2022
Có hôn nhân trên Thiên Đàng không?
Có hôn nhân trên Thiên Đàng không?
Chúa Giêsu tuyên bố rõ ràng rằng sẽ không có hôn nhân trên Thiên đàng, mặc dù điều đó không có nghĩa là chúng ta sẽ không được gắn kết với người vợ/chồng của mình.
Đối với nhiều cặp vợ chồng, thật khó để tưởng tượng Thiên đàng chia ly họ, không thể là vợ chồng vĩnh viễn.
Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã giảng dạy rất rõ ràng về hôn nhân trên Thiên Đàng.
- “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng” (Luca 20: 34-36).
Điều này có vẻ giống như một kiểu hiện hữu “thấp kém hơn”, nơi chúng ta không còn hợp nhất với người vợ / người chồng của mình trên Thiên đàng.
Tuy nhiên, điều này không có nghĩa là chúng ta sẽ không thể hợp nhất với người vợ / người chồng của mình mãi mãi.
Sách Giáo lý của Giáo hội Công giáo mô tả Thiên đàng là nơi “hiệp thông”.
- “Thiên Đàng” là cuộc sống viên mãn vì được hiệp thông trong sự sống và tình yêu với Thiên Chúa Ba Ngôi, với Đức Trinh Nữ Maria, với các thiên thần và các thánh. Thiên Đàng là mục đích tối hậu và là sự hiện thực các nguyện vọng sâu xa nhất của con người, là tình trạng hạnh phúc tuyệt hảo và chung cuộc” (GLGHCG, số 1024).
Hơn nữa, tất cả những người trên Thiên đàng đều hợp nhất trong một “thành thánh của Thiên Chúa”.
- “Những kẻ được kết hợp với Chúa Kitô tạo thành cộng đoàn những người được cứu chuộc, Thành Thánh của Thiên Chúa (Kh 21,2), “Hiền Thê của Con Chiên”(Kh 21,9). Cộng đoàn này sẽ không còn mang thương tích của tội lỗi nhơ bẩn (Kh 21,27), ích kỷ từng hủy diệt hoặc gây tổn thương cho cộng đồng nhân loại dưới thế. Việc hưởng nhan thánh Chúa sẽ là nguồn hạnh phúc, bình an và hiệp thông bất tận cho những người được tuyển chọn, vì Thiên Chúa tự ban trọn vẹn cho họ” (GLGHCG, số 1045).
Thiên đàng sẽ không giống như bất cứ trải nghiệm nào về sự hiệp thông mà chúng ta gặp trên trần thế, vượt qua cả những thời điểm hạnh phúc nhất của cuộc sống hôn nhân trên trái đất.
Nếu cả hai vợ chồng đã cùng ra sức sống thánh thiện trên trần gian và đi vào hạnh phúc vĩnh cửu của Thiên đàng, thì trong Thiên đàng họ sẽ được kết hợp theo cách mà chúng ta không thể hiểu được. Việc đó sẽ không giống như hôn nhân trên trần gian, vì chúng ta sẽ được kết hợp với tất cả các thánh trên Thiên đàng trong một tình yêu hiệp thông vĩnh cửu, được ràng buộc với nhau bởi chính Thiên Chúa.
Cuộc sống hôn nhân mất đi sẽ không phải là vấn đề đối với bất cứ ai trong chúng ta, vì chúng ta sẽ nhận được phần thưởng lớn hơn nhiều so với những gì chúng ta có thể tưởng ra được.
Hôn nhân là một con đường được thiết lập để giúp chúng ta đi đến Thiên đàng và cuối cùng một khi chúng ta đã đến đích, thì sẽ không còn cần phải giữ lấy con đường hôn nhân đó nữa.
Tác giả: Philip Kosloski – 06/11/22, https://aleteia.org.
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
2022
Người Công-giáo nhìn trận chiến “phá thai” tại Mỹ
Người Công-giáo nhìn trận chiến “phá thai” tại Mỹ
Phá thai là một tệ nạn xã hội ở khắp nơi trên thế giới này nhưng sao chỉ ồn ào tại Mỹ, nhất là trong mùa bầu cử này. Vấn nạn phá thai đã bị chính trị hóa. Nhiều người bị cuốn hút vào vong tranh chấp: Hoặc bênh vực hoặc phê bình lên án.
