2022
Sử dụng thuốc Viagra có phù hợp đạo đức Công Giáo không?
Giải đáp: Đạo đức của việc sử dụng bất kỳ loại thuốc nào phụ thuộc vào đối tượng, ý định, và hoàn cảnh.
Giả sử rằng, thuốc Viagra chỉ có một mục đích là tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động trong hôn nhân, để những cặp hôn phối có thể thực hiện chức năng sinh sản, duy trì nòi giống hợp luật.
Nếu người nào không lập gia đình, hoặc không vì mục đích duy trì nòi giống thì về mặt đạo đức, cấm họ dùng thuốc Viagra. Nếu kết hôn khi đã vượt quá độ tuổi sinh sản, không thể duy trì nòi giống, thì việc sử dụng thuốc Viagra có thể xét là phù hợp đạo đức nếu nó giúp giữ cho tình yêu và tình cảm giữa đôi hôn phối được sung mãn.
Nhưng, chúng ta phải từ chối sử dụng thuốc này nếu quan hệ tình dục chỉ vì khoái lạc. Các hoạt động trong hôn nhân luôn cần phải được hiểu từ quan điểm đó là món quà tự hiến chứ không phải là món quà tự nhận.
*Viagra là một loại thuốc hỗ trợ nam giới quan hệ tình dục. Phần giải đáp trên của Linh mục Francis J. Hoffman, JCD (Fr. Rocky) – Giám đốc điều hành của Relevant Radio. Cha được Đức Chân Phước Gioan Phaolô II truyền chức linh mục thuộc hội Opus Dei vào năm 1992, cha có bằng tiến sĩ Giáo Luật của Đại Học Giáo Hoàng Thánh Giá, bằng Thạc sỹ Quản trị Kinh Doanh (MBA) của Đại học Notre Dame, và bằng Cử nhân Lịch sử của Đại học Northwestern. Các câu trả lời của cha xuất hiện trong nhiều tờ báo và tạp chí Công giáo trên khắp Hoa Kỳ.
(Catholic News Agency)
2022
Hoàn thiện nhân cách – Giá trị của sự lạc quan
Hoàn thiện nhân cách – Giá trị của sự lạc quan
HỌC LÀM NGƯỜI TRƯỞNG THÀNH NHÂN CÁCH – BÀI 68
- LỜI CHÚA :
“Lạy Chúa, con tin cậy vào tình thương Chúa. Được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa vì phúc lộc Ngài ban” ( Tv 12, 6).
- CÂU CHUYỆN : LẠC QUAN CẢ KHI GẶP THỬ THÁCH.
Một cô gái nhỏ đi bộ đến trường vào một hôm trời đang mưa to. Lúc về nhà xem ra thời tiết còn bị xấu hơn : gió bắt đầu rít mạnh cùng với sấm chớp ầm ầm. Trong lúc đó bà mẹ ở nhà lòng đầy lo lắng nên đã mặc áo mưa và che dù đến trường đón con. Bà rất ngạc nhiên khi nửa đường gặp con đang về nhà trong mưa. Bà mẹ thấy con mình cứ nhìn lên trời mỉm cười mỗi khi có tia chớp lóe sáng lên. Khi được hỏi tại sao lại mỉm cười khi thấy chớp sáng, cô bé hồn nhiên trả lời : “Vì con muốn cho mặt mình được xinh đẹp hơn, mỗi khi Thiên Chúa nháy chụp con bằng đèn “phát””.
Câu chuyện cho chúng ta bài học về cách ứng xử trước các gian nan thử thách. Mỗi người chúng ta cần có thái độ lạc quan để bình tĩnh và kiên trì đương đầu với các nghịch cảnh, và biến khó khăn thành cơ hội giúp thăng tiến, như có người đã nói : “Người lạc quan nhìn thấy cơ hội trong từng khó khăn. Còn người bi quan lại thấy khó khăn trong từng cơ hội”.
Dưới ánh nắng mặt trời, người nào, vật nào cũng tạo ra một bóng đen. Tấm gương nào cũng có mặt trái của nó. Người tốt, người xấu cũng đều đan xen với nhau trong xã hội. Điều quan trọng là phải hành xử khôn ngoan để đạt kết quả tốt đẹp.
- SUY NIỆM :
1) Có hai loại người trong xã hội: bi quan và lạc quan. Người bi quan nhìn cuộc đời qua kính đen, nên chỉ nhìn thấy người xấu việc xấu. Người lạc quan nhìn cuộc đời bằng mắt kính màu hồng, luôn nhìn thấy người đẹp việc tốt trong cuộc sống.
– Lạc quan là luôn suy nghĩ tích cực : Luôn nhìn nhận và đánh giá sự vật, hiện tượng ở phương diện tốt đẹp. Người lạc quan sẽ tin tưởng vào những điều mình đang làm hay sắp làm, luôn mỉm cười trong mọi hoàn cảnh, làm việc với một tinh thần thoải mái, hân hoan, hạnh phúc. Một triết gia đã nói : Hãy luôn quay mặt nhìn về phía mặt trời, bạn sẽ không còn thấy bóng đen phía sau lưng.
