2022
Làm chứng cho Chúa trong bối cảnh khủng hoảng môi sinh thời đại dịch Covid-19
LÀM CHỨNG CHO CHÚA TRONG BỐI CẢNH KHỦNG HOẢNG MÔI SINH THỜI ĐẠI DỊCH COVID-19
Lm. Giuse Bùi Công Trác
DẪN NHẬP
Chúng ta đang đối diện với đại dịch Covid-19, một cuộc khủng hoảng toàn cầu gây kinh hoàng và lo lắng. Kinh hoàng vì virus Corona đang hoành hành gần như khắp các quốc gia trên thế giới khiến số người nhiễm bệnh và tử vong không ngừng gia tăng. Lo lắng vì đại dịch đã tác động một cách tiêu cực đến mọi mặt của đời sống con người, kéo theo hàng loạt khủng hoảng trong nhiều lãnh vực: chính trị, kinh tế, xã hội, môi trường…
Khởi đi từ những gợi ý trong Thông điệp Laudato Si’, Đức giáo hoàng Phanxicô mời gọi chúng ta hãy lắng nghe tiếng than khóc của trái đất và tiếng rên siết của những người bị bỏ rơi, đồng thời, dấn thân chăm sóc ngôi nhà chung, bằng việc suy tư và hành động “cho một nền sinh thái học toàn diện và cho sự phát triển toàn vẹn của nhân loại”.[1] Lắng nghe, suy tư và dấn thân hành động là những từ khóa được Đức Thánh Cha gợi ý trong Thông điệp Laudato Si’ cũng được nhắc lại trong bài viết này để phác thảo đôi nét chấm phá bức tranh làm chứng cho Chúa trong bối cảnh khủng hoảng môi sinh thời đại dịch.
I. LẮNG NGHE THẾ GIỚI ĐANG THAN KHÓC
Trong Thông điệp Laudato Si’, Đức Phanxicô mời gọi chúng ta lắng nghe tiếng than khóc của Mẹ Trái Đất,[2] vì con người chẳng những đã sử dụng thiếu trách nhiệm mà còn lạm dụng của cải vật chất Thiên Chúa ban tặng[3] khi gây ra biến đổi khí hậu, tàn phá thiên nhiên, gây ô nhiễm chẳng những nguồn nước, đất đai mà còn không khí và sự sống… Đó là một tội ác, vì khi chống lại thế giới tự nhiên, con người chống lại chính mình và Đấng Tạo Thành.[4]
Cuộc khủng hoảng môi trường do chính con người tạo ra càng ngày càng ảnh hưởng tiêu cực đến mọi mặt của đời sống xã hội. Tình trạng này càng ngày càng tồi tệ với nền văn hóa loại trừ và vứt bỏ,[5] việc suy giảm phẩm chất đời sống con người và suy thoái xã hội,[6] lối sống thực dụng và tiêu thụ, chủ nghĩa cá nhân và coi con người là trung tâm.[7]
Trong nhãn quan ấy, một nền thần học môi sinh giúp chúng ta có một cái nhìn toàn diện về thiên nhiên như một thiện ích chung, là gia sản của toàn thể nhân loại,[8] về mối liên hệ mật thiết giữa con người với Thiên Chúa và với môi sinh,[9] và về trách nhiệm của mỗi người để bảo vệ gia sản đã được Thiên Chúa trao ban. Trong chiều hướng ấy, để bảo vệ, phát triển và hoàn thiện môi trường sinh thái, cần đưa con người trở lại đúng vị trí và nhấn mạnh vai trò của Người Cha – Đấng Tạo Hóa và chỉ mình Người làm chủ thế giới này.[10] Một nền sinh thái học toàn diện và bền vững phải được xây dựng trên nền tảng tôn trọng phẩm giá con người, dấn thân cho công ích, quan tâm đến những người nghèo nhất và bảo đảm chất lượng cuộc sống con người. Với các tổ chức chính trị, xã hội hay tôn giáo, hai yếu tố cần thiết là việc đối thoại cách chân thành, minh bạch, đồng thời cùng nhau hợp tác hành động bằng những chiến lược phù hợp. Bên cạnh đó, cần giáo dục để mọi người thay đổi não trạng cũ và dấn thân xây dựng một lối sống mới, lối sống hiệp thông với Thiên Chúa, với tha nhân và với toàn thể thụ tạo và thiên nhiên.
II. VÀI SUY NGHĨ VỀ NGUỒN GỐC ĐẠI DỊCH COVID-19
Khi dịch Covid bùng phát vào cuối tháng 11 năm 2019 tại Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc,[11] không ai ngờ rằng đại dịch sẽ nhanh chóng tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội khiến kinh tế toàn cầu chao đảo, thị trường tài chính biến động, tỷ lệ nghèo đói và thất nghiệp cao chưa từng có trong lịch sử… Ban đầu, các nhà khoa học rất lạc quan vì cho rằng virus Corona ổn định, ít đột biến nhanh nên việc điều trị sẽ không quá khó khăn. Tuy nhiên trên thực tế, virus Corona đã khiến các nhà khoa học đau đầu với những biến thể càng ngày càng mạnh và nguy hiểm hơn.
Theo các nhà khoa học, biến thể SARS-Cov-2 được phân làm ba loại:
– Biến thể đáng quan tâm với các loại: Iota, Kappa, Eta, Lambda và Mu;
– Biến thể đáng lo ngại với các loại: Alpha, Beta, Gamma, Delta và Omicron;
– Biến thể có hậu quả nghiêm trọng: các nhà khoa học chưa ghi nhận biến thể nào.
Tại Việt Nam, trong đợt dịch bùng phát lần thứ 4, biến thể Delta đã làm mưa làm gió khắp nước, gây thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng tại Thành phố Hồ Chí Minh và một số tỉnh phía Nam.
Về nguồn gốc, phần lớn các nhà khoa học cho rằng virus bắt nguồn từ dơi và lây sang người thông qua một vật chủ trung gian, song vẫn chưa xác định vật chủ đó là gì. Giả thuyết thứ hai cho rằng virus bị rò rỉ từ phòng thí nghiệm, cụ thể là Viện Virus học Vũ Hán. Những cuộc tranh luận này vẫn chưa có hồi kết, bất chấp những cuộc điều tra của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) hay truy lùng của tình báo một số quốc gia. Như thế, khủng hoảng đại dịch Covid có thể mang màu sắc chính trị nếu virus không bắt nguồn từ nguồn gốc tự nhiên.
Trong Thông điệp Laudato Si’, Đức Thánh Cha Phanxicô đã trích lại lời của Đức thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II về các loại vũ khí hóa học, vi sinh và sinh học sẽ gây ra chiến tranh tàn phá môi trường: “Bất chấp các thỏa thuận quốc tế ngăn cấm chiến tranh hóa học, vi trùng và sinh học, thực tế trong phòng thí nghiệm, người ta vẫn tiếp tục nghiên cứu và phát triển các loại vũ khí tấn công mới có thể làm thay đổi sự cân bằng tự nhiên”.[12] Như thế, nếu giả thuyết virus Corona được nghiên cứu như một vũ khí sinh học thì việc rò rỉ virus ra môi trường tự nhiên là một thảm họa, chẳng những cho sinh thái mà còn cho tương lai của con người trên trái đất. Nơi khác, Đức Thánh Cha nói đến năng lượng nguyên tử, công nghệ sinh học, công nghệ thông tin, kiến thức về ADN đem lại cho con người sức mạnh vô song và ngài chất vấn: “Tất cả sức mạnh này nằm trong đôi tay ai và sẽ có kết cục thế nào? Thật khủng khiếp khi một bộ phận nhân loại đang sở hữu sức mạnh ấy”.[13]
Cuộc tranh luận về nguồn gốc của virus Corona chưa có hồi kết, nhưng những tác hại do đại dịch gây ra đang ảnh hưởng trên nhiều lãnh vực trong đời sống xã hội khiến chúng ta phải để tâm suy nghĩ.
Khủng hoảng môi sinh do đại dịch gây ra
Đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi thế giới và ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường sinh thái, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực. Những tác động này sẽ còn ảnh hưởng thế giới trong một thời gian dài, ngay cả khi đại dịch chấm dứt.
Tác động trước hết là đại dịch ảnh hưởng đến cách chúng ta sống và làm việc. Lối sống náo nhiệt với nhiều mối tương quan trước kia được thay thế bằng lối sống khép kín, lo âu và căng thẳng. Thế giới như một ngôi làng toàn cầu với những mối tương quan cởi mở và thân thiện nay được thay thế bằng những cụm từ “phong tỏa”, ‘“cách ly”, ““giãn cách xã hội”, “đóng cửa biên giới”… những cụm từ hiếm khi được sử dụng trước khi đại dịch bùng phát. Theo các nhà tâm lý học, về lâu dài, khi các mối tương quan xã hội bị hạn chế, con người dễ bị căng thẳng, lo âu, hay rối loạn tâm thần, trầm cảm.
Khi thực hiện phong tỏa hay giãn cách xã hội, chất lượng môi trường được cải thiện theo chiều hướng tích cực: không khí trong lành hơn, tỷ lệ lượng khí thải carbon dioxide trở về con số lý tưởng, nồng độ bụi mịn trong không khí không còn là mối nguy cơ đối với sức khỏe con người nữa, mức độ ô nhiễm tiếng ồn thấp chưa từng có, suy giảm hiệu ứng nhà kính. Tuy nhiên, những chỉ số lý tưởng này chỉ mang tính cách tạm thời, vì khi hết giãn cách xã hội, chấm dứt phong tỏa, mọi sự sẽ trở lại như trước kia, có khi còn tệ hơn trước.
Đại dịch Covid-19 là cuộc khủng hoảng toàn cầu, tác động đến nhiều lãnh vực. Khi dịch bệnh lan rộng đến đâu thì hệ thống sản xuất, kinh doanh và lưu thông hàng hóa bị đứt gãy đến đó, dẫn đến các chuỗi cung ứng bị gián đoạn. Đây là một trong những tác nhân gây nên khủng hoảng và suy thoái kinh tế, kéo theo số người thất nghiệp gia tăng, tình trạng nghèo đói và bất bình đẳng xã hội càng nghiêm trọng. Theo dự đoán của các nhà kinh tế, do ảnh hưởng của đại dịch, tăng trưởng thế giới sẽ tiếp tục suy giảm, dẫn đến suy thoái kinh tế toàn cầu còn nghiêm trọng hơn cả cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008-2009, với nhiều hệ lụy và nợ xấu gia tăng tại nhiều quốc gia.
Một tác động tiêu cực đến môi trường được kể đến trong thời gian hạn chế đi lại và giãn cách xã hội là việc gia tăng sử dụng nhựa và các sản phẩm sử dụng một lần. Bên cạnh đó, trong thời đại dịch, các doanh nghiệp áp dụng các biện pháp sản xuất và tiêu thụ không bền vững cũng góp phần ảnh hưởng đến môi trường trong thời gian dài. Những vấn đề này có liên hệ cách nào đó với nền văn hóa vứt bỏ mà Đức Phanxicô đề cập đến trong Thông điệp Laudato Si’.[14]
Trong lãnh vực dự phòng và chữa trị, nếu dịch lây lan nhanh với số người bị nhiễm lớn thì hệ thống y tế, ngay tại các nước giàu có và phát triển, sẽ trở nên quá tải, gây khủng hoảng y tế trầm trọng. Những nước nghèo hay đang phát triển, với hệ thống y tế và tiềm lực hạn chế, sẽ khó có thể đương đầu khi dịch bùng phát mạnh. Một vấn đề khác cũng làm đau đầu chính quyền các quốc gia là việc xử lý nguồn rác thải y tế bị nhiễm virus vì là nguồn lây nhiễm đe dọa trực tiếp đến môi trường sống của con người. Chẳng hạn tại thành phố Hồ Chí Minh, rác thải y tế từ các bệnh viện điều trị Covid-19, khu cách ly, bệnh viện dã chiến… trong thời gian cao điểm chống Covid là rất lớn, lên đến cả trăm tấn mỗi ngày, chưa kể khối lượng lớn rác y tế tại các cơ sở y tế địa phương và F0 tại nhà.
Covid-19 được xếp vào bệnh truyền nhiễm nhóm A, nên việc xử lý thi thể người bị nhiễm bệnh được thực hiện với quy trình nghiêm ngặt nhằm hạn chế tối đa nguồn lây nhiễm và không ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường sống của con người. Thông thường, việc diệt khuẩn, khâm liệm và hỏa táng hay mai táng được thực hiện càng sớm càng tốt, trong vòng 24 giờ kể từ khi người bệnh tử vong. Khi số ca tử vong quá nhiều sẽ gây ra khủng hoảng trong quy trình xử lý. Trong trường hợp này, có khi tử thi bị lưu giữ một thời gian dài hay được xử lý thiếu chặt chẽ ảnh hưởng đến môi trường và có nguy cơ gây lây nhiễm trong cộng đồng. Bên cạnh đó, còn phải kể đến việc khan hiếm quan tài, thiếu nhân viên mai táng và nhiều vấn đề khác phát sinh trong quá trình xử lý, khiến cho khủng hoảng này chưa có hồi kết.
