2023
Chân dung Linh mục
Chân dung Linh mục
Theo cái nhìn truyền thống dựa trên các năng quyền thì linh mục là người đã lãnh nhận chức tư tế thừa tác, được trao ban các năng quyền như quyền hiến thánh…
Có thể nói một trong các thành phần của Giáo hội được khen chê nhiều nhất đó là linh mục. Các tiếng khen chê ấy lại nhiều hơn khi Giáo hội mở Thượng Hội Đồng “Hiệp Hành”. Qua một vài sự cố “lạm dụng” mà báo chí Âu Mỹ làm rùm beng, nhiều linh mục phân trần cách dí dỏm rằng linh mục, cách riêng linh mục triều là kiếp trên đe dưới búa. Cũng có thể là thế, tuy nhiên cần chân nhận với nhau sự thật này: khi yêu ai, kính trọng ai nhiều thì người ta đòi hỏi kẻ ấy nhiều. Do đó, việc các linh mục cần phản tỉnh, trở về với căn tính của mình hầu sống “chính danh, chính phận” là một đòi hỏi như là tất yếu.
Theo cái nhìn truyền thống dựa trên các năng quyền thì linh mục là người đã lãnh nhận chức tư tế thừa tác, được trao ban các năng quyền như quyền hiến thánh, quyền hiến dâng Mình và Máu Thánh Chúa Kitô trong Thánh Lễ, quyền tha các tội đã phạm sau khi được rửa tội qua bí tích Hòa giải và bí tích Xức Dầu (J. A. Hardon). Theo giáo huấn Công đồng Vaticanô II, thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô II trong Tông huấn Pastores Dabo Vobis nhấn mạnh linh mục là Kitô hữu đã lãnh nhận chức tư tế thừa tác để nên đồng hình đồng dạng với Kitô trong tư cách là thủ lãnh và là mục tử (x.GH số 28).
1. Là người lãnh đạo và là người thầy: Chúa Giêsu đã từng khẳng định rõ ràng: “Anh em chỉ có một Cha là Cha trên trời, chỉ có một Thầy và một vị lãnh đạo là Đức Kitô” (x.Mt 23,8-10). Dưới ánh sáng đức tin, nếu xét Cha là cội nguồn của mọi hiện hữu và mọi điều thiện hảo thì chỉ có một Cha là Đức Chúa Trời Ngôi thứ Nhất. Nếu xét người thầy như là người truyền giảng chân lý không hề sai lầm thì duy chỉ có Chúa Kitô mới thực là thầy. Và nếu xét người lãnh đạo là người dẫn dắt tha nhân không hề lầm đường, lạc lối thì cũng chỉ một mình Đức Kitô mới thực là người lãnh đạo. Các mục tử trong giáo hội dù vai cao vị trọng, dù được gọi là cha hay đức cha, dù được phong làm thầy dạy chân lý, dù được gọi là lãnh đạo tối cao một giáo phận hay cả thế giới thì cũng chỉ là những người được thông phần vào phụ tử tính của Cha trên trời, thông phần vào vai vị làm thầy, làm người lãnh đạo của Chúa Kitô. Vì được thông phần nên có đó sự hạn chế, sự bất cập vốn là lẽ tất nhiên.
Vai trò làm thầy và phận vụ lãnh đạo của Đức Kitô là hướng dẫn nhân loại nhận biết chân lý, thúc giục con người tìm kiếm, đón nhận chân lý để được cứu độ. Chúa Kitô đến thế gian này là để làm chứng cho sự thật, ai hâm mộ sự thật thì đi theo Người (x.Ga 18,37). Khi đứng đầu trong một tập thể là giáo xứ hay một cộng đoàn, các linh mục phải biết tổ chức các sinh hoạt, đề ra đường lối hoạt động, để gìn giữ và làm phát triển tập thể được giao phó. Việc tổ chức các đoàn thể, lập ra các ban bệ, việc đề ra các chương trình sinh hoạt… đúng là cần thiết. Tuy nhiên những hình thái tổ chức, sinh hoạt ấy không phải là điểm đến của linh mục trong vai trò lãnh đạo và là người thầy. Mục tiêu hàng đầu và không thể thiếu của linh mục khi lãnh đạo đoàn chiên đó là giúp đoàn chiên nhận biết chân lý, ái mộ chân lý và đón nhận chân lý bằng mọi giá để được cứu độ. Như thế trọng tâm của vai trò linh mục là giúp đoàn chiên biết phân biệt các giá trị, không chỉ biết phân biệt điều tốt với điều xấu mà còn phải biết phân biệt giữa điều tốt ít với điều tốt hơn, theo bậc thang giá trị để rồi biết vượt qua cả những điều tốt hữu hạn mà chọn lấy điều tốt nhất.
Để có được khả năng này thì ngoài sự học hỏi tìm tòi nghiên cứu, người linh mục không thể thiếu một điều căn bản đó là cầu nguyện. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta ở việc này. Tin Mừng tường thuật rằng Người thường xuyên lên núi hay vào nơi vắng vẻ để cầu nguyện cùng Chúa Cha (x.Mc 1,35). Để có thể lãnh đạo dân thoát ra khỏi cảnh nô lệ mà vào đất hứa, nhất là để huấn luyện dân trở thành một dân tuyển lựa thì Môsê ngày ngày vào Trướng Tao Phùng để hội ngộ, đàm đạo cùng Thiên Chúa (x.Xh 32,7-11).
Một trong những nghệ thuật lãnh đạo đó là không bao giờ làm một mình mà biết sử dụng nhân sự, biết dùng người đúng việc, hợp khả năng. Dù là Con Thiên Chúa, là Đấng mà không có sự gì là không thể, Chúa Giêsu đã chọn gọi mười hai tông đồ và thêm bảy mười hai môn đệ để công tác với Người trong việc loan báo tin mừng. Môsê sau khi được nhạc gia hiến kế “đã chọn trong toàn dân những người có tài và đặt họ làm đầu dân, điều khiển một ngàn hay một trăm, năm mươi hay mười người…” (x. Xh 18,13-27).
Một vấn đề đặt ra cho người lãnh đạo là chọn người cho việc hay chọn việc cho người? Đây là một câu hỏi khiến chúng ta liên tưởng đến tình trạng bố trí nhân sự trong nhiều tổ chức xã hội, nhất là trong xã hội Việt Nam chúng ta một thời gian đã qua và có thể còn tồn tại trong hiện nay. Đã có lúc, có thời người ta tìm việc cho nhân sự để giải bài toán nhân sự của mình. Như thế vô tình người ta xem nhẹ ích lợi của quần chúng nhân dân. Chính vì thế mà đã có nhiều trường hợp, có người thú nhận công khai rằng tôi không có khả năng, nhưng vì do tổ chức phân công, nên chuyện sai sót là do khách quan, do cơ chế… Trái lại, một nhà lãnh đạo có tâm có lòng thì luôn lấy đại sự làm trọng, lấy lợi ích của quần chúng nhân dân làm mục tiêu phục vụ. Và như thế người lãnh đạo công tâm sẽ luôn tìm người cho việc chứ không ngược lại.