Chúng tôi nghĩ rằng: Sau mùa bầu cử thì cơn lốc chính trị sẽ giảm đi và ta mới có thể bình tâm để suy luận trung thực hơn. Chúng tôi xin chia vấn đề này ra làm hai mặt:
- Hiệu quả của việc phê bình, lên án:Phá thai là giết người, là trọng tội. Mọi người biết thế nhưng việc lên án nặng nhẹ khác nhau tùy theo quan điểm mỗi người, mỗi nhóm, tùy theo mức độ đạo đức hoặc văn hóa.
Xin mở ngoặc: Có lý luận rằng: Thai nhi cũng là một con người có giá trị như mọi người, và giết một thai nhi cũng không khác gì giết người lớn. Nhưng chúng tôi nghĩ đó là kiểu lý luận thuần túy tôn giáo và trên thực tế thì không thể như vậy. Ví dụ một thai nhi bị chết vi phá thai hay bị xảy thai thì nguời ta không thể có xúc cảm thương đau như khi đứng trước một người lớn qua đời.
Hoặc lý luận mơ hồ rằng khi phá thai thì thai nhi cũng đau đớn và biết khóc. Hoặc mọi giúp đỡ cho việc phá thai là tiêu tiền thuế của dân chúng.
Khi nghe những lý luận trên đây, chúng tôi có cảm nhận rằng: Vì e mình không đủ tự tin là mình đang nắm vững được ”Lẽ phải”, cho nên mình phải vơ vét thêm những lý lẽ có tính khích động đến tình cảm và túi tiền người khác. Các cách này thì nhà chính trị vẫn làm nhưng nhà đạo đức thì không thể.
Phê bình chỉ trích là đúng nhưng chưa đủ vì nó chỉ là một vế của phương trình. Vì bao năm nay, việc phê bình chỉ trích chẳng làm thay đổi gì cả.
- Vậy phải tìm xem nguyên nhân nào đã gây nên nạn phá thai để tìm cách sửa chữa:
Nhiều thống kê cho rằng phần lớn các vụ phá thai là do khó khăn về tài chánh và khủng hoảng tâm lý khi biết mình có thai, nhất là người ở tình trạng có thai ngoài hôn nhân, sợ xã hội chê cười, gia đình ghét bỏ. Vào thời kỳ này, đương sự rất cần được sự giúp đỡ: Nâng đỡ tinh thần và cả vật chất.
Khi qua được mấy tháng đầu thì những người nghèo lại lo đến một tương lai dài hạn hơn, là làm sao nuôi con tới ngày khôn lớn, phải nghỉ việc, lấy đâu ra tiền để sống cho toàn thể gia đình…
Nếu ta cảm thông được hoàn cảnh của họ thì ta sẽ dễ dàng thương cảm hơn là lên án.
Có vài cơ cấu tôn giáo đã có những chương trình giúp đỡ họ, ví dụ cung cấp cho một số người nơi ăn ở cho tới ngày sinh nở. Trường hợp này rất ít vì chỉ áp dụng cho những người nhất thời không nơi ăn ở. Cần nhiều cơ sở giúp đỡ họ tại nhà của họ, Không chỉ ở thời kỳ đầu, mà cả thời kỳ nuôi con sau này. Đây mới là chương trình lớn mà Xã-hội và các Giáo-hội vẫn chưa làm gì đáng kể.
Một chuyện mới đây, đó là Công-an tại Vietnam đã bắt được mấy nhóm người buôn bán trẻ sơ sinh.
Họ tổ chức nuôi ăn ở cho một số người mang thai để sau khi sanh thì bán đứa nhỏ cho cha mẹ nuôi…
Nhìn vào hai trường hợp là phá thai và bán con trên đây thì ta thấy có cùng một nguyên nhân, đó là vì nghèo không nuôi nổi con.
Cả hai trường hợp đều có tội, nhưng nếu người mẹ không bán con mà là cho không thì lại không bị tội hoặc trường hợp người “hiến nội tạng” thì lại đáng khen! Nhưng nếu người nhận con nuôi hay nhận nội tạng, rồi sau đó, muốn trả ơn người đã hiến tặng, bằng cách biếu lại quà cáp “đáng giá” gì đó thì ta lại thấy đó là chuyện tự nhiên?
Mỗi người chúng ta có thể có cái nhìn khác nhau và có thể sai lầm ít nhiều chăng!