III. GIÁO HỘI CÔNG GIÁO TRONG CƠN ĐẠI DỊCH
Chỉ sau vài tháng từ khi ca bệnh đầu tiên được phát hiện tại Vũ Hán, virus Corona mau chóng lây lan và hoành hành tại nhiều quốc gia. Ca nhiễm đầu tiên tại Hoa Kỳ vào ngày 21 tháng Giêng năm 2020, tại Việt Nam ngày 23 tháng Giêng, tại Ý ngày 31 tháng Giêng, tại Vatican ngày 05 tháng 03 năm 2020… Đứng trước mối nguy hiểm, nhiều nước phải áp đặt lệnh phong tỏa nghiêm ngặt nhằm cắt đứt nguồn lây nhiễm. Ngày 23 tháng Giêng năm 2020, chính quyền Trung Quốc phong tỏa toàn bộ thành phố Vũ Hán. Ngày 09 tháng 03 năm 2020, Thủ tướng nước Ý, Giuseppe Conte ra sắc lệnh phong tỏa toàn quốc. Ban chiều cùng ngày, Hội đồng Giám mục Ý đã ra thông báo về việc ngưng toàn bộ thánh lễ trên khắp nước Ý, từ ngày 10 tháng 03 đến ngày 03 tháng 04 để ngăn ngừa virus Corona lây lan. Cứ như thế, hết nước này đến nước khác, chính quyền dân sự thực hiện các biện pháp phong tỏa, giãn cách xã hội. khiến cho các sinh hoạt, từ đời sống xã hội đến tôn giáo, đều bị đảo lộn, gián đoạn hay hạn chế. Nếu nhìn dưới con mắt đức tin, dịch Covid-19 như một dấu chỉ thời đại nhắc nhớ rằng thế giới này đang bị bệnh, nên cần phải được chữa lành.
Khi cả thế giới đang hoang mang lo lắng, chiều thứ Sáu ngày 27 tháng 03 năm 2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ cầu nguyện nài xin Chúa gìn giữ nhân loại trước sức tàn phá kinh hoàng của virus Corona. Hình ảnh Đức Thánh Cha cầu nguyện trong Quảng trường thánh Phêrô trống vắng vừa minh chứng đại dịch đã tác động mạnh mẽ thế nào trong đời sống phụng vụ và mục vụ của Giáo hội, vừa là một lời mời gọi mở ra để nên chứng tá trong thế giới, “để đồng hành, nâng đỡ niềm hy vọng, trở thành dấu chỉ hiệp nhất… xây những cây cầu, phá vỡ những bức tường, và gieo rắc những hạt giống hòa giải”.[15]
1. Sử dụng các phương tiện truyền thông để loan báo Tin Mừng
Khi các sinh hoạt phụng vụ và mục vụ bị hạn chế, Giáo hội đã sử dụng các phương tiện truyền thông để truyền tải Tin Mừng cứu độ, nâng đỡ đức tin đoàn chiên và giúp họ vượt thắng cuộc khủng hoảng. Trên khắp thế giới, nhiều linh mục đã sử dụng các phương tiện truyền thông và mạng xã hội để cử hành thánh lễ, chia sẻ Lời Chúa hay dạy giáo lý. Trong các tình huống ngoại thường hay đặc thù như trong thời dịch bệnh, nếu sử dụng các phương tiện kỹ thuật trực tuyến và truyền thông xã hội theo đúng chỉ dẫn của huấn quyền, sẽ là cách thế hữu hiệu giúp người tín hữu kín múc dồi dào ân sủng từ suối nguồn Thánh Thể và nâng đỡ họ trong cơn thử thách gian nan. Tại Việt Nam, các giáo phận đều tổ chức thánh lễ trực tuyến, thậm chí cả các thánh lễ bằng tiếng nước ngoài, thánh lễ cho thiếu nhi, chầu Thánh Thể hay lần chuỗi trực tuyến.[16] Ngược lại, nếu không được chuẩn bị kỹ lưỡng thì việc dâng lễ hay cử hành phụng vụ trực tuyến có thể sẽ làm mất đi phần nào tính linh thánh của cử hành phụng vụ và không đem lại ơn ích thiêng liêng liêng cho người tham dự.[17]
Trong thời đại công nghệ thông tin, khi xã hội bị phong tỏa, thì các phương tiện truyền thông lại là nơi nối kết mọi người. Trong chiều hướng ấy, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng mời gọi: “Những ngày tháng này, hơn lúc nào hết, chúng ta cần sự hiệp thông cụ thể với nhau. Quý cha và cộng đoàn giáo xứ, các đoàn thể, hãy sử dụng mạng xã hội để kết nối, chia sẻ thông tin, khích lệ nâng đỡ nhau. Mỗi người hãy là dụng cụ cho lòng thương xót của Chúa, hãy là môi miệng của Chúa, đôi tay đôi chân của Chúa”. [18]
Khi tình trạng phong tỏa kéo dài, thiệt hại về đức tin sẽ rất lớn, chẳng hạn tại Việt Nam, dựa vào con số truy cập trên trang Youtube của các giáo phận, số người tham dự thánh lễ trực tuyến ngày thường, nhất là ngày Chúa nhật, không cao nếu so sánh với tổng số giáo dân trong giáo phận. Bên cạnh đó, sinh hoạt giáo lý của giới trẻ và thiếu nhi bị gián đoạn cũng ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống đức tin của các em. Trong bối cảnh ấy, có giám mục mời gọi quý cha trong giáo phận cùng suy nghĩ cách thế nào giúp nâng đỡ đời sống đức tin cho Dân Chúa, cách riêng cho thiếu nhi và giới trẻ, khi các sinh hoạt phụng vụ và mục vụ vẫn chưa trở lại bình thường.
2. Canh tân đời sống cầu nguyện
Tại giáo xứ, các sinh hoạt mục vụ đầy ắp trước kia nay bị xáo trộn vì dịch bệnh. Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng nhắn nhủ các linh mục: “Quý cha hãy sử dụng thời gian giãn cách xã hội này như một cơ hội quý báu để canh tân đời sống nội tâm, tựa như một cuộc tĩnh tâm dài ngày tại nhà: dành nhiều thời gian để sống bên Chúa Giêsu Thánh Thể, dâng thánh lễ sốt sắng hơn, đọc Giờ kinh Phụng vụ nghiêm trang hơn, nguyện gẫm lâu giờ hơn, xét mình về lối sống, về tính tình cũng như về các hoạt động mục vụ, đọc một quyển sách, xem một cuốn phim hay… Trong những ngày này, chúng ta không thể nói là không có giờ. Việc phục vụ cộng đoàn vẫn tiếp tục nhưng bằng một hình thức khác: nhớ tới từng cá nhân hay từng gia đình trong giáo xứ và cầu nguyện cho họ, nhất là những cá nhân hay gia đình đang gặp khó khăn. Phục vụ cộng đoàn bằng cách cầu nguyện để nài xin ân sủng cho Dân Chúa chắc chắn còn hữu hiệu hơn các hoạt động với khả năng của con người”.[19]
Quả thật, giữa cơn bão dịch bệnh, hơn lúc nào hết người mục tử cần phải lắng nghe Lời Chúa với một con tim rộng mở, nhìn nhận sự nghèo hèn của chính mình và để Chúa chiếm hữu. Có như thế, khi các sinh hoạt mục vụ bị đảo lộn, người mục tử vẫn có thể nói như thánh Phêrô: “Vàng bạc thì tôi không có, nhưng cái tôi có, tôi cho anh đây” (1Pr 3, 6). Có thể nói rằng trong mọi hoàn cảnh, Chúa muốn sử dụng chúng ta như những con người sống động, tự do và sáng tạo, những con người được Chúa chiếm hữu để loan truyền sứ điệp cứu độ cho người khác,[20] có khi không bằng những sinh hoạt mục vụ bên ngoài nhưng là lời cầu nguyện hay những hy sinh âm thầm trong tâm hồn.
Các mục tử cũng có bổn phận giúp cho các tín hữu sống đức tin trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong thời gian dịch bệnh. Khi các cử hành phụng vụ bị hạn chế thì việc cử hành các việc đạo đức bình dân, “một kho báu của Giáo Hội Công giáo”, lại nuôi dưỡng đức tin và mở ra sứ mạng truyền giáo.[21] Chẳng hạn, trong đầu tháng Hoa kính Đức Mẹ, mùng 01 tháng 05 năm 2021, Đức Thánh Cha Phanxicô đã chủ sự giờ lần hạt Mân Côi tại đền thờ thánh Phêrô, khai mạc “Marathon cầu nguyện”, mời gọi mọi người cầu nguyện cho đại dịch mau kết thúc. Tại Việt Nam, có cha xứ tổ chức lần chuỗi Mân Côi hay lần chuỗi lòng Chúa thương xót mỗi ngày vào giờ cố định và mời gọi cả giáo xứ cùng tham gia. Có giáo xứ khi chuông vang lên báo hiệu giờ kinh tối, mọi người ai ở nhà nấy cùng nhau đọc…
Quả thật, khi hoang mang lo lắng, việc cầu nguyện là cần thiết, cấp bách và quan trọng. Cần thiết vì là linh dược chữa lành: “Lạy Đức Chúa, xin cứu chữa con, để con được chữa lành, xin cứu thoát con, để con được giải thoát, vì vinh dự của con chính là Ngài!” (Gr 17,14). Cấp bách “vì con đang lâm cảnh ngặt nghèo” (Tv 31, 10). Quan trọng vì “Không có thầy các con không làm được gì” (Ga 15, 5).
3. Tình liên đới trong đại dịch
Đại dịch đã khiến nhiều triệu người tử vong, đủ mọi hạng người, mọi lứa tuổi, mọi tôn giáo. Bóng đen u ám bao phủ nơi thành thị hay vùng thôn quê, ngoài đường phố hay trong gia đình bằng sự trống rỗng thê lương gây choáng váng và lo sợ. Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng đã cho thấy tình cảnh thê lương trong giáo phận như sau: “Đã có những linh mục bị nhiễm và tử vong. Nhiều cộng đoàn dòng tu đã có các tu sĩ lây nhiễm, đến nay nhiều người đã khỏi, nhưng cũng có nhiều tu sĩ đã lặng lẽ ra đi. Nhiều giáo xứ có 10, 20 người tử vong. Riêng giáo xứ Bình An trong hai tháng qua đã có 70 người qua đời vì Covid-19. Có khi 2, 3 người trong một gia đình đã chết, có gia đình 2 người chết trong một ngày, có gia đình không còn một ai! Làm sao lòng chúng ta không quặn đau khi chứng kiến những cảnh đau thương này. Làm sao chúng ta có thể cầm lòng khi nhìn thấy trẻ thơ còn lại một mình vì cha mẹ anh chị đã mất vì Covid!”.[22]
Đối diện với bầu khí đen tối ấy, có biết bao nhiêu người đang vẽ nên bức tranh hy vọng bằng sự hy sinh âm thầm, bằng dấn thân không mệt mỏi vì cộng đoàn: từ các bác sĩ đến nhân viên y tế, từ nhân viên công lực đến chính quyền dân sự, từ các nhân viên cung ứng hàng hóa đến đội ngũ chuyên chở, từ các nhân viên vệ sinh đến các nhân viên mai táng, từ các linh mục, tu sĩ đến các tình nguyện viên…
Trong Thông điệp Fratelli Tutti, Đức Phanxicô cho thấy chúng ta đang ở trên cùng một con thuyền, là một phần của nhau, là anh chị em với nhau,[23] nên phải liên đới và giúp nhau chiến thắng dịch bệnh. Đức Thánh Cha muốn Giáo Hội phải là một “bệnh viện dã chiến” để gần gũi và giúp đỡ các anh chị em đang bị tổn thương thể chất và tâm lý, xã hội và tinh thần.
Tại Việt Nam, ngày 02 tháng 06 năm 2021, Hội đồng Giám mục Việt Nam kêu gọi mọi người liên đới với nhau, chung tay góp sức, san sẻ công việc với mọi thành phần trong xã hội và Giáo Hội để phòng chống đại dịch.[24] Quả thật, khi các hoạt động mục vụ bị hạn chế, lại là lúc nhiều sáng kiến bác ái đem đến an ủi và niềm hy vọng, lôi kéo nhiều đoàn thể, tổ chức và cá nhân tham gia, như lời Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng nói: “Chúng ta đóng cửa nhà thờ, chứ không đóng cửa lòng”.[25] Tình liên đới nối kết nhiều tấm lòng quảng đại phần nào làm nhẹ bớt những nỗi khốn cùng của anh chị em nghèo khổ, nhất là những người bị bỏ rơi.
4. Làm chứng cho Chúa bằng các hoạt động bác ái
“Việc phục vụ bác ái là yếu tố cấu thành sứ mạng của Giáo hội và là một biểu hiện thiết yếu của chính sự hiện hữu của Giáo hội”.[26] Vì thế, với tấm lòng hiền phụ, Đức Thánh Cha, ngoài việc trợ giúp bác ái nhân danh Tòa Thánh, nhiều lần kêu gọi chính quyền và các tổ chức phi chính phủ cùng chung sức trong cuộc chiến chống Covid. Trong sứ điệp Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên, 01 tháng 09 năm 2020, ngài còn kêu gọi các nước giàu xóa nợ cho các nước nghèo, nhất là các nước đang gặp khủng hoảng về y tế, kinh tế và xã hội do đại dịch Covid-19 gây ra.[27]
Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, nhiều chiến dịch bác ái được tiến hành, từ cấp Hội đồng Giám mục đến các Giáo phận, nhằm hỗ trợ tuyến đầu chống dịch và giúp đỡ những người đang gặp khó khăn. Việt Nam đã qua bốn lần dịch bùng phát trong cộng đồng.[28] Tuy nhiên, đợt bùng phát thứ tư, với biến chủng Delta đã gây tổn thất nặng nề, chẳng những tác động đến mọi mặt của đời sống xã hội mà còn khiến nhiều người khốn đốn, nhất là giới lao động nghèo. Khi Sài Gòn trở nên tâm dịch với số lây nhiễm cao nhất nước, ngành y tế quá tải, sản xuất bị đình trệ… Đức cha Chủ tịch Hội đồng Giám mục Việt Nam đã phát động thư kêu gọi: “Thương quá Sài Gòn ơi!” để mọi người, trong nước cũng như hải ngoại, cùng góp phần thực thi bác ái theo Lời Chúa: “Các con đã lãnh nhận nhưng không, thì hãy cho đi nhưng không” (Mt 10, 8b).[29]
Đứng trước những nhu cầu cấp bách của đoàn chiên, Caritas các giáo phận, các đoàn thể, giáo xứ và dòng tu đã có nhiều sáng kiến mục vụ hữu hiệu và uyển chuyển, nối kết những tấm lòng quảng đại để sẻ chia khó khăn với anh chị em nghèo, đặc biệt các công nhân nhập cư. Những sáng kiến như “Hạt gạo yêu thương”, “Chung tay lan tỏa yêu thương”, “Hạt gạo cho người nghèo”, “Siêu thị mini 0 đồng”, “ATM gạo”, “Đặc sản ATM lướt ống”… đã trở nên những điểm sáng trong vô vàn sáng kiến bác ái nhằm chia sẻ gánh nặng mưu sinh với người nghèo, bất kể lương giáo. Tại các giáo xứ, mạng lưới Caritas hay các đoàn thể công giáo trong giáo xứ trở nên nhân lực nòng cốt để thực hiện các chương trình bác ái, lan tỏa yêu thương, do cha xứ là người điều phối và chịu trách nhiệm. Mỗi xứ mỗi vẻ, mỗi dòng tu một cách thế, tùy theo tài lực, nhân lực hay vật lực mà quy mô bác ái lớn hay nhỏ. Tất cả đều nhằm xoa dịu phần nào nỗi khốn khổ của anh chị em và liên đới với họ trong khó khăn.