Một phẩm tính nữa của người lãnh đạo chân chính đó là luôn liên đới trách nhiệm với cộng sự viên, luôn biết cảm thông và đồng phận với những người mình chăm nom, hướng dẫn. Cung cách hành xử của ông Môsê cho ta hiểu thế nào là liên đới với số phận của đoàn dân mình lãnh đạo. Nhiều khi Thiên Chúa đã như hết kiên nhẫn trước sự phản phúc của dân mà Người đã ưu ái tuyển lựa, dẫn dắt ra khỏi ách nô lệ Ai Cập. Đói một chút họ cũng la toáng, khát một tí họ cũng phản loạn, chán chê mùi vị Manna lại nhớ đến củ hành củ tỏi của thời nô lệ đến nỗi không muốn sống đời tự do mà phải vất vả, thà làm nô lệ mà có cái ăn… Thiên Chúa đã từng đe dọa tiêu diệt họ và cho Môsê trở thành tổ phụ một dân tộc thay thế. Môsê đã hoàn toàn đứng về phía dân để cầu xin Chúa tha thứ. Có lần ông đã như “chơi khăm” Thiên Chúa để mong Người thu hồi cơn giận: “Lạy Chúa là Đức Chúa, xin đừng hủy diệt dân Ngài, cơ nghiệp Ngài đã dùng sức mạnh lớn lao của Ngài để giải thoát, và đã ra tay uy quyền đưa ra khỏi Ai Cập. Xin nhớ đến các tôi tớ Ngài là ông Abraham, ông Isaác và ông Giacóp, xin đừng để ý đến sự ngoan cố, sự gian ác và tội của dân này, kẻo tại miền đất từ đó Ngài đã đưa chúng con ra, người ta lại nói: Chính vì Đức Chúa đã không thể đưa chúng vào đất Người đã thề hứa với chúng, và chính vì ghét chúng mà Người đã đưa chúng ra để giết chúng trong sa mạc!” (Đnl 9,26-28).
Sự liên đới trách nhiệm của Đấng là Môsê mới, Giêsu Kitô, đã được bốn tin mừng minh chứng cách rõ nét. Chọn gọi môn đệ xong, Chúa Giêsu huấn luyện họ đủ đầy các phương diện. Những lần sai đi thực tập truyền giáo thì không thiếu những lời căn dặn thiết yếu cùng việc trao ban quyền năng trên các thần ô uế và bệnh tật. Khi đã đến giờ phải bỏ thế gian mà về cùng Chúa Cha, Người khẩn khoản nài xin Cha gìn giữ những kẻ mà Cha đã ban cho Người (x.Ga 17,9-19). Trước đám đông quân lính tìm bắt Người tại vườn cây dầu, Người đã tìm cách che chở môn sinh cho đến cùng (x.Ga 18,8).
Chúa Giêsu không chỉ liên đới với các môn đệ mà còn với mọi người, với cả những người vì ganh tương đố kỵ mà loại bỏ Người. Vốn sang giàu, Người đã tự nguyện nên nghèo hèn để chúng ta được nên sang giàu (x.2Cor 8,9-12). Vốn vô tội, Người đã tự nguyện mang kiếp tội nhân để chúng ta được thứ tha. Ngay phút giây hấp hối trên thập giá, Người cũng không quên nài xin chúa Cha tha tội cho những kẻ giết Người (x.Lc 23,34).
2. Là vị mục tử nhân lành và là con chiên ngoan hiền: Hình ảnh vị mục tử nhân lành được minh họa nhiều trong Thánh Kinh và Kitô hữu chúng ta vốn đã rất thân quen. Dưới cái nhìn của Thánh Kinh, đặc biệt qua sách ngôn sứ Êdêkien và Tin mừng Thánh Gioan chúng ta cùng phác họa đôi nét về chân dung vị mục tử nhân lành.
– Sự hiện hữu của vị mục từ là vì đàn chiên và cho đàn chiên. Trước hết chúng ta cần khẳng định chân lý này: Sẽ không có mục tử nếu không có đàn chiên. Không có chiên thì cũng chẳng cần có sự hiện hữu của mục tử. Mục tử chỉ là mình trong tương quan với chiên. Bí tích truyền chức thánh là bí tích mang tính cộng đoàn, nghĩa là vì cộng đoàn, cho cộng đoàn. Sẽ không còn ý nghĩa hay sẽ là một dấu phản chứng khi mục tử chỉ biết sống cho mình. Ngôn sứ Êdêkien đã nói thay Thiên Chúa những lời chúc dữ: “Khốn cho các mục tử Israel, những kẻ chỉ biết lo cho mình! Nào mục tử không phải chăn dắt đàn chiên sao? Sữa các ngươi uống, len các ngươi mặc, chiên béo tốt thì các ngươi giết, còn đàn chiên lại không lo chăn dắt. Chiên đau yếu, các ngươi không làm cho mạnh; chiên bệnh tật, các ngươi không chữa cho lành; chiên bị thương, các ngươi không băng bó; chiên đi lạc, các ngươi không đưa về; chiên bị mất, các ngươi không chịu đi tìm. Các ngươi thống trị chúng một cách tàn bạo và hà khắc. Chiên của Ta tán loạn… Ta lấy mạng sống Ta mà thề… Ta chống lại các mục tử. Ta sẽ đòi lại chiên của Ta…” (Ed 34).
– Mục tử nhân lành là người biết chiên: Cái “biết” theo nghĩa Thánh Kinh đó là một sự gắn bó, đồng thân, đồng phận như trong nghĩa tình phu thê (x.St 4,1; 25). Khi đã có cái sự “biết” như thế giữa mục tử và đàn chiên thì mục tử sẽ luôn đi trước đàn chiên để dẫn chiên đến dòng suối mát, đến đồng cỏ xanh tươi, đồng thời đi trước đàn chiên để bảo vệ chiên khỏi nanh vuốt của sói dữ, thậm chí sẵn sàng hy sinh mạng sống vì chiên, chứ không bỏ chạy lấy thân như kẻ chăn thuê (x.Ga 10,1-18).
Là kẻ trộm, kẻ cướp trong vai vị mục tử thì xem ra rất họa hiếm. Tuy nhiên trong thực tiễn có đó sự nhập nhằng đen trắng giữa hình ảnh mục tử và người chăn thuê. Người chăn thuê vẫn đường đường chính qua cửa ràn chiên tức là được lãnh nhận thánh chức cách hữu hiệu và hợp pháp. Không khác gì mục tử, người chăn thuê vẫn biết chiên và dẫn chiên đến đồng cỏ xanh và nguồn nước trong lành nghĩa là vẫn chu toàn bổn phận rao giảng Lời Chúa và cử hành các bí tích cũng như chăm sóc mục vụ. Tuy nhiên xin đừng quên rằng đã là chăn thuê thì luôn đặt lợi nhuận của mình lên trên thiện ích của đàn chiên, trái lại đã là mục tử thì luôn lấy sự sống và hạnh phúc của đàn chiên làm mục tiêu hàng đầu. Người làm thuê thì thường làm hết giờ hơn là hết việc và có khi làm hết việc nhưng chưa hẳn đã hết tình. Trái lại người mục tử vẫn có nhiều khi làm không hết việc, có một đôi khi làm không được việc nhưng đã làm thì luôn làm với cả tấm lòng vì đàn chiên. Đã là làm thuê thì ít có ai muốn dài tay, tuy nhiên đã là mục tử thì không chỉ chăm lo chiên trong đàn mà còn biết nghĩ đến chiên ngoài đàn. Một hiện thực mà Chúa Giêsu đã từng nói đó là kẻ chăn thuê thì không hề có trong tâm trí chuyện hy sinh mạng sống vì đàn chiên mà đây là một tiêu chí không thể thiếu để thẩm định mục tử chính danh. Thời gian dịch bệnh Côvid 19, tạ ơn Chúa về tấm gương sáng của nhiều tu sĩ nam nữ và linh mục tình nguyện xả thân vì đồng loại. Tuy nhiên cũng có đó không ít hình ảnh không được sáng đó đây mà nói theo ngôn ngữ bình dân là vì “quá sợ chết” mà đóng quá chặt các cánh cửa…
Biện chứng mục tử – chiên: Để là một mục tử nhân lành thì cần phải là một con chiên ngoan hiền, thanh sạch và ngược lại. Chúng ta nhận ra cái biện chứng này nơi cuộc đời Chúa Giêsu. Chắc hẳn không một ai phủ nhận sự thật là Chúa Giêsu đã vuông tròn trong vai trò mục tử nhân hậu. Chính Người đã khẳng định sự thật này cách công khai: Tôi là mục tử tốt lành…” (Ga 10,11). Để chu toàn phận vụ mục tử tốt lành thì Chúa Giêsu đã sống trọn hảo thân phận Con Chiên Thiên Chúa, con chiên tinh tuyền xóa tội trần gian (x.Ga 1,29). Thánh Giám Mục Âugustinô đã có câu nói thời danh: “cho anh em, tôi là giám mục (mục tử), cùng với anh em, tôi là tín hữu (con chiên).
