm xúc.
Tình yêu đích thật là một quyết định và là một hành động thực hiện điều gì thật sự tốt nhất cho người kia. Thường thì điều gì tốt nhất cho một ai khác lại không phải là điều mà chúng ta muốn làm. Nhưng thực hiện được điều ấy bằng mọi giá thì đó là tình yêu. Tình yêu đích thật là khi một người bạn của bạn dù mệt mỏi vẫn thức khuya để lắng nghe bạn tâm sự vì hôm ấy bạn có một ngày nhiều phiền muộn. Tình yêu đích thật là khi bạn đành kết thúc buổi hẹn hò sớm để đi đón đứa em gái của bạn vì cô em cần người đưa về. Tình yêu đích thật là khi bạn vẫn ngồi bên ông nội cho dù ông không thể nói hay trả lời bạn. Tình yêu đích thật là khi bạn được đón nhận và được vỗ về sau khi bạn lỡ lầm thiếu suy nghĩ.
Một người yêu hoàn hảo thì tìm cách thực hành tình yêu đích thật trong mọi quan hệ của họ. Cũng như Chúa Kitô đã biểu lộ tình yêu cho hết thảy mọi người, chúng ta cũng phải yêu thương mọi người như thế. Mặc dù bạn gái của bạn và mẹ bạn hay bạn trai của bạn và ba bạn, đều xứng đáng với tình yêu chân thật, nhưng vẫn có các loại quan hệ yêu thương khác nhau.
❈ Tình yêu và các quan hệ lãng mạn
Những cảm xúc dễ chịu và mạnh mẽ mà chúng ta có về người khác phái là những cảm xúc lãng mạn. Cũng như những cảm xúc tốt đẹp chưa phải là tình yêu thì những cảm xúc lãng mạn cùng sự thu hút cũng chưa phải là tình yêu lãng mạn. Quan hệ lãng mạn được xác định bởi những cảm xúc lãng mạn. Tuy nhiên, sẽ không lành mạnh nếu xây dựng mối quan hệ chỉ dựa trên những cảm xúc lãng mạn. Chẳng hạn, Ed thật sự có cảm xúc mạnh mẽ với Kim Ann. Anh ấy thích được ở bên cạnh cô và đi chơi với cô. Nhưng khi cảm thấy buồn bực anh ấy lại muốn làm cho cô khó chịu. Cảm xúc của Ed thật mạnh mẽ, anh ấy thật sự “đang yêu” Kim Ann. Nhưng hành động của anh ấy lại không phải là hành vi yêu thương. Tình yêu lãng mạn phải kết hợp việc đang yêu với hành động và thái độ yêu thương.
❈ Tình yêu, các quan hệ lãng mạn và tình dục
Dĩ nhiên tình yêu lãng mạn đưa chúng ta đến chỗ nghĩ về tình dục, vốn là một điều tự nhiên, vì tình yêu lãng mạn dẫn đến hôn nhân và hôn nhân dẫn đến tình dục. Tình dục là sự diễn đạt trọn vẹn nhất của tình yêu lãng mạn vốn được hiện thực hóa trong hôn nhân. (Xin lưu ý, chúng tôi không nói rằng tình dục là việc diễn đạt trọn vẹn nhất của các cảm xúc lãng mạn).
Như đề mục trước đã nói, tình dục phải luôn là cách diễn tả tình yêu. Chỉ trải nghiệm tình yêu, TÌNH YÊU CHỨ KHÔNG GÌ KHÁC mỗi lần chúng ta quan hệ tình dục. Chẳng may, ngoài hôn nhân các hành động tình dục không diễn tả được tình yêu. Có thể chúng ta muốn tình dục diễn tả tình yêu, nhưng để cho một hành động nói lên “Anh yêu em, em yêu anh” thì đó phải là một hành động yêu thương. Bạn có đúng thật sự khi nói với bạn trai mình rằng bạn yêu anh ấy nhưng bạn tháo dây an toàn của anh ấy và lái xe nhanh hơn, lạng lách một cách bất cẩn trên con đường dọc theo vách núi đá không? Khi chúng ta yêu người khác thật sự, chúng ta không làm họ gặp nguy hiểm đến tính mạng. Cũng tương tự như thế, dù cho bạn muốn dùng tình dục để diễn tả tình yêu đến bao nhiêu đi nữa, thì tình dục ngoài hôn nhân cũng không phải là hành động yêu thương.