Và một chuyện nữa là một người vợ vì không có khả năng mang thai nên nhờ một bà khác mang thai giùm mấy tháng đầu rồi sau đó sẽ chuyển cái thai vào bào thai của người vợ. Họ làm theo lời khuyên của bác sĩ. Vậy câu hỏi là: Mang thai giùm có tội không? Mấy ai hiểu được nỗi đau khổ của những người không thể có thai hoặc bị sảy thai nhiều lần, chạy chữa rất tốn phí mà vẫn không được!
Ngày nay, sống đạo theo các tiêu chuẩn cổ truyền thì rất khó khăn. Ví dụ: Phá thai thì đương nhiên là có tội, nên chọn cach ngừa thai, nhưng ngừa thai cũng có tội. Vậy không muốn có thai thì vợ chồng chỉ còn cách là đừng gần nhau, vì giáo lý dạy rằng: khi vợ chồng muốn gần nhau thì phải chấp nhận có con. Và cách độc nhất được Giáo-hội cho phép đó là phải theo phương pháp Oginô (do bác sĩ Ogino người Nhật và được ĐGH Pio X áp dụng), nhưng vẫn có rủi ro. Vậy nếu vợ chồng đi làm xa, lâu lâu mới gặp nhau thì phải làm sao?
Và cuối cùng là giới trẻ ngày nay đã sống xa đạo. hoặc bỏ đạo, Họ có tội không?
Chúng tôi nhớ lại rằng: cách đây vài chục năm, cha Lom-bac-đô, phát ngôn viên của Tòa-thánh đã trả lời rằng: Giáo-hội chưa hề có văn thư nào chính thức về việc cấm ngừa thai.
Chúng tôi cũng lại biết rằng: Trong Hội-nghị Giám-mục thế giới về gia đình, năm 2015-2016, thì các Nghị-phụ cũng đã bất đồng ý về nhiều vấn đề gia đình, với chỉ số ngang ngửa 50/50.
Vậy xin các Đấng nên hợp Ý lại để con cái Giáo-hội khỏi sống trong mặc cảm tội lỗi và rồi sống xa đạo.
Chúng tôi xin mạo muội trình bày rằng: Ngày nay, nhiều tin tức nội bộ Giáo-hội cũng cho thấy có những sự khác biệt giữa các Đấng bậc trong Giáo-hội. Một số các Đấng vẫn còn muốn trung thành với truyền thống cũ, kể cả chối bỏ Công-đồng Vatican II, mà khi khai mạc cộng đồng này, ĐGH Gioan XXIII đã phát biểu rằng Giáo-hội phải mở cửa để thông với thế giới bên ngoài.
Những suy nghĩ của chúng tôi có thể sai sót nhưng đây là lòng thành của chúng tôi khi lo lắng cho đám con cháu và bạn bè của chúng.
Chúng tôi cầu xin các Đấng nhìn đến đám con cái với tình cảm của bậc cha mẹ là biết lắng nghe con cái và chia sẻ sự khắc khoải, khó khăn trong cuộc sống đạo của chúng.
Kết luận: “Nghèo đói sinh đạo tặc”. Vậy nếu giảm được đói nghèo thì tội ác sẽ giảm theo và nạn phá thai vì nghèo đói cũng sẽ giảm bớt chăng?
Và cuối cùng, ta hãy nhìn tổng quát đến nhiều vấn nạn trong xã hội hôm nay, đó là biết bao loại tội lỗi khác như bắn giết hằng ngày, tham nhũng, bất công khắp nơi… Đây là những nguyên nhân gây nên sự nghèo đói. Vậy cần phải có chương trình cải tạo và sửa đổi những nguyên nhân này.
Nguyễn Thất-Khê
2022
Cơ sở Tân Ước về Luyện ngục: Hình ảnh một ngọn lửa thanh luyện
Cơ sở Tân Ước về Luyện ngục: Hình ảnh một ngọn lửa thanh luyện
“Quả thật, Thiên Chúa chúng ta là một ngọn lửa thiêu” (Hípri 12:29).