– Lạc quan là một phẩm chất vô cùng cần thiết trong cuộc sống : Lạc quan giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách để đạt tới thành công. Sống lạc quan giúp ta mạnh mẽ, hướng tới tương lai tươi sángcho dù thực tại có u ám đến đâu đi nữa. Có tinh thần lạc quan, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên tốt đẹp hơn, luôn tràn ngập niềm vui và hạnh phúc.
– Lạc quan còn mang đến hạnh phúc cho cả những người chung quanh ta: Vì tình cảm vốn luôn lan truyền từ người này sang người khác. Khi ta hân hoan, vui vẻ thì những người chung quanh chúng ta cũng mừng vui hạnh phúc.
– Lạc quan cũng giúp chúng ta trở nên đẹp hơn trong mắt người xung quanh : Chính sự lạc quan đã giúp ta mở rộng cánh cửa tâm hồn đón nhận mọi người. Thái độ lạc quan dễ đưa người ta xích lại gần nhau hơn. Người có tinh thần lạc quan bao giờ cũng có những phẩm chất tốt đẹp kèm theo như : tự tin, dũng cảm, kiên trì …
– Người có tinh thần lạc quan luôn có nét mặt vui tươi : Tâm hồn họ lúc nào cũng phong phú rộng mở. Họ luôn tìm thấy trong các việc hàng ngày những lý do để vui sống, để sống có ý nghĩa và có ích. Họ có cách nhìn người bằng cặp mắt bao dung và luôn thấy những điều tốt đẹp trong tha nhân và trong cuộc sống.
- SINH HOẠT :
Bạn nên nhìn các sự kiện xảy ra trong cuộc đời bạn bằng cặp mắt lạc quan hay bi quan ? Tại sao ?
- LỜI CẦU :
Lạy Chúa Giê-su. Xin giúp chúng con luôn có cái nhìn lạc quan khi gặp bất cứ hoàn cảnh nào, để chúng con bình tĩnh suy nghĩ và tìm ra giải pháp để giải quyết vấn đề cách tốt nhất. Xin cho chúng con luôn làm mọi việc với hết khả năng và phó thác thành quả trong tay Chúa quan phòng, noi gương Chúa trong cuộc khổ nạn đã cầu xin với Chúa Cha : “Lạy Cha, con xin phó thác hồn con trong tay Cha” (Lc 23,46).- AMEN.
LM ĐAN VINH – HHTM
BÀI ĐỌC THÊM
TẬP CƯỜI MỘT MÌNH
Một thiền sư đã hỏi tôi là học trò của thầy :
– Trò thường làm gì đầu tiên sau khi thức dậy ?
– Dạ vào phòng tắm.- Tôi trả lời.
– Thầy hỏi tiếp : Trong phòng tắm có gương soi không?
– Dạ có.
– Tốt. Vậy từ nay, mỗi sáng thức dậy, trước khi đánh răng, trò hãy nhìn vào tấm gương soi và hãy nở một nụ cười thật tươi với chính mình.
– Thưa thầy. Buổi tối em thường đi ngủ rất khuya, nên sáng thức dậy em luôn cảm thấy uể oải, nên chắc em sẽ không dám nhìn vào mặt mình trong gương để mỉm cười được.
Thầy cười, rồi nhìn vào mắt tôi và nói :
– Nếu em không cười được tự nhiên thì hãy đưa hai ngón tay trỏ thọc vào miệng qua hai khóe môi, và kéo căng ra như thế này.
Vừa nói thầy vừa biểu diễn cho tôi xem.
Dáng vẻ của thầy lúc đó trông rất tức cười khiến tôi bật cười. Thầy lệnh cho tôi phải làm theo và tôi quyết tâm sẽ làm theo lời thầy dạy.
Sáng hôm sau, tôi bước xuống khỏi giường và lảo đảo đi vào phòng tắm. Tôi nhìn tôi trong tấm gương. “Ừ !” Trông cũng không được đẹp lắm. Tôi không thể nở nụ cười tự nhiên được nên tôi đã đưa hai ngón trỏ vào trong hai khóe môi rồi kéo căng ra. Tôi nhìn thấy một khuôn mặt ngốc nghếch đang làm một trò điên khùng và tôi đã không nhịn được cười. Khi có một nụ cười tự nhiên rồi, tôi lại thấy một người trong gương đang mỉm cười với tôi, và tôi đã cười đáp lại.
Sau đó cứ mỗi buổi sáng dù tâm trạng thế nào chăng nữa, tôi cũng đều mỉm cười với mình trong gương,thường thường bằng cách dùng hai ngón tay. Những người xung quanh nói dạo này tôi hay cười. Có lẽ những cơ bắp trên khuôn mặt tôi đã quen dần với tư thế ấy rồi.