Quả thật không ít vị khi đã lãnh nhận thiên chức linh mục thì vô tình quên bẵng đi sự thật là mình vẫn là một tín hữu và như thế vô tình hay hữu ý, không lưu tâm gì đến tâm tư, nguyện vọng của đàn chiên. Câu chuyện một linh mục sau khi qua đời, phải đền tội ở luyện ngục với hình thức là phải nghe lại tất cả các bài giảng của mình, là một minh họa. Lạm dụng bài giảng hình như đang dần được xem không chỉ là tệ nạn mà là một loại hình tội phạm. Ngoại trừ các cha dòng sống tập thể và các cha trong Chủng viện, các cha triều ở ngoài xứ rất ít có dịp nghe các cha khác giảng lễ, trừ một vài lễ đồng tế trong các dịp lễ đặc biệt. Và hình như các ngài rất hiếm khi tham dự Thánh Lễ trong tư cách một tín hữu bình thường (ở hàng ghế giáo dân).
Để sống cái biện chứng mục tử -chiên , thiết nghĩ rằng các linh mục hãy ghi nhớ lời khuyên bảo của Giám mục cho các ứng viên trong lễ phong chức linh mục: “Anh em hãy tin điều anh em đọc, dạy điều anh em tin và thực thi điều anh em dạy”. Có thể nói rằng hầu hết các linh mục đều dâng Thánh Lễ mỗi ngày theo lời khuyên dạy của giáo hội (GL Đ.904), và đại đa số đều có giảng lễ. Thật tuyệt vời nếu các linh mục đều sống, thực hành trước một điều gì đó trong nội dung những gì mình giảng dạy. Vị mục tử nhân lành và là Con chiên tinh tuyền, Giêsu Kitô là mẫu gương cho chúng ta điều này. “Thầy đã nêu gương cho anh em, để anh em cũng làm như Thầy đã làm cho anh em” (Ga 13,15).
Trên bờ hồ Tibêria, trước khi trao phó tất cả chiên mẹ lẫn chiên con cho Phêrô, Chúa Phục Sinh dù đã thoáng nhắc khéo vị tông đồ về sự yếu đuối của ngài, nhưng Chúa không hề khiển trách mà chỉ nhấn mạnh đến lòng mến của vị Tông đồ cả (x.Ga 21,15-19). Cảm cho mình thì sẽ biết nghĩ đến người. Thánh Phêrô đã có những lời khuyên nhủ hữu lý, đạt tình với các mục tử: “Anh em hãy chăn dắt đoàn chiên mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em: lo lắng cho họ không phải vì miễn cưỡng, nhưng hoàn toàn tự nguyện như Thiên Chúa muốn, không phải vì ham hố lợi lộc thấp hèn, nhưng vì lòng nhiệt thành tận tụy. Đừng lấy quyền mà thống trị những người mà Thiên Chúa đã giao phó cho anh em, nhưng hãy nêu gương sáng cho đoàn chiên. Như thế, khi vị Mục Tử tối cao xuất hiện, anh em sẽ lãnh được triều thiên vinh hiển không bao giờ hư nát” (1P 5, 2-4).
Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa
2023
Kinh nghiệm về Thiên Chúa hay chỉ là gặp gỡ chính mình?
Kinh nghiệm về Thiên Chúa hay chỉ là gặp gỡ chính mình?
Giới thiệu
Chúng ta tạm dừng “Những suy nghĩ tản mạn về đời sống và tác vụ linh mục”. Vào dịp thuận tiện, chúng ta sẽ quay trở lại. Ở đây, xin giới thiệu bài của cha Anselm Grun về sự phân định giữa kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa và sự gặp gỡ chính mình được phản chiếu qua hình ảnh Thiên Chúa mà ta tưởng là đã gặp. Sự phân định này rất cần cho đời sống thiêng liêng và hoạt động tông đồ của mọi người, đặc biệt là các linh mục trong các hoạt động mục vụ.
KINH NGHIỆM VỀ THIÊN CHÚA
HAY CHỈ LÀ GẶP GỠ CHÍNH MÌNH?[1]
Chúng ta chỉ có thể có kinh nghiệm về Thiên Chúa trong lòng thế giới chúng ta đang sống. Thần học nói rằng, chúng ta chỉ gặp Người trong nội tại, chứ không bao giờ trong tính siêu việt tuyệt đối của Người. Vì thế, khi chúng ta trải qua một kinh nghiệm về Thiên Chúa, thì kinh nghiệm đó luôn bao gồm sự trộn lẫn giữa những hình ảnh, những khát vọng, những ước mơ, những ham muốn, những biểu thị của chúng ta về Thiên Chúa và thực tại siêu việt của Người. Chúng ta có thể tự hỏi cái mà chúng ta gọi là kinh nghiệm về Thiên Chúa đơn giản không phải là những gì của riêng chúng ta được phản chiếu lên Người sao. Tuy nhiên, vẫn có một kinh nghiệm đích thực về Thiên Chúa, trong đó, chính Người nói với chúng ta, trong đó, sự hiện diện của Người hiển nhiên đối với chúng ta, trong đó, tự đáy sâu tâm hồn, chúng ta biết rằng, chúng ta gặp gỡ chính Thiên Chúa.
Ngôn sứ Êlia, một bài học về sự gặp gỡ Thiên Chúa đích thực
Kinh nghiệm của Êlia ở núi Horeb là một ví dụ tuyệt vời về sự hoà trộn chặt chẽ giữa một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa với cấu trúc tâm lý của con người.