Tại Sài Gòn, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng yêu cầu các cha phải biết những gia đình nghèo trong địa bàn giáo xứ mình, đồng thời cố gắng tổ chức và huy động nguồn lực để giúp đỡ họ, bất kể lương giáo. Ngài nói: “Người nghèo khó vẫn có đó, nhưng âm thầm ẩn khuất đâu đó, khó nhận ra nếu không tinh ý; tiếng kêu của họ thều thào yếu ớt, khó nghe được nếu ta không thính tai”.[30]
Bên cạnh các hoạt động bác ái, một số linh mục đã thành lập nhóm “đồng hành thiêng liêng” để lắng nghe, tư vấn và cầu nguyện cho những người bị nhiễm bệnh hoặc làm trung gian để báo tin cho các đoàn thể bác ái giúp đỡ, nếu có ai cần trợ giúp vật chất. Có nhóm quy tụ cả các bác sĩ, dược sĩ, điều dưỡng, linh mục và tình nguyện viên với mục đích “hỗ trợ người F0 tại nhà”, khi cung cấp các loại thuốc hay thiết bị hỗ trợ, hoặc đồng hành thiêng liêng nhằm nâng đỡ đời sống đức tin của những người đang gặp khó khăn hay khủng hoảng.
5. Dấn thân hỗ trợ ngành y tế
Chứng từ Kitô giáo còn được thể hiện nơi những người đang ở tuyến đầu phục vụ: họ chẳng những là các tín hữu, với ngành nghề chuyên môn, đang vắt kiệt sức mình tại các bệnh viện, các khu cách ly, mà còn là những thiện nguyện viên len lỏi vào tận khu dân cư để góp phần ngăn chặn dịch bệnh. Có những doanh nhân công giáo, dù công việc kinh doanh bị ảnh hưởng vì dịch bệnh, vẫn quảng đại chia sẻ trong khả năng có thể, cả tài lực lẫn nhân lực, để vẽ nên bức tranh chứng tá tuyệt vời.
Bên cạnh đó tại Việt Nam, chương trình tu sĩ thiện nguyện đã bắt đầu được thực hiện tại các giáo phận, nhất là các giáo phận có nhiều người bị nhiễm, để trợ giúp ngành y tế. Số người tham gia thiện nguyện đã phong phú hơn: linh mục, phó tế, chủng sinh, tu sĩ nam nữ, tu sinh và thỉnh sinh…
Dù thời gian phục vụ của các tu sĩ thiện nguyện chỉ kéo dài trong một thời gian ngắn, nhưng nhìn chung đã có tiếng vang rất lớn cũng như được xã hội nhìn nhận và trân trọng. Về công việc phục vụ hỗ trợ ngành y tế chống dịch, có thể được phân làm hai loại: Phục vụ trực tiếp như chăm sóc các bệnh nhân nặng hoặc hỗ trợ công tác điều dưỡng tại các bệnh viện; Phục vụ gián tiếp như đảm nhận các công tác hậu cần, cấp phát nhu yếu phẩm, lái xe hay những công tác hỗ trợ khác. Nhìn chung, xã hội sẵn sàng đón nhận sự góp phần, dù nhỏ bé và âm thầm, của các tôn giáo, trong đó có Giáo hội Công giáo. Sau thời gian phục vụ, các tu sĩ thiện nguyện sẽ được cách ly hai tuần tại các cơ sở tôn giáo, trước khi trở lại cộng đoàn. Đây vừa là thời gian nghỉ ngơi, tĩnh dưỡng, vừa là cơ hội lắng đọng tâm hồn, lượng giá công việc và bảo đảm không trở nên mối nguy cơ lây nhiễm khi hòa nhập trở lại với cộng đoàn.
TẠM KẾT
Trên đây chỉ là vài suy nghĩ đơn sơ, cùng với mọi người, góp phần vẽ nên bức tranh toàn cảnh của sứ mạng làm chứng cho Chúa trong bối cảnh khủng hoảng môi sinh thời dịch bệnh. Đó cũng là góp phần truyền đi thông điệp hy vọng như lời mời gọi của Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng, vì “Thiên Chúa là Cha giàu lòng từ bi lân ái, và là Thiên Chúa hằng sẵn sàng nâng đỡ ủi an. Người luôn nâng đỡ ủi an chúng ta trong mọi cơn gian nan thử thách, để sau khi đã được Thiên Chúa nâng đỡ, chính chúng ta cũng biết an ủi những ai lâm cảnh gian nan khốn khó. Vì cũng như chúng ta chia sẻ muôn vàn nỗi khổ đau của Đức Kitô, thì nhờ Người, chúng ta cũng được chứa chan niềm an ủi” (2Cr 1, 3-5). Niềm hy vọng ấy được thể hiện bằng lời cầu nguyện, bằng sự hiệp thông yêu thương, bằng những giúp đỡ cụ thể… Như thế, dù trong đêm tối cuộc đời, chúng ta vẫn là những chứng nhân sống động của niềm hy vọng, của đức tin và của lòng mến, [31] để mọi người thấy những công việc tốt lành chúng ta làm mà nhận biết và tôn vinh Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên trời (x. Mt 5, 16).
Tôi sẽ tái sinh, bạn sẽ tái sinh.
Khi mọi sự qua đi
Chúng ta lại cùng nhau ngắm sao trời.
Tôi sẽ tái sinh, bạn sẽ tái sinh
Khi giông tố ập xuống trên chúng ta
Khiến ta lung lay nhưng không làm ta gục ngã.
Chúng ta được sinh ra để chiến đấu với số phận Và chúng ta luôn luôn thắng.
Những ngày này, ngày sống của chúng ta bị xáo trộn Nhưng lần này, chúng ta sẽ học hỏi thêm được một chút. Tôi sẽ tái sinh, bạn sẽ tái sinh.
Bầu trời bao la ôm lấy chúng ta
Chúng ta lại xác tín vào Chúa
Nhưng trong thinh lặng, chúng ta hít thở không khí mới
Nhưng thành phố của tôi làm tôi hoảng sợ.
Chúng ta được sinh ra để chiến đấu với số phận
Và chúng ta luôn luôn thắng.
Tôi sẽ tái sinh, bạn sẽ tái sinh… (Roby Facchinetti)[32]
Trích Bản tin Hiệp Thông / HĐGMVN, Số 128 (Tháng 3 & 4 năm 2022)
[1] Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 62: AAS 107 (2015), 871.
[2] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 1: AAS 107 (2015), 847.
[3] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 2: AAS 107 (2015), 847.
[4] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 8: AAS 107 (2015), 850.
[5] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 22: AAS 107 (2015), 855-856.
[6] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 43-47: AAS 107 (2015), 863-865.
[7] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 116: AAS 107 (2015), 894.
[8] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 95: AAS 107 (2015), 885.
[9] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 66: AAS 107 (2015), 873.
[10] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 75: AAS 107 (2015), 877.
[11] Ca nhiễm virus corona đầu tiên được phát hiện tại Vũ Hán ngày 17 tháng 11 năm 2019. Ngày 31 tháng 12 năm 2019, Trung Quốc báo cáo tình hình cho Tổ chức Y tế Thế giới (WHO). Sau đó, dịch lan mạnh sang Châu Âu và Bắc Mỹ khiến Tổ chức Y tế Thế giới, ngày 31 tháng giêng năm 2020 chính thức tuyên bố tình trạng khẩn cấp và công bố Covid-19 là “đại dịch” ngày 11 tháng 03 năm 2020.
[12] Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 57: AAS 107 (2015), 870.
[13] Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 104: AAS 107 (2015), 889.
[14] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Laudato Si’, 22: AAS 107 (2015), 855-856. Trong Thông điệp Fratelli Tutti, Đức Thánh Cha còn trình bày sâu sắc hơn về nền “văn hóa vứt bỏ” khi con người không chỉ hoang phí thực phẩm hay những đồ vật dư thừa mà còn loại trừ chính con người, với nhiều cách thế, từ thai nhi đến các cụ già, từ người tàn tật đến các hình thức bóc lột và lạm dụng. vì họ không coi nhân vị là một giá trị cao nhất phải được quan tâm và kính trọng (x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Fratelli Tutti, 18-21).
[15] Đức PHANXICÔ, Thông điệp Fratelli Tutti, 276.
[16] Chẳng hạn tại Giáo phận Sài Gòn, ngoài thánh lễ trực tuyến tiếng Việt mỗi ngày, còn có thánh lễ trực tuyến Chúa Nhật bằng tiếng Hoa (giáo xứ Thánh Phanxicô – Chợ Lớn), tiếng Anh (giáo xứ Chánh Tòa Sài Gòn), tiếng Pháp (nhà thờ Mai Khôi dòng Đaminh) và thánh lễ dành cho thiếu nhi. Ngoài ra, còn có Chầu Thánh Thể trực tuyến hai lần trong tuần tại nhà thờ Chánh Tòa.
[17] Tại Việt Nam, ngày 27 tháng 03 năm 2020, Ủy ban Phụng tự trực thuộc Hội đồng Giám mục Việt Nam đã ra thông báo lưu ý những chỉ dẫn cần thiết về trực tuyến Thánh lễ, cả về kỹ thuật truyền thông lẫn kỷ luật phụng vụ, cả về người cử hành lẫn người tham dự, cả về nơi chốn cử hành lẫn những chuẩn bị xứng hợp cho việc cử hành phụng vụ thánh…
[18] Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư mục vụ gởi quý cha và cộng đồng Dân Chúa Tổng Giáo phận, 27.07.2021, 5.
[19] Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư mục vụ gởi quý cha trong Tổng Giáo phận, 31.05.2021, 3.
[20] x. Đức PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, 151: AAS 105 (2013), 1083. Trong thư Mục vụ ngày 31 tháng 05 năm 2021, Đức Tổng Giám mục Giuse Nguyễn Năng cũng viết: “Quý cha hãy tập cho các tín hữu sống đức tin trong mọi hoàn cảnh: cầu nguyện với Lời Chúa, chầu Thánh Thể cá nhân, lần hạt Mân Côi, lần hạt Lòng Chúa Thương Xót,… Đôi khi ngưng thánh lễ trong thời gian ngắn cũng tốt, vì nhờ đó các tín hữu khao khát Thánh Thể hơn, để sau này khi được dự lễ, sẽ tham dự cách ý thức hơn” (Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư mục vụ gởi quý cha trong Tổng Giáo phận, 31.05.2021, 3).
[21] x. Đức PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, 122-126: AAS 105 (2013), 1071-1073.
[22] Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư gửi gia đình Tổng Giáo phận “Hãy nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6, 18), 31.08.2021.
[23] x. Đức PHANXICÔ, Thông điệp Fratelli Tutti, 32.
[24] x. Đức TGM GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH, Thư kêu gọi tinh thần liên đới và tương thân để phòng chống đại dịch, 02.06.2021.
[25] Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư mục vụ gởi quý cha và cộng đồng Dân Chúa Tổng Giáo phận, 27.07.2021, 4.
[26] Đức PHANXICÔ, Tông huấn Evangelii Gaudium, 179: AAS 105 (2013), 1095.
[27] x. Đức PHANXICÔ, Sứ điệp Ngày Thế giới cầu nguyện cho việc chăm sóc thiên nhiên, 01.09.2020, 4. Đáp lời mời gọi của Đức Thánh Cha, nhân cuộc họp của các nước G7, bắt đầu ngày 11 tháng 06 năm 2021 tại Vương Quốc Anh, Tổ chức Caritas Quốc tế kêu gọi các nước trong G7 (Anh, Canada, Pháp, Đức, Ý, Nhật Bản và Hoa Kỳ) tạo điều kiện giảm nợ, xóa nợ hay tài trợ để các nước chậm phát triển có khả năng ứng phó khủng hoảng và phục hồi đất nước sau đại dịch Covid-19.
[28] Lần đầu tiên (23.01-16.04.2020) có 415 người nhiễm, trong đó 309 ca nhập cảnh. Lần thứ hai (25.07-01.12.2020) cao điểm xảy ra tại Đà Nẵng, với 1.136 ca nhiễm và 35 ca tử vong. Lần thứ ba (28.01-25.03.2021) bùng phát mạnh tại Hải Dương. Tổng cộng số người nhiễm là 1.301 người. Lần thứ tư (27.04. 2021) với biến chủng virus mới mau chóng lan rộng gần khắp cả nước. Thành phố Hồ Chí Minh và các tỉnh phía Nam chịu ảnh hưởng nặng nề trong đợt này.
[29] x. Đức TGM GIUSE NGUYỄN CHÍ LINH, Thương quá Sài Gòn ơi!, 09.07.2021.
[30] Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư mục vụ gởi quý cha và cộng đồng Dân Chúa Tổng Giáo phận, 27.07.2021, 3.