– Mỗi người chúng ta ai cũng có thể tập cười với hai ngón tay trỏ bất cứ lúc nào trong ngày. Nó đặc biệt có hiệu quả khi chúng ta cảm thấy chán ngán, nản chí, hay phiền muộn. Người ta đã chứng minh rằng tiếng cười làm tiết ra chất endorphin vào trong máu của chúng ta, mà chất này lại làm tăng cường hệ miễn dịch và làm cho chúng ta cảm thấy hạnh phúc. Nó giúp chúng ta nhìn thấy 998 viên gạch tốt trong bức tường của chúng ta, chứ không phải chỉ nhìn thấy hai viên gạch xấu. Và nụ cười làm cho nét mặt của chúng ta thêm rạng rỡ tươi đẹp hơn.
2022
Ý nghĩa của tên gọi Việt Nam
Ý nghĩa của tên gọi Việt Nam
Khi nêu lên câu hỏi ý nghĩa tên gọi Việt-Nam, tên gọi của quốc gia chúng ta hôm nay, hẳn nhiên cần phải ghi nhận những sự kiện lịch sử khách quan liên hệ đến việc chọn lựa danh hiệu nầy. Nhưng, trong khuôn khổ chuyên môn nghiên cứu của tôi, tôi không đủ khả năng để đi sâu vào những chi tiết có tính cách thuần lịch sử. Thật đáng tiếc!
Tuy nhiên, khi nghiên cứu về văn hóa Việt-nam, tôi có đọc được một bản văn mà tôi đánh giá là có giá trị văn hiến làm nền cho tư tưởng truyền thống dân tộc – Truyện Họ Hồng Bàng trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính và xuất bản vào mùa thu năm 1492 -, và truy tìm được nghĩa của hai từ Việt và Nam trong khuôn khổ văn hóa tư tưởng mà bản văn nầy muốn chuyển tải.
Trong truyện Họ Hồng Bàng nầy, câu kết tóm gọn như sau :
Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy dể nắm bắt được lý do tại sao hai chữ ấy có thể thu tóm ý nền tảng tư tưởng mà « bản văn Sáng Thế » ấy muốn chuyển đạt.
Than-ôi! Lĩnh-Nam có nhiều kỳ-trọng, các truyện làm ra không cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người, bia truyền ở miệng người, ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu?
b/ Chữ Nam trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
( Trích bản văn)
Đế-Minh lập Đế-Nghi làm tự-quân cai-trị phương Bắc, phong Lộc-Tục làm Kinh-Dương-Vương cai-trị phương Nam, đặt quốc-hiệu là Xích-Quỉ-Quốc.
Kinh-Dương-Vương xuống Thủy-phủ, cưới con gái vua Động-Đình là Long-Nữ, sinh ra Sùng-Lãm tức là Lạc-Long-Quân; Lạc-Long-Quân thay cha để trị nước, còn Kinh-Dương-Vương thì không biết đi đâu.
(…)
Đế-Nghi truyền ngôi cho Đế-Lai cai trị phương Bắc; nhân khi thiên-hạ vô-sự, sực nhớ đến chuyện ông nội là Đế-Minh nam-tuần gặp được tiên-nữ. Đế-Lai bèn khiến Xi-Vưu tác-chủ quốc-sự mà nam-tuần qua nước Xích-Quỉ, thấy Long-Quân đã về Thủy-phủ, trong nước không vua, mới lưu ái thê là Âu-Cơ cùng với bộ-chúng thị-thiếp ở lại hành-tại. Đế-Lai chu-lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình-thế, trông thấy kỳ-hoa dị-thảo, trân-cầm dị-thú, tê-tượng, đồi-mồi, kim-ngân, châu-ngọc, hồ-tiêu, nhũ-hương, trầm-đàn, các loại sơn-hào hải-vị không thứ nào là không có; khí-hậu bốn mùa lại không nóng không lạnh, Đế-Lai ái-mộ quá, quên cả ngày về.
(…)
Lạc-Long-Quân bỗng nhiên lại về, thấy nàng Âu-Cơ ở một mình, dung-mạo đẹp lạ-lùng, yêu quá, mới hóa ra một chàng nhi-lang phong-tư mỹ-lệ, tả-hữu thị-tùng đông-đảo, tiếng đàn ca vang đến hành-tại. Âu-Cơ trông thấy mà lòng cũng ưng theo; Long-Quân bèn rước nàng về núi Long-Trang.
(…)
Âu-Cơ ở với Lạc-Long-Quân giáp một năm, sinh ra bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai; nàng đem về nuôi-nấng, không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.
Qua đoạn văn trích dẫn, chúng ta có được một trực giác về ý nghĩa nhân tính của bách nam, những con người nguyên thủy được tạo dựng trong ánh sáng của chân lý : Bách Nam sinh ra từ 100 trứng, là hoa trái của tương giao giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ (Trời và Người). Bách Nam vượt lên trên muôn sinh vật của vũ trụ (linh ưu vạn vật) : không phải cho ăn, cho bú mà tự-nhiên trường-đại, trí-dũng song-toàn, ai cũng úy-phục, bảo nhau đó là những anh em phi-thường.