Paula và Jack từng nghĩ rằng họ yêu nhau. Họ là bạn bè với nhau nhiều năm trước khi bắt đầu hẹn hò, và việc họ ở bên nhau thật ý nghĩa. Paula quan tâm sâu sắc đến Jack, và mối quan hệ của họ rất nghiêm túc. Cô dâng tặng cho anh tất cả bản thân mình, kể cả tình dục. Là những người trưởng thành, họ biết những hậu quả có thể xảy ra, nhưng họ lại không cưỡng lại được khao khát quan hệ tình dục. Khi họ chia tay, Jack rất buồn, còn Paula thì bị sốc nặng. Jack tiếp tục có bạn gái khác ngay sau khi họ chia tay, nhưng Paula thì không có ai khác. Trong một năm sau đó Paula cứ khóc mãi và cảm thấy như là Jack đã ra đi, mang theo phần lớn cuộc sống của cô.
Quan hệ tình dục có phải là hành vi yêu thương đối với Jack và Paula không? Đó phải chăng là cách Jack bày tỏ sự quan tâm đến Paula và hy vọng bảo vệ Paula khỏi những nguy hại? Phải chăng quan hệ tình dục là phương cách tốt đẹp để Paula giữ Jack khỏi sai phạm lỗi lầm và để anh khỏi có những so sánh với các mối quan hệ trong tương lai? Bạn hãy nghĩ đến chương trước, ở đó chúng tôi đã liệt kê tất cả những hậu quả tiêu cực có thể xảy ra sau khi quan hệ tình dục ngoài hôn nhân. Tôi có thật sự yêu bạn trai của tôi nếu như tôi đặt anh vào nguy cơ gặp những thiệt hại kèm theo việc quan hệ trước hôn nhân hay không? Không. Không phải là yêu thương nếu nói với bạn gái thế này: “Anh yêu em nhiều đến nỗi em sẽ trở thành một người mẹ ở tuổi vị thành niên”. Cũng không phải là yêu thương nếu nói với bạn trai: “Anh có thể bị trầm cảm nếu chúng ta chia tay, hoặc, anh có thể nhớ nhung đến em khi anh đang ra sức “yêu đương” đầy ý nghĩa với người vợ tương lai của anh”. Và ngay cả trường hợp nếu có ai tự nguyện cho phép bạn đặt họ vào nguy cơ đó, thì bạn cũng không thể làm như thế vì yêu thương cả. Việc đẩy một người ra ngoài đường xe đang chạy, ngay cả khi họ xin bạn làm điều ấy, không bao giờ được xem là hành động yêu thương. Chẳng phải là yêu thương nếu đẩy ai vào hoàn cảnh nguy hiểm, nhất là khi người ta gây tổn thương về tình cảm, tâm linh và tình dục vốn thường phát sinh quan hệ tình dục ngoài hôn nhân.
Một số hành vi, chẳng hạn như lái xe không cài dây an toàn, ngầm chứa khả năng nguy hại tiềm tàng. Tuy nhiên, tình dục ngoài hôn nhân thì luôn luôn nguy hại. Ít nhất, nó làm hạ giá tính dục và làm chúng ta xa cách Thiên Chúa. Tình yêu thật bắt đầu khi chúng ta chọn con đường khó đi vì đó là con đường tốt nhất cho những người mà chúng ta quan tâm chăm sóc. Đức trong sạch huấn luyện chúng ta biết yêu bằng một tình yêu đích thật bởi vì đức trong sạch tìm kiếm điều gì thật sự tốt nhất cho người khác và cho chính mình. Nếu bạn muốn bày tỏ tình yêu lãng mạn, hãy cùng nhau dùng bữa ngoài trời, cùng đi dạo quãng đường xa, nhìn vào mắt nhau hay mua những món quà nhỏ tặng cho nhau. Có vô số những điều lãng mạn bạn có thể làm thay vì quan hệ tình dục (để có nhiều ý tưởng hơn, xin xem Phụ lục B, trang 245). Tóm lại: tình yêu lãng mạn thật sự là chọn lựa điều gì vừa đầy yêu thương vừa lãng mạn.