Trong thông điệp về hy vọng, Spe Salvi, Đức Bênêđíctô XVI đã làm một công việc tuyệt vời khi chứng minh thư 1Côrintô 3: 10 -15 ủng hộ rõ ràng học thuyết về Luyện ngục. Cũng rất thú vị khi lưu ý rằng Tiến sĩ Scott Hahn, một người Tin lành trở lại Công giáo, đã đề cập đến đoạn Kinh thánh Tân ước này như mang tính quyết định khiến ông chấp nhận giáo huấn của Giáo hội về Luyện ngục (ông nói: “Tôi phải thừa nhận rằng về mặt thần học và tâm lý học, thư 1Côrintô 3 cơ bản mang tính quyết định. Tất cả đã được sắp xếp cho tôi khi tôi làm việc này, cầu nguyện, nghiên cứu, suy ngẫm. Tôi nghĩ nó mạnh mẽ và rõ ràng.”)
Đây là bản văn 1 Côrintô 3: 10-15.
“Theo ơn Thiên Chúa đã ban cho tôi, tôi đặt nền móng như một kiến trúc sư lành nghề, còn người khác thì xây trên nền móng đó. Nhưng ai nấy phải coi chừng về cách mình xây cất. Vì không ai có thể đặt nền móng nào khác ngoài nền móng đã đặt sẵn là Đức Giêsu Kitô. Người ta có thể dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa.”
Bản văn này có thể khó hiểu, nhưng thực ra nó không phức tạp như vậy. Hãy tưởng tượng bạn ký hợp đồng để xây dựng một ngôi nhà. Nếu bạn xây nhà bằng vật liệu chất lượng cao như vàng, bạc và đá đắt tiền, lửa sẽ không thiêu rụi nó. Nhưng nếu bạn xây nhà bằng vật liệu kém hơn như gỗ, cỏ khô hoặc rơm, thì ngôi nhà sẽ bị thiêu rụi khi bị thử trong lửa. Còn ngôi nhà tâm linh của bạn thì sao? Những công việc tốt mà bạn đã thực hiện trong suốt cuộc đời để xây dựng dinh thự tinh thần của mình – những công việc này có chịu được sự soi xét hừng hực như lửa vào ngày phán xét không? Hay chất lượng thấp và vật liệu tồi tàn đã làm hỏng vẻ ngoài của dinh thự tâm linh của bạn?
Bây giờ có hai điều có thể xảy ra với bạn nếu bạn ở trong một ngôi nhà đang cháy: bạn có thể bỏ mạng trong đám cháy hoặc thoát ra ngoài an toàn! Trong trường hợp thứ hai, khi bạn thoát ra ngoài, đám cháy chứng tỏ là có tính chữa trị hoặc thanh luyện. Công việc kém cỏi của bạn bị thiêu hủy, nhưng bạn vẫn thoát ra và sống sót. Trong bối cảnh phán xét, hình ảnh một ngọn lửa cứu độ hoặc thanh luyện như thế này xem ra rất giống Luyện ngục! Và trong đoạn Kinh thánh được đề cập lấy từ 1 Côrintô 3, Thánh Phaolô nói về một tình huống mà công việc kém cỏi bị thiêu rụi và “người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa” (1 Côrintô 3:15).
Cuốn Kinh thánh Nghiên cứu Công giáo của Ignatius giải thích 1 Côrintô 3:15 theo cách này:
“Một số Kitô hữu, là những người nỗ lực kém cỏi và bất toàn, sẽ vượt qua sự phán xét rực lửa của Thiên Chúa giống như một người vừa thoát khỏi một tòa nhà đang cháy vẫn giữ được mạng sống của mình. Khúc dạo đầu của sự cứu thoát này sẽ liên quan đến những hậu quả tinh thần đau đớn, mặc dù nghiêm trọng, nhưng sẽ giúp họ tránh bị trầm luân vĩnh viễn… Truyền thống Công giáo giải thích lời dạy của thánh Phaolô về Luyện ngục như một giai đoạn thanh luyện cuối cùng vốn dành cho những người đã được dự liệu lên thiên đàng nhưng rời khỏi cuộc sống này mà vẫn còn mang gánh nặng những tội nhẹ hoặc một món nợ chưa trả được là hình phạt tạm thời phát sinh từ những tội đã phạm trong quá khứ (những tội trọng đã được tha nhưng không ăn năn cách trọn hảo). Vì thế, băng qua lửa là một tiến trình tâm linh, nơi đó các linh hồn được thanh tẩy khỏi những ích kỷ còn sót lại và được tinh luyện trong tình yêu của Thiên Chúa: “Những người chết trong ân nghĩa Chúa, nhưng chưa được thanh luyện hoàn toàn, mặc dù chắn chắc được cứu độ đời đời, còn phải chịu thanh luyện sau khi chết, để đạt được sự thánh thiện cần thiết để vào hưởng phúc Thiên Đàng” (GLGHCG 1030). ”