Khi lửa từ trời xuống thiêu cháy của lễ hi sinh, Êlia đã cho bắt giữ và giết chết 450 thầy sãi Baal. Đó có phải là ý Chúa không? Hay chỉ là tính hung hăng của ông phản chiếu qua ý Chúa? Ai cũng nghĩ rằng sau chiến thắng oai hùng đó, Êlia đạt tới đỉnh cao của thành công và vinh quang. Nhưng điều hoàn toàn trái ngược lại xảy đến. Ông lâm vào hoàn cảnh thất vọng, tinh thần xuống dốc. Ông đã lẫn lộn giữa ý Chúa và ý riêng. Chẳng mấy chốc, ông hiểu rằng mình đã sai lầm, đã lạc hướng. Ông cảm thấy mình bị Thiên Chúa bỏ rơi, mặc kệ sống chết của ông. Ông không thể có một suy nghĩ, một cái nhìn tích cực về Chúa nữa: “Bây giờ, thì quá đủ rồi, Chúa ơi! Xin cho con chết cho rồi vì con không hơn gì cha ông của con”. (1 V 19,4). Chúa lại dạy bảo ông, cho ông biết thế nào là gặp gỡ Thiên Chúa cách đích thực. Ngài cho thiên thần đến giúp ông mạnh sức để đi đến núi của Chúa là Horeb. Đó là nơi ông sẽ gặp gỡ Ngài.
1. Trước hết, một cơn bão mạnh, xẻ núi non ập tới, nhưng Chúa không ở trong cơn bão (1 V 19,10)
Cơn bão tượng trưng cho lòng nhiệt thành. Thiên Chúa có thể hoàn toàn chiếm hữu một người và làm bùng phát nơi người đó một trận bão của nhiệt tâm. Nhưng nếu người đó lẫn lộn Chúa với những cảm xúc của mình thì chẳng bao lâu, sẽ nhận ra rằng Ngài đã không còn ở với mình nữa, mà đã rời đi nơi khác. Khi đồng hoá Chúa với những cảm xúc của mình, chúng ta đã sử dụng Chúa như một thứ thuốc phiện để tôn mình lên trên hết mọi sự. Khi đó, chúng ta không thực sự gặp gỡ Chúa mà là gặp lại chính những cảm xúc, những ảo tưởng của chúng ta. Hậu quả là chúng ta vẫn khép kín vào chính mình.
Những biểu thị Êlia có về Thiên Chúa không phải là sai lạc, chúng vẫn là thành phần của sự thật, nhưng chúng chỉ đơn phương, một chiều; và khi chúng ta gắn chặt Thiên Chúa vào một hình ảnh nào đó mà thôi, hình ảnh đó luôn đáng sợ[2].
2. Sau cơn bão là một trận động đất, nhưng Chúa không ở trong trận động đất (1 V19, 11)
Trận động đất tượng trưng cho việc coi Chúa là một thầy ma thuật, có thể làm được mọi sự. Chỉ cần tin tưởng vững chắc vào Thiên Chúa, thế là có thể chiến thắng mọi định luật tự nhiên. Ngài sẽ chữa lành mọi chứng bệnh nan y. Sức mạnh của Thần Khí Ngài sẽ lay chuyển mọi tâm hồn, giúp họ thây đổi hoàn toàn như một trận động đất biến đổi tất cả.
Sau khi tham dự một lễ nghi tôn giáo, một tuần tĩnh tâm đặc biệt cách hết sức tích cực, sống động, bỗng ta thấy mình hoàn toàn thay đổi, thoát khỏi sự lệ thuộc vào rượu chè hay cờ bạc… Ta coi đây là phép lạ Chúa làm. Nhưng có thực đúng như vậy không? Vì đôi khi sự lệ thuộc này lại được thay thế bởi một sự lệ thuộc khác. Ví dụ, một người được giải thoát khỏi tật nghiện rượu; từ đó trở đi, anh hết sức tin tưởng vào Chúa. Anh siêng năng tham dự hết lễ nghi ngày đến lễ nghi khác, và nuôi dưỡng ý định hoán cải mọi người xung quanh để họ biết “trận động đất” mà Chúa đã thực hiện nơi anh.
Người này không biết rằng minh chỉ đang đi tìm quyền lực, sự nhìn nhận và uy tín, được phản chiếu qua Thiên Chúa mà anh cho rằng mình đã gặp gỡ, chứ không phải là một kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa đích thực; vì Chúa không ở trong “trận động đất” của sự hoán cải dữ dội nơi anh; và dù anh không ngừng nói về Chúa, thì Chúa cũng không ở trong dòng chảy của những lời từ miệng anh tuôn ra.
3. Sau trận động đất là lửa. Chúa cũng không ở trong lửa
Lửa là một biểu tượng rất phong phú. Lửa có thể tượng trưng cho đam mê, cho tình dục và cho bản năng. Trong khi nước vọt lên từ mặt đất thì lửa lại từ trời rơi xuống. Lửa có thể tượng trưng cho cơn giận của Thiên Chúa khi thiêu huỷ hai thành tràn ngập tội lỗi là Sôđôma và Gômôra.
Lửa cũng có thể tượng trưng cho tình yêu của Thiên Chúa. Tình yêu ấy thiêu huỷ hết những tội lỗi, những yếu đuối, những dơ nhớp trong tâm hồn chúng ta, biến đổi chúng ta thành một người hoàn hảo.
Có những người nghĩ rằng một khi đã gặp gỡ Chúa, tự khắc Ngài sẽ loại bỏ mọi khía cạnh tối tăm nơi mình. Điều đó không đúng. Chúng ta phải biết rằng là người phàm, chúng ta luôn có những thiếu sót và yếu đuối. Hình ảnh bụi gai ông Môsê gặp cho chúng ta thấy rõ điều đó. Bụi gai bốc cháy mà lửa không làm cho nó bị thiêu rụi. Nó vẫn khô khốc, với những cành trơ trụi, vô giá trị. Bụi gai đó là hình ảnh của những gì vô ích, hư hỏng, khô khan nơi mỗi người chúng ta. Thiên Chúa có thể tỏ lộ trong lửa, nhưng không phải là lửa mà Êlia đã thấy vì chính ông đã thất vọng, cạn kiệt sức lực trong lửa là tính hung hăng của ông. Ông đã nghĩ mình có thể dùng lửa thiêu huỷ mọi kẻ thù. Nhưng không như ông muốn, thay vào đó là hoàng hậu Giêzabel, người có thể huỷ diệt ông.
Vì lòng nhiệt thành với Thiên Chúa, mà một người nào đó, có tính hung hăng, muốn chống lại phần bóng tối của mình, và chống lại người khác, thì chỉ đánh thức nơi bản thân và nơi người khác một sự hung hăng còn dữ dội hơn nữa. Êlia đã không gặp gỡ Thiên Chúa trong cuộc chiến của ông chống lại các thầy sãi Baal. Đúng ra, trước hết, ông phải đi gặp một Thiên Chúa đích thực trong sa mạc. Chỉ vào lúc ấy, ông mới được biến đổi và thanh tẩy để nhận biết chính mình một cách chân thực. Giờ đây, sau cuộc hành trình trong sa mạc đến núi Horeb, ông mới trải qua kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa thực sự; để rồi, một lần nữa, ông lại vượt qua sa mạc, trở về Đamas hoàn thành sứ mạng của ông giữa mọi người.
4. Kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa trong thinh lặng
Sau lửa là một cơn gió hiu hiu. Vừa nghe tiếng gió, Êlia lấy áo choàng che mặt, đi ra và đứng ở cửa hang (1 V 19,12).