[31] x. Đức TGM GIUSE NGUYỄN NĂNG, Thư gửi gia đình Tổng Giáo phận “Hãy nắm giữ niềm hy vọng dành cho chúng ta” (Dt 6, 18), 31.08.2021.
[32] Bài hát “Rinascerò rinascerai” do nhạc sĩ Roby Fachinetti sáng tác khi chứng kiến cơn bão dịch Covid khiến nhiều cư dân thành phố Bergamo bị nhiễm bệnh và qua đời. Trong bầu khí ảm đạm và thê lương ấy, tác giả vẫn thấy ánh sáng hy vọng: khi tin tưởng cậy trông vào Chúa, chúng ta sẽ luôn chiến thắng. Dịch bệnh này chỉ khiến chúng ta dao động nhưng không thể làm chúng ta gục ngã.
2022
Một vài nhận định về từ “giáo lý viên”
Tôma Nguyễn Như Danh
Bài viết này không nhằm phân tích từ “giáo lý viên” dưới góc độ hình thái học, tức là cấu tạo từ. Trái lại, bài viết thảo luận cụm từ “giáo lý viên” dưới góc độ ngữ học ứng dụng, nghĩa là nó được sử dụng và được hiểu như thế nào. Hai vấn đề chính sẽ được tìm hiểu đó là:
– Từ “giáo lý viên” được sử dụng trong các văn bản chính thức của Tòa Thánh, của Hội Thánh Công giáo Việt Nam.
– Từ ‘giáo lý viên” được áp dụng cho những đối tượng nào.
- Từ giáo lý viên được sử dụng trong các văn kiện quan trọng của Giáo quyền
Vì nguồn tư liệu hạn chế, người viết xin được tìm hiểu từ ngữ này qua một vài văn kiện của Tòa Thánh từ Công đồng Vatican II trở lại đây và một số văn bản của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam.
1.1 Từ “giáo lý viên” được sử dụng trong những văn bản của Tòa Thánh
Các văn kiện quan trọng của Tòa Thánh đề cập đến giáo lý viên hàng ngàn lần.
Công Đồng Vatican II, Hiến chế Mạc Khải Dei Verbum: 1 lần
Công Đồng Vatican II, Hiến chế Phụng vụ Sacrosanctum Concilium 1 lần
Công Đồng Vatican II, Sắc Lệnh Về Nhiệm Vụ Mục Tử Của Các Giám Mục Trong Giáo Hội – Christus Dominus 1 lần
Bộ Giáo sĩ, Chỉ Nam huấn giáo 1971: 40 lần
Đức Thánh Cha Phaolô VI, Tông Huấn Loan Báo Tin Mừng Evangeli Nuntiandi 1975: 4 lần
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Tông Huấn Dạy giáo lý 1979: 24 lần
Giáo luật 1983: 5 lần
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Tông huấn Kitô hữu giáo dân Christifideles Laici, 1988: 2 lần
Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, Hướng dẫn mục vụ dành cho các linh mục triều 1989: 6 lần
Đức Thánh Cha Gioan Phaolô 2, Thông điệp sứ vụ Đấng Cứu Độ Redemptoris Missio, 1990: 13 lần
Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, Hướng dẫn Giáo lý viên 1993: 267
Bộ Giáo sĩ, Chỉ Nam huấn giáo 1997: 221 lần
Bộ Giáo sĩ, Vai trò của linh mục trong việc huấn giáo, 1999: 20 lần
Hội đồng Giáo hoàng về việc thăng tiến Tân Phúc Âm hóa, Chỉ Nam huấn giáo 2020: hàng trăm lần
Đức Thánh Cha Phanxicô, Thừa tác vụ cổ kính Antiquum Ministerium 2021: 20 lần
Như vậy, trong các văn kiện quan trọng của Tòa Thánh, từ Giáo lý viên được sử dụng rất nhiều, nhiều đến cả ngàn lần. Nội dung chính yếu khi các văn bản của Tòa thánh đề cập đến giáo lý viên là ơn gọi, sứ mạng, căn tính, linh đạo dành cho giáo lý viên và đào tạo giáo lý viên[1]. Điều đó nói lên tầm quan trọng của giáo lý viên trong công cuộc dạy giáo lý và truyền giáo của Hội Thánh.
1.2 Từ “giáo lý viên” được sử dụng trong những văn bản của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam và các giáo phận.
Hội đồng Giám Mục Việt Nam cũng dùng từ “giáo lý viên” nhiều lần trong các thư chung và Hướng dẫn dạy giáo lý tại Việt Nam.
Thư chung của HĐGM 2007 cho biết mỗi Kitô hữu đều là giáo lý viên (số 21) và giáo lý viên “giống như những cành nho gắn liền với thân nho là Chúa Kitô, hút nhựa sống Lời Chúa từ thân cây là Chúa Giêsu để chuyển đến các học viên bằng chứng từ rao giảng và thực thi huấn lệnh Chúa” (số 20).
Thư chung HĐGM 2019, chủ đề năm 2020 hướng đến người trẻ “Đồng hành với người trẻ trong tiến trình hướng tới sự trưởng thành toàn diện” HĐGM mời gọi các mục tử và giáo lý viên cần canh tân việc dạy giáo lý cho người trẻ để người trẻ có thể trưởng thành về đời sống tâm linh (số 7).
Hướng dẫn Tổng Quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017 của Ủy ban Giáo lý Đức tin, trực thuộc Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã đề cập đến giáo lý viên 41 lần.
Nội dung chính yếu khi Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đề cập đến về giáo lý viên là những chỉ nam của Tòa Thánh về dạy giáo lý và Đào tạo giáo lý viên[2].
Linh mục Giuse Vũ Đức An trong bài viết “Tầm quan trọng của Giáo lý trong đời sống Đức tin” đăng ngày 28/3/2022 trên trang web của Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nêu bật tầm quan trọng của giáo lý trong đời sống đức tin của dân Chúa. Ngài đã cho thấy được tầm quan trọng của dạy giáo lý trong lịch sử Hội Thánh và lịch sử loan báo Tin Mừng tại Việt Nam. Điểm đặc biệt là từ thế kỷ 17, các vị thừa sai đã quan tâm soạn sách giáo lý bằng tiếng Việt và quan tâm đến việt đào tạo giáo lý viên:
“Các vị thừa sai không những quan tâm đến việc soạn thảo sách giáo lý mà còn trú trọng đến việc đào tạo các giáo lý viên. Đó là việc đào tạo các thầy giảng để chuyên lo việc dạy giáo lý cách hiệu quả hơn.”[3]
Trong số các thầy giảng này có Anrê Phú Yên, người giáo lý viên được Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II phong chân phước ngày 05/3/2000. Ngài cũng là bổn mạng của các giáo lý viên Việt Nam[4].
Tổng giáo phận Sài Gòn vẫn dùng từ giáo lý viên trong Bộ sách giáo lý Hiệp thông, gồm 12 trình độ, có sách dành cho giáo lý viên và học viên. Giáo phận Xuân Lộc sử dụng từ giáo lý viên trong các tài liệu của Ban Huấn giáo, trong các văn bản gửi cho các giáo xứ. Tất cả 27 giáo phận tại Việt Nam đều sử dụng từ “giáo lý viên” để gọi chung những người giáo dân, có cả tu sĩ tham gia dạy giáo lý. Nhiều văn bản, thư chung và hướng dẫn ở cấp giáo phận dùng từ “giáo lý viên” nhiều vô số, không thể đếm hết được.
- Từ giáo lý viên được áp dụng cho những đối tượng nào
Từ “Giáo lý viên” được sử dụng lâu đời trong Hội Thánh với dưới nhiều tên gọi khác nhau như thầy dạy[5], người chỉ dẫn[6]. Từ giáo lý viên được nhắc đi nhắc lại hàng trăm lần trong nhiều văn kiện của Tòa Thánh như đã đề cập ở trên.
Theo nghĩa thông thường, giáo lý viên nói chung là người dạy giáo lý. Thế nên tất cả những ai dạy giáo lý đều có thể gọi là giáo lý viên. Họ có thể là Giám mục, linh mục, tu sĩ hoặc giáo dân. Từ điển bách khoa công giáo nói về giáo lý viên như sau:
“Trong bối cảnh Kitô giáo, giáo lý viên là giáo sĩ, tu sĩ hoặc giáo dân, những người hướng dẫn người khác trong đức tin Công giáo. Bằng lời nói và gương sáng, giáo lý viên chia sẻ đức tin cá nhân của mình với các thành viên khác trong cộng đồng và/hoặc với những người tìm gia nhập Hội Thánh”[7].
Như thế, qua định nghĩa trên chúng ta thấy rõ hơn rằng tất cả mọi thành phần dân Chúa đều được mời gọi trở nên giáo lý viên.
Thật vậy, nhiệm vụ dạy giáo lý liên hệ đến tất cả mọi thành phần dân Chúa[8]: Giám mục[9], linh mục[10], tu sĩ nam nữ tức những người sống đời thánh hiến[11], giáo lý viên giáo dân[12], các bậc phụ huynh[13] và tất cả mọi Kitô hữu[14]. Bởi thế mọi tín hữu Kitô đều có thể là một giáo lý viên cách nào đó[15].
Từ giáo lý viên được áp dụng trước hết và trên hết cho đức giám mục giáo phận bởi vì “Giám Mục là nhà rao giảng Tin Mừng đầu tiên bằng lời nói và chứng từ của đời sống mình”[16]. Giám mục là người có trách nhiệm hoàn toàn, đầu tiên về việc huấn giáo. Ngài là giáo lý viên đầu tiên của giáo phận[17]. Đầu tiên ở đây nghĩa là ngài là giáo lý viên trước hết và trên hết mọi giáo lý viên, nhờ ngài mà mọi thành phần khác trong giáo phận được tham dự vào sứ vụ rao giảng Tin mừng của Giám mục. Nói cách khác, không có ngài hoặc không hiệp thông với ngài thì không có giáo lý viên đúng nghĩa trong giáo phận của ngài. Chính ngài chọn gọi các tín hữu để trở thành giáo lý viên và các giáo lý viên thực thi công cuộc huấn giáo trong giáo phận dưới sự chỉ đạo của ngài. Điều này được thể hiện rõ trong chức vụ của giám mục đặc biệt nhiệm vụ giáo huấn, trình bày học thuyết Kitô giáo và tổ chức dạy giáo lý[18].
Các linh mục là giáo lý viên vì các linh mục “là cộng sự viên đầu tiên của Giám Mục và qua sự ủy nhiệm của ngài, trong khả năng là nhà giáo dục đức tin” (x. PO 6), có nhiệm vụ làm sống lại, điều hợp và hướng dẫn hoạt động dạy giáo lý của cộng đồng đã được trao phó cho mình (GDFC 2020, số 115). Tân chỉ nam huấn giáo 2020 nói rõ hơn “Vị linh mục của giáo xứ hay cha xứ là giáo lý viên hàng đầu trong cộng đồng giáo xứ” ngài là “giáo lý viên của các giáo lý viên” (số 116).
Các Phó tế và phó tế vĩnh viên cũng là giáo lý viên vì chức phó tế liên quan đến phục vụ Lời. Tân chỉ nam huấn giáo, số 117 và 118 của nói về trách nhiệm của các phó tế trong việc dạy giáo lý cho các tín hữu ở mọi giai đoạn của đời sống người Kitô hữu. Các phó tế phải tham gia vào các chương trình dạy giáo lý của Giáo phận hay của giáo xứ, trên hết là những chương trình liên quan đến những sáng kiến liên hệ với việc rao giảng Tin Mừng[19].
Tu sĩ nam nữ, những người sống đời thánh hiến được mời gọi dạy giáo lý:
“Trong lịch sử Hội Thánh, họ được kể vào số những người tận tâm nhất với việc ra ngoài dạy giáo lý. Hội Thánh đặc biệt mời gọi những người được thánh hiến vào hoạt động dạy giáo lý, trong đó sự đóng góp độc đáo và đặc biệt của họ không thể được thay thế bằng các linh mục hay giáo dân” (GDFC 2020, số 119).
Chính đời sống thánh thiện của họ là bài giáo lý sống động. Hơn thế nữa, sự tham gia dạy giáo lý của các tu sĩ nam nữ đã thực hiện trong lịch sử huấn giáo cho thấy họ đóng góp nhiều cho chiều sâu tôn giáo, sư phạm và phục vụ cho sự phát triển của huấn giáo (GDGC 2020, số 120)
Giáo lý viên giáo dân: Giáo lý viên áp dụng cho giáo dân thật rõ ràng qua các Chỉ nam huấn giáo, Tông huấn Dạy giáo lý và đặc biệt Thừa tác vụ giáo lý viên giáo dân được Đức Thánh cha Phanxicô thiết lập ngày 10/5/2021[20]. Nhờ bí tích Rửa tội và được củng cố qua bí tích Thêm sức, Giáo lý viên giáo dân là người được Chúa Thánh Thần mời gọi, được Hội Thánh sai đi, được cộng tác với Đức Giám mục trong sứ vụ tông đồ và liên kết chặt chẽ với hoạt động truyền giáo của Hội Thánh[21].
Dựa theo những chỉ dẫn của Thánh Kinh, Thánh Truyền và Huấn quyền, chúng ta thấy rằng giáo lý viên là một ơn gọi khởi đi từ sáng kiến và lời mời gọi của Thiên Chúa, được Giáo hội nhìn nhận, cụ thể là qua Đức Giám mục giáo phận. Đó là lời mời gọi sống và loan báo Tin mừng cho muôn dân, cho người có đạo cũng như cho những người chưa biết Chúa.
Như vậy, từ “giáo lý viên” vừa có tính phổ quát vừa có tính đặc thù. Tính phổ quát vì là áp dụng được cho tất cả mọi thành phần dân Chúa: Giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ nam nữ và giáo dân. Đặc thù là khi nói giáo lý viên, người tín hữu Kitô sẽ không lẫn lộn với bất cứ công việc, hay nghề nghiệp nào[22] vì họ sẽ nghĩ ngay đó là những người dạy giáo lý.