Đức Bênêđíctô giải thích một cách rất hay và sâu sắc trong thông điệp Spe Salvi của ngài, về cách thư 1Côrintô chương 3 soi sáng giáo huấn của Giáo hội về Luyện ngục:
“Thánh Phaolô bắt đầu bằng cách nói rằng đời sống Kitô hữu được xây dựng trên một nền tảng chung: Chúa Giêsu Kitô. Nền tảng này sẽ bền vững mãi mãi. Nếu chúng ta đã đứng vững trên nền tảng này và xây dựng cuộc sống của mình trên đó, thì chúng ta biết rằng nền tảng đó không thể bị lấy đi khỏi chúng ta ngay cả trong cái chết. Sau đó, thánh Phaolô tiếp tục: “Người ta có thể dùng vàng, bạc, đá quý, gỗ, cỏ, rơm mà xây trên nền đó. Nhưng công việc của mỗi người sẽ được phơi bày ra ánh sáng. Thật thế, Ngày của Chúa sẽ cho thấy công việc đó, vì Ngày ấy tỏ rạng trong lửa; chính lửa này sẽ thử nghiệm giá trị công việc của mỗi người. Công việc xây dựng của ai tồn tại trên nền, thì người ấy sẽ được lĩnh thưởng. Còn công việc của ai bị thiêu huỷ, thì người ấy sẽ phải thiệt. Tuy nhiên, bản thân người ấy sẽ được cứu, nhưng như thể băng qua lửa” (1Cr 3,12-15). Trong bản văn này, rõ ràng là ở bất cứ trường hợp nào, sự cứu rỗi của chúng ta có thể có những hình thức khác nhau, rõ ràng là một số thứ đã được xây dựng có thể bị thiêu rụi, và rõ ràng là để được cứu, cá nhân chúng ta phải vượt qua “lửa” để cõi lòng trở nên cởi mở trọn vẹn đón nhận Thiên Chúa và có thể ngồi vào chỗ của chúng ta nơi bàn tiệc cưới vĩnh cửu.
- Một số nhà thần học gần đây cho rằng ngọn lửa vừa đốt cháy vừa cứu thoát là chính Chúa Kitô, Đấng Phán Xét và Đấng Cứu Độ. Cuộc gặp gỡ với Ngài là hành vi phán xét dứt khoát. Trước cái nhìn của Ngài, tất cả mọi sự giả dối đều tan biến. Cuộc gặp gỡ này với Ngài, trong khi thiêu đốt chúng ta, biến đổi và giải thoát chúng ta, cho phép chúng ta trở nên thực sự là chính mình. Tất cả những gì chúng ta xây dựng trong suốt cuộc đời của mình có thể chỉ là rơm rạ, khoe khoang khoác lác và những thứ đó phải sụp đổ. Tuy nhiên, trong nỗi đau của cuộc gặp gỡ này, khi sự dơ bẩn và bệnh tật của cuộc đời chúng ta trở nên sáng rõ cho chúng ta, thì sự cứu rỗi nằm ở đó. Ánh mắt của Ngài, sự đụng chạm vào trái tim của Ngài chữa lành chúng ta nhờ một sự biến đổi đau đớn không thể phủ nhận, giống “như đi ngang qua lửa”. Nhưng đó là một nỗi đau đem lại phúc lành, trong đó sức mạnh thánh thiện của tình yêu của Thiên Chúa truyền qua chúng ta như một ngọn lửa, giúp chúng ta trở nên hoàn toàn là chính mình và do đó trọn vẹn thuộc về Thiên Chúa. Bằng cách này, mối liên hệ giữa công lý và ân sủng cũng trở nên sáng tỏ: cung cách chúng ta sống cuộc sống của mình không phải là không quan trọng, nhưng sự dơ bẩn của chúng ta không làm chúng ta vấy bẩn mãi mãi nếu ít ra chúng ta tiếp tục vươn tới Chúa Kitô, hướng tới sự thật và hướng tới tình yêu. Thật vậy, cách sống đó đã bị thiêu rụi qua cuộc Khổ nạn của Chúa Kitô. Tại thời điểm phán xét, chúng ta trải nghiệm và chúng ta hấp