Trong tiếng động nhẹ của làn gió hiu hiu, trong tiếng thầm thì của một giọng nói giữa bầu khí thinh lặng, Êlia gặp gỡ Thiên Chúa. Chính Chúa là làn gió nhẹ này. Qua làn gió nhẹ, Ngài tới gặp Êlia, nhưng ông không nắm giữ được Ngài, ông đã lấy áo choàng che mặt. Ông không dám gắn chặt Chúa bằng đôi mắt của mình; trái lại, ông phải nhắm mắt để hoàn toàn ý thức về mình. Ông biết rằng chính Chúa đụng chạm đến ông qua làn gió nhẹ. Và về một Thiên Chúa dịu dàng như thế, ông không thể có một hình ảnh chắc chắn nào về Ngài, ông chỉ có thể cởi mở hết lòng để đón nhận những gì ông cảm thấy.
Với áo choàng che phủ khuôn mặt và cả thân thể, trong thinh lặng tuyệt đối, không một chút phân tâm, ông ý thức trọn vẹn về mình, về những gì cảm nhận được, về những gì ông lắng nghe. Tuy gặp gỡ Chúa đó, nhưng Ngài vẫn ở trong bóng tối, không thể nhìn thấy và cũng không thể diễn tả được.
Chúng ta không thể chắc chắn diễn tả trọn vẹn về Thiên Chúa mà Êlia gặp gỡ. Ở đây, chúng ta chỉ có thể nêu ra cách Chúa tỏ lộ cho Êlia. Đây là một tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá một gặp gỡ đích thực với Thiên Chúa, một gặp gỡ diễn ra trong thinh lặng và chúng ta chỉ có thể rụt rè nói về nó.
Ai quá vội vàng cho người khác biết về kinh nghiệm gặp gỡ Chúa của mình, thường người đó đã dùng Chúa để phô trương. Êlia không thấy mình có nhu cầu phải khoe khoang về cuộc gặp gỡ này. Ông đã học được một bài học từ trường học của Chúa. Đối với ông, rõ ràng là Chúa không đến gặp ông ở nơi ông chờ đợi Ngài, nhưng ở trong tiếng thì thầm không thể cảm nhận được, cũng như không thể diễn tả được của cơn gió hiu hiu.
Truyền thống linh đạo rất coi trọng kinh nghiệm của Êlia. Truyền thống đó coi thinh lặng là nơi tuyệt hảo để gặp gỡ Chúa. Thinh lặng không chỉ làm cho những hỗn loạn trong tâm hồn tan biến, và thinh lặng không chỉ giúp ta thoát khỏi những lo lắng, những thăng trầm của đời ta, mà còn giúp ta ngừng suy tư về Thiên Chúa. Chỉ như vậy, ta mới có thể gặp gỡ Chúa. Nếu không, ta vẫn bị gắn chặt vào những tư tưởng, những hình ảnh định sẵn về Ngài.
Eckhart, một bậc thầy về linh đạo, đã nhận ra điều này nơi các đan sĩ đầu tiên của Giáo hội. Theo ông, thinh lặng là hành vi cao quí nhất của con người. Ở trọng tâm của thinh lặng; nơi mà không bao giờ có một tư tưởng nào tới được; nơi mà chúng ta ngừng suy nghĩ và ngừng soạn thảo những chương trình, những dự định; nơi mà chúng ta không còn nghĩ đến người khác để xét đoán họ; nơi mà chúng ta ngừng, không còn cho mình là quan trọng; chính ở nơi đó, Chúa sẽ sinh ra và ở với chúng ta.
Và rồi, chính trong gặp gỡ Thiên Chúa đích thực này, tôi có kinh nghiệm về cái TÔI đích thực của mình, vì Chúa giải thoăt tôi khỏi những hình ảnh về mình mà chính tôi đã vẽ ra. Ngài cho tôi biết hình ảnh không méo mó mà Ngài có về tôi, một hình ảnh chân thực, giải thoát tôi khỏi sự cần thiết phải chứng mình, phải biện hộ, phải giải thích cho mình. Như Êlia, tôi có thể che dấu mặt tôi trong Chúa. Tôi không còn nhu cầu phải biểu lộ mình cho người khác, cũng không cần giải thích tính đích thực của kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa của mình. Tôi tự che dấu để Thiên Chúa có thể biểu lộ nơi tôi. Tôi tự ẩn giấu mình trước người khác và trước những tư tưởng riêng của mình, để Thiên Chúa giúp tôi tham dự vào đời sống ẩn dấu của Ngài.
Tự vấn
Từ những suy tư trên của Anselm Grunt về kinh nghiệm gặp gỡ Thiên Chúa đích thực, anh em linh mục chúng ta hãy cố gắng suy nghĩ và xét mình về những điểm sau đây:
1. Hàng ngày, tôi có ưu tiên dành những giờ thinh lặng để cầu nguyện riêng không?
2. Linh mục là thầy dạy về đời sống thiêng liêng, vậy có bao giờ tôi gặp gỡ Thiên Chúa cách đích thực chưa? Nếu gặp rồi thì ở đâu, lúc nào, cách nào? Nếu chưa, thì tại sao?
3. Từ những gặp gỡ Chúa, tôi có biết về mình một cách thẳng thắn, trung thực với những thiếu sót, những tội lỗi, những ảo tưởng … không?
4. Những hoạt động mục vụ của tôi có thực sự làm theo ý Chúa để phục vụ, yêu thương hết mình như Chúa Giêsu, vị Mục tử nhân lành chưa? Hay tôi thường sử dụng Chúa như một cách để thoả mãn ý riêng là tỏ lộ quyền hành, là thuận lợi cho tôi vì lười biếng, vì muốn thoải mái, thảnh thơi, tự do cho mình?
Những câu hỏi khác …
[1] Chuyển ý từ Anselm Grun, “Ouvre tes sens à Dieu”, Mediaspaul, Paris, 2006, tr. 45-54.
[2] Ví dụ, chúng ta chỉ gắn chặt Chúa vào hình ảnh một Thiên Chúa công minh, trừng phạt đích đáng tội nhân theo lẽ công bình, thì chúng ta đã làm méo mó hình ảnh về Thiên Chúa, Thiên Chúa trở nên một người đáng ghê sợ, mà quên Chúa còn là Đấng giầu lòng thương xót, chậm bất bình và hết mực khoan dung. (giải thích của người dịch).
2023
Ý thức các đặc sủng của Thần Khí giúp củng cố sự hiệp thông
Ý thức các đặc sủng của Thần Khí giúp củng cố sự hiệp thông
Hội Thánh Công giáo Việt Nam đang trong thời gian thực hiện củng cố sự hiệp thông, việc huy động các phương thế là cần thiết, để đạt tới mục tiêu tham gia thực hành sứ vụ theo như chủ trương hiệp hành của Hội Thánh hoàn vũ. Thực ra, đối với Hội Thánh Công giáo, hiệp thông vốn như một nhu cầu tối thiết để xây dựng và phát triển. Từ khi có sự quy tụ các tín hữu để làm thành cộng đoàn, là đã cần có ngay sự hiệp thông, nhưng dưới dạng thức và danh xưng khác nhau. Ngay từ thuở sơ khai, sự hiệp thông đã thể hiện khi các tín hữu tân tòng quy tụ quanh các Tông đồ. Lối sống của các cộng đoàn tín hữu tiên khởi cho thấy có sự hòa hợp và liên kết chặt chẽ rất lý tưởng:
“Các tín hữu chuyên cần nghe các Tông đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kính sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hiệp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tùy theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh tại tư gia, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm người được cứu độ” ( Cv 2,42-46 )
![]() |
HIỆP THÔNG VÀ THỬ THÁCH
Nếp sống đạo hạnh đầy tình thương gắn bó của các cộng đoàn tiên khởi diễn tiến theo thời gian. Khi số cộng đoàn càng ngày càng đông, và khi tâm tính của các tín hữu bộc lộ ngày càng nhiều, thì sinh hoạt của các cộng đoàn trở nên đa dạng. Tới thời kỳ thánh Phaolô trực tiếp tham gia hoạt động, ngài đã phải chứng kiến những khó khăn xảy ra, nơi một số cộng đoàn và giữa một số cộng đoàn với nhau. Thánh Phaolô đã phải dành khá nhiều công sức để làm công việc hòa giải, dàn xếp, củng cố, cả việc chỉnh đốn các lệch lạc xảy ra. Cũng do đó, mà thánh Phaolô đã có những bài giáo huấn rất thiết thực và phải kể là quý giá dành cho một số cộng đoàn. Các bài giáo huấn đó cũng lưu lại cho hậu thế và trở thành hữu ích lâu dài trong việc củng cố và xây dựng Hội Thánh.