Nam đối nghịch với với Bắc. Đối với người ở vùng bắc bán cầu như chúng ta, Nam tượng trưng vùng đất có mặt trời ban sự sống và ánh sáng. Bắc tượng trưng cho bóng tối và cõi chết (nơi cư ngụ của Đế Lai, kẻ thù của Lạc Long Quân).
Phương Nam là nước Xích Quỉ, là cộng đồng của giống thần thiêng : từ hán-việt Xích có nghĩa là hơi ấm của mặt trời; từ Quỉ không phải là quỉ ma (satan, diable) như ta hiểu ngày nay, nhưng là giống thần thiêng (có thể dịch qua pháp ngữ là esprit)
Phương Nam là quê của Sùng Lãm ((Sùng là cao trọng đáng tơn kính bên trong, Lãm là đẹp đẽ xuất hiện ra bên ngồi), của Lạc Long Quân (Lạc : gợi lên hạnh phúc viên mãn (= Mỹ), Long : nguồn gốc thần thánh (= Chân), Quân : điều hành công minh, xử lý tốt lành cuộc sống (= Thiện).
Nơi phương Nam, Âu Cơ (Âu là nhớ nhung Ai; cơ là lo toan việc nầy việc kia; Âu Cơ tượng trưng cho hiện sinh con người) là con người trước đây từng bị Đế Lai (tượng trưng cho chấp ngã, dục vọng của quyền lực cá nhân, ham mê của cải vật chất … ) khống chế, nay được Lạc Long Quân (tượng trưng cho chiều kích Trời hay Thần, hoặc là Chân Thiện Mỹ) đưa vào cùng chung sống nơi quê hương Thần Thánh (Long Trang)……
Nơi phương Nam, con người được khai sinh bởi mối tương giao giữa Âu Cơ và Lạc Long Quân ; từ mối tương giao nguyên thủy và nền tảng đó con người nối kết với con người trong mối tình huynh đệ.
Qua những hình ảnh tượng trưng dồn dập nói đến lý lịch thần linh của con người, Nam trong hai chữ Bách Nam ở câu kết của bản văn là nói đến chiều kích LINH THIÊNG của nhân tính ban cho mọi người, không loại trừ một ai.
(Ở doạn văn nầy cũng như ở phần sau (trừ câu kết), chữ VIỆT không minh nhiên viết ra thành văn. Nhưng trong ngôn ngữ hán-việt, VIỆT có nghĩa là vượt qua, vươn lên, đưa lên cao …, do đó, một khi Bách Nam là con người được Thần (Lạc Long Quân) nâng lên hàng linh thiêng, được giải thoát khỏi bóng tối và sự chết (giải thoát khỏi gông cùm của Đế Lai) thì Bách Nam ấy cụng hàm ngụ là Bách Việt.)
c/ Chữ Việt trong bản văn cuốn Lĩnh Nam Chích Quái
Nếu con người từ nguyên thủy [từ lý lịch căn nguyên= nhân chi sơ = con người ở vườn địa đàng (x. Sách Sáng Thế của Do-thái giáo và Kitô giáo)] là Bách Nam, thì thực tại hay hiện sinh con người là một thân thế tranh tối tranh sáng. Một mặt vì Thần (Lạc Long Quân) mà con người phải nối kết luôn ẩn mặt, luôn là KẺ KHÁC (không ai thấy Thần, Thần vô phương), mặt khác con người mang gánh nặng kinh hoàng của tự do và luôn bị bóng tối và sự chết (Đế Lai, phương Bắc) kềm hãm.
Bản văn viết :
Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc-quốc liền đi lên biên-cảnh; Hoàng-Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân-binh trấn-ngự quan-tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long-Quân:
– Long-Quân hốt-nhiên lại đến, gặp hai mẹ con ở Tương-Dạ; Âu-Cơ nói :
– Thiếp vốn người Bắc, cùng ở một nơi với quân, sinh được một trăm trai mà không có gì cúc-dưỡng, xin cùng theo nhau chớ nên xa bỏ, khiến cho ta là người không chồng không vợ, một mình vò-võ.
Long-Quân bảo :
– Ta là loài rồng, sinh-trưởng ở thủy-tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm-dương hợp lại mà có con nhưng phương-viên bất-đồng, thủy-hỏa tương-khắc, khó mà ở cùng nhau trường-cửu. Bây giờ phải ly-biệt, ta đem năm mươi trai về Thủy-phủ phân-trị các xứ, năm mươi trai theo nàng ở trên đất, chia nước mà cai-trị, dù lên núi xuống nước nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau.
Thủy-phủ ở đây là hình ảnh của cảnh vực bên kia bờ, là chiều kích siêu nhiên vượt lên trên thời gian không gian làm khung cho sự hiểu biết của con người. Khi nói Long-Quân ở lâu dưới Thủy-phủ có nghĩa là nói đến Thần vô phương, Thần Linh vượt lên trên trật tự mà sức con người có thể đo lường, khai phá. Nói cánh khác, con người thực tế trước mắt (hiện sinh), tuy mang ấn tích thần thánh trong mình, nhưng đang bị ràng buộc bởi thân phận đang gặp nguy cơ : chiều kích linh thiêng, mở ra với AI KHÁC thì ẩn kín, tưởng như xa vời (mẹ con ở một mình), trong lúc dục vọng chỉ tìm mình, chỉ biết mình và tham lam vật nầy vật khác (nhớ về Bắc-quốc) thì rình rập không ngơi.