thụ sức mạnh áp đảo của tình yêu thương của Ngài đối với tất cả những điều xấu xa trên thế giới và trong chính chúng ta. Nỗi đau tình yêu trở thành sự cứu rỗi và niềm vui của chúng ta. Rõ ràng là chúng ta không thể tính toán “khoảng thời gian” của việc thiêu cháy mang tính biến đổi này theo các phép đo thời gian của thế giới này. “Thời điểm” biến đổi của cuộc gặp gỡ này thoát khỏi cách tính toán thời gian trần thế — đó là thời gian của trái tim, là thời gian “vượt qua” để đi tới sự hiệp thông với Thiên Chúa trong Thân Mình Chúa Kitô. Sự phán xét của Thiên Chúa là niềm hy vọng, bời vì sự phán xét đó vừa là công lý vừa là ân sủng. Nếu sự phán xét đó chỉ đơn thuần là ân sủng, làm cho mọi sự trên trần gian không còn gì là quan trọng nữa, thì Thiên Chúa vẫn nợ chúng ta một câu trả lời cho vấn đề công lý — câu hỏi trọng yếu mà chúng ta vẫn đặt ra cho lịch sử và cho Thiên Chúa. Nếu sự phán xét đó chỉ đơn thuần là công lý, thì rốt cuộc sự phán xét đó chỉ có thể mang lại nỗi sợ hãi cho tất cả chúng ta. Sự nhập thể của Thiên Chúa trong Chúa Kitô đã liên kết rất chặt chẽ cả hai với nhau —phán xét và ân sủng — đến nỗi công lý được thiết lập vững chắc: tất cả chúng ta đều thực hiện sự cứu rỗi của mình “với sự sợ hãi và run rẩy” (Philíp 2:12). Tuy nhiên, ân sủng cho phép tất cả chúng ta hy vọng và tin cậy đến gặp Đấng phán xét mà chúng ta biết là “Đấng Bào Chữa”, hay parakletos – Đấng Bảo Trợ (1 Gioan 2:1)”
Về mặt lịch sử, khá rõ ràng rằng những Kitô hữu đầu tiên tin vào tình trạng thanh luyện sau khi chết. Ví dụ, chúng ta biết rằng các Kitô hữu sống trong hầm mộ ở Rôma đã ghi lên tường những lời cầu nguyện cho những người chết. Ngoài ra, những lời cầu nguyện cho những người chết còn có trong một số tác phẩm cổ xưa nhất của Kitô giáo. Một văn bản bằng chứng quan trọng khác trong Sách thánh là quyển 2 Macabê 12:46, trong đó nói rằng: “Đó là lý do khiến ông đến dâng lễ tế đền tạ cho những người đã chết,để họ được giải thoát khỏi tội lỗi.” Rõ ràng, chúng ta sẽ không cầu nguyện cho người chết nếu họ đã ở trên thiên đàng rồi. Mỗi thánh lễ Công giáo được cử hành trên khắp thế giới đều có những lời cầu nguyện cho người sống và người chết, và có một danh sách lạ thường các vị thánh Công giáo đã trải nghiệm những mặc khải riêng tư về luyện ngục, trong đó gần đây nhất là Thánh Padre Pio và Thánh Faustina Kowalska – vị thánh của những mặc khải về Lòng Chúa Thương Xót. Cuối cùng, không phải trong trái tim chúng ta đều có bản năng do Thiên Chúa ban tặng để cầu nguyện cho linh hồn những người chết hay sao? Trong Thư gửi cho Malcolm, Clive.Staples. Lewis đã đề cập đến bản năng cầu nguyện cho người chết này:
“Tất nhiên là tôi cầu nguyện cho những người đã mất. Hành động này rất tự phát, hầu như không thể không làm, đến độ chỉ có tình huống thần học nào thúc ép nhất chống lại việc cầu nguyện đó mới có thể ngăn cản tôi. Và tôi gần như không biết những lời cầu nguyện khác của tôi sẽ tồn tại như thế nào nếu những lời cầu nguyện dành cho những người chết bị cấm. Ở tuổi của chúng tôi, phần lớn những người chúng tôi yêu thương nhất đã chết. Tôi có thể giao tiếp với Thiên Chúa cách gì nếu những gì tôi yêu quý nhất lại không thể được nói cho Ngài nghe? Tôi tin có Luyện ngục.”