Trong nhiều năm sau khi chia tay với Jack, Paula không hẹn hò với ai cả. Cuối cùng, cô ấy gặp Tim. Họ thấy tâm đầu ý hợp và nhanh chóng quyết định đến với nhau. Như trong những mối quan hệ trước đây, Paula cho rằng quan hệ tình dục là cách diễn tả tình yêu, vì thế cô và Tim bắt đầu quan hệ tình dục. Paula không phản đối chuyện ấy, cô muốn có sự liên kết gần gũi. Nhưng, Tim dần dần nhận thấy rằng Paula không hoàn toàn là chính cô ấy. Anh cảm nhận rằng mối quan hệ này có thể tiến triển theo lối tốt đẹp hơn và anh quyết định chấm dứt quan hệ tình dục với Paula. Tim không muốn Paula chịu thiệt hại dưới bất cứ hình thức nào, cho dù cả hai đều vui thích quan hệ tình dục. Nếu họ có phải chia tay, anh không muốn gây ra thương tổn như Jack đã làm. Mặc dù mối quan hệ của họ tốt đẹp, nhưng thực hành tình dục như thế không phải là tình yêu. Vì họ chọn không quan hệ tình dục nữa, mối tình của họ được cải thiện dần và mấy tháng sau thì họ đính hôn. Tim thật sự yêu Paula, và vẫn yêu thương mãi. Họ đã học và thực hành tình yêu đích thật. Chọn sống trong sạch làm cho mối quan hệ của họ trở nên sâu sắc hơn và đưa cặp đôi này đến hôn nhân.
❈ Sống tình yêu đích thật
Yêu thương người khác như Chúa Kitô đã yêu là một điều khó khăn. Điều đó đòi phải có hành động. Trong gia đình, với những người ta gặp ở nhà trường và với người xa lạ, chúng ta cần thực hành tình yêu đích thật nhiều hết sức nếu muốn trở thành người biết yêu thương hoàn hảo. Chúng ta có thể ngồi ăn trưa với “một ai đó đang cô đơn”, không phải vì chúng ta thích, nhưng có lẽ vì điều ấy giúp đỡ cho họ. Chúng ta có thể đưa đứa em hay người anh em họ đi xem phim hay chơi bóng chày. Chúng ta có thể hỏi thăm ba mẹ mình hôm nay cảm thấy thế nào, rồi lắng nghe ba mẹ. Nếu chúng ta thực hành yêu thương trong những tình huống không ngờ trước hay khó khăn, chúng ta sẽ có nhiều kỹ năng khi chúng ta bắt đầu yêu một người phù hợp với mình. Nếu chúng ta được Chúa gọi sống đời tu, chúng ta sẽ trở thành một linh mục, một nữ tu, một tu sĩ đầy yêu thương.
Kinh nghiệm về tình yêu đích thật thì vô giá. Dù có khó khăn đến mấy thì cũng luôn xứng đáng. Nếu điều này nghe có vẻ quá khó khăn, thậm chí không thể, thì hãy nhớ rằng bạn luôn có ơn Chúa trợ giúp. Thiên Chúa không đòi hỏi chúng ta nhiều hơn các ơn huệ Ngài ban cho chúng ta. Trong đời sống có ít điều bảo đảm, nhưng điều sau đây thì bảo đảm chắc chắn: Nếu chúng ta cố gắng sống trong mối tương quan thân tình và tốt đẹp với Thiên Chúa, nhờ Con Một của Ngài là Chúa Giêsu Kitô, Đấng yêu thương tuyệt vời nhất mọi thời đại, thì chúng ta sẽ là những người biết yêu thương hết sức. Không gì có thể thay thế cho tình yêu đích thật.
Xem bài trước:
2022
Để đối diện với sự giận ghét của con cái trong độ tuổi thanh thiếu niên
ĐỂ ĐỐI DIỆN VỚI SỰ GIẬN GHÉT CỦA CON CÁI
TRONG ĐỘ TUỔI THANH THIẾU NIÊN
Mar Dorrio
Là bậc cha mẹ, chắc hẳn ai trong chúng ta cũng đã từng trải nghiệm những khó khăn về mặt cảm xúc khi đối diện với sự ương ngạnh, hỗn hào, thậm chí là sự giận ghét của những đứa con trong độ tuổi thanh thiếu niên.