Mặt khác, từ này cũng có nét hay của nó là tính trung dung, không phân biệt giới tính vì áp dụng được cho cả nam lẫn nữ. Điều này càng thích hợp trong thế giới ngày nay khi nhân loại đề cao sự bình đẳng giữa nam và nữ. Điều này càng giúp từ “giáo lý viên” trở nên thiện cảm hơn khi sử dụng.
Tóm lại, từ giáo lý viên có thể xuất hiện nhiều trong tiếng Việt chưa đầy 100 năm, nhưng nó là từ quen thuộc, phổ biến và có giá trị đặc biệt của nó vì đã đi vào lịch sử của Hội Thánh và của Hội thánh Công giáo Việt Nam qua các văn bản của Tòa Thánh, của nhiều chỉ dẫn quan trọng của Hội đồng Giám mục Việt Nam, của nhiều thư chung và hướng dẫn liên quan đến giáo lý viên của các Giám mục và các Ban Huấn giáo các giáo phận.
Giả sử có ai đó muốn thay đổi từ “giáo lý viên” bằng một từ khác thì không biết kết quả có tốt hơn không nhưng điều chắc chắn là nó sẽ gây xáo trộn rất lớn cho dân Chúa, có thể phức tạp và xáo trộn như điều chỉnh năm tháng lịch Công Nguyên cho đúng năm Chúa Giáng sinh. Hơn thế nữa, nó cũng xóa đi một phần ký ức đức tin của thế hệ trẻ khi mà từ ‘giáo lý viên” đã đi vào lòng dân Chúa cả gần thế kỷ nay.
DANH MỤC VIẾT TẮT
AM : Thừa tác vụ cổ kính “Antiquum Ministerium”. 2021
DGL : Tông Huấn Dạy giáo lý “Catechesi Tradendae”. 1979
GC : Guide for Catechists, 1993 (Hướng dẫn giáo lý viên 1993)
GCD : General Catechetical Directory, 1971. (Chỉ Nam Huấn giáo 1971).
GDFC : General Directory for Catechesis), 1997. (Chỉ Nam Huấn giáo 1997
GDFC 2020 : Directory for Catechesis (Tân chỉ nam Huấn giáo), 2020.
GL : Bộ Giáo luật 1983.
KTHGD : Tông huấn Kitô hữu giáo dân “Christifideles Laici”.1988
LBTM : Thông điệp Loan báo Tin Mừng “Evangeli Nuntiandi ”.1975
MK : Hiến chế tín lý về Mạc khải của Thiên Chúa “Dei Verbum”. 1965
GM : Sắc lệnh về nhiệm vụ của các Giám Mục trong Giáo hội: Christus Dominus.
PV : Hiến chế Phụng vụ “Sacrosanctum Concilium”. 1963
SVĐCĐ : Sứ vụ Đấng Cứu Độ “Redemptoris Missio”. 1990
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Code of Canon Law, 1983. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Congregation for the Clergy, General Catechetical Directory. 1971. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Congregation for the Clergy, General Directory for Catechesis, 1997. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Congregation for the Clergy, the Role of the Priest in Catechesis (Bộ Giáo sĩ, Vai trò của linh mục trong việc huấn giáo). 1999. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022.
Congregation for Evangelization of Peoples, Pastoral Guide for diocesan priests in Churches dependent on the Congregation for Evangelization of Peoples (Bộ Phúc Âm hóa các dân tộc, Hướng dẫn mục vụ dành cho các linh mục triều). Rome, June 1989.
Congregation for Evangelization of Peoples, Guide for Catechists. Document of vocational, formative and promotional orientation of Catechists in the territories dependent on the Congregation for Evangelization of Peoples.1993. Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Francis, Antiquum Ministerium (10 May, 2021). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung 2007. Trích từ https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/thu-chung-2007-cua-hoi-ong-giam-muc-viet-nam-ve-giao-duc-kito-giao-giao-duc-hom-nay-xa-hoi-va-giao-hoi-ngay-mai-17878
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam-Ủy Ban Giáo lý Đức tin, Hướng Dẫn Tổng Quát Việc Dạy Giáo Lý Tại Việt Nam 2017. 2017. Trích từ https://giaolyductin.net/huong-dan-tong-quat-viec-day-giao-ly-tai-viet-nam-2017.html
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam, Thư chung 2019. Trích từ https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/hdgm-vn-thu-chung-35356
John Paul II, Apostolic Exhortation Catechesi Tradendae (16 October 1979). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
John Paul II, Post-synodal Apostolic Exhortation, Christifedeles Laici (30 December 1988). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
John Paul II, Encyclical Letter Redemptoris Missio (7 December 1990). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Lm. Giuse Vũ Đức An, Tầm quan trọng của Giáo lý trong đời sống Đức tin, 2022. Trích từ https://hdgmvietnam.com/chi-tiet/tam-quan-trong-cua-giao-ly-trong-doi-song-duc-tin-44752
Nguyen Nhu Danh, Investigating a catechist spirituality and solutions to enhance their spiritual life. Luận án tiến sĩ thần học, Trường đại học NCU, USA, 2022.
Paul VI, Apostolic Exhortation Evangeli Nuntiandi (08 December1975). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Pontifical Council for the promotion of the New Evangelization, Directory for Catechesis, 2020.
Vatican Council II, Dogmatic Constitution on Divine Revelation Dei Verbum (18 November 1965). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
Vatican Council II, Constitution on the Sacred Liturgy Sacrosanctum Concilium (4 December 1963). Retrieved from Vatican.va on 21 March 2022
[1] Nguyen Nhu Danh, Investigating a catechist spirituality and solutions to enhance their spiritual life. Luận án tiến sĩ thần học, Trường đại học NCU, USA, 2022.
[2] Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hướng dẫn Tổng Quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017
[3] Linh mục Giuse Vũ Đức An trong bài viết “Tầm quan trọng của Giáo lý trong đời sống Đức tin”. 2022
[4] Ủy Ban Giáo Lý Đức Tin, Hướng dẫn Tổng Quát việc dạy giáo lý tại Việt Nam 2017, số 79
[5] x 1 Cor 12:28-31
[6] x Gal 6:6
[7] Reverend Peter M.J. Stravinskas, Ph.D., Catholic Encyclopedia, mục Catechist, Our Sunday visitor, Inc. 1991, tr. 181
[8] x. GL 757 – 759. 774 – 780
[9] x. DGL 16; 63; GL 756. 775
[10] x. DGL 16; 64; GL 757. 776 – 777
[11] x. DGL 16; 65; GL 758. 776. 778; GC 4 khuyến khích các tu sĩ dấn thân vào việc huấn giáo, và kêu gọi họ sẵn sàng và chuẩn bị chuyên môn để lãnh nhận trách vụ huấn giáo:
“Các tu sĩ hoàn tất vai trò giáo lý viên và do cộng tác chặt chẽ với các linh mục, thường chủ động trong việc điều hành. Vì các lý do trên, Bộ Phúc Âm Hoá các dân tộc cũng yêu cầu tu sĩ dấn thân vào các lãnh vực trong yếu của đời sống các giáo đoàn, đặc biệt trên bình diện huấn luyện và đồng hành với các giáo lý viên.”
[12] x. DGL 66; Gl 759
[13] x. DGL 16; 68; Gl 774
[14] x. DGL 15; 16; 63 – 68
[15] Nguyen Nhu Danh, Investigating a catechist spirituality and solutions to enhance their spiritual life. Luận án tiến sĩ thần học, Trường đại học NCU, USA, 2022. Trang 18-35
[16] Gioan Phaolô II, Tông Huấn Hậu Thượng Hội Đồng Pastores Gregis (16 tháng 10 năm 2003). GDC số 222.
[17] DGL số 63; GDFC 1997, số 222, GDFC 2020 số 114
[18] Christus Dominus số 12-14
[19] GDFC 2020, số 117
[20] AM số 11
[21] GC 2
[22] Từ giáo lý viên dù được áp dụng cho các giám mục, linh mục, phó tế và tu sĩ nhưng người giáo dân nói chung và trong ngôn ngữ của Hội Thánh, các ngài được gọi bằng danh xưng giám mục, linh mục, phó tế, tu sĩ vì nó diễn tả tốt hơn, rõ hơn, bao quát hơn ơn gọi và sứ mạng của các ngài.
2022
Vì sao nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn?
Vì sao nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn?
Một danh nhân đã nói: “Hôn nhân là con đường đưa ta xuống địa ngục hay dẫn ta vào thiên đàng” (Balzac). Những ai đã bước vào đời sống hôn nhân gia đình đều có chung một nhận định này là hôn nhân đối với người này có thể là hỏa ngục nhưng với người khác lại là thiên đàng.
Riêng một số người đã trải nghiệm những đắng cay trong đời sống hôn nhân thì đã thốt lên cách bi quan là, “Hôn nhân giống như cái lồng chim, con ở trong thì muốn bay ra, còn con ở ngoài thì muốn bay vào” (Montaigne). Hay đã than thở rằng: “Cãi lộn chiếm phần lớn đời sống hôn nhân, phần còn lại không có gì đặc sắc” (Thornoton Wilder). Thực tế là ngày nay một số bạn trẻ quyết định không kết hôn, bởi đối với họ hôn nhân chỉ là một bi kịch, một thảm họa, một điều gì đó đáng sợ…với suy nghĩ rằng “Hôn nhân là mồ chôn tình yêu!” (Chamfort).
Trong phạm vi bài này, chúng ta thử tìm hiểu về thực trạng và nguyên nhân liên quan câu chuyện nhiều bạn trẻ ngày nay sợ kết hôn, đồng thời cũng muốn bàn đến một số những giải pháp khả thi nhằm giúp các bạn trẻ có cái nhìn tích cực hơn về hôn nhân, nhất là đối với các bạn trẻ Ki-tô giáo.
1.- Thực trạng
Trong bài báo có tựa đề “Giới trẻ Hàn Quốc lười kết hôn, ngại sinh con” trên trang vnexpress.net ngày 31-5-2021, tác giả đã cho biết như sau: Trước áp lực của cuộc sống hiện đại, thế hệ trẻ Hàn Quốc đang chọn cách sống độc thân, không con cái, dẫn đến nhiều hệ quả đối với nền kinh tế hàng đầu châu Á. ‘I Live Alone’ (Tôi sống một mình) là chương trình truyền hình thực tế nổi tiếng, kể về cuộc sống của các diễn viên, ca sĩ K-pop với những hoạt động đời thường như cho thú cưng ăn hoặc nấu mì ramen vào lúc nửa đêm – tất cả đều một mình.
Tác giả bài báo cho biết tiếp, ngày càng nhiều người Hàn Quốc ở độ tuổi 20-30 chọn từ bỏ ba điều được coi là quan trọng trong cuộc đời mỗi con người: hẹn hò, kết hôn và sinh con. Họ được gọi là “thế hệ Sampo” và thường bị chỉ trích là ích kỷ. Theo một báo cáo của chính phủ Hàn Quốc, những người sống một mình đã chiếm gần 40% dân số ở đất nước này. Năm 2020, khi quốc gia này lần đầu tiên báo cáo tỷ lệ tăng trưởng dân số âm, thứ trưởng Bộ Tài chính khi đó là Kim Yong-beom tuyên bố cột mốc quan trọng này là “nút thắt tử thần”. [1]
Quả thực, hiện nay, xu hướng chọn lựa sống độc thân, ngại kết hôn, sợ làm đám cưới, không muốn có con đang lan tràn mạnh mẽ tại nhiều quốc gia trên thế giới, đặc biệt là tại Á Châu như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc. Xu hướng này ngày càng trở nên đáng lo ngại hơn bởi đó không còn đơn thuần là một hiện tượng cá nhân nhỏ nhoi nữa, mà đang trở nên một hội chứng tâm lý đặc biệt mà các chuyên gia gọi đó là Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia).
Vậy “Hội chứng sợ kết hôn” (Gamophobia) là gì? Theo tác giả Nguyễn Thảo trên trang tamly.com.vn ngày 8-2-2022 đã cho biết như sau:
Hội chứng sợ kết hôn (Tiếng Anh: Gamophobia/ Fear of Commitment, Fear of Marriage) là một dạng rối loạn tâm lý ít gặp. Hội chứng này đặc trưng bởi nỗi sợ thái quá, vô lý về việc cam kết lâu dài cho một mối quan hệ (thường là hôn nhân). Gamophobia được xếp vào nhóm rối loạn lo âu ám ảnh sợ hãi (ám ảnh sợ đặc hiệu) như chứng sợ độ cao, sợ côn trùng, sợ máu v.v…
Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) đặc trưng bởi nỗi sợ thái quá về hôn nhân và sự gắn kết lâu dài trong một mối quan hệ. Hội chứng này thường gặp ở những người có trải nghiệm tiêu cực về hôn nhân gia đình trong quá khứ. Những ý nghĩ về việc kết hôn hoặc sự ràng buộc lâu dài trong một mối quan hệ khiến bệnh nhân trở nên lo lắng, bất an, sợ hãi và căng thẳng. Thậm chí một số người trở nên hoảng loạn và mất kiểm soát. Có rất nhiều dạng ám ảnh sợ đặc hiệu nhưng Gamophobia ít được nghiên cứu hơn. Chính vì vậy, không ít người cảm thấy hoang mang, lo lắng khi bản thân có nỗi sợ vô lý về việc gắn kết lâu dài hay cụ thể hơn là kết hôn.