Trong thư gởi giáo đoàn Êphêxô, thánh Phaolô viết: “Vậy, tôi là người đang bị tù vì Chúa, tôi khuyên nhủ anh em hãy ăn ở thật khiêm tốn, hiền từ và nhẫn nại; hãy lấy tình bác ái mà chịu đựng lẫn nhau; Anh em hãy thiết tha duy trì sự hiệp nhất mà Thần Khí đem lại, bằng cách ăn ở thuận hòa gắn bó với nhau. Chỉ có một thân thể, một Thần Khí, cũng như anh em đã được kêu gọi để chia sẻ cùng một niềm hy vọng. Chỉ có một Chúa, một niềm tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người, qua mọi người và trong mọi người” (Ep 4,1-6).
Trong thư gửi giáo đoàn Galát, thánh Phaolô tha thiết kêu gọi các tín hữu sống theo thần khí: “Tôi xin nói với anh em là hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thỏa mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí, còn Thần Khí thì lại ước muốn những điều trái ngược với tính xác thịt, đôi bên kình địch nhau, khiến anh em không làm được điều anh em muốn” (Gl 5,16-17).
Thánh Phaolô nêu những nếp nghĩ, nếp sống đẹp gọi là “hoa quả của Thần Khí” để các tín hữu chuyên tâm thực hiện, đó là: bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ (x. Gl 5,22-23).
Thánh Phaolô còn nhấn mạnh: “Những ai thuộc về Đức Kitô Giêsu, thì đã đóng đinh tính xác thịt vào thập giá cùng với các dục vọng và đam mê” (Gl 5,24-26). “Nếu chúng ta sống nhờ Thần Khí, thì cũng hãy nhờ Thần Khí mà tiến bước. Chúng ta đừng có tìm hư danh, đừng khiêu khích nhau, đừng ganh tị nhau” (Gl 5,24-26)
Những lời hướng dẫn của Thánh Phaolô hết sức chân thành và cụ thể, vì đã có các trường hợp xảy ra và chính thánh nhân đã từng chứng kiến. Những nhược điểm như thế hoặc nhiều hơn thế đã xảy ra thời đó, các thời gian sau vẫn còn, và vẫn còn tiếp tục tới ngày nay, nên giáo huấn của thánh Phaolô vẫn còn có ý nghĩa và cần thiết.
HIỆP THÔNG VÀ CẦU NGUYỆN
Thông thường, khi nghĩ tới hiệp thông, các ý tưởng liên quan đến cơ cấu tổ chức, đến nhân sự, đến các phương thế thực hiện, đến các đúc kết, các ưu khuyết điểm, các báo cáo, phúc trình… Tất cả đều chính đáng. Nhưng còn một lãnh vực tối cần mà có khi thiếu hoặc ít quan tâm, đó là sự cầu nguyện.
Sự hiệp thông trong Hội Thánh phát xuất từ ơn Chúa. Chính các đặc sủng của Thần Khí dẫn đưa các tín hữu tới hoạt động, và có hoạt động giữa các tín hữu với nhau mới có hiệp thông. Mà ơn Chúa chỉ có khi được chính Thiên Chúa thông ban. Nhưng để có được ơn Chúa thông ban, cần có sự cầu nguyện là điều kiện tiên quyết.
Về phương thế cầu nguyện, thánh Phaolô đã chỉ dẫn cách cầu nguyện có hiệu quả, đó là cầu nguyện nhờ Thần Khí, khi hướng dẫn các tín hữu cầu nguyện trong khi mong chờ đạt được hiệu quả của ơn cứu độ, thánh Phaolô đã dạy các tín hữu cầu xin Thần Khí cầu thay nguyện giúp. Thánh Phaolô nói: “… có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng kêu rên siết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27). Đối với sự hiệp thông, nhu cầu cầu nguyện cũng cần như thế để đạt hiệu quả.
BIẾT TÔN TRỌNG CÁC ĐẶC SỦNG CỦA THẦN KHÍ ĐỂ SỐNG HỢP NHẤT
Chính trong thời điểm một số cộng đoàn gặp thử thách, mà thánh Phaolô đã có những giáo huấn súc tích liên quan đến sự hợp nhất, trong đó có việc hướng dẫn các tín hữu về các đặc sủng của Thần Khí:
“Có nhiều đặc sủng khác nhau, nhưng chỉ có một Thần Khí. Có nhiều việc phục vụ khác nhau, nhưng chỉ có một Chúa. Có nhiều hoạt động khác nhau, nhưng chỉ có một Thiên Chúa, làm mọi sự trong mọi người. Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung. Người thì được Thần Khí ban cho ơn khôn ngoan để giảng dạy, người thì được ban cho ơn hiểu biết để trình bày. Kẻ thì được Thần Khí ban cho lòng tin, kẻ thì cũng được chính Thần Khí duy nhất ấy ban cho những đặc sủng để chữa bệnh. Người thì được ơn làm phép lạ, người thì được ơn nói tiên tri. Kẻ thì được ơn phân định Thần Khí; kẻ khác thì được ơn nói các thứ tiếng lạ; kẻ khác nữa lại được giải thích các tiếng lạ. Nhưng chính Thần Khí ấy làm ra tất cả những điều đó và phân chia cho mỗi người mỗi cách, tùy theo ý của Người” (1Cr 12,4-11)
Khi ý thức các đặc sủng của Thần Khí ban cho mỗi người, các tín hữu mới có sự tôn trọng đối với những ai được Thần Khí thương ban, và xem đó như là vinh dự cho cộng đoàn của mình. Bởi vì nhờ đó mà cộng đoàn có những nhân sự có khả năng vượt trội có thể giúp ích cho các nhu cầu. Khi cộng đoàn có được những nhân sự nói được, viết được, hướng dẫn được, thực hành được các ngành chuyên môn mà cộng đoàn rất cần, thì thật là rất hữu ích và giúp cho cộng đoàn ngày càng thêm phát triển. Sự tranh chấp ganh tị, hạ bệ nhau, loại bỏ nhau… sẽ nhường bước cho cuộc sống hòa hợp, yêu thương, xây dựng, và từ đó hiệp thông được thăng hoa.
Mt Từ Linh
2023
Hiền mẫu, từ mẫu
“Từ mẫu thủ trung tuyến,
Du tử thân thượng y”
(Du tử ngâm)
Có người hỏi tôi “hiền mẫu” có đồng nghĩa với “từ mẫu” hay không, và để diễn tả tình mẹ thương con, nên nói “tình hiền mẫu” hay “tình mẫu tử”?