Rất hiếm khi chúng ta muốn đề cập tới những điều này một cách cởi mở. Hầu như chẳng có ấn phẩm nào giúp chuẩn bị và cung cấp thông tin cho cha mẹ cảnh giác chúng ta về những gì thể lenlỏi vào nhà chúng ta. Những điều này thường xuất hiện khi con cái chúng ta lớn dần và chúng ta phải bảo vệ chúng khỏi những quyết định tồi tệ, những hành động sai lầm, những mục tiêu bất khả thi, những sai phạm có thể để lại những vết sẹo sâu trong cuộc đời của chúng. Và đây là lúc những lời nói của sự thù hận từ nơi trẻ có thể len lỏi vào gia đình chúng ta.
Thật thế, những đứa con nhỏ bé mà chúng ta nuôi dưỡng, quan sát chúng lớn lên mỗi ngày lại đã có thể muốn tuyệt giao với chúng ta! Thay vì nhận ra những ranh giới trong việc nuôi dạy con cái của cha mẹ là sự bảo vệ, thì trẻ lại xem những điều đó giống như những bức tường giam giữ chúng.
Dưới đây là những điều chúng ta cần làm khi đối diện với sự giận ghét của con cái trong độ tuổi thanh thiếu niên.
Những biểu hiện tình yêu lớn nhất của bạn
Bạn đã chứng kiến thanh thiếu niên từ chối những cái ôm, những lời khuyên, và những quy tắc của bạn.
Chỉ có bậc cha mẹ mới có thể coi những lời căm ghét của con cái đối với mình như một cái giá nhỏ phải trả để giữ cho chúng được an toàn. Chúng ta không cần bọn trẻ tiếp tục bầu bạn, dành cho chúng ta một cái ôm an ủi, hoặc lời cảm ơn vì những đêm chúng ta mất ngủ. Chúng ta yêu thương chúng, và muốn điều tốt cho chúng, ngay cả khi kết quả là những trái đắng.
Một thực tế không dễ dàng chút nào
Thật đau lòng khi nghe những lời tổn thương. Nó rất đau. Nhưng tình yêu, vào những lúc như thế là một tình yêu vô điều kiện, giúp bạn có thể bước tới và nói với con từ tận đáy lòng của trái tim tan vỡ rằng: “Bố/Mẹ sẽ tiếp tục hy sinh chính mình cho con”.
Con cái bạn sẽ đi tìm những người bạn, là những người mà chúng cho rằng sẽ an ủi chúng trước những “sự phi lý” của cha mẹ. Trẻ thậm chí có thể tìm những liên minh ngay trong gia đình, là những người tìm cách thế chỗ của bạn, để đứng về phía chúng và tán thành những lựa chọn tồi tệ mà chúng có thể muốn thực hiện.
Nếu cơn bão đặc biệt dữ dội, nó có thể giống như một trận chiến thất bại. Ma quỷ muốn bạn chìm vào hố sâu của sự tuyệt vọng. Liệu bạn có thể làm được gì đây?
Những khí cụ hiệu nghiệm
Trong trận chiến này, chúng ta sở hữu 2 khí cụ hiệu nghiệm, mà con cái chúng ta cảm nhận được trong thâm tâm của chúng, ngay cả khi chúng không muốn thừa nhận: Tình yêu và Thiện ý của chúng ta. Tình yêu ấy, thiện ý ấy, và mái ấm gia đình, khi được cắm rễ trong lời cầu nguyện, bạn hãy tin chắc rằng, một ngày nào đó con cái của bạn sẽ nhớ đến.
Vì vậy, đây là một số lời khuyên rất thiết thực:
- 1.Cầu nguyện. Hãycầu nguyện để đau khổ không xâm chiếm mọi thứ. Thời gian cầu nguyện hàng ngày sẽ giúp bạn có khả năng xây dựng những cầu nối mà không phải ngưng những việc quan trọng cần làm. Nếu rơi vào tình huống khó khăn hơn, bạn sẽ phải cầu nguyện nhiều hơn nữa.
- 2.Các nhà trừ tà nói rằng ma quỷ rất lười biếng, cho nên, bạn hãygây khó khăn cho chúng. Hãy lần hạt Mân Côi hàng ngày cho con cái của bạn. Hãy cầu nguyện cho bất cứ ai tìm cách để lánh xa bạn, và những lời khuyên bước theo Chúa của bạn.