Hiện tại, chưa có thống kê chính xác về tỷ lệ người mắc hội chứng sợ kết hôn. Theo ước tính có khoảng 12.5% người Mỹ mắc phải chứng ám ảnh sợ, trong đó phổ biến nhất là sợ kim tiêm, sợ máu, sợ nhện vv…Trong khi đó tỷ lệ người mắc hội chứng Gamophobia ước tính khoảng dưới 1% dân số. Tương tự như các dạng ám ảnh đặc hiệu khác, Gamophobia có thể đi kèm với những nỗi sợ vô lý khác như nỗi sợ bị bỏ rơi, sợ thân mật và sợ phải tin tưởng người khác. Dù chưa có thống kê chính xác nhưng các chuyên gia nhận thấy, tỷ lệ người mắc hội chứng này tăng lên đáng kể trong 15 năm qua và nguy cơ cao hơn ở nữ giới trẻ tuổi.[2]
Theo một khảo sát được thực hiện trên website fearof.net với sự tham gia của 69.108 người vào giữa năm 2019, phụ nữ hiện nay có xu hướng từ chối kết hôn nhiều hơn đàn ông. Cụ thể, 66% người tham gia là nữ mắc hội chứng Gamophobia. Trong khi đó, con số này chỉ là 34% với nam giới.[3]
Riêng tại các đô thị lớn ở Trung Quốc, hiện tượng khiếp sợ hôn nhân hiện nay đang dần dần đã trở thành một căn bệnh truyền nhiễm trong giới phụ nữ công chức. Các nhà tâm lý học và xã hội học đã tiến hành tìm hiểu và thấy có mấy nguyên nhân chính của căn bệnh trên, chẳng hạn như: do sợ gánh vác trách nhiệm trong hôn nhân, lo sợ hôn nhân là mồ chôn của tình yêu, do bị ảnh hưởng của những biến cố lớn trong cuộc đời như tuổi thơ đã phải chịu một vết thương tâm lý nặng nề, để lại dấu ấn sau đậm trong tim họ, hay trường hợp luôn lo sợ về gánh nặng kinh tế sau khi kết hôn, hoặc người có những yêu cầu quá cao, quá hoàn mỹ đến mức hà khắc về đối tượng hôn nhân.[4]
Một thống kê cho biết, tại Trung Quốc, tỷ lệ kết hôn đang giảm mạnh. Vào năm 2021, chỉ có 8,13 triệu cặp đôi đăng ký kết hôn, giảm 12% so với năm 2020. Đây cũng là năm thứ bảy liên tiếp tỷ lệ này giảm. Nếu so với năm 2013 (13,47 triệu cặp đăng ký kết hôn), tỷ lệ này đã giảm đến 40%. Một cuộc điều tra dân số trong năm vừa qua cho thấy nước này đã trải qua mức thấp nhất trong sáu thập kỷ về tỷ lệ sinh.
Trong khi đó, ở Nhật Bản thống kê cho thấy, cứ 4 người đàn ông thì có 1 người không lập gia đình cho đến độ tuổi 50. Tại sao vậy? Theo báo Japan Times, xu hướng không lập gia đình ngày càng tăng trong xã hội là một nội dung trong báo cáo sắp công bố của Chính phủ Nhật. Bên cạnh đàn ông, tỉ lệ phụ nữ Nhật ở vậy một mình đến tuổi 50 là 1/7 người. Dữ liệu này được Chính phủ Nhật công bố 5 năm một lần và không tính đến những người đã ly hôn hoặc có hôn phu/hôn thê qua đời trước tuổi 50. So với hồi thập niên 1970, chỉ có 1,7% đàn ông và 3,33% phụ nữ Nhật chưa từng kết hôn đến tuổi 50.
Các chuyên gia đánh giá xu hướng độc thân đi lên là do áp lực đối với chuyện cưới xin trong xã hội Nhật ngày càng giảm, cùng với nó là nỗi lo tài chính trong nhóm những người không có nghề nghiệp ổn định. Phát hiện này cũng đồng nghĩa tỉ lệ sinh ở Nhật khó lòng sớm hồi phục, trong khi sẽ có thêm nhiều người cao tuổi độc thân chọn viện dưỡng lão để sống những năm tháng cuối đời.
Riêng tại Việt Nam, tác giả bài viết “Những người chọn sống độc thân” đăng trên trang vnexpress.net ngày 2-3-2022 cho hay: Tại Việt Nam, theo Tổng cục thống kê tỷ lệ người sống độc thân cũng đang có xu hướng tăng nhanh, từ 6,23% năm 2004 tăng lên 10,1% vào năm 2019. Một giảng viên khoa Tâm lý Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh đã cho hay là sống độc thân đã trở thành xu hướng mới, đại diện cho sự độc lập về kinh tế và tinh thần của một số người trẻ. Chuyên gia này cũng cho biết thêm về một nghiên cứu tại Mỹ thực hiện năm 2012 bởi các nhà tâm lý học Đại học Thành phố San Diego và được Hiệp hội Tâm lý học (Mỹ) công bố, những người sinh ra trong thập niên 80 và 90 thường tự cho mình là trung tâm hơn so với thế hệ trước. Họ trân trọng chủ nghĩa cá nhân, biểu hiện lớn nhất là khát vọng sống cho mình. Nếu hôn nhân không thể cải thiện chất lượng cuộc sống, hoặc ảnh hưởng đến giá trị bản thân, họ sẽ không lựa chọn hôn nhân. Ngoài ra, theo chuyên gia này, ngoài lý do theo đuổi chủ nghĩa cá nhân, việc chưa tìm thấy đối tượng phù hợp, sợ trẻ con hay bị ám ảnh về hôn nhân không hạnh phúc cũng khiến nhiều người chọn độc thân.[5]
Như vậy, chúng ta đã thấy rằng vấn đề sợ kết hôn không chỉ là một xu hướng nhất thời, chung chung nữa, mà đã trở thành một căn bệnh truyền nhiễm đặc biệt, đã và đang lây lan trong giới trẻ tại nhiều nơi trên thế giới. Các nhà tâm lý học và xã hội học đã nghiên cứu sâu hiện tượng này và đã phát hiện ra nhiều nguyên nhân khiến cho nhiều bạn trẻ lo sợ không dám kết hôn một cách bình thường nữa. Vậy những nguyên nhân chính là những nguyên nhân nào?
2.- Nguyên nhân
Trở lại với bài viết “Hội chứng sợ kết hôn” trên trang tamly.com.vn ngày 8-2-2022, tác giả đã nêu ra một số nguyên nhân gây Hội chứng sợ kết hôn, như sau: Hiện tại, các chuyên gia chưa thể xác định được nguyên nhân gây hội chứng sợ kết hôn. Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, Gamophobia thường là hậu quả do nhiều yếu tố kết hợp. Trong đó, những trải nghiệm tiêu cực trong quá khứ là yếu tố có vai trò quan trọng nhất. Các nguyên nhân, yếu tố có thể gây ra chứng Gamophobia, đó là:
2.1. Trải nghiệm tiêu cực từ thời thơ ấu: Các chuyên gia nhận thấy, những người mắc hội chứng Gamophobia thường có gia đình không hạnh phúc, chứng kiến cha mẹ cãi nhau và có các hành vi bạo lực từ khi còn nhỏ. Điều này tạo nên thái độ tiêu cực của trẻ về việc kết hôn và dần phát triển thành nỗi sợ vô lý, thái quá.
2.2. Thất bại trong hôn nhân: Ngày nay, việc ly hôn, ly thân không còn là vấn đề quá xa lạ. Sau một cuộc hôn nhân tan vỡ, cả hai người đều sẽ phải chịu tổn thương về mặt tinh thần. Ngoài ra, chứng kiến những người xung quanh liên tục thất bại trong tình yêu cũng khiến cho nhiều người có suy nghĩ tiêu cực về hôn nhân. Yếu tố này góp phần thúc đẩy sự phát triển của nỗi sợ vô lý, thái quá về việc gắn kết lâu dài.
2.3. Ảnh hưởng của nền văn hóa: Ở một số quốc gia, phụ nữ phải chịu nhiều thiệt thòi khi kết hôn và nam giới phải có nguồn lực tài chính để chi trả cho những thủ tục cưới xin phức tạp. Những yếu tố này cũng được xem là nguyên nhân thúc đẩy sự phát triển nỗi sợ phi lý, thái quá về việc kết hôn.
2.4. Di truyền: Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, Gamophobia cũng có khả năng di truyền. Ở những bệnh nhân mắc các ám ảnh sợ, chuyên gia nhận thấy hạch hạnh nhân hoạt động quá mức. Cơ quan này chịu trách nhiệm chi phối và kiểm soát nỗi sợ, sự lo lắng và bất an. Hạch hạnh nhân hoạt động quá mức khiến cho một số người sợ hãi thái quá với một số vấn đề không thực sự nguy hiểm.
Tác giả bài viết cũng cho biết thêm, theo nhiều chuyên gia, hội chứng sợ kết hôn là hệ quả do di truyền kết hợp với các yếu tố tâm lý – xã hội. Trong đó, thường có liên quan đến những trải nghiệm tiêu cực về hôn nhân của người thân trong gia đình hoặc chính bản thân người bệnh. Mặt khác, nhiều người nhầm lẫn hội chứng sợ kết hôn với những người theo chủ nghĩa độc thân, muốn sống tự do, thoải mái thay vì gò bó trong mối quan hệ hôn nhân. Sự nhầm lẫn này khiến cho nhiều bệnh nhân không được thăm khám và điều trị sớm. So với các dạng ám ảnh sợ khác, Gamophobia ít ảnh hưởng đến việc học, nghề nghiệp mà chủ yếu ảnh hưởng đến các mối quan hệ.
Người mắc hội chứng sợ kết hôn sẽ gặp phải nhiều vấn đề trong các mối quan hệ. Bởi phản ứng thái quá khi người khác hỏi về tình trạng hôn nhân và dự định lâu dài trong mối quan hệ. Mâu thuẫn, xung đột có thể xảy ra khiến bệnh nhân dần thu mình, ít giao tiếp và kết bạn. Việc giới hạn các mối quan hệ cũng sẽ gây ra những khó khăn nhất định trong quá trình học tập, làm việc, sinh hoạt vv…
Tương tự như các ám ảnh sợ đặc hiệu khác, bệnh nhân mắc hội chứng sợ kết hôn sẽ phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe thể chất như stress, mất ngủ, cao huyết áp, suy nhược cơ thể… Suy nghĩ tiêu cực, cảm giác đau khổ và tuyệt vọng khi phải chia tay với người mình yêu thương cũng khiến cho người bệnh phát triển các vấn đề tâm lý khác như rối loạn lo âu, trầm cảm, rối loạn ăn uống. Bản thân người mắc hội chứng Gamophobia nhận ra sự thái quá, vô lý về nỗi sợ của bản thân nhưng không thể nào kiểm soát. Để quên đi thực tại, bệnh nhân có xu hướng sử dụng rượu bia, thuốc lá, chất gây nghiện và khó có thể duy trì được lối sống lành mạnh. Nhiều người lựa chọn các mối quan hệ độc hại để tránh sự áy náy, hối hận khi phải chấm dứt mối quan hệ.[6]
Trên đây, dựa vào những nghiên cứu của các nhà chuyên môn về tâm lý xã hội, chúng ta biết được tính chất của hội chứng sợ kết hôn như thế nào, cùng với việc phát hiện ra nhiều biểu hiện đặc trưng và những nguyên nhân chính gây ra chứng này. Hiện nay, người ta đã nghiên cứu và đưa ra nhiều giải pháp khả thi nhằm làm giảm thiểu sự gia tăng và mức độ nghiêm trọng của hiện trạng này. Các chuyên gia đã thực hiện một số giải pháp khả thi trên ba phương diện y tế, tâm lý và xã hội.
Bên cạnh đó, vai trò của tôn giáo, đặc biệt là Hội thánh Công giáo, cũng góp phần không nhỏ trong việc quan tâm, yêu thương và nâng đỡ các bạn trẻ cách chung và những ai đang trong tình trạng sợ kết hôn, do dự không dám lập gia đình và kể cả những người được chẩn đoán là đang mắc hội chứng Gamophobia.
Sau đây, chúng ta sẽ bàn về các giải pháp nêu trên.
3.- Giải pháp của xã hội
Các nhà chuyên môn nhận định rằng, nỗi sợ vô lý về việc kết hôn gây ra nhiều ảnh hưởng đối với cuộc sống. Ngoài tình trạng phải sống đơn độc, sự đau khổ, lo lắng và bất an do hội chứng này gây ra cũng khiến cho bệnh nhân phải đối mặt với nhiều vấn đề sức khỏe thể chất và tinh thần. Can thiệp điều trị là điều cần thiết đối với hội chứng sợ kết hôn mặc dù còn tồn đọng nhiều khó khăn và thách thức. Tùy vào tình trạng cụ thể, bác sĩ sẽ tư vấn phương pháp phù hợp. Hiện nay, các phương pháp được áp dụng phổ biến nhất là liệu pháp tâm lý và sử dụng thuốc.
3.1. Y tế
Các chuyên gia cho rằng, sử dụng thuốc không phải là lựa chọn ưu tiên đối với hội chứng sợ kết hôn. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân thường xuyên lo lắng, căng thẳng, bác sĩ có thể chỉ định dùng một số loại thuốc. Trường hợp mắc đồng thời với trầm cảm và các rối loạn lo âu khác sẽ phải sử dụng thuốc lâu dài như một phương pháp điều trị chính. Dùng thuốc không giúp ích trong việc kiểm soát nỗi sợ phi lý và thái quá. Do đó, bệnh nhân bắt buộc phải kết hợp sử dụng thuốc với can thiệp liệu pháp tâm lý.
3.2. Tâm lý
Liệu pháp tâm lý là lựa chọn ưu tiên khi điều trị rối loạn ám ảnh sợ, bao gồm cả hội chứng sợ kết hôn. Mục tiêu của phương pháp này là giúp bệnh nhân vượt qua nỗi sợ và học cách khống chế sự sợ hãi vô lý, thái quá. Về lâu dài, nỗi sợ kết hôn sẽ thuyên giảm và bệnh nhân có thể trải nghiệm cuộc sống một cách trọn vẹn thay vì thường trực sự lo lắng, sợ hãi như trước đây. Trước khi can thiệp, chuyên gia sẽ đánh giá tình trạng cụ thể và lựa chọn phương pháp phù hợp với từng bệnh nhân.