Nếu ở phần đầu, Bách Việt có nghĩa là con người được Kẻ Khác ban phần linh thiêng vượt lên trên mọi sinh vật trong trời đất, hoặc con người được Thần nâng lên hàng thần thánh, thì về phần mình, trong thực tại làm người của bất cứ ai, phận vụ hoàn thành nhân tính của mỗi người (hoặc NGHĨA làm con người) lại là luôn nhớ Long Quân và thân thế nguyên sơ của mình ở phương Nam. Nỗi nhớ nầy là ấn tích nguyên sơ, là Đại Ký Ức (ở bên trên mọi ký ức bình thường) làm nên nguồn suối sâu kín trong tâm con người . Nỡi nhớ ấy là Nền Cao Cả ở trong Tâm (Hoàng Đế) vừa có sức can ngăn con người không cho nó rơi vào sự ác (phương Bắc, Đế Lai), vừa nhắc con người nhớ Lạc Long Quan nơi phương Nam ẩn kín.
Đi vào Đại Ký Ưc để vượt lên thân phận bị trói buộc bởi phương Bắc, bởi Đế Lai (vốn là chính dục vọng chấp ngã, chỉ biết mình, phe mình, có nhiều vật cho mình) để tìm về Thủy- tổ phương Nam, nơi con người được nâng lên địa vị thần linh, được mở ra với Ai Khác và nối kết với kẻ khác, nhìn nhận và yêu thương mọi người (không phân biệt chủng tộc, ngôn ngữ, nam nữ, trẻ già …. ) trong tương giao huynh đệ cùng chung mẹ Âu Cơ, cùng được khai sinh do tình yêu không điều kiện đến từ Cha Lạc Long Quân.
Như thế, nghĩa làm người là chiến đấu vượt lên tăm tối sự ác để đi về ánh sáng của yêu thương và chân lý; nói cánh khác con người trong thực tại hiện sinh đúng nghĩa là Bách Việt.
Một khi ánh sáng và nguồn suối khai nguyên con người là phương Nam, một khi con người ban sơ, nguyên thủy là Bách Nam (người sinh ra và cư ngư ở phương Nam nầy), thì Bách Việt (con người tại thế đang vươn mình tìm về nguồn ánh sáng khai nguyên) phải nhận ra Bách Nam chính là thủy tổ của mình.
Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ.
Bách-Nam là thủy-tổ của Bách-Việt vậy.
Khi cảm ứng được nghĩa làm người như thế, con người nhận ra mình thuộc một giống tộc Lớn, Cao cả (Hồng), ôm trọn được mọi người (Bàng) : con người đó thuộc họ Hồng Bàng.
Theo Vũ Quỳnh, nghĩa của hai từ Nam và Việt như thế đã được tổ tiên cảm nhận từ nơi thâm cung tấm lòng của mỗi người (khơng cần phải chạm vào đá, khắc vào ván mà rõ-ràng ở lòng người = Đạo Tâm) và phải được chuyển đạt cho con cháu. Xuyên qua huyền thoại họ Hồng Bàng, con cháu nên tiếp nhận nghĩa nầy như Văn Hiến hay Cương Thường dẫn lối cho cuộc sống :
Ông già, con trẻ thảy đều thông-suốt, đem lòng ái-mộ, khuyên răn nhau, thời việc có hệ ở cương-thường, quan ở phong-tục, há có phải ít bổ-ích đâu ?
Muốn hiểu hai chữ Nam và Việt trong câu nầy, dĩ nhiên chúng ta cần đọc nguyên bản văn
(Tôi đã cố gắng minh giải bản văn trên đây trong chương III cuốn Văn Hiến, Nền Tảng Của Minh Triết do Định Hướng xb. năm 1997. Để trình bày tiếp câu hỏi về ý nghĩa tên Việt Nam ở đãy, tôi chỉ gói gọn ý kiến của mình trong khuôn khổ bản văn truyện Họ Hồng Bàng trong cuốn Lĩnh Nam Chích Quái doVũ Quỳnh hiệu chính.)
a/ Bối cảnh chung
– Chúng ta xác định được là hai chữ Việt và Nam đã được nhắc đến trong tác phẩm Lĩnh Nam Chích Quái do Vũ Quỳnh hiệu chính năm 1492.
– Hai chữ ấy được nêu lên đến để cô động toàn ý nghĩa truyện Họ Hồng Bàng. Truyện nầy lại là truyện đầu cuốn sách : nó vừa trình bày nội dung tổng quát của sách (các truyện tiếp theo chỉ là phần khai triển chương nầy), vừa nói lên một nội dung duy nhất và nền tảng cho văn hóa đó là VẤN ĐỀ Ý NGHĨA CỦA NHÂN TÍNH. Trong bối cảnh văn chương đặc loại như thế, chữ VIỆT và NAM phải được hiểu trong khuôn khổ của vấn nạn duy nhất ấy.