- 3.Hãy dâng những đau khổ vìcon cái và gia đình của bạn cho Chúa, và đừng quên dâng một phần đau khổ của bạn để an ủi Đức Kitô, hầu xoa dịu những khoảnh khắc trong cuộc Khổ nạn của Người.
- 4.Hãy kiên nhẫn chờ đợi. Ânsủng sẽ có tác động. Hãy nhớ rằng, dù mọi chuyện có vẻ tồi tệ, nhưng trận chiến thực sự đã phân thắng bại. Chúng ta chỉ cần kiên trì.
- 5.Hãy nhớ rằng, nếu chúng ta sẵn lòng yêu thương con cái của mình ngay cả khi chúng có vẻ ghét bỏ chúng ta, thìThiên Chúa còn sẵn lòng yêu thương chúng ta hơn thế biết là dường nào!
Hãy phó mình cho Đức Trinh Nữ và thánh Monica, nhờ đó chúng ta và toàn gia đình có thể trở nên gần gũi hơn với Thiên Chúa.
Nt. Anna Ngọc Diệp, OP
Dòng Đa Minh Thánh Tâm
2022
“Thánh Thể là sức mạnh của tôi”: câu chuyện của sơ Alicia Torres
“Thánh Thể là sức mạnh của tôi”: câu chuyện của sơ Alicia Torres
Sơ Alicia Torres chia sẻ về ơn gọi của mình là một nữ tu bén rễ trong Bí tích Rửa tội và “được kết nối mật thiết với Bí tích Thánh Thể”, từ đó sơ có được sức mạnh và hy vọng để trao ban cho những người xung quanh trong những “hoàn cảnh khó khăn” mà họ đang sống.
Sơ Alicia Torres, Dòng Phanxicô Thánh Thể
Mọi chuyện bắt đầu khi Alicia Torres theo học cử nhân tại Đại học Loyola. Thần học và đạo đức sinh học là hai môn nằm trong danh sách các khoá học. Nhưng trong thời gian này, Alicia cũng bắt đầu dành nhiều thời gian để thực hành việc chầu Thánh Thể. Khoảng thời gian vô cùng quý giá đó đã giúp cô tạo “một mối tương quan thực sự với Người”. “Không chỉ Bí tích Thánh Thể trở nên thật hơn” nhưng “niềm tin theo lý trí” của cô đã được biến thành “một niềm tin của con tim: là chính Chúa Giêsu!”.
Đó mới chỉ là khởi đầu. Khi Thánh Lễ và cuộc sống của cô trở nên thực hơn, Alicia bắt đầu cảm thấy một lời mời gọi thuộc trọn về Chúa với tư cách là một nữ tu.
Do đó, Alicia đã gia nhập một Hội dòng mới lập, Dòng Phanxicô Thánh Thể Chicago. Sơ Alicia vẫn tự hỏi về cách Chúa đã muốn dẫn mình đến với cộng đoàn này, vì trước đây sơ chưa hề tiếp xúc với việc phục vụ người nghèo. Sơ nghĩ rằng sứ mạng của sơ đâm chồi từ phong trào phò sự sống mà sơ đã tích cực tham gia từ thời trung học. Tuy nhiên, nhìn lại 13 năm dấn thân và sống trong dòng tu này, sơ không khỏi ngạc nhiên nhận ra rằng “kế hoạch của Chúa cho cuộc đời tôi thật hoàn hảo!”
Sơ Alicia, khi nhìn lại ơn gọi của mình, giải thích về mối liên hệ giữa đặc sủng của Thánh Phanxicô Assisi và Bí tích Thánh Thể: “Nhiều người không nhận ra Bí tích Thánh Thể quan trọng như thế nào đối với Thánh Phanxicô Assisi. Sau Công đồng Lateranô IV, ngài đã viết một lá thư cho mỗi linh mục trên thế giới để nhấn mạnh việc thực hành yêu mến và sùng kính Thánh Thể, điều đã được các Nghị phụ của Công đồng đề nghị”.