Thắc mắc này bao gồm hai câu hỏi, chúng tôi xin lần lượt trình bày như sau:
1. “Hiền mẫu” có đồng nghĩa với “từ mẫu” hay không?
1.1 Trước hết, chúng ta thử tìm hiểu nghĩa của các mục từ hiền, từ và mẫu:
1.1.1. Hiền. Có bốn chữ: 賢, 贒 (贤), 痃. Trong trường hợp này là chữ賢, nghĩa là: (dt.) (1) Người có đức hạnh tài năng cao, trung hiếu vẹn toàn: Thánh hiền; hiền lương (đàn ông đức độ); hiền huệ (đàn bà đức độ); nhậm nhân duy hiền (dùng người theo đức); kiến hiền tư tề (Thấy người có tài đức thì muốn theo gương[1]). (2) (Họ) Hiền. (tt.) (3) Lành, hoà thuận, không ưa đánh đập gây gổ (trái với dữ): Đứa trẻ hiền; tánh hiền. (4) Tốt, ăn ở phải đạo: Mẹ hiền; dâu hiền rể thảo. (5) Tốt, có đức hạnh tài năng cao, trung hiếu vẹn toàn: Hiền nhân quân tử; hiền sĩ. (6) Tốt, không có độc, không gây nguy hại cho con người, có nhiều chất bổ béo: Trái hiền; đất hiền. (7) Tiếng gọi cách tôn kính để tỏ lòng mến: Hiền huynh; hiền đệ; hiền tẩu. (đt.) (8) Tôn sùng: Hiền hiền dịch sắc[2] (Đổi lòng yêu sắc đẹp mà thân yêu người hiền). (9) Hơn: Bỉ hiền ư ngô viễn hỹ (Họ hiền hơn ta nhiều lắm vậy). (10) Nhọc nhằn. (đại từ) (11) Tiếng kính xưng (ngôi thứ hai): Ông, ngài, cũng như công 公, quân 君.
“Hiền” nói chung là có nghĩa tốt, nhưng “hiền quá” thường có nghĩa ngược lại, chỉ sự khiếm khuyết tài đức cần thiết, dùng để nhận định hay phê phán cách nhẹ nhàng, lịch sự, vì tôn trọng người bị phê phán, thay vì nói một cách sổ sàng là “nhút nhát” “ngu quá”, “dỡ tệ” hay “cù lần”. Ví dụ: “Bà ấy hiền quá nên bị ông chồng đánh đập mãi” (Ngụ ý nói: Bà ấy thiếu can đảm, nhu nhược!); “Ông ấy làm ăn mà hiền quá nên bị bạn bè lừa gạt” (Ông ấy thiếu sáng suốt, ngu!); “Thầy ấy hiền quá nên các học sinh ngày càng vô kỷ luật” (Thầy ấy thiếu trách nhiệm, cù lần!).
1.1.2. Từ: Có 12 chữ: 詞 (词), 徐, 祠, 慈, 辭 (辞), 辤, 磁, 瓷, 甆, 糍, 茲, 兹. Trường hợp từ mẫu là chữ慈, nghĩa là: (dt.) (1) Hiền lành, thương yêu rất mực: Hiền từ; nhân từ; từ bi; phụ mẫu uy nghiêm nhi hữu từ (Cha mẹ nghiêm nghị nhưng có lòng thương). (2) Mẹ, tiếng tôn xưng mẹ: Gia từ (mẹ tôi). (3) Vui mừng của chúng sinh (Phật giáo): Đại từ. (4) (Họ) Từ. (đt.) (5) Yêu thương, người trên yêu kẻ dưới cũng gọi là từ: Từ ái (có lòng thương yêu); từ ấu (thương trẻ nhỏ). (6) Hiếu thảo: Từ hiếu. (7) Chu cấp cứu giúp cho kẻ túng thiếu khốn cùng gọi là từ thiện sự nghiệp.
1.1.3. Mẫu. Có 9 chữ này: 母, 畝, 畆, 畞, 畮, 亩, 牡, 拇, 鉧, trường hợp hiền mẫu là chữ母, nghĩa là: (dt.) (1) Mẹ: Mẫu thân. (2) Người đàn bà bằng vai với mẹ trong thân thuộc: Cô mẫu (cô); cữu mẫu (mợ); thẩm mẫu (thím); bá mẫu (bác gái). (3) Tiếng tôn xưng các bà trưởng bối hay bậc nữ thánh: Lão mẫu; thánh mẫu; mẫu nghi; mẫu hệ. (4) Phàm vật gì làm cốt để sinh ra các cái đều gọi là mẫu hay mẹ (chỉ căn nguyên): Mẫu tài (tiền vốn); thất bại thị thành công chi mẫu (thất bại là mẹ thành công). (5) Lỗ ốc vít, bộ phận có khía đường xoắn ốc để vặn đinh ốc: Loa ti mẫu (đai ốc). (6) (Họ) Mẫu. (tt.) (7) Mẹ, cái, gốc: Mẫu thuyền (tàu mẹ); mẫu hiệu (trường mẹ); cơ mẫu (máy cái); mẫu giáo; mẫu âm; mẫu số. (8) Mái, cái, chỉ giống cái: Mẫu kê (gà mái); mẫu ngưu (bò cái); mẫu trệ (lợn sề).
1.2 Nghĩa của hiền mẫu và từ mẫu.
1.2.1. Hiền mẫu: Đơn giản có nghĩa là “mẹ hiền”, chữ hiền ở đây vừa có thể hiểu theo nghĩa (7) của mục từ mẫu, tức là “tiếng gọi cách tôn kính để tỏ lòng mến” vừa có thể hiểu theo nghĩa (4) của mục từ mẫu, tức là bà mẹ “tốt, ăn ở phải đạo”. Xa hơn nữa, có thể hiểu theo nghĩa (5) của mục từ mẫu, tức là người mẹ “tốt, có đức hạnh tài năng cao, trung hiếu vẹn toàn”, như trong trường hợp người Công Giáo dùng tôn xưng Đức Mẹ Maria.
1.2.2. Từ mẫu: Nhiều người lầm tưởng “từ mẫu” đương nhiên là người mẹ hiền, mẹ nhân từ. Nhưng thời xưa “từ mẫu” có nghĩa khác, hoàn toàn không có liên hệ gì với hiền lành hay nhân từ gì cả.
Luật nhà Thanh của Trung Quốc cũng như Thọ Mai gia lễ[3] của người Việt đã phân biệt “tam phụ, bát mẫu” để quy định tang phục, tang chế cho người con hoặc người được coi là con. Trong đó “bát mẫu” (tám bà mẹ) là: (1) Đích mẫu (嫡母): Vợ cả (vợ chính thất) của cha (nếu mình không phải là con của người ấy, thì gọi người ấy là “đích mẫu” (Hán Việt) hay “mẹ già” (Nôm). (2) Nhũ mẫu (乳母): Mẹ cho bú, bà vú nuôi mình từ bé. (3) Dưỡng mẫu (養母): Mẹ nuôi. (4) Thứ mẫu (庶母): Vợ lẽ của cha (ngay cả khi mẹ ruột còn sống hoặc còn ở với cha). Theo tục xưa, mẹ đẻ ra mình, nếu là vợ lẽ của cha, không được gọi là “mẹ”, mà gọi là “đẻ”. (5) Kế mẫu (繼母): Mẹ kế, do cha cưới về sau khi vợ cả đã qua đời hoặc không còn ở với cha. Ngày nay người ta vẫn nói kế mẫu thay vì thứ mẫu. (6) Từ mẫu (慈母): Vợ lẽ của cha, có công thay người mẹ quá cố, nhận nuôi mình từ bé như con ruột theo ý cha; (đây không phải là “mẹ hiền”). (7) Giá mẫu (嫁母): Mẹ ruột, nhưng đã lấy chồng khác sau khi cha mất. (8) Xuất mẫu (出母): Mẹ ruột, nhưng đã ly hôn với cha (mẹ bỏ nhà đi hoặc bị đuổi ra khỏi nhà).