Ngoài những lý do chứng tỏ sự hợp lý của giáo huấn của Giáo hội về Luyện ngục, người Công giáo cần nhận ra sự hỗ trợ mạnh mẽ trong chương ba thư thứ nhất của thánh Phaolô gửi tín hữu Côrintô nói đến Luyện ngục và những ngọn lửa thanh luyện ở đó.
Tác giả: Tom Mulcahy, MA, catholicstrength.com
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung.
Tài liệu tham khảo:
1.Đức Giáo Hoàng Benedict XVI, Thông điệp Spe Salvi –Niềm Hy Vọng Cứu Độ.
2.Ignatius Catholic Study Bible, trang 288-289.
3.Dr. Scott Hahn audio, “Purgatory: Holy Fire – Luyện Ngục: Ngọn Lửa Thánh”.
4.Catholicism and Fundamentalism – Công Giáo và Chủ trương chính thống cực đoan, của Karl Keating.
2022
Truyền Giáo: Thao thức của Chúa và sứ mạng ngàn năm của Hội Thánh
Truyền Giáo: Thao thức của Chúa và sứ mạng ngàn năm của Hội Thánh
“Truyền giáo”. Chúng ta phải hiểu chính xác đó là công cuộc truyền bá đức tin và gieo đức tin cho anh chị em của mình. Và nếu là gieo đức tin vào lòng người, đó là gieo cả một công trình của đời sống, của cảm nghiệm, của một sự thấm thía về một kinh nghiệm sống tận chiều sâu nội tâm.
Đức Giáo Hoàng Phaolô VI gọi việc loan báo Tin Mừng là Phúc Âm hóa. Đức Gioan Phaolô II cũng dựa trên khái niệm “Phúc Âm hóa” và mở rộng thêm: “Tái Phúc âm hóa”, “Tân Phúc Âm hóa”. Tân Phúc Âm hóa là quay về với chính cảm nghiệm nội tâm về chính Chúa Kitô nhằm chia sẻ những cảm nhận về chính Chúa Kitô cho anh chị em của mình.
Ngay số 1 của Tông Huấn Niềm vui Tin Mừng, Đức Phanxicô nhắc lại cảm nghiệm cá nhân với Chúa Kitô, không khác giáo huấn Tân Phúc Âm hóa mà Đức Gioan Phaolô II từng dạy: “NIỀM VUI CỦA TIN MỪNG đổ đầy trái tim và cuộc sống của tất cả những ai gặp Chúa Giêsu. Những ai chấp nhận đề nghị cứu độ của Người đều được giải thoát khỏi tội lỗi, buồn phiền, trống rỗng nội tâm và cô đơn. Với Đức Kitô, niềm vui luôn luôn được tái sinh”.
Bởi tầm quan trọng của ơn gọi gieo vãi đức tin, mỗi Kitô hữu hãy luôn thâm tín và sẵn sàng dấn thân mọi nơi, mọi lúc cho sự thâm tín này, đó là: Ơn gọi truyền giáo không phải là một thứ thêm vào có cũng được mà không có cũng không sao, nhưng TRUYỀN GIÁO LÀ BỔN PHẬN KHÔNG THỂ BỎ QUA CỦA KITÔ HỮU.
- TRUYỀN GIÁO LÀ LỆNH TRUYỀN CỦA CHÚA GIÊSU.
Truyền giáo là mệnh lệnh tuyệt đối của Chúa Giêsu. Ngay trước khi về trời, Chúa không để lại giáo huấn nào khác ngoài đòi buộc phải truyền giáo: “Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 16-20).
Mệnh lệnh truyền giáo cũng chính là thao thức của Chúa. Hiểu được sứ mạng truyền giáo là điều quan trọng đến vậy, chúng ta phải luôn tâm niệm: Không việc nào quan trọng bằng loan báo Tin Mừng của Chúa. Không hành động nào lớn bằng hành động loan báo Tin Mừng của Chúa. Không đam mê nào ngang hàng đam mê ra đi loan Tin Mừng của Chúa. Không thúc bách nào mạnh mẽ bằng thúc bách xả thân vì Lời của Chúa. Không tình yêu nào cao cả bằng tình yêu được sống chết cho Lời của Chúa…
Chúng ta may mắn được nhận biết và tin vào Chúa Kitô. Niềm vui này cần phải được chia sẻ cho người khác để họ cũng có cơ hội để nhận biết và tin vào Chúa Kitô như chúng ta.