– Hai sự kiện khác nữa cần lưu ý nữa đó là lối hành văn đặc biệt của các bản văn văn hóa cổ nói chung và đặc biệt của cuốn Lĩnh Nam Chích Quái :
- Một là lối nói thi ca và tượng trưng : các chữ dùng chỉ nhằm nói đến một nội dung duy nhất là con người vànhững yếu tố hình thành, những chiều kích sinh hoạt của nó ; nhưng nội dung đặc lại nầy được diễn tả qua những hình ảnh của những vật thể khác trong vũ trụ. Riêng đối với cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, phần lớn các tên gọi lại là hán việt ; do đó không những phải lưu ý âm hưởng thi ca của tên gọi, mà còn cần lưu ý âm hưởng thi ca của tên gọi đó trong bối cảnh của văn hóa Trung Hoa nữa.
- Riêng đối với câu hỏi của chúng ta về ý nghĩatên Việt Nam, thì vấn đề lại khó khăn hơn. Chữ ý nghĩa, tiếng Pháp là significationhàm ngụ sự hiểu biết của trí khôn con người khi đo lường một sự vật. Nó thuộc lãnh vực lý thuyết khách quan. Trái lại, nghĩa của hai chữ Việt Nammà tác giả Vũ Quỳnh nêu lên trong khuôn khổ cuốn Lĩnh Nam Chích Quái không phải là ý nghĩa của một vật thể mà các bộ môn khoa học ngày nay truy tìm. Nghĩa của hai chữ Việt Nam phải được hiểu là phân vụ phải chu toàn, như khi ta nói nghĩa làm người hoặc là đạo làm người. Chữ nghĩa nầy chỉ áp dụng cho vấn nạn về con người : trong ngôn ngữ dân gian, chúng ta thường nói nghĩa vợ chồng, nghĩa làm con hay đạo làm chồng, đạo làm con…… chẳng hạn. Liên quan đến nghĩa của nội dung cuốn Lĩnh Nam Chích Quái, tác giả là Vũ Quỳnh đã viết rõ như thế nầy trong lời tựa :
Gs. Nguyễn Đăng Trúc
Reichstett, Pháp
2022
Chúa có cho tôi bất cứ điều gì tôi xin không?
Chúa có cho tôi bất cứ điều gì tôi xin không?
Kinh thánh nói: “Ai xin thì nhận được” (Mt 7:8). Vậy tại sao Thiên Chúa lại không ban cho chúng ta bất cứ những gì chúng ta muốn từ nơi Ngài, miễn là chúng ta xin Ngài?
Các sách Tin mừng chứa đựng một số phát biểu đáng chú ý về sự cầu nguyện. Các phát biểu ấy đặc biệt được tìm thấy trong Tin mừng Mátthêu, mặc dù có những điểm tương đồng trong Máccô và Luca.
Những câu nói này nghe có vẻ rất tích cực — như thể bạn có thể cầu xin Chúa bất cứ điều gì bạn muốn, và Ngài sẽ ban cho bạn chừng nào bạn còn tin.
Khi mọi người đọc những đoạn này một cách riêng rẽ — ngoài những điều khác mà Tân Ước nói — họ có thể phát triển một thứ thần học sai lầm về sự cầu nguyện.
Trong giới Tin lành, có một phong trào được gọi là thần học thịnh vượng (còn được gọi là Tin mừng thịnh vượng hoặc Tin mừng sức khỏe và sự giàu có), theo đó Thiên Chúa muốn tất cả dân tộc của mình được khỏe mạnh, giàu có và thành công vượt bậc. Nếu một kitô hữu không có những phúc lành này, thì hoặc là người ấy đã không xin chúng hoặc người ấy đã không xin chúng trong đức tin. Dù thế nào thì người ấy cũng có lỗi.
Nhưng đọc kỹ Tân ước cho thấy quan điểm này bị bóp méo.
Một bản văn cầu nguyện khích lệ được tìm thấy trong Bài giảng trên núi:
“Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho. Vì hễ ai xin thì nhận được, ai tìm thì sẽ thấy, ai gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7: 7-8).
Chúa Giêsu không đề cập đến giới hạn về những gì bạn có thể xin, và bạn có thể cho rằng bạn hoàn toàn có thể xin bất cứ điều gì và nhận được điều đó.
Nhưng Chúa Giêsu cũng không đưa ra ví dụ. Chúa Giêsu không nói, “Hãy xin giàu có, sức khỏe và thành công tuyệt vời, và những điều đó sẽ là của bạn.”
Vì vậy, trong tâm trí của Chúa Giêsu có thể có một điều gì đó khiêm tốn hơn, và khi nói như vậy có thể Ngài có ý nói là trước hết hãy xin những phúc lành về tinh thần hơn là vật chất.