Theo sách Nghi lễ[4]: “Truyện viết: Từ mẫu giả hà dã? Truyện viết: Thiếp chi vô tử giả, thiếp tử chi vô mẫu giả, phụ mệnh thiếp viết: Nhữ dĩ vi tử; mệnh tử viết: Nhữ dĩ vi mẫu: Truyện kể: Từ mẫu là người thế nào? Truyện kể: Người vợ lẽ không có con, con của (một) người vợ lẽ (khác) không (còn) mẹ, người chồng dặn người vợ lẽ (rằng): Nàng hãy nhận đứa bé này làm con; lại dặn đứa con (rằng): Con hãy nhận (người đó) làm mẹ”.
Vậy “từ mẫu” không phải là bà mẹ ruột mà là mẹ nuôi, và điều kiện bắt buộc phải có để được gọi là “từ mẫu” (mẹ nuôi) ở đây là: (1) Phải là vợ lẽ; (2) Người vợ lẽ này không có con hoặc không có khả năng sinh con, ít nhất cũng là không sinh được con trai; (3) Quan trọng hơn nữa là người chồng còn phải có một người vợ lẽ khác mà người vợ lẽ này khi qua đời có để lại một đứa con trai. Khi đã đủ những điều kiện đó rồi, lại còn cần (4) người chồng giao trách nhiệm nuôi con cho người vợ lẽ kia và (5) bảo đứa con nhận người đó làm mẹ.
Như vậy “từ mẫu” có nghĩa là mẹ nuôi. Trải qua thời gian lâu đời, bên Trung Hoa, thuật từ “từ mẫu” đã mất đi ý nghĩa ban đầu, hiện giờ người Hoa hiểu là người mẹ “hiền lành, rất mực thương yêu con cái”, đó là nghĩa phổ biến hiện nay trong cách hiểu cũng như trong các từ điển của người Việt và Trung Quốc.
Bên người Hoa khi nói mẹ hiền thường dùng chữ từ mẫu, ít khi dùng hiền mẫu, điều này khác với người Việt. Người Việt thường dùng chữ hiền mẫu hay mẹ hiền, ít khi nói từ mẫu, càng không ai nói “mẹ từ”, khi người ta nói “lương y như từ mẫu” rõ ràng là chịu ảnh hưởng của người Hoa rồi.
2. Để diễn tả tình mẹ thương con, nên nói “tình hiền mẫu” hay “tình mẫu tử”?
2.1 Tình hiền mẫu.
“Tình” là danh từ chính; “hiền” là tĩnh từ, “mẫu” là danh từ. “Hiền” dùng để diễn tả “mẫu”, nghĩa là người mẹ hiền lành. Tình hiền mẫu là lòng thương của mẹ hiền.
Tình hiền mẫu chỉ nói về lòng mẹ, tình thương của mẹ, dành cho con cái, mà không màng đến tình cảm con cái đối với mẹ. Đây là thuật từ ngợi khen người mẹ.
Một trong những bài thơ mà tôi ưa thích là bài “Du tử ngâm”[5]: “Từ mẫu thủ trung tuyến, Du tử thân thượng y. Lâm hành mật mật phùng, Ý khủng trì trì quy. Thuỳ ngôn thốn thảo tâm, Báo đắc tam xuân huy[6]: Sợi chỉ trong tay mẹ hiền, nay đang ở trên áo người đi xa. Lúc sắp lên đường, mẹ khâu kỹ càng, có ý sợ con chậm trễ trở về. Ai dám nói rằng tấm lòng của con chỉ như tấc cỏ lại có thể báo đáp được ánh nắng ấm áp của ba tháng mùa xuân?” Đây chính là ý nghĩa của tình hiền mẫu. Người mẹ chín tháng cưu mang, chịu đựng biết bao khó nhọc, nhưng vẫn phải giữ gìn sức khoẻ chỉ vì con. Tình thương mẹ dành cho con không có giới hạn. Điều ước mong của mẹ là con được trưởng thành cách mạnh khoẻ, bình an và hạnh phúc. Dù bị con chê ghét, mẹ vẫn hết lòng che chở con. Người mẹ như ngọn nến thiêu đốt chính mình để soi đường cho con đi. Vậy người mẹ muốn con mình gặp điều tốt nhất, đó chính là tình hiền mẫu.
2.2 Tình mẫu tử. “Tình” là danh từ chính; “mẫu” và “tử” là hai danh từ bình đẳng nhau. Mẫu là mẹ, tử là con, mẫu tử là mẹ và con.
Tình mẫu tử nghĩa là tình thương giữa mẹ và con. Đây là một tình cảm hỗ tương, tình cảm giữa hai bên, có qua có lại. Mẹ thương yêu con và con hiếu thảo với mẹ. Nên không có nghĩa chỉ nói về mẹ, không phải là thuật từ chỉ ngợi khen mẹ.
Kết luận.
Cả hai từ hiền mẫu và từ mẫu đều chỉ về người mẹ tốt lành đáng tôn kính và quý trọng. Nhưng từ hiền mẫu có tính thụ động, nói lên tài năng và đức hạnh của mẹ; còn từ mẫu có tính tích cực hơn, diễn tả lòng nhân từ, yêu thương của mẹ dành cho con cái.
Tình hiền mẫu và tình mẫu tử có nghĩa hoàn toàn khác nhau. Tình hiền mẫu là lòng mẹ yêu thương con. Khi dâng lời kinh với Đức Mẹ Maria, muốn ngợi khen Đức Mẹ, thì phải dùng từ tình hiền mẫu. Còn khi nói về tình càm giữa mẹ và con thì dùng từ tình mẫu tử. Tương tự, khi diễn tả lòng cha thương con thì dùng tình hiền phụ, muốn nói đến tình cảm giữa cha và con thì dùng tình phụ tử.
Lm. Huỳnh Trụ
Nguồn: https://gpcantho.com/
—-
[1] Nhà thờ Tư Tề lấy từ thành ngữ này.
[2] Luận ngữ論語
[3] Thọ Mai gia lễ của Hồ Sỹ Tân (1690-1760) có dựa theo Chu Công gia lễ tức gia lễ thời xưa của Trung Quốc và có trích dẫn một phần của Hồ Thượng thư gia lễ của Hồ Sỹ Dương (1621-1681).
[4] Viết ở thời nhà Tần (221-207 TCN).
[5] Của thi sĩ Mạnh Giao (751-814) nhà thơ ưu tú trong số nhà thơ thời Trung Đường
[6] Bản dịch của Trần Minh Tú: “Mẹ hiền sợi chỉ trong tay, Đi xa hãy mặc áo này mẹ khâu. Đường kim mãi miết âu sầu, Sợ con chậm trễ kịp đâu ngày về. Tấc lòng ngọn cỏ bờ đê, Báo sao ân nghĩa nắng về ba xuân”.