- TRUYỀN GIÁO LÀ KINH NGHIỆM HÀNG NGÀN NĂM CỦA ĐỜI SỐNG HỘI THÁNH CÔNG GIÁO.
Tiếp nối bước chân truyền giáo của Chúa Giêsu, Hội Thánh không ngừng đề cao việc rao giảng Tin Mừng cho muôn dân. Không chỉ nhấn mạnh trách nhiệm của mình, của mọi người con trong Hội Thánh, mà Hội Thánh còn quay nhìn cả bề dày của truyền thống lịch sử cứu độ để càng nhấn mạnh, càng soi rọi, càng đề cao trách nhiệm loan báo Tin Mừng cứu độ cho muôn dân.
“Các sách Cựu Ước báo trước niềm vui cứu độ sẽ ngập tràn vào thời thiên sai. Ngôn sứ Isaia hoan hỉ chào đón Đấng Mêsia từng được trông đợi: “Chúa đã làm cho dân nên đông số, đã cho dân chan chứa niềm vui” (Is 9, 3)…
Hướng về Ngày của Đức Chúa, ngôn sứ Dacaria kêu mời dân chúng tung hô Đức Vua ngự đến “khiêm tốn ngồi trên lưng một con lừa”: “Nào thiếu nữ Xi-on, hãy vui mừng hoan hỷ! Hỡi thiếu nữ Giê-ru-sa-lem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Ðức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Ðấng Chính Trực, Ðấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa, một con lừa con vẫn còn theo mẹ.” (Dac 9, 9)…”(Tông huấn Niềm vui Tin Mừng số 4).
Đặc biệt, những trang Tân Ước càng như ngập tràn ý thức loan bao Tin Mừng: “Các môn đệ “vui mừng” (Ga 20, 20) khi nhìn thấy Chúa Kitô phục sinh. Trong sách Công Vụ Tông Đồ, chúng ta thấy các Kitô hữu tiên khởi “dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ” (2, 46). Bất kể các môn đệ đi đến đâu,“ở đó, người ta rất vui mừng” (8, 8); ngay cả giữa cơn bách hại, họ vẫn “ngập tràn niềm vui” (13, 52). Viên quan thái giám vừa mới được rửa tội “tiếp tục lên đường, lòng đầy hoan hỉ” (8, 39), trong khi người cai ngục của Phaolô “và cả nhà vui mừng vì đã tin Thiên Chúa” (16, 34). Thế thì tại sao chúng ta lại không đi vào cùng dòng suối niềm vui ấy?” (Tông huấn Niềm vui Tin Mừng số 5).
Việc gieo đức tin vào thế giới không dành riêng cho bất kỳ giới nào, thân phận nào, nhưng là ơn gọi cao quý của tất cả mọi tín hữu. Hội Thánh luôn khẳng định, mỗi tín hữu đều được Chúa đề cử làm tông đồ.
Trong thực tế, anh chị em ngoài Kitô giáo nhận ra khuôn mặt nhân ái và dễ thương của Chúa Giêsu qua những hành động yêu thương, bác ái, chia sẻ, những gương lành, những cử chỉ tha thứ và khoan dung của từng Kitô Hữu. Vì thế, để có thể gieo đức tin vào Chúa Kitô nơi lòng anh chị em, mỗi người cần ra sức thực thi tình yêu theo gương mẫu tình yêu của Chúa Kitô.
Từng người phải ý thức mình không mang danh Kitô hữu, nhưng phải Tin Mừng hóa bản thân bằng nghe, suy niệm, sống Lời Chúa, nội tâm hóa các giá trị Tin Mừng, thực hành Lời Chúa, để trở thành Kitô hữu đích thực và chính danh, đượm chất Tin Mừng.
Hãy nhớ, Hội Thánh sống ơn gọi truyền giáo bằng cả bề dày hàng ngàn năm. Đến phiên mình, chúng ta không bao giờ được phép lơ là trách vụ thực hiện ơn gọi truyền giáo mà Hội Thánh tiếp tục nhân danh Chúa Kitô trao cho.
Lm JB NGUYỄN MINH HÙNG