Trong cả Mátthêu và Luca, Chúa Giêsu ngay lập tức đưa ra một phép loại suy dựa trên việc người cha cho con cái ăn. Trong Mátthêu, Chúa Giêsu kết luận rằng Thiên Chúa sẽ ban “những của tốt lành” cho con cái ngài (7:11), và trong Luca, Ngài nói rằng Thiên Chúa sẽ ban cho họ “Thánh Thần” (11:13) — gợi ra rằng đoạn văn này có thể chủ yếu nói về “những điều tốt đẹp” thuộc tâm linh.
Khi xem phần còn lại của Bài giảng trên núi, chúng ta không thấy Chúa Giêsu khuyến khích những ước mơ về một lối sống xa hoa.
Trong Kinh Lạy Cha, Ngài dạy chúng ta cầu nguyện: “Xin Cha cho chúng con hôm nay lương thực hằng ngày” (Mt 6:11), gợi lên sự cậy trông hằng ngày vào Thiên Chúa — chứ không phải sự giàu có xa hoa.
Chúa Giêsu tiếp tục tuyên bố một cách rõ ràng:
“Anh em đừng tích trữ cho mình những kho tàng dưới đất, nơi mối mọt làm hư nát, và kẻ trộm khoét vách lấy đi. Nhưng hãy tích trữ cho mình những kho tàng trên trời, nơi mối mọt không làm hư nát, và kẻ trộm không khoét vách lấy đi. Vì kho tàng của anh ở đâu, thì lòng anh ở đó” (6: 19-21).
Do đó, Ngài chỉ ra rằng những của cải trên trần thế có thể đưa tới một sự quên lãng thiêng liêng khỏi Thiên Chúa, và chúng ta không nên đặt cõi lòng mình vào những của cải như thế. Chúa Giêsu cũng nói:
“Không ai có thể làm tôi hai chủ, vì hoặc sẽ ghét chủ này mà yêu chủ kia, hoặc sẽ gắn bó với chủ này mà khinh dể chủ nọ. Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (6:24).
Ngài cũng nói với chúng ta:
“Vì thế, anh em đừng lo lắng tự hỏi: ta sẽ ăn gì, uống gì, hay mặc gì đây? Tất cả những thứ đó, dân ngoại vẫn tìm kiếm. Cha anh em trên trời thừa biết anh em cần tất cả những thứ đó. Trước hết hãy tìm kiếm Nước Thiên Chúa và đức công chính của Ngài, còn tất cả những thứ kia, Ngài sẽ thêm cho” (6: 31-33).
Do đó, Chúa Giêsu muốn chúng ta tập trung “trước hết” vào các giá trị tinh thần và coi nhu cầu vật chất là thứ yếu. Thay vì khuyến khích mọi người “mơ ước lớn” về những gì Chúa có thể ban cho họ, Ngài khuyến khích sự tin cậy khiêm tốn, liên tục — xin Chúa những gì chúng ta cần chứ không phải những gì chúng ta mơ ước.
Chúa Giêsu chắc chắn không khuyến khích chúng ta tưởng tượng về một cuộc sống đầy thành công và không gặp rắc rối khi nói rằng, “Vậy, anh em đừng lo lắng về ngày mai: ngày mai, cứ để ngày mai lo. Ngày nào có cái khổ của ngày ấy” (6:34). Một lần nữa, mục tiêu là sống một cuộc sống tâm linh, tin cậy — chứ không phải là một cuộc sống thành công dễ dàng.
Một đoạn văn cầu nguyện khích lệ khác xảy ra khi các môn đệ hỏi tại sao họ không đuổi được quỷ ra khỏi một cậu bé, Chúa Giêsu nói đó là:
“Tại anh em kém tin! Thầy bảo thật anh em: nếu anh em có lòng tin lớn bằng hạt cải thôi, thì dù anh em có bảo núi này: “rời khỏi đây, qua bên kia! ” nó cũng sẽ qua, và sẽ chẳng có gì mà anh em không làm được” (17:20).
Điều này có vẻ nghịch lý. Chúa Giêsu nói rằng các môn đệ có “đức tin nhỏ bé” nhưng sau đó lại nói rằng nếu họ có “đức tin như hạt cải”, họ sẽ có thể làm được những phép lạ đáng kinh ngạc. Nếu vậy, niềm tin nhỏ bé của họ chẳng phải đã đủ rồi hay sao?
Giải pháp được tìm ra bằng cách xem xét ai thực sự là người làm phép lạ — chính Thiên Chúa — và nhớ rằng quyền năng của Thiên Chúa là vô hạn. Do đó, rốt cuộc niềm tin của bạn lớn đến đâu không quan trọng, bởi vì Thiên Chúa mới là Đấng thực hiện phép lạ.
Lý do khiến các môn đồ thất bại là họ có đức tin không đầy đủ và không tin cậy đúng mức vào Thiên Chúa. Có lẽ họ nghĩ rằng họ đã được trời phú cho những khả năng pháp thuật trừ tà ma và không còn nhìn thấy Chúa khi sử dụng những khả năng đó.