Đối với sơ Alicia và các chị em cùng Dòng, sứ mạng dành cho người nghèo qua việc giảng dạy và loan báo Tin Mừng được thực hiện nhờ một “mối tương quan đặc biệt với Chúa Giêsu Kitô trong Bí tích Thánh Thể”. “Có một mối liên hệ mạnh mẽ và lạ thường giữa sự hiện diện thực sự của Chúa trong Bí tích Thánh Thể và sự hiện diện với dân của Người, đặc biệt là với những người nghèo và người đau khổ”.
Chúa không chỉ hướng sơ đi theo hướng mà sơ không nhìn thấy, mà Người còn dẫn sơ đến một Hội dòng mà sơ là “một trong những người đầu tiên gia nhập”. Sơ Alicia nói: “Đó là những ngày tiên phong của Dòng.”
Hình nhóm những nhà thuyết giảng
Hiện nay sơ Alicia sống và phục vụ như một giáo viên tôn giáo ở một vùng ngoại ô nghèo của Chicago. Sơ nói: “Bí tích Thánh Thể là tâm điểm lớp học của tôi, là trọng tâm kinh nghiệm tôn giáo của các học trò nhỏ của tôi”. Một kinh nghiệm chứng tá về việc làm thế nào để mời trẻ em đến gặp gỡ Chúa, sau đó dẫn chúng đến chỗ tin và cảm nhận sự hiện diện của Chúa Giêsu trong Bí tích Thánh Thể. Sơ kể: “Tôi có một học trò rất khó khăn trong việc diễn tả bằng lời. Sau hai tháng học về Bí tích Thánh Thể, tôi đã yêu cầu em vẽ một hình ảnh về Chúa Giêsu. Em đã vẽ một vòng tròn với một Thánh giá ở chính giữa. Tôi hỏi em đã vẽ gì và em đã trả lời với vẻ tự nhiên và thích thú: “Thiên Chúa! Thiên Chúa”.
Sơ Alicia đang tiếp tục thực hiện sứ mạng có quy mô toàn quốc từ sáng kiến của các Giám mục Hoa Kỳ. Cuối tháng Tư vừa qua ở Chicago, sơ đã giúp tổ chức một khoá tĩnh tâm cho các linh mục thuyết giảng về Bí tích Thánh Thể. Các linh mục thuyết giảng này sẽ tham gia chiến dịch Phục hưng Thánh Thể Quốc gia sẽ bắt đầu vào ngày 19 tháng 6 tới đây, ngày lễ Mình Máu Thánh Chúa, và sẽ kết thúc với đại hội Thánh Thể toàn quốc vào năm sau.
Sơ Alicia đã bắt đầu làm việc trong ủy ban điều hành của dự án này ngay từ mùa hè năm ngoái “cùng với nhiều nhà lãnh đạo giáo dân tuyệt vời khác”. Sau khi được giao nhiệm vụ đặc biệt trong nhóm điều hợp cùng với các linh mục sẽ trở thành “những nhà thuyết giảng trong Đại hội Thánh Thể quốc gia”, sơ bắt đầu giúp cá nhân các linh mục về ơn gọi của họ cho sứ mạng này và cung cấp cho họ những thông tin.
Sơ Alicia nói: “Thật không thể tin được khi nhìn thấy sự hăng hái của các linh mục và sự canh tân ơn gọi linh mục của họ. Bởi vì các linh mục có một vai trò then chốt trong việc mang con người đến với Bí tích Thánh Thể, và Bí tích Thánh Thể đến với con người. Nhưng điều này cũng rất hữu ích đối với sơ trong ơn gọi nữ tu khi khám phá ra vai trò của chính mình trong Giáo hội, bằng cách hỗ trợ một điều gì đó thật thiết yếu. Sơ nói: “Tôi có một món quà thật đẹp để cho đi và đó chính là điều mang lại sự sống cho tôi.”
Sơ Alicia mô tả ơn gọi nữ tu của mình được đâm rễ nơi Bí tích Rửa tội và “kết nối mật thiết với Bí tích Thánh Thể”. “Tôi không thể tưởng tượng được một cuộc sống khác ngoài việc đồng hành với những người có những hoàn cảnh hết sức khó khăn, và vẫn còn hy vọng”, khi “hằng ngày chúng ta nghe thấy tiếng súng ở ngay bên. Nhưng tôi không sợ vì tôi tin rằng tôi đã được Chúa mời gọi ở đây, và tôi được kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu, và Người là nguồn sức mạnh của tôi.”
Sr. Bernadette M. Reis, fsp