Liệu pháp tâm lý là phương pháp điều trị chính đối với hội chứng sợ kết hôn. Một số liệu pháp tâm lý tiêu biểu được áp dụng cho bệnh nhân mắc hội chứng sợ kết hôn, chẳng hạn như:
Liệu pháp nhận thức hành vi (CBT- Cognitive Behavioral Therapy): là hình thức trị liệu giúp bệnh nhân thay đổi suy nghĩ một cách tích cực hơn, từ đó kiểm soát nỗi sợ và giúp người bệnh phát triển các mối quan hệ lành mạnh. Hiện nay, CBT là phương pháp trị liệu tâm lý được áp dụng phổ biến nhất nhờ mang đến nhiều lợi ích.[7]
Liệu pháp tiếp xúc: Liệu pháp tiếp xúc (liệu pháp phơi nhiễm) được thực hiện bằng cách cho bệnh nhân tiếp xúc với nỗi sợ với cường độ tăng dần theo thời gian. Khi bệnh nhân xuất hiện sự sợ hãi và lo lắng, chuyên gia sẽ hướng dẫn các kỹ thuật thư giãn như thư giãn cơ, hít thở sâu,… Quá trình này sẽ được lặp đi lặp lại giúp cho bệnh nhân học cách khống chế nỗi sợ và giảm đi sự sợ hãi vô lý, thái quá.
Cách chung, liệu pháp tâm lý mang lại hiệu quả cao trong điều trị hội chứng sợ kết hôn và các ám ảnh sợ khác. Để tăng hiệu quả, chuyên gia có thể đề nghị bệnh nhân can thiệp trị liệu nhóm, cặp đôi hoặc gia đình bên cạnh trị liệu cá nhân.
3.3. Cá nhân
Theo các chuyên gia, phạm vi cá nhân sẽ có các biện pháp tự cải thiện. Ngoài các phương pháp y tế, bệnh nhân cũng cần có các biện pháp tự cải thiện để vượt qua nỗi sợ kết hôn và gắn kết lâu dài. Các biện pháp này góp phần giúp giảm nỗi sợ thái quá, đồng thời hỗ trợ bệnh nhân học cách khống chế cảm xúc và thay đổi những suy nghĩ méo mó về hôn nhân.
Các chuyên gia đã đề nghị một số biện pháp tự cải thiện hội chứng sợ kết hôn như:
. Chia sẻ tình trạng sức khỏe của bản thân với gia đình hoặc những người bạn thân thiết. Khi được người khác thấu hiểu, bệnh nhân sẽ cảm thấy thoải mái và có động lực để điều trị.
. Tập thói quen viết nhật ký hằng ngày cũng là cách giải tỏa cảm xúc hữu hiệu. Biện pháp này sẽ giúp bệnh nhân kiểm soát sự lo lắng, căng thẳng, bất an… Đồng thời có cơ hội đánh giá lại suy nghĩ, cảm xúc của bản thân, từ đó điều chỉnh hành vi và nhận thức một cách đúng đắn hơn.
. Nên trò chuyện, chia sẻ với những người có hôn nhân trọn vẹn để thay đổi những suy nghĩ tiêu cực. Năng lượng tích cực từ những người xung quanh sẽ giúp bệnh nhân có thêm niềm tin và hy vọng về hôn nhân, từ đó giảm đi nỗi sợ và sự lo lắng thái quá về việc gắn kết lâu dài.
. Xây dựng lối sống lành mạnh, không dùng rượu bia, thuốc lá và chất gây nghiện.
. Tham gia các hoạt động cộng đồng và thực hiện những hành động có ý nghĩa để gia tăng sự tự tin, lòng trắc ẩn và yêu thương. Nhiều nghiên cứu cho thấy, hoạt động thiện nguyện giúp giảm đáng kể những cảm xúc tiêu cực và học cách kiểm soát tốt cảm xúc cá nhân.
Các chuyên gia tâm lý cho biết thêm là trầm cảm là một trong những bệnh tâm lý phổ biến nhất dẫn tới tình trạng sợ hãi hôn nhân. Vì thế người mắc hội chứng Gamophobia luôn cần được sự quan tâm chăm sóc của gia đình và của cộng đồng. Bất kỳ ai tại một thời điểm nào đó trong cuộc đời mình có thể thấy chùn bước trước quyết định kết hôn và cảm thấy lo lắng, sợ hãi. Tuy nhiên với lòng kiên định cùng sức mạnh của ý chí, nỗi sợ hôn nhân có thể được giải quyết tương tự như các nỗi sợ khác. Để vượt qua nỗi sợ này, bạn cần tin tưởng người khác đồng thời duy trì lòng tin vào bản thân.
Tóm lại, theo các chuyên gia tâm lý và các nhà xã hội học, trong vấn đề thực trạng hôn nhân ở Việt Nam hiện nay, cùng với việc vi phạm điều kiện kết hôn, hiện tượng không muốn lập gia đình cũng là một hiện tượng hôn nhân đáng bàn luận. Không muốn lập gia đình có thể hiểu là nam, nữ không muốn tham gia vào mối quan hệ vợ chồng và không muốn xác lập quyền và nghĩa vụ của vợ, chồng. Hiện tượng trên khởi đầu trong những nước có mức sống cao ở Bắc Âu, lan sang Bắc Mỹ. Ở Châu Á, Nhật Bản là quốc gia điển hình. Riêng ở Việt Nam, hiện nay chưa có con số thống kê về tỉ lệ người theo xu hướng sống độc thân. Trên thực tế, trong một thời gian dài, hiện tượng này trở thành một trào lưu và được nhiều bạn trẻ hưởng ứng, nhiều người trở nên tôn sùng “chủ nghĩa độc thân”.
Nhìn trên phương diện lợi ích quốc gia, xu hướng không lập gia đình nếu kéo dài sẽ gây xáo trộn đời sống xã hội, điển hình như: không lập gia đình kéo theo việc duy trì nòi giống bị gián đoạn, dẫn tới lực lượng lao động trên thị trường suy giảm; khi bước sang giai đoạn già hóa dân số, gánh nặng về vấn đề phúc lợi xã hội sẽ tăng cao; tỉ lệ sinh đẻ giảm khiến lượng cầu của hàng hóa, dịch vụ cho bà mẹ và trẻ em giảm theo. Quan trọng nhất, các “tế bào xã hội” sẽ dần bị mất đi. Hiện tượng trên có thể được hình thành từ nhiều nguyên nhân, nhưng điển hình có thể kể đến như do sự du nhập văn hóa từ các quốc gia khác, do áp lực về kinh tế và do tư tưởng muốn sống tự do, không thích ràng buộc của các bạn trẻ. (Nguồn: Internet)
3.- Giáo huấn của Hội thánh về mục vụ Hôn nhân Gia đình
Chúng ta biết rằng ngày nay, hôn nhân đối với hầu hết các bạn trẻ, kể cả các bạn trẻ Công giáo là một thực tế đầy khó khăn và phức tạp. Dường như họ đang gặp phải những thách thức to lớn khiến nhiều người rơi vào tâm lý khủng hoảng, hoang mang lo sợ cho viễn ảnh hôn nhân của mình. Có thể kể ra, nào là thực trạng ly hôn lan tràn, nào là việc bị ép kết hôn sớm, nào là chuyện phá thai hoặc có thai trước hôn nhân, nào là hiện tượng “mẹ-đơn-thân”, rồi vấn đề bạo hành bạo lực trong gia đình vv.
Trước những mặt tiêu cực đó của hôn nhân, Hội thánh Công giáo luôn bầy tỏ trách nhiệm phải làm sao giúp các bạn trẻ mạnh mẽ vượt qua tất cả, để có một cuộc hôn nhân xứng đáng và đem lại hạnh phúc đích thực. Có thể nói, Hội thánh mọi thời đều tỏ ra rất quan tâm, lo lắng tới vấn đề hôn nhân gia đình của các Ki-tô hữu, những người đã lập gia đình, những người đang gặp khó khăn cách này cách khác trong đời sống hôn nhân, những ai đang chuẩn bị kết hôn.
Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II trong Tông huấn Những bổn phận gia đình Kitô hữu (Familiaris Consortio/ FC) ngày 22-11-1981, ngay trong phần dẫn nhập với tiêu đề “Giáo hội phục vụ các gia đình” đã viết như sau:
“Vì biết rằng hôn nhân và gia đình là một trong những điều thiện hảo quý giá nhất của nhân loại, Giáo Hội muốn ngỏ lời và đem lại sự nâng đỡ cho những người đã biết được giá trị của hôn nhân cũng như gia đình và đang cố gắng sống trung thành với giá trị đó, cho những người đang sống trong ngập ngừng âu lo và đang đi tìm chân lý, cho những người đang bị ngăn cản cách bất công, không được tự do sống những dự phóng của gia đình họ. Trong khi đem lại sự nâng đỡ cho nhóm thứ nhất, ánh sáng cho nhóm thứ hai và sự trợ giúp cho nhóm người thứ ba, Hội Thánh muốn đem thân phục vụ mọi người đang bận tâm lo lắng cho số phận của hôn nhân và gia đình.
“Giáo Hội đặc biệt ngỏ lời với các bạn trẻ đang chuẩn bị dấn thân trên con đường hôn nhân và gia đình, ngõ hầu mở ra cho họ những chân trời mới bằng cách giúp họ khám phá ra vẻ đẹp và sự cao cả của ơn gọi sống tình yêu phục vụ cho sự sống.” (x. số 1)[8]
Nếu đối với một số người, hôn nhân là tai họa, là gánh nặng, là hỏa ngục, là một cuộc chơi, là một ván cờ…thì trái lại hôn nhân đối với người Công giáo được khẳng định như một ơn gọi, một ơn huệ, một sứ mệnh đến từ Thiên Chúa. Vẻ đẹp cao cả của hôn nhân là do bản chất của nó nằm trong ý định sáng tạo và cứu rỗi của Thiên Chúa. Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ để họ kết hợp thành đôi hôn phối sống với nhau và nương tựa nhau: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2,18); “Bởi thế người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt” (St 2, 24).
Và sự kết hôn của họ nằm trong chương trình kế hoạch kỳ diệu của Thiên Chúa: “Những đôi bạn cử hành hôn nhân Công giáo là những người đã đi vào trong chính kế hoạch của lịch sử cứu độ, mà cao điểm tìm thấy trong Giao Ước Tình Yêu của Đức Ki-tô với Hội thánh. Họ được mời gọi trở nên hình ảnh sống động của Tình Yêu Thiên Chúa…” (Thánh GH Gio-an Phao-lô II, FC).
Hôn nhân đích thực là một ơn gọi như bao ơn gọi khác, bởi vì Thiên Chúa đã kêu gọi con người đi vào đời sống ấy như một ơn thiên triệu và hôn ước giữa hai người nam nữ được thiết định như một bí tích vừa đem lại ân sủng vừa thúc đẩy dấn thân chu toàn sứ mệnh.
“Thiên Chúa là tình yêu và nơi chính mình Người, Người đang sống mầu nhiệm hiệp thông yêu thương giữa các ngôi vị. Khi tạo dựng nhân tính của người nam và người nữ theo hình ảnh Người và liên lỉ bảo toàn cho nhân tính ấy được hiện hữu, Thiên Chúa ghi khắc vào đó ơn gọi cũng như khả năng và trách nhiệm tương ứng, mời gọi con người sống yêu thương và hiệp thông. Tình yêu là ơn gọi căn bản và bẩm sinh của mọi người” (Đức thánh GH Gio-an Phao-lô II, FC số 11).
Mặt khác, hôn nhân cũng là một sứ mệnh đặc biệt, bởi vì Thiên Chúa đã ban cho con người một trái tim để yêu và được yêu, một giới tính để hấp dẫn và thu hút nhau, một định mệnh để liên kết sống-với-nhau. Khi lãnh nhận những ân huệ ấy, con người đáp trả Đấng Tạo Thành bằng việc thi hành sứ mệnh của hôn ước. Họ chấp nhận nên một để trọn đời yêu thương và nâng đỡ bổ sung cho nhau, “Không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt” (x. Mt 19,6; St 2,24). Do vậy, “Sự hiệp thông vợ chồng ăn rễ sâu từ sự thu hút tự nhiên về giới tính, cũng như từ sự bổ túc lẫn nhau giữa nam và nữ, được nuôi dưỡng nhờ những nỗ lực của đôi bạn muốn chia sẻ cho nhau trọn cả bản thân trong suốt cuộc đời”. [9]
Họ chấp nhận liên kết nhau để hướng đến một mục đích cộng tác với Thiên Chúa trong việc sinh sản và giáo dục con cái. Họ ý thức rằng, “Con cái là ân huệ cao quý của hôn nhân và là sự đóng góp lớn lao kiến tạo hạnh phúc của cha mẹ. Tình yêu vợ chồng còn phong phú nhờ những hoa quả của đời sống luân lý, tinh thần và siêu nhiên được cha mẹ truyền lại cho con cái qua việc giáo dục. Theo nghĩa này, mục tiêu nền tảng của hôn nhân và gia đình là phục vụ cho sự sống và hạnh phúc.”[10]
Trong lá thư gửi các cặp vợ chồng nhân ngày lễ Thánh Gia 26-12-2021, cũng là dịp kỷ niệm 5 năm ban hành Tông huấn Amoris laetitia / Niềm Vui của Tình Yêu, ĐTC Phan-xi-cô đã chia sẻ những lời nhắn nhủ như sau:[11]
Với các bạn trẻ chuẩn bị kết hôn, ngài viết: “Ngay cả trước khi đại dịch xảy ra, việc các cặp đôi đính hôn lên kế hoạch cho tương lai cũng chẳng dễ dàng gì vì khó tìm được việc làm ổn định. Giờ đây, thị trường lao động thậm chí còn bấp bênh hơn, cha khuyến khích các cặp đôi đã đính hôn đừng nản lòng, nhưng hãy có sự can đảm sáng tạo như Thánh Giuse đã thể hiện, người mà cha đã muốn tôn vinh trong năm dành riêng cho ngài. Trên hành trình tiến tới hôn nhân, hãy luôn tin tưởng vào sự quan phòng của Thiên Chúa, dù khả năng của các con có hạn chế, vì đôi khi chính những khó khăn lại mang đến cho mỗi chúng ta những nguồn lực mà chúng ta chưa bao giờ nghĩ rằng mình có. Đừng ngần ngại dựa vào gia đình và bạn bè của các con, vào cộng đoàn Giáo hội, vào giáo xứ, để giúp các con chuẩn bị cho cuộc sống hôn nhân và gia đình bằng cách học hỏi từ những người đã trải qua lộ trình mà các con đang bắt đầu”.
Riêng đối với các đôi vợ chồng đã kết hôn, câu hỏi đặt ra là họ có thể đóng góp điều gì cho đời sống và sứ mạng của Hội Thánh. Về điểm này, ĐTC đã nhắc đến vai trò của giáo dân trong Hội Thánh, ngài viết: “Như cha đã lưu ý, chúng ta ngày càng nhận thức được căn tính và sứ mạng của giáo dân trong Giáo hội và xã hội. Các con có sứ mạng biến đổi xã hội bằng sự hiện diện của các con tại nơi làm việc và đảm bảo rằng các nhu cầu của gia đình được quan tâm đúng mức.”
Tiếp theo, ngài nhấn mạnh vai trò của các cặp vợ chồng trong Mục vụ Hôn nhân: “Vì vậy, cha khuyến khích các con, các cặp vợ chồng thân mến, hãy tích cực hoạt động trong Giáo Hội, đặc biệt là trong việc chăm sóc mục vụ gia đình. Tinh thần đồng trách nhiệm đối với sứ mạng của Giáo hội đòi hỏi các cặp vợ chồng và các thừa tác viên được thụ phong, đặc biệt là các giám mục, hợp tác với nhau cách hiệu quả trong việc quan tâm chăm sóc các Giáo hội tại gia”. Đừng bao giờ quên rằng gia đình là “tế bào nền tảng của xã hội.” ./.
Aug. Trần Cao Khải
[1] Giới trẻ Hàn Quốc lười kết hôn, ngại sinh con – VnExpress Đời sống
[2] Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) là gì? Cách vượt qua nỗi sợ – Tâm Lý Học (tamly.com.vn)
[3] Hội chứng Gamophobia: Hễ nhắc đến hôn nhân là toát mồ hôi hột, tay chân bủn rủn (afamily.vn)
[4] Sợ hôn nhân – Căn bệnh của giới nữ công chức – Báo Người lao động (nld.com.vn)
[5] Vì sao nhiều người trẻ Việt chọn sống độc thân (vnexpress.net)
[6] Hội chứng sợ kết hôn (Gamophobia) là gì? Cách vượt qua nỗi sợ – Tâm Lý Học (tamly.com.vn)
[7] CBT: Những hiểu biết cơ bản liệu pháp nhận thức hành vi – YouMed
[8] Tông Huấn Familiaris Consortio (Gia Đình Kitô Hữu) Của ĐGH Gioan Phaolô II (Ngày 22-11-1981) – (1) | Học viện Đa Minh (catechesis.net)
[9] UB Giáo Lý Đức Tin – Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình – NXB TG Hànội 2004
[10] UB Giáo Lý Đức Tin – Giáo Lý Hôn Nhân Gia Đình – NXB TG Hànội 2004
[11] Đọc Thư của Đức Thánh Cha Phanxicô gửi các đôi vợ chồng (hdgmvietnam.com)
2022
Lời khuyên cho các tân linh mục: Ý nghĩa thật sự của đời linh mục
Tôi xin được chia sẻ với tất cả anh chị em bài giảng tôi soạn để giảng lễ Tạ ơn Tân Linh Mục trong Giáo Phận.
Kính thưa cộng đoàn Phụng vụ,
Thật là một điểm đáng ghi nhớ đối với tất cả chúng ta là người Công giáo đã được rửa tội, vì chúng ta được các linh mục gọi tên lúc rửa tội. Tuy nhiên, chúng ta cũng nên quan tâm đến Chức Tư Tế Thừa Tác trong Bí tích truyền chức thánh, bởi các linh mục được kêu gọi để phục vụ dân Chúa trong lòng Giáo hội, để vừa hỗ trợ vừa dẫn dắt họ.
Trong Thánh lễ Tạ ơn hôm nay, thường mọi người nghĩ bài giảng của tôi sẽ nói về chức linh mục là một mầu nhiệm. Nơi chức linh mục có nhiều điều để chúng ta có thể nói đến. Tuy nhiên, hôm nay tôi muốn tập trung vào Lời Chúa trong bài Tin mừng theo thánh Gioan (Ga 15,9-17) chúng ta vừa nghe[1], trong đó Chúa Giêsu nói những lời từ biệt cuối cùng của Ngài với các môn đệ. Hai từ nổi bật trong bài Tin mừng: Tình yêu và Niềm vui.
Trong bài Tin Mừng, chúng ta nghe thấy rằng: “Thiên Chúa là tình yêu, hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình”. Trong những lời này, chúng ta tìm thấy tâm điểm của đời sống Kitô hữu và có lẽ không có lời nào tốt hơn để hướng dẫn đời sống của một linh mục.
Sau đó, Chúa Giêsu nói tiếp “Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn”. Tình yêu và niềm vui luôn đi đôi với nhau. Khi một linh mục thực sự sống với thánh chức của mình, khởi đi từ tình yêu thương thì điều này cũng sẽ dẫn đến niềm vui, cho linh mục và cho những người xung quanh.
Tình yêu mà linh mục được kêu gọi được tìm thấy trong việc phục vụ. Nhiệm vụ của linh mục là để phục vụ dân Chúa, để tìm thấy Chúa Giêsu trong những người mà các linh mục phục vụ: các bệnh nhân, người già đóng neo đơn, mục vụ trong mùa Giáng sinh và Phục sinh, những tín hữu thờ ơ, nguội lạnh, người bị gạt ra ngoài lề xã hội, người giàu và người nghèo, người già và trẻ nhỏ. Các linh mục phải phục vụ tất cả họ bằng con mắt của đức tin. Để mỗi người trong số họ có phẩm giá và giá trị ngang nhau. Một linh mục phải tìm thấy Chúa Giêsu ẩn mình giữa những người mà mình phục vụ.
Một trong những định nghĩa hay nhất về linh mục quản xứ mà tôi đã được nghe là: “Linh mục quản xứ trở nên một với giáo dân và giáo dân nên một với linh mục quản xứ”. Một linh mục phải đi đến với giáo dân. Các linh mục đừng có suy nghĩ rằng liệu giáo dân nào xứng đáng để mình phục vụ hay không. Các linh mục phải phục vụ mà không mong chờ giáo dân đáp lại bất cứ điều gì. Đừng quên và cũng đừng tránh những người có đời sống đạo nguội lạnh, những người ít lui tới nhà thờ hay những người đang chống đối Giáo hội.
Trong cái nhìn về các bí tích trong Đạo Công Giáo của chúng ta, chúng ta thấy rằng tất cả đều là một con đường dẫn chúng ta đến gần với Thiên Chúa. Chúa Giêsu thậm chí còn sử dụng những con người yếu đuối, tội lỗi như chúng ta làm linh mục của Ngài. Một linh mục không cần nản lòng vì tội lỗi và sự yếu đuối của mình. Nhưng hãy thành thật đối mặt với nó. Hãy nhìn nhận tội lỗi và sự yếu đuối của mình. Không được nản lòng vì điều đó, mà hãy trung thực với chính mình. Điều này sẽ giúp các linh mục không có cảm giác được hưởng quyền lợi, không cảm thấy mình vượt trội hoặc hơn những người khác. Điều này sẽ giúp các linh mục nhân ái hơn, nhân từ hơn với tất cả những người họ gặp gỡ. Có người từng nói rằng khi nhìn một người bước vào đời linh mục, họ tự hỏi rằng liệu một giáo dân bình thường như anh ta có trở thành linh mục được không. Xin thưa rằng: khi một linh mục bắt đầu phục vụ tại nhiệm sở đầu tiên trong đời linh mục, nghĩa là linh mục đó chỉ mới bắt đầu học để trở thành một linh mục. Các linh mục phải phục vụ giáo dân của mình bằng tình yêu thương, tìm thấy Chúa Giêsu trong họ, và học cách trở thành một linh mục từ họ.
Chức linh mục được thể hiện rõ ràng nhất khi linh mục cử hành Bí tích Thánh Thể. Nó không đơn giản chỉ là nghi lễ bên ngoài hay việc phải cử hành cho đúng nghi thức. Trung tâm điểm của Bí tích Thánh Thể đối với linh mục có lẽ được tìm thấy rõ nhất trong lời truyền phép mà các ngài đọc mỗi ngày khi cử hành Bí tích Thánh Thể: “Này là Mình Thầy sẽ bị nộp vì các con”. Các linh mục không chỉ nói những lời đó, nhưng còn phải sống những lời đó. Ý nghĩa của chức linh mục được tìm thấy trong những từ đó. Các linh mục phải hy sinh cuộc sống của mình cho những người mà các ngài phục vụ.
Chức Linh Mục là một Bí Tích, Bí Tích Truyền Chức Thánh. Trong truyền thống Công giáo của chúng ta, chúng ta biết rằng lời cầu nguyện và niềm tin là không thể thiếu với nhau, cách chúng ta cầu nguyện là cách chúng ta thể hiện niềm tin của mình. Vì vậy, chúng ta phải thể hiện một cách trực quan những gì chúng ta tin. Các linh mục nên tự hỏi lương tâm mình rằng, “Qua đời sống linh mục của tôi, mọi người thấy gì?”
Khi giáo dân nhìn vào cách các linh mục đang sống với thánh chức của mình, họ sẽ thấy gì? Hy vọng rằng những gì giáo dân nhìn thấy ở mỗi linh mục là người mà họ đang cần. Họ sẽ thấy một linh mục chăm lo cử hành Bí tích, một linh mục luôn chuẩn bị bài giảng, một linh mục luôn hiện diện với người bệnh, người nghèo và người hấp hối. Giáo dân sẽ quan tâm đến cách các linh mục đón tiếp và gặp gỡ giáo dân. Hi vọng tôi sẽ được nghe giáo dân nói rằng: các tân linh mục đây sẽ là những linh mục mà giáo dân có thể đến gặp, những linh mục đón nhận giáo dân với lòng thương xót và sự chăm sóc. Giống như Chúa Giêsu đã nói: Hãy đến với Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường.
Tôi đang suy nghĩ về một lời khuyên mà tôi sẽ đưa ra cho bất kỳ ai đang bước vào đời linh mục. Một lời khuyên mà tôi dành cho các tân chức. Tôi nghĩ lại về những lời khuyên mà tôi đã nhận được trong đời linh mục của mình. Một lời khuyên mà tôi nghĩ đến, là lời khuyên từ cha của tôi khi tôi đang còn là chủng sinh. Lời khuyên duy nhất bố dành cho tôi: Hãy tử tế với mọi người. Có vẻ như lời khuyên này nghe có vẻ đơn giản vào thời điểm đó, nhưng tôi thấy rằng đó có lẽ là lời khuyên quan trọng nhất mà tôi đã nhận được. Hơn 28 năm làm linh mục, tôi đã có lúc hối hận vì đã không tử tế với mọi người, nhưng chưa bao giờ tôi hối hận vì đã quá tử tế với mọi người. Vì vậy, đó sẽ là lời khuyên của tôi cho các tân linh mục: Hãy tử tế với mọi người.
Có hai từ mà chúng ta đã bắt đầu ngày hôm nay: Tình yêu và Niềm vui. Trong ơn gọi của mỗi người chúng ta, dù là hôn nhân, sống độc thân, đời linh mục, đời sống tu trì, nếu chúng ta biết cho đi cuộc sống của mình trong tình yêu, thì lúc đó chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui và mang lại niềm vui cho người khác. Một linh mục dâng hiến cuộc đời mình trong tình yêu thương, thực sự yêu thương những người mà mình phục vụ, thì linh mục đó sẽ tìm thấy niềm vui trong chức vụ của mình và mang lại niềm vui cho những người mà mình phục vụ.
Jos. Đăng Vũ
Chuyển ngữ từ: catherineofsienachurch.ca (06.5.2018)
[1] Tin mừng Chúa Nhật 6 Phục Sinh Năm B, Ga 15, 9-17:
Khi ấy, Chúa Giêsu phán cùng các môn đệ rằng: “Như Cha đã yêu mến Thầy, Thầy cũng yêu mến các con. Hãy ở lại trong tình yêu của Thầy. Nếu các con tuân lệnh Thầy truyền, các con sẽ ở trong tình yêu của Thầy, cũng như Thầy đã giữ lệnh truyền của Cha Thầy, nên Thầy ở lại trong tình yêu của Người. Thầy nói với các con điều đó để niềm vui của Thầy ở trong các con, và niềm vui của các con được trọn vẹn. Ðây là lệnh truyền của Thầy: Các con hãy yêu mến nhau, như Thầy đã yêu mến các con. Không có tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người thí mạng vì bạn hữu mình. Các con là bạn hữu của Thầy, nếu các con thi hành những điều Thầy truyền. Thầy không còn gọi các con là tôi tớ, vì tôi tớ không biết việc chủ làm; Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe biết nơi Cha Thầy, thì Thầy đã cho các con biết. Không phải các con đã chọn Thầy, nhưng chính Thầy đã chọn các con, và đã cắt đặt để các con đi và mang lại hoa trái, và để hoa trái các con tồn tại, để những gì các con xin Cha nhân danh Thầy, Người sẽ ban cho các con. Thầy truyền cho các con điều này là các con hãy yêu mến nhau”.
Tác giả: Lm. Mark Gatto