Một văn bản khác trong chương tiếp theo cho thấy rõ ràng dễ xảy ra sự lạm dụng:
“Một lần nữa Thầy bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Đấng ngự trên trời, sẽ ban cho” (18:19).
Nghe có vẻ tốt lành, phải không? Hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, xin Chúa ban điều đó, và điều đó sẽ được thực hiện.
Nhưng không nhanh như vậy đâu. Câu nói này được giới thiệu bằng từ “một lần nữa”, cho chúng ta biết rằng chúng ta cần xem xét bối cảnh, bởi vì Chúa Giêsu đang trình bày lại một suy nghĩ mà Ngài đã khám phá.
Khi xem xét bối cảnh, chúng ta thấy rằng đó không phải là chuyện tích lũy tài sản cho bản thân, mà là kỷ cương của Giáo hội. Chúa Giêsu đang nói với các môn đệ cách đối xử với một người đồng đạo phạm tội. Ngài nói rằng nếu người vi phạm không nghe lời người khác, hãy đưa người ấy đến cộng đoàn giáo hội, và nếu anh ta không nghe lời cộng đoàn giáo hội, hãy trục xuất người ấy. Sau đó Ngài nói:
“Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy” (18:18).
Lời tuyên bố về việc hợp ý “trên trái đất” là nằm trong bối cảnh thực hiện năng quyền cầm buộc và tháo cởi, liên quan đến các vấn đề về kỷ cương tinh thần – chứ không phải là sự thịnh vượng vật chất.
Khi Chúa Giêsu đảm bảo với các môn đệ “một lần nữa” về những gì sẽ xảy ra khi họ hợp ý, thì Ngài đảm bảo với họ về năng quyền cầm buộc và tháo cởi.
Đoạn cuối cùng mà chúng ta nên xem xét xảy ra khi các môn đệ hỏi làm thế nào mà cây vả lại héo nhanh như vậy. Chúa Giêsu trả lời,
“Thầy bảo thật anh em, nếu anh em tin và không chút nghi nan, thì chẳng những anh em làm được điều Thầy vừa làm cho cây vả, mà hơn nữa, anh em có bảo núi này: “Dời chỗ đi, nhào xuống biển! “, thì sự việc sẽ xảy ra như thế. Tất cả những gì anh em lấy lòng tin mà xin khi cầu nguyện, thì anh em sẽ được.” (Mt 21: 21-21; xem Mc 11: 22-24, Lc 17: 6).
Về cơ bản, đây chính là điểm mà chúng ta đã thấy với cuộc trừ quỷ thất bại: kích cỡ lớn nhỏ của những gì bạn đang xin không quan trọng, bởi vì Thiên Chúa có quyền năng làm bất cứ điều gì. Và Chúa Giêsu đặt vấn đề một cách tích cực khi nói rằng “bất cứ điều gì bạn xin” thì sẽ được.
Nhưng có một giả thiết không được nói ra ở đây mà Chúa Giêsu mong chúng ta hiểu — rằng những gì chúng ta xin phải phù hợp với ý muốn của Thiên Chúa.
Người Do Thái vào thế kỷ thứ nhất biết rằng không phải mọi lời xin khi cầu nguyện đều là ý Chúa muốn, và ý Chúa muốn mới là yếu tố quyết định.
Chính Chúa Giêsu đã làm chứng cho điều này trong vườn Cây dầu khi Ngài cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha” (26:39).
Nếu chính Con Thiên Chúa thừa nhận rằng ý Chúa muốn không phải là ban cho mọi thứ người ta cầu xin, thì chúng ta cũng nên thừa nhận điều đó!
Chúa Giêsu muốn khuyến khích chúng ta cầu nguyện, và không phải lúc nào Ngài cũng có thể đề cập đến ngoại lệ này, nhưng Ngài mong chúng ta thừa nhận điều đó.
Điều đó chắc chắn được tìm thấy ở những nơi khác trong Tân Ước. Thánh Giacôbê cảnh báo rằng những ai khoe khoang kế hoạch kinh doanh của mình cần phải tính đến ý Chúa muốn: “Thay vì nói: “Nếu Chúa muốn, chúng ta sẽ sống và làm điều nọ điều kia”, thì các người lại tự phụ vì những chuyện khoác lác của mình. Mọi thứ tự phụ như thế đều xấu” (4: 15).
Ngài cũng xác định một trong những nguyên nhân cầu nguyện mà không được đáp lại: “Anh em xin mà không được, là vì anh em xin với tà ý, để lãng phí trong việc hưởng lạc” (4: 3).
Xin giàu có và thành công bất tận đúng là kiểu cầu nguyện sẽ không được đáp ứng.
Và điều đó lại có thể là một điều tốt lành, vì Chúa Giêsu cũng nói, “Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa” (Mt 19:24).
Tác giả: Jimmy Akin
Chuyển ngữ: Phêrô Phạm Văn Trung
từ catholic.com